Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ LINH

ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ LINH

ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI AN

Hà Nội – 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu khoa học của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Linh


MỤC LỤC
TRANG
DANH MỤC CÁC TỰ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU

2

CHƯƠNG 1 .............................................................................................. 7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ ............................................................................................................. 7
1.1. Khái quát một số vấn đề lý luận về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ....... 7
1.1.1. Khái niệm về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.................................. 11
1.1.3. Ý nghĩa của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .................................... 13
1.2. Khái quát Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .................................................... 14

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 .............................................. 15
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989 .............................................. 16
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 .............................................. 17
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015 .............................................. 18
1.2.5. Từ năm 2015 đến nay ...................................................................... 20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................ 21
CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 22
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CHỈ ............................ 22
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ.............................................................. 22
2.1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm.......................... 22
2.1.1. Căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm ....................... 22
2.1.2. Thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo
thủ tục sơ thẩm ......................................................................................... 37
2.1.3. Thủ tục ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo thủ
tục sơ thẩm ............................................................................................... 38
2.1.4. Hậu quả của việc ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục sơ thẩm.................................................................................. 38
2.2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm ...................... 41
2.1.1. Căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm ........ 41


2.2.2. Thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo
thủ tục phúc thẩm ..................................................................................... 43
2.2.3. Hình thức của quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo tục phúc
thẩm ......................................................................................................... 44
2.2.4. Hậu quả pháp lý của việc ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
theo thủ tục phúc thẩm .............................................................................. 44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................ 45
CHƯƠNG 3 ............................................................................................ 47
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH

CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT ........................................................................................... 47
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự ...................................................................................................... 47
3.1.1. Kết quả đạt được trong việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
............................................................................................... 47_Toc3127867
3.1.2. Những vướng mắc, bất cấp trong quá trình áp dụng Bộ luật tố tụng dân
sự về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự........................................................ 48
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ...... 66
3.2.1. Hồn thiện việc xây dựng pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ án ....... 66
3.2.2. Hoàn thiện việc áp dụng pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ án ......... 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................ 73
KẾT LUẬN 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

TỪ ĐƯỢC TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

1

Bộ luật dân sự


BLDS

2

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTDS

3

Đình chỉ giải quyết VADS

ĐCGQVADS

4

Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 của TANDTC hướng dẫn
thi hành một số quy định trong phần thứ
hai “thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án
cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa
đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLTTDS

NQ 05/2012/NQ-HĐTP

5

Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP
hướng dẫn thi hành một số quy định trong

phần thứ ba: “Thủ tục giải quyết vụ án tại
NQ 06/2012/NQ-HĐTP
tòa cấp phúc thẩm của BLTTDS đã được
sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS”.

6

Hội đồng thẩm phán TANDTC

HĐTPTANDTC

7

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VADS
năm 1989

8

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế năm 1994

PLTTGQCVAKT

9

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động năm 1996

PLTTGQCTCLĐ


10

Tòa án nhân dân tối cao

11

Vụ án dân sự

PLTTGQVADS

TANDTC

VADS

1


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay, tinh thần cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị với nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư
pháp và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 được đưa vào trọng tâm nhằm tăng cường
bảo vệ công lý và bảo vệ quyền con người, công dân. Để cụ thể hóa các chính
sách của Đảng đề ra, các quy định pháp luật về tố tụng dân sự của nước ta phải
được hoàn thiện. Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của pháp luật tố tụng dân
sự nước ta là sự ra đời của BLTTDS năm 2015 với nhiều sửa đổi, bổ sung với ý
nghĩa làm cho việc khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ án dân sự của
người dân được thuận lợi, dễ dàng và việc giải quyết của Tòa án được rõ ràng,
cơng khai, minh bạch, nhanh chóng, đúng pháp luật. Dẫn đến việc nghiên cứu,

phân tích những quy định mới, những sửa đổi, bổ sung của BLTTDS 2015 là cần
thiết để góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án, bảo vệ tốt quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức nói chung.
Việc nghiên cứu toàn diện các vấn đề về ĐCGQVADS là rất cần thiết để
tạo cơ sở cho việc áp dụng các quy định của pháp luật về ĐCGQVADS trong
thực tiễn tại Tòa án bởi đây là vấn đề quan trọng ảnh hưởng nhiều và trực tiếp
nhất đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân. Việc đình chỉ giải quyết vụ án là
cần thiết nếu những căn cứ phát sinh đó là hợp pháp và không trái luật định, đạo
đức xã hội để tiết kiệm về mặt thời gian và chi phí tố tụng cho các đương sự và
cơ quan Nhà nước như Tịa án. Tuy nhiên, nếu việc đình chỉ khơng đúng sẽ dẫn
đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự và họ sẽ không được xem xét,
dễ dẫn đến quyền khởi kiện, quyền yêu cầu của họ bị mất. Điều này địi hỏi
những quy định về đình chỉ trong BLTTDS phải được quy định rõ ràng, dễ hiểu,
dễ áp dụng, phù hợp với thực tiễn để bảo vệ tốt nhất về quyền lợi ích hợp pháp
của công dân.
Ngoài ra, theo tổng kết 3 (ba) năm thi hành BLTTDS 2015, các quy định
về ĐCGQVADS đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng tại
thực tế các Tịa án. Do đó, cần thiết phải có những kiến nghị sửa đổi, bổ sung
nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về ĐCGQVADS.
Từ những lý do trên mà tác giả lựa chọn đề tài: “Đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề ĐCGQVADS là vấn đề quan trọng được nhiều nhà Luật học, Luật
gia quan tâm nghiên cứu theo chiều sâu nhằm giúp cho các quy định pháp luật
được phù hợp với thực tế. Các nghiên cứu này được thể hiện qua các công trình
nghiên cứu khoa học nhưng với số lượng cịn hạn chế. Cụ thể:
- Các bài viết khoa học trên các tạp chí chun nghành:

Tác giả Nguyễn Bá Châu có bài viết “Vì sao những bản án kinh tế bị hủy,
bị sửa phải xét xử lại vụ án, phải đình chỉ việc giải quyết vụ án” đăng trên tạp
chí Tịa án nhân dân số 3/2000. Tiếp đến, tác giả Nguyễn Triều Dương có bài
viết:“Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự” được đăng trên Tạp chí Luật học số đặc
san năm 2005. Tiếp đến bài viết “Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự” của tác giả
Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7 (tháng 7/2005). Bài
viết: “Quy định về đình chỉ trong BLTTDS” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý
số 4 (41)/2007 của tác giả Tống Cơng Cường. Bài viết“Đình chỉ xét xử phúc
thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp phúc thẩm”của tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên Tạp chí Luật học số 7/2010.
Gần đây, tác giả Nguyễn Xn Bình có bài viết “ Bàn về một số quy địn tại
khoản 4 Điều 217 BLTTDS 2015”, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân năm 2018
và tác giả Nguyễn Văn Dũng với bài viết “Vướng mắc phát sinh từ thực tiễn áp
dụng khoản 2 Điều 217 BLTTDS 2015”, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân năm
2018.
- Các bài luận văn, luận án có các cơng trình sau:
Luận văn thạc sĩ “Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ VDS theo quy định
của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004” của tác giả Phạm Hải Tâm được bảo vệ
tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010 và Luận văn của tác giả Trần Thị
Ngọc Trang với đề tài: “Đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo pháp luật dân
sự Việt Nam hiện hành” được bảo vệ tại Khoa Luật trường Đại học quốc gia Hà
Nội năm 2015. Cả hai luận văn này đều phân tích, làm rõ lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật về ĐCGQVADS nhưng được nghiên cứu theo quy định của pháp luật dân sự
Việt Nam qua các thời kỳ. Tuy nhiên, các cơng trình trên được nghiên cứu chủ yếu
theo quy định của BLTTDS năm 2004, sửa đổi năm 2011 đã hết hiệu lực pháp luật
trong thời điểm hiện nay.

- Bài bình luận khoa học về BLTTDS:
Sự ra đời của BLTTDS 2015 cùng với những điểm mới đã tạo ra yêu cầu
phải có đánh giá, phân tích để hiểu rõ hơn các điều luật mới thì các tác giả, những

nhà nghiên cứu đã có những bài bình luận khoa học của mình. Cụ thể: “Bình luật
khoa học bộ luật tố tụng dân sự năm 2015” của Tiến sĩ Bùi Thị Huyền chủ biên,
nhà xuất bản Lao động năm 2016 hay ‘Bình luận khoa học bộ luật tố tụng dân
3


sự 2015” của Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Anh Tuấn chủ biên, nhà xuất bản Tư
pháp năm 2016. Ngoài ra còn nhiều tác giả khác nữa nhưng tổng quát đều phân
tích, đánh giá rất cụ thể, chi tiết các điều luật quy định của BLTTDS nói chung
và ĐCGQVADS nói riêng.
Tất cả các bài viết trên Tạp chí, những Luận văn, Luận án, các bộ Bình
luận khoa học BLTTDS trên đều có những đóng góp nhất định vào tiến trình
phát triển và hồn thiện pháp luật tố tụng nói chung và về vấn đề ĐVGQVADS
nói riêng. Tuy nhiên, do BLTTDS năm 2015 mới được ban hành nên hầu hết các cơng
trình nêu trên nghiên cứu với nội dung được xây dựng trên nền tảng các quy định của
BLTTDS trước đó, vậy nên rất cần thiết phải bổ sung yếu tố cập nhật. Do đó, có thể
khẳng định rằng, luận văn này là một cơng trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu chuyên
sâu phát hiện những vướng mắc, bất cập về vấn đề ĐCGQVADS theo BLTTDS năm
2015, đây là một đề tài hồn tồn độc lập, khơng có sự trùng lặp với bất kỳ một cơng
trình nghiên cứu nào.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu đề tài:
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về ĐCGQVADS; Các
quy định pháp luật về ĐCGQVADS 2015 và phân tích những bấp cập, phát sinh
khi áp dụng những quy định về ĐCGQVADS hiện hành để từ đó đưa ra kiến
nghị.
- Phạm vi nghiên cứu đề tài:
+ Về giới hạn pháp luật, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ một số vấn
đề lý luận về ĐCGQVADS; Các quy định của Bộ luật, văn bản hướng dẫn thi

hành về ĐCGQVADS năm 2015 và không nghiên cứu về đình chỉ giải quyết
việc dân sự.
+ Về thẩm quyền, tác giả chỉ nghiên cứu ĐCGQVA theo thủ tục cấp sơ
thẩm và thủ tục cấp phúc thẩm. Còn nghiên cứu các quy định pháp luật về
ĐCGQVADS theo thủ tục cấp giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ tiếp tục được nghiên
cứu sau khi có điều kiện.
+ Về lãnh thổ, tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi về ĐCGQVADS theo pháp
luật Việt Nam; việc đối chiếu, so sánh với những quy định về vấn đề ĐCGQVADS
ở các nước trên thế giới sẽ tiếp tục được nghiên cứu sau khi có điều kiện.
+ Về thời gian, tác giả chỉ nghiên cứu trong giới hạn của pháp luật Việt
Nam từ giai đoạn BLTTDS năm 2015 có hiệu lực đến nay, mặc dù trong luận
văn có đề cập đến một số văn bản quy phạm pháp luật trước đây nhưng chỉ nhằm
mục đích so sánh, đối chiếu.
4


4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
- Mục đích nghiên cứu đề tài:
Dựa trên các vấn đề lý luận về ĐCGQVADS qua đó đánh giá các quy định
ĐCGQVADS ở từng giai đoạn tố tụng và trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng
thời chỉ ra những tồn tại, sai sót, chưa thỏa đáng của luật thực định. Qua đó, đề xuất
một số kiến nghị nhằm hồn thiện quy định về ĐCGQVADS trong bối cảnh Việt Nam
hiện nay.

- Để đạt được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ
sau đây:
+ Nghiên cứu những cơ sở lý luận khoa học về ĐCGQVADS như khái
niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của việc ĐCGQVADS; Lịch sử phát triển
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về ĐCGQVADS qua các giai đoạn, thời kỳ.
+ Phân tích, phân tích thực trạng của luật thực định, đánh giá sự phù hợp,

không phù hợp của các quy định, bổ sung mới về ĐCGQVADS trong BLTTDS
hiện hành.
+ Khảo sát thực tế áp dụng các quy định của của pháp luật hiện hành về
ĐCGQVADS tại các Toà án và phát hiện những bất cập, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng;
+ Tìm được các giải pháp nhằm khắc phục những bất cập, vướng mắc về
ĐCGQVADS.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở khoa học phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm, đường lối của Đảng
và Nhà nước về pháp luật.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài cũng được thực hiện bằng các phương pháp
nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống: Phương pháp phân tích, so sánh, đối
chiếu, tổng hợp...Phương pháp phân tích được áp dụng cho toàn bộ nghiên cứu
trong luận văn; phương pháp so sánh luật được thể hiện ở hai khía cạnh chính,
đó là so sánh các quy định của luật mới với quy định của luật cũ; phương pháp
tổng hợp các vụ án trong thực tế, đánh giá bản chất trong phạm vi đề tài nghiên
cứu để rút ra kết luận và đề xuất các kiến nghị.
6. Ý nghĩa và đóng góp của Luận văn

5


Luận văn là cơng trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan
đến ĐCGQVADS có ý nghĩa như sau:
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận trong
khoa học pháp lý về ĐCGQVADS như khái niệm, đặc điểm và mục đích và ý
nghĩa; Lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về ĐCGQVADS
từ năm 1945 đến nay. Phân tích, so sánh những điểm mới của quy định pháp

luật về ĐCGQVADS hiện hành. Đồng thời, đánh giá đúng thực trạng các quy
định của pháp luật về ĐCGQVADS năm 2015 áp dụng vào thực tiễn thực tại
các Tòa án Việt Nam trong những năm gần đây và đưa ra giải pháp hoàn thiện.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho các văn bản
hướng dẫn thi hành BLTTDS năm 2015 về ĐCGQVADS.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn phát hiện những vướng mắc, bất cập của các
quy định pháp luật về ĐCGQVADS hiện hành và đồng thời đề xuất những giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và giúp cho việc áp dụng pháp luật có hiệu quả.
Ngồi ra, kết quả nghiên cứu của luận văn còn cung cấp thêm một nguồn tài liệu
phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy của các nhà luật học, luật gia, giảng
viên, sinh viên về pháp luật tố tụng dân sự tại Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, luận văn cũng là tài liệu có giá trị đối với các cán bộ đang làm cơng
tác hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật về lĩnh vực pháp luật tố tụng dân
sự nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu bởi 3 phần: Phần mở đầu, nội dung và kết luận. Phần
nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Chương 2: Các quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự trong bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật.

6


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ

1.1. Khái quát một số vấn đề lý luận về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Từ “Đình chỉ” theo Từ điển Tiếng Việt nêu nghĩa đó là: “Đình chỉ là ngừng
lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian hay vĩnh viễn”1.Như vậy,
từ đình chỉ là động từ được dùng cho một vật, một việc thể hiện việc ngừng lại
hoặc làm cho phải ngừng lại không tiếp tục thực hiện nữa trong một khoảng thời
gian nhất định, cụ thể hoặc vĩnh viễn.
Trong tố tụng nói chung thì từ “đình chỉ” được hiểu là việc giải quyết vụ án
được ngừng lại trong thời gian vĩnh viễn khi có những căn cứ mà pháp luật quy
định. Trong tố tụng dân sự nói riêng thì cụm từ “đình chỉ” được hiểu theo nghĩa
là việc giải quyết VADS được cơ quan tiến hành tố tụng ngừng lại và vụ án có
Quyết định ĐCGQVADS nếu có căn cứ luật định. Quyết định ĐCGQVADS là
một trong bốn Quyết định mà khi rơi vào các trường hợp do pháp luật quy định,
thì Thẩm phán - người tiến hành tố tụng được phân công để giải quyết VADS
phải ban hành trong thời hạn chuẩn bị xét xử2.
Khái niệm ĐCGQVADS được các nhà khoa học Việt Nam đề cập trong
nhiều tài liệu với những khía cạnh khác nhau. Cụ thể:
Có quan điểm cho rằng: “Đình chỉ là một phương thức giải quyết đặc biệt
của Tịa án trong q trình giải quyết vụ việc dân sự” và “Đình chỉ giải quyết vụ
án là chấm dứt tố tụng dân sự khi có những căn cứ nhất định mà không thông qua
xét xử hay hịa giải”3. Nhận thấy, tác giả Tống Cơng Cường đã nêu khái quát được
việc ĐCGQVADS thuộc thẩm quyền của Tịa án và đình chỉ là một trong những
phương thức giải quyết của Tòa đối với vụ việc cần giải quyết bao gồm: Ra Bản án
thông qua xét xử hay ra quyết định thỏa thuận thơng qua phương thức hịa giải4.
Tác giả đã giải thích được rằng việc đình chỉ sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý đó là làm
chấm dứt các thủ tục tố tụng dân sự, nghĩa là Tòa án sẽ chấm dứt việc thực hiện
1

Từ điển tiếng Việt thông dụng, Phạm Lê Liên (chủ biên) năm 2016,NXB Hồng Đức, trang 282.


Nguyễn Duy Lãm (chủ biên) (1999), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nhà xuất bản Cơng an
nhân dân, trang 134..
2

Tống Cơng Cường, Tại chí khoa học pháp lý số 4 (41), năm 2007, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Tống Cơng Cường, Luật tố tụng dân sự Việt nam: Nghiên cứu so sánh, NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí
Minh, năm 2007, trang290.
3
4

7


cơng việc theo trình tự, thủ tục tố tụng quy định của mình để giải quyết vụ việc dân
sự. Tuy nhiên, quan điểm của tác giả Tống Công Cương chưa nêu được đầy đủ về
thời gian của việc ngừng lại, chấm dứt hoạt động tố tụng dễ gây khó hiểu và nhầm
lẫn với khái niệm Tạm đình chỉ. Đồng thời, cách hiểu về việc ĐCGQVADS là làm
chấm dứt hoạt động tố tụng khi có căn cứ luật định mà khơng cần thơng qua xét xử
và hịa giải là khơng đúng. Bởi lẽ, việc đình chỉ giải quyết vụ án có thể được tiến
hành ở giai đoạn phúc thẩm, sau khi đã có bản án tại phiên tịa xét xử sơ thẩm hoặc
có thể Tịa án ra quyết định đình chỉ ngay tại phiên tồ xét xử khi có căn cứ luật
định; Ngồi ra, Tịa án ra quyết định đình chỉ trong trường hợp hòa giải thành mà
một trong các bên yêu cầu dừng giải quyết vụ án (Ví dụ: Trong vụ án ly hơn, khi
Tịa án hịa giải hành vợ chồng đã đồn tụ thì Tịa án phải ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án).
Quan điểm khác thì cho rằng: “Tòa án ngừng việc giải quyết VADS đã thụ
lý...Việc đình chỉ giải quyết vụ án có thể được tiến hành ở Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm”5. Hay như quan điểm: “ĐCGQVADS là
việc Tòa án quyết định ngừng việc giải quyết VADS khi có những căn cứ do pháp
luật quy định”6. Các quan điểm này của các tác giả đều nêu lên một khía cạnh

khác về bản chất đình chỉ VADS; Thể hiện quan niệm, cách hiểu khác nhau về
ĐCGQVADS, tuy không được đầy đủ nhưng cơ bản đã nêu lên nội dung và bản
chất về ĐCGQVADS.
Bên cạnh đó, quan điểm khác nêu “ ĐCGQVADS là việc Tòa án quyết
định ngừng hẳn việc giải quyết VADS đã thụ lý và sau khi quyết định
ĐCGQVADS có hiệu lực pháp luật thì về ngun tắc đương sự khơng có quyền
khởi kiện lại để Tịa án giải quyết vụ án đó nữa. Việc ĐCGQVADS có thể dựa
trên cơ sở phát sinh sự kiện làm cho đối tượng của vụ án cần giải quyết ở Tịa
án khơng cịn hoặc được suy đốn là khơng cịn tồn tại; VADS đã thụ lý sẽ được
giải quyết cùng với các quan hệ pháp luật khác trong một vụ án khác; có sự sai
lầm của Tòa án trong việc thụ lý vụ án”7. Như vậy, có thể thấy cái nhìn, đưa ra
quan điểm khá toàn diện và khái quát về ĐCGQVADS. Tác giả đã nêu được tồn

Nguyễn Cơng Bình (chủ biên) (2018), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội,
Nhà xuất bản Công an nhân dân, trang 274.
6 Thạc sỹ Nguyễn Bích Thảo, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Khoa Luật trường đại học quốc gia Hà
Nội, NXB Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014, trang 256.
7 PGS.TS.Trần Anh Tuấn (Chủ biên) (2017), Bình luận Khoa học bộ luật tố tụng dân sự 2015, NXB Tư pháp,
trang 681.
5

8


bộ về thẩm quyền, nội dung, căn cứ và hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải
quyết vụ án.
Khác với những tác giả nêu trên, thì tác giả Trần Anh Tuấn chỉ ra cụ thể,
dễ hiểu hơn về đình chỉ VADS đó là: Thứ nhất, việc ĐCGQVADS thuộc thẩm
quyền của cơ quan quan tiến hành tố tụng trực tiếp là Tịa án - cơ quan duy nhất
có thẩm quyền này. Bởi Hiến pháp và pháp luật đã quy định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của Tịa án đó là cơ quan tư pháp và có nhiệm vụ: “Tịa án nhân
dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”8. Do đó, Tịa án có chức năng giải quyết các VADS, và trong
q trình giải quyết có đủ căn cứ thì Tịa án buộc ĐCGQVADS. Và tác giả cũng
nêu rõ là ĐCGQVADS là “ngừng hẳn” việc giải quyết VADS sau khi đã “thụ
lý”. Đồng thời, trong khái niệm đã nêu rõ được đặc điểm, bản chất của
ĐCGQVADS khác với việc tạm đình chỉ là ngừng giải quyết trong một thời gian,
khi đủ điều kiện thì tiếp tục giải quyết. Việc ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án chỉ được thực hiện kể từ sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án vào sổ thụ lý, để phân
biệt với những trường hợp khác đó là Tịa án trả lại đơn khởi kiện như trường
hợp “Hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi
kiện khơng nộp hoặc khơng đến Tịa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp
có lý do chính đáng”9 thì Tịa án khơng đình chỉ được vì chưa thụ lý vụ án hoặc
Tòa án chuyển thẩm quyền cho Tịa án khi phát hiện khơng thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tịa án mình.
Hơn nữa, Trong khái niệm tác giả nêu khái quát những căn cứ theo luật
định để ĐCGQVADS đó là: Sự kiện làm cho đối tượng của vụ án khơng cịn có
thể là các sự kiện như đương sự chết mà quyền và nghĩa vụ không được thừa kế
do tính chất của quan hệ pháp luật mà Tòa án cần giải quyết (quan hệ nhân thân,
quan hệ cấp dưỡng); Sự việc đã được giải quyết bằng bản án , quyết định có hiệu
lực pháp luật; người có nghĩa vụ chết nhưng không để lại di sản thừa kế; Đương
sự là cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, bị tun bố phá sản mà khơng có chủ thể kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng; Chủ thể khởi kiện đã rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện;
Các đương sự tự hịa giải. Sự kiện dẫn tới suy đốn đối tượng của vụ án khơng
cịn tồn tại là trường hợp nguyên đơn được coi như là từ bỏ yêu cầu khởi kiện
của VADS do được triệu tập lần thứ hai mà vẫn vắng mặt khơng có lý do chính
đáng. Sự kiện dẫn tới quan hệ pháp luật là đối tượng của VADS đã được thụ lý
8
9


Xem tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
Xem tại điểm d khoản 1 Điều 192, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

9


sẽ được giải quyết cùng với quan hệ pháp luật khác trong một vụ án khác là
trường hợp đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã mà một bên đương sự trong VADS mà việc giải quyết vụ án này có
liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Việc kiện u
cầu thanh tốn hay thực hiện nghĩa vụ tài sản mà Tòa án thụ lý sẽ được giải quyết
trong vụ án về giải quyết yêu cầu phá sản cùng với các chủ nợ khác để đảm bảo
quyền lợi của các chủ nợ. Có sự sai lầm của Tòa án trong việc thụ lý vụ án là
trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án mặc dù không thỏa mãn các điều kiện thụ lý
mà pháp luật quy định, nhưng vì một lý do nào đó mà Tịa án vẫn thụ lý để sửa
chữa những sai sót này thì Tịa án ra quyết định ĐCGQVADS. Và một điểm mới
đó là hậu quả của việc ĐCGQVADS ngoài việc chấm dứt việc xem xét, quyết
định về toàn bộ các quan hệ pháp luật cần phải giải quyết trong vụ án theo thủ
tục tố tụng thì cịn hậu quả pháp lý nữa là các đương sự trong vụ án khơng có
quyền khởi kiện lại u cầu Tịa án giải quyết lại vụ án đó nữa; Tuy nhiên, ngoại
trừ những trường hợp khác mà pháp luật có quy định thì đều có quyền khởi kiện
lại10.
Trên là những quan điểm, cách hiểu trên nhiều phương diện, góc độ khác
nhau của các nhà Luật gia trong q trình nghiên cứu góp phần hoàn thiện pháp
luật. Các nhà luật gia đã nêu lên được đầy đủ về khái niệm ĐCGQVADS. Tuy
nhiên, vẫn có sự hạn chế là mỗi tác giả đều khơng nêu được đầy đủ, toàn diện về
khái niệm chỉ giải quyết VADS. Và trong BLTTDS cũng chưa có quy định cụ
thể nêu về khái niệm như thế nào là ĐCGQVADS.
Vì vậy qua tổng kết, nghiên cứu, tổng hợp các quan điểm của các nhà
nghiên cứu, các luật gia nêu trên thì có thể đưa ra được kết luận khái qt về khái

niệm ĐCGQVADS đó là: “ ĐCGQVADS là việc của Tịa án quyết định chấm
dứt hồn tồn hay ngừng hẳn việc giải quyết VADS đã thụ lý khi có những căn
cứ do pháp luật quy định như trên cơ sở phát sinh sự kiện làm cho đối tượng của
vụ án cần giải quyết ở Tịa án khơng cịn hoặc được suy đốn là khơng cịn tồn
tại; VADS đã thụ lý sẽ được giải quyết cùng với các quan hệ pháp luật khác
trong một vụ án khác; có sự sai lầm của Tòa án trong việc thụ lý vụ án; Được
tiến hành ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và sau khi
quyết định đình chỉ giải quyết VADS có hiệu lực pháp luật thì đương sự khơng

PGS.TS.Trần Anh Tuấn (Chủ biên) (2017), Bình luận Khoa học bộ luật tố tụng dân sự 2015, NXB Tư pháp,
Trang 526.
10

10


có quyền khởi kiện hoặc u cầu Tịa án giải quyết vụ việc đó nữa, trừ những
trường hợp đặc biệt mà pháp luật có quy định khác”.
1.1.2. Đặc điểm của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
ĐCGQVADS có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, ĐCGQVADS phải do Tòa án ban hành. Trước khi mở phiên tịa
xét xử thì Thẩm phán được phân công tiến hành giải quyết vụ án ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án. Tại phiên tịa xét xử vụ án thì Hội đồng xét xử có
quyền quyết định việc đình chỉ vụ án và ra quyết định đình chỉ vụ án.
Luật đã quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của Tòa án trong việc
giải quyết VADS liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơng dân. Vì vậy, trong
q trình giải quyết vụ án có những phát sinh làm căn cứ để ngừng và chấm dứt
việc giải quyết thì Tịa án chính là cơ quan có trách nhiệm phải thực hiện việc
đình chỉ vụ án, hay nói cách khác ĐCGQVADS là một trong những phương thức
giải quyết vụ án của Tòa án các cấp. Để cụ thể hóa và dễ áp dụng tránh việc lúng

túng trong việc áp dụng thì Luật quy định thẩm quyền thuộc về Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án có quyền quyết định việc chấm dứt hay ngừng hẳn
việc giải quyết vụ án và ra quyết định đình chỉ trong giai đoạn từ sau khi thụ lý
đến trước khi mở phiên tòa xét xử. Còn sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét
xử và tại phiên tịa xét xử thì một mình thẩm phán – Chủ tọa phiên tịa khơng
được quyết định việc có ngừng việc giải quyết vụ án và ra quyết định đình chỉ
mà đến giai đoạn này thì việc quyết định đình chỉ vụ án và ra quyết định phải có
sự đồng ý, nhất trí của Hội đồng xét xử khi phát hiện có căn cứ để cho đình chỉ
vụ án. Đối với trường hợp ngay sau khi phiên tòa sơ thẩm tuyên án, chưa có
kháng cáo, kháng nghị mà xuất hiện căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án thì thẩm
quyền đình chỉ giải quyết vụ án thuộc về Tịa án cấp phúc thẩm.
Việc đình chỉ giải quyết VADS có thể được tiến hành ở cấp sơ thẩm, phúc
thẩm hay ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc ĐCGQVADS ở Tịa án cấp sơ
thẩm, phúc thẩm có thể thực hiện trước hoặc trong phiên tòa.
Thứ hai, ĐCGQVADS phải dựa trên những căn cứ mà pháp luật đã quy
định trong Bộ luật chứ không được tiến hành tùy tiện theo ý chí chủ quan của
Tịa án.
Các đương sự có u cầu khởi kiện ra Tòa án là nhằm mục đích bảo vệ
quyền lợi ích của mình. Vì vậy, khi Tịa án xác định căn cứ ĐCGQVADS
khơng hợp lý có thể dẫn tới quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện, người yêu
11


cầu bị xâm phạm nghiêm trọng, quyền tiếp cận công lý của cơng dân khơng
được đảm bảo. Do đó, để đảm bảo việc giải quyết vụ án được khách quan, công
bằng và bảo đảm công lý cho người dân; tránh việc lạm dụng những điểm chưa
rõ của quy định pháp luật về ĐCGQVADS dẫn đến vụ án bị ngừng giải quyết
thì Tịa án phải tn thủ đúng các quy định pháp luật về ĐCGQVADS; bởi áp
dụng sai sẽ là vi phạm pháp luật dẫn đến vụ án bị hủy và vụ án sẽ được tiếp tục
giải quyết theo trình tự, thủ tục luật định gây tốn kém thời gian, chi phí.

Thứ ba, ĐCGQVADS là ngừng hẳn các hoạt động tố tụng để giải quyết
một vụ án cụ thể. Lúc này sẽ chấm dứt cả về mặt thủ tục tố tụng lẫn giải quyết
nội dung VADS; không được khôi phục lại, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
Đặc điểm này của ĐCGQVADS là đặc điểm quan trọng, thể hiện rõ nét
nhất bản chất của đình chỉ vụ án. Là nét đặc trưng nhất để phân biệt
ĐCGQVADS với “Tạm đình chỉ” giải quyết VADS. Việc ĐCGQVADS là Tòa
án “ ngừng hẳn” hay chấm dứt hồn tồn cơng việc của Tịa để giải quyết yêu
cầu khởi kiện, những tranh chấp của đương sự (hay còn gọi là vụ án). Nghĩa là
vụ án được thụ lý sẽ bị ngừng lại với thời gian vĩnh viễn, không hạn định và
không được giải quyết về nội dung; Cịn tạm đình chỉ VADS thì VADS sau khi
có quyết định tạm đình chỉ sẽ bị “tạm ngừng” một thời gian khi có căn cứ theo
luật định, việc tạm ngừng sẽ chấm dứt và khi lý do tạm đình chỉ khơng cịn thì
Tịa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án đó theo quy định của pháp luật dẫn đến nội
dung vụ án vẫn được tiếp tục giải quyết sau khi được phục hồi giải quyết vụ
án.
Do đó, dẫn đến sự khác nhau về hậu quả pháp lý đó là: Vụ án sau khi có
quyết định đình chỉ giải quyết sẽ bị chấm dứt hoàn toàn việc giải quyết về cả
thủ tục và việc giải quyết về mặt nội dung. Hơn nữa, đương sự trong vụ án
khơng có quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án trừ trường hợp khác mà luật quy
định. Cịn tạm đình chỉ chỉ làm tạm ngưng hoạt động tố tụng và vụ án về mặt
nội dung vẫn đang được Tòa án giải quyết.
Thứ tư, Quyết định ĐCGQVADS tuy làm chấm dứt việc giải quyết VADS
ở một giai đoạn tố tụng nào đó nhưng nó khơng phải là một quyết định đưa ra
nhận định về nội dung VADS mà Tòa án đã thụ lý.
12


VADS được thụ lý tại Tòa án và được giải quyết bằng Bản án, quyết định
công nhận thỏa thuận hoặc quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trong đó, Bản

án và quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án là nhận định của Tòa án
về nội dung vụ án như xác định yêu cầu khởi kiện của đương sự, quan hệ tranh
chấp và nêu quyết định của Tịa án theo quy định của pháp luật. Theo đó, khi nội
dung vụ án đã được giải quyết tại Bản án và quyết định cơng nhận thỏa thuận thì
mặc nhiên vụ án được chấm dứt và đã được giải quyết xong. Cịn với quyết định
ĐCGQVADS thì khi có căn cứ theo quy định của pháp luật dẫn đến Tòa án phải
ra quyết định đình chỉ có nghĩa là Tịa án không tiến hành các thủ tục để giải
quyết yêu cầu khởi kiện, xác định quan hệ tranh chấp, làm rõ sự thật của vụ án,
áp dụng các quy định của pháp luật để đưa ra hướng giải quyết vụ án (thuộc về
giải quyết nội dung vụ án) nữa.
Thứ năm, ĐCGQVADS có thể được tiến hành ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm và tái thẩm.
Trong tố tụng dân sự thì ĐCGQVADS có thể được tiến hành ở các cấp sơ
thẩm, ở cấp phúc thẩm và cả cấp giám đốc thẩm, tái thẩm. Do có những sự kiện
phát sinh trong q trình giải quyết mà VADS có thể bị ngừng lại và buộc Tịa
án phải ra quyết định đình chỉ và vụ án đó khơng bị giới hạn là ở giai đoạn tố
tụng nào mới có thể được ban hành quyết định đình chỉ mà có thể ở bất cứ giai
đoạn nào của quá trình tố tụng.
Điểm khác biệt cơ bản của đình chỉ và tạm đình chỉ đó là Tạm đình chỉ giải
quyết VADS chỉ có thể được tiến hành ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm; Cịn đình
chỉ giải quyết VADS thì được tiến hành ở cả cấp sơ thẩm, phúc thẩm và Giám
đốc thẩm, tái thẩm.
1.1.3. Ý nghĩa của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Những quy định về ĐCGQVADS được các nhà làm luật đưa ra với mục
đích nhằm dự liệu những trường hợp bắt buộc phải chấm dứt và ngừng giải quyết
VADS như có thể là khắc phục được những sai lầm của Tòa án cho việc thụ lý
vụ án không đúng đem lại và đồng thời cũng góp phần làm cho giải quyết vụ án
được khách quan, chính xác, đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, đối với
những trường hợp vụ án đã được Tòa án thụ lý theo đúng quy định của pháp luật
nhưng trong quá trình tiến hành các trình tự, thủ tục để giải quyết vụ án thì phát

sinh những căn cứ như đối tượng khởi kiện khơng cịn hoặc suy đốn là khơng
cịn tồn tại thì Tịa án phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Mục đích là giúp cho
Tòa án đưa ra phương hướng và quyết định nhanh chóng để kết thúc vụ án, kết
13


thúc nghĩa vụ về tố tụng của đương sự và giải phóng cho các đương sự đặc biệt
là bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khơng phải tham gia tố tụng
tại Tòa án các cấp11.
ĐCGQVADS làm giảm bớt chi phí tố tụng cho đương sự khi việc tiến hành
tố tụng khơng cịn cần thiết nữa khi mà đương sự có thể tự hịa giải với nhau
hoặc được Tịa án hịa giải đã tự tìm được phương hướng giải quyết cho vụ việc
và không cần thiết phải có quyết định hay bản án của Tịa án. Do đó có ý nghĩa
là tạo điều kiện cho các đương sự không tốn kém về mặt thời gian đi lại, làm
việc; hơn nữa là tốn kém chi phí tố tụng, án phí, lệ phí phải nộp vào ngân sách
nhà nước (đối với những tranh chấp về tài sản thì khoản tiền chi phí tố tụng và
án phí, lệ phí phải nộp cũng khơng hề nhỏ).
Bên cạnh đó, cũng cịn ý nghĩa bảo đảm quyền tự định đoạt của các đương
sự, đảm bảo nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Đối với
VADS thì về bản chất đó là sự thỏa thuận của các bên và như câu nói “việc dân
sự cốt ở đơi bên”. Vì vậy trên tinh thần đó thì trong tố tụng dân sự các đương sự
có quyền tự định đoạt. Theo “1. Ðương sự có quyền quyết định việc khởi kiện,
yêu cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự….2. Trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu
của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và
đạo đức xã hội.”12. Khi đương sự tự nguyên chấm các yêu cầu của mình và rút
yêu cầu khởi kiện của mình thì làm cho đối tượng khởi kiện tại Tịa án khơng
cịn nữa nên Tòa án ra quyết định ĐCGQVADS để đảm bảo nguyên tắc trên.
Việc ĐCGQVADS cũng có ý nghĩa thực tiễn giúp cho Nhà nước mà cụ thể
là Tòa án tiết kiệm thời gian, cơng sức, chi phí. Khi Tịa án ra quyết định đình

chỉ giải quyết VADS một cách đúng đắn sẽ làm q trình giải quyết vụ việc
nhanh gọn, Tịa án không phải kéo dài thời giải giải quyết vụ việc, thậm chí
khơng phải mở phiên tịa, phiên họp để giải quyết vụ việc. Nhờ đó gánh nặng về
số VADS cần phải giải quyết được giảm tải, Tịa án có điều kiện tập trung giải
quyết các vụ việc phức tạp khác để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét
xử.
1.2. Khái quát Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

Thạc sỹ Nguyễn Bích Thảo, Giáo trình bộ luật tố tụng dân sự việt Nam, Khoa Luật trường đại học quốc gia
Hà Nội năm 2014, NXB đại học quốc gia Hà Nội, Trang 256.
12 Xem tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
11

14


1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Sau Cách mạng tháng 8/1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47 ngày
10/10/1945 cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ. Tại Điều thứ 1
có quy định: “Cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi
nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ
nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định
trong sắc lệnh này...” 13. Tiếp đó, ngày 24/01/1946 ban hành Sắc lệnh số 13 tổ
chức các toà án và các ngạch thẩm phán, ngày 17 tháng 04 năm 1946 ban hành
Sắc lệnh số 51 phân công thẩm quyền giữ các Tòa án và nhiệm vụ, quyền hạn
của Thẩm phán; Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 về ấn định thể thức thi hành án,
Sắc lệnh số 185-SL ngày 26/5/1948 về ấn định thẩm quyền của các Tòa án sơ
cấp và đệ nhị cấp; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp
và luật tố tụng, Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/01/1950 quy định đề ly hơn

v.v...Ngồi các văn bản này hầu như Nhà nước khơng có ban hành văn bản nào
quy định về thủ tục tố tụng dân sự và do vậy, cũng khơng có những quy định
riêng về vấn đề đình chỉ giải quyết VVDS. Có thể hiểu đây là giai đoạn trong
tình hình khẩn trương của cuộc kháng chiến chống Pháp, các Tòa án chỉ tập trung
xét xử các vụ án về hình sự mà không giải quyết các tranh chấp về dân sự. Tuy
nhiên, vấn đề đình chỉ giải quyết các việc hộ và thương mại trong tình thế đặc
biệt đã được đề cập trong Thông lệnh số 12 – NV-CT ngày 29/12/1946 của Bộ
Tư pháp về tổ chức tư pháp, theo đó: “ Nếu vì một lẽ gì, Tịa án thường khơng
thể tiếp tục công việc xử án được, việc xét xử những phạm pháp sẽ do quyết định
của Ủy ban bảo vệ khu và giao cho Tòa án quân sự. Còn xử các việc hộ hoặc
thương mại sẽ đình chỉ, trừ những việc cấp tốc thì sẽ do Hội thẩm chun mơn
Tịa án quân sự xét xử bằng mệnh lệnh...”14.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam lúc đó là củng cố Nhà nước dân
chủ nhân dân, khôi phục và cải tạo kinh tế ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất
đất nước, Nhà nước ta đã cho xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật nhằm
đáp ứng tình hình lúc đó. Để chấm dứt việc áp dụng các luật lệ cũ ban hành trước
năm 1945 còn được tạm giữ theo Sắc lệnh 47 ngày 10/10/1945, Bộ Tư pháp đã
ra Thông tư số 19-VHH ngày 30/6/1955 và Thông tư số 2140-VHH/HS ngày
6/12/1955; TANDTC đã ra Chỉ thị số 772-NC ngày 10/7/1959 đình chỉ việc áp
13
14

Điều 1, Sắc lệnh của chủ tịch Chính phủ lâm thời số 47 ngày 10/1/1945.
Xem tại Thông lệnh số 12 – NV-CT ngày 29/12/1946 của Bộ Tư pháp về tổ chức tư pháp

15


dụng luật pháp cũ của đế quốc, phong kiến. Tuy nhiên, thời kỳ này có rất ít các

văn bản quy định về thủ tục tố tụng dân sự và nếu có thì cũng chỉ là một số hướng
dẫn thủ tục về giải quyết việc ly hơn, mà khơng có những quy định riêng về vấn
đề ĐCGQVADS15.
Ở miền Nam chính quyền Sài Gòn vẫn cho áp dụng luật lệ cũ được ban
hành từ thời Pháp thuộc. Tuy nhiên, có ban hành một số văn bản để quy định,
giải thích những chỗ vướng mắc.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989
Sau khi Hiến pháp năm 1959 được ban hành thì Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân 1960 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cũng được ban hành. Trong
thời kỳ này, các văn bản pháp luật tố tụng được coi là cơ sở pháp lý cho hoạt
động giải quyết VADS tại Tịa án, chủ yếu dưới dạng các cơng văn, chỉ thị và
đặc biệt là các thông tư do TANDTC ban hành. Ví dụ như Thơng tư số 1080-TC
ngày 25/9/1961 của TANDTC hướng dẫn việc thực hiện thẩm quyền mới của
Tòa án nhân dân thuộc tỉnh, thị xã, huyện, khu phố; Thông tư số 2421-TC ngày
29/12/1961 của TANDTC về việc thực hiện chế định Hội thẩm nhân dân. Vấn
đề đình chỉ giải quyết VVDS đã được quy định tại Thông tư số 39-NCPL ngày
21/1/1972 của TANDTC hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những vụ
kiện về hơn nhân và gia đình, tranh chấp về dân sự (thời kỳ này VADS bao hàm
cả vụ kiện về hơn nhân gia đình, tranh chấp về dân sự và những việc khơng có
tranh chấp; xếp việc kiện được hiểu như đình chỉ giải quyết vụ kiện). Trong
Thơng tư này quy định rất cụ thể những trường hợp phải xếp vụ kiện, thẩm quyền
và thủ tục xếp vụ kiện. Theo Mục A của Thơng tư này thì Tịa án được xếp vụ
kiện trong trường hợp đương sự đi kiện về một việc mà trước đó Tịa án đã giải
quyết rồi, có một bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, vụ kiện sau
không khác vụ kiện trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ tranh chấp; đương
sự tự nguyện rút đơn khởi kiện trong phiên tòa và việc rút đơn đó được Tịa án
cơng nhận; một bên đương sự chết mà quan hệ pháp luật không được phép thừa
kế. Hậu quả của việc xếp một vụ kiện về dân sự là Tịa án xóa sổ thụ lý vụ kiện
và sau đó đương sự khơng có quyền đi kiện lại về việc đó nữa, nếu việc kiện sau
khơng khác gì việc kiện trước về ngun đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật tranh


Trần Thị Ngọc Trang, Luận Văn Đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự trong bộ luật tố tụng dân sự hiện hành,
Khoa Luật trường Đại học quốc gia Hà Nội (2015), trang 29 và trang 30.
15

16


chấp. Đây là những quy định mang tính tiền đề cho việc xây dựng các quy định
về đình chỉ giải quyết VADS của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam sau này16.
Ở miền Nam, ngày 20 tháng 12 năm 1972, chính quyền Sài Gòn ban hành
BLDS và Thương sự tố tụng. Theo quy định tại Điều 54 BLDS và Thương sự tố
tụng năm 1972 của chính quyền Sài Gịn thì: “Nếu nguyên đơn từ trần sau khi
nạp đơn khởi tố, vụ kiện sẽ được bôi bỏ, ngoại trừ trường hợp có thừa kế của
người quá cố tự ý dự sự để tiếp tục vụ kiện, hoặc có bị đơn phản tố đòi họ ra dự
sự...”17. Đây là trường hợp Tòa án chấm dứt việc giải quyết vụ kiện do ngun
đơn chết mà khơng có người thừa kế tiếp tục tham gia tố tụng.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004
Trong giai đoạn này với đường lối chỉ đạo của Đảng tại Đại hội Đảng khóa
IV nhằm đổi mục tiêu đổi mới tồn diện trong đó có đổi mới hệ thống pháp luật
với sự ra đời của PLTTGQCVADS, PLTTGQCVAKT và PLTTGQCTCLĐ
nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao
động. Các Pháp lệnh này đã kế thừa và phát triển những quy định về thủ tục tố
tụng dân sự trước đó.
Vấn đề ĐCGQVADS được quy định tại Điều 46 của Pháp lệnh này. Ngoài
ra, TANDTC cũng ban hành những văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định
của PLTTGQCVADS trong đó có quy định ĐCGQVADS. Cụ thể là Nghị quyết
số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTPTANDTC hướng dẫn áp dụng một
số quy định của PLTTGQCVADS, Công văn số 124/NCPL ngày 13/12/1991
của TANDTC giải thích một số vấn đề về thủ tục tố tụng dân sự.

Điều 46 PLTTGQCVADS đã khái quát được các trường hợp được coi là căn
cứ mà Toà án có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS. Các căn cứ này tương
đối phù hợp với cơ sở khoa học lý luận về xây dựng các căn cứ đình chỉ giải quyết
VADS đã trình bày ở phần trên. Hậu quả của việc đình chỉ được hướng dẫn tại
Mục IX Nghị quyết số 03/NQ- HĐTP nêu trên. Cụ thể: Nếu Tồ án đã đình chỉ
giải quyết VADS đối với các trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 46
của Pháp lệnh thì đương sự khơng có quyền khởi kiện lại nữa, nếu Tồ án đã
đình chỉ do đương sự đã tự hoà giải được, người khởi kiện rút đơn khởi kiện,
Viện kiểm sát rút quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp khơng có ngun
Trần Thị Ngọc Trang, Luận Văn Đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự trong bộ luật tố tụng dân sự hiện hành,
Khoa Luật trường Đại học quốc gia Hà Nội (2015), trang 30 và trang 31.
17 Xem tại Điều 54 chương IV BLDS và Thương sự tố tụng năm 1972 của chính quyền Sài Gịn
16

17


đơn hoặc nguyên đơn không yêu cầu tiếp tục giải quyết vụ án; nguyên đơn được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không lý do chính đáng thì sau
đó đương sự có thể khởi kiện lại nhưng phải nộp tiền tạm ứng án phí như mới
khởi kiện lần đầu18.
Vấn đề đình chỉ giải quyết VAKT, VALĐ cũng được quy định tương đối chi
tiết tại Điều 39 PLTTGQCVAKT và Điều 41 PLTTGQCTCLĐ. Tuy nhiên, về cơ
bản thì việc xây dựng các căn cứ đình chỉ giải quyết VAKT, VALĐ cũng được dựa
trên nguyên lý chung của việc đình chỉ giải quyết VVDS theo PLTTGQCVADS.
Điều 39 PLTTGQCVAKT và Điều 41 PLTTGQCTCLĐ có bổ sung thêm một căn
cứ về đình chỉ giải quyết VAKT, VALĐ đó là “Đã có quyết định của Tồ án mở
thủ tục giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp đó
là đương sự của vụ án”19.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015

Năm 2004 là năm đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật tố tụng Việt
Nam và đặc biệt những quy định về ĐCGQVADS cũng có sự thay đổi một cách
hồn thiện với sự kiện ngày 15/6/2004 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tại kỳ họp thứ 5 khoá XI đã thông qua BLTTDS. Các quy định của
BLTTDS về vấn đề đình chỉ giải quyết các VADS được xây dựng trên cơ sở kế
thừa, phát triển các quy định của ba pháp lệnh về thủ tục tố tụng trước đó. Vấn
đề ĐCGQVADS được quy định tương đối cụ thể tại các điều từ Điều 192 đến
Điều 194 và Điều 311 BLTTDS. Ngồi ra, vấn đề đình chỉ giải quyết các VADS
cũng được hướng dẫn tại các Nghị quyết của HĐTPTANDTC như:
- Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của HĐTPTANDTC
hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung
của BLTTDS năm 2004.”
- Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC
hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án
tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS.

Xem tại khoản 2 chương IX Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTPTANDTC.
Xem tại điểm g khoản 1 Điều 39 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế số 31-L/CTN của UBTVQH
ngày 29/03/1994 và Điểm e khoản 1 Điều 41Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động số 48-L/CTN của
UBTVQH ngày 11/4/1996.
18
19

18


- Nghị quyết số 05/2006/NQ- HĐTP ngày 04/8/2006 của HĐTPTANDTC
hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ ba “ thủ tục giải quyết vụ án tại
Tòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS.
Nhằm khắc phục những hạn chế trong quy định tại BLTTDS năm 2004, tại

Kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 29/3/2011, Quốc hội khố XII đã thơng qua Luật
sửa đổi bổ sung bộ luật tố tụng dân sự và Luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng
01 năm 2012. Những quy định về ĐCGQVADS được sửa đổi để bảo đảm tính
khả thi và tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất với hệ thống pháp luật chung. Cụ
thể như căn cứ trả lại đơn khởi kiện theo Khoản 1 Điều 168 BLTTDS: “Thời
hiệu khởi kiện đã hết” đã bị bãi bỏ thay bằng căn cứ: “Thời hiệu khởi kiện đã
hết” và “Các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 168 của Bộ luật này mà Tòa
án đã thụ lý” là các căn cứ để Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án; sửa đổi, bổ sung
quy định về quyền khởi kiện lại khi Tòa án đã quyết định ĐCGQVADS để đảm
bảo quyền tiếp cận công lý của cơng dân như trường hợp Tịa án đình chỉ vụ án
do chưa đủ điều kiện khởi kiện, người khởi kiện khơng có năng lực hành vi tố
tụng dân sự thì đương sự sẽ có quyền khởi kiện lại khi đã khắc phục được lý do
và tuy vẫn cùng nguyên đơn, bị đơn và quan hệ tranh chấp nhưng có tình tiết
mới khác với lần khởi kiện ban đầu. Luật sửa đổi bổ sung bộ luật tố tụng dân sự
cũng quy định bổ sung trường hợp khơng có quyền khởi kiện lại. Ngoài ra, các
quy định về việc xử lý tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp khi có quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án trong Luật sửa đổi bổ sung bộ luật tố tụng dân sự
thể hiện sự rõ ràng, khoa học hơn so với BLTTDS năm 2004; tùy thuộc từng
trường hợp khác nhau mà việc xử lý tiền tạm ứng án phí đó cũng khác nhau.
Cùng với việc ban hành Luật sửa đổi bổ sung bộ luật tố tụng dân sự,
HĐTPTANDTC đã ban hành các nghị quyết hướng dẫn thực hiện đối với Luật
này:
- Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ hai:“Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa cấp sơ thẩmcủa BLTTDS đã
được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS”
(Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP).
- Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong
phần thứ ba:“Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa cấp phúc thẩm của BLTTDS đã
được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS ”
(Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP).

19


Mặc dù đã có những sửa đổi quy định pháp luật về ĐCGQVADS đã có
những kết quả tích cực nhưng trong quá trình áp dụng trong thực tiễn cho thấy
Luật sửa đổi bổ sung bộ luật tố tụng dân sự vẫn bộc lộc những hạn chế nhất định
khiến việc thực thi pháp luật khơng đồng nhất và gặp nhiều khó khăn; thiếu quy
định để điều chỉnh những trường hợp mới phát sinh gây ra sự lúng túng cho công
tác giải quyết vụ án.
1.2.5. Từ năm 2015 đến nay
Hiện nay, sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành và có hiệu lực đã đặt
ra yêu cầu cần phải sửa đổi, bổ sung tồn diện BLTTDS nhằm thể chế hóa chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy
định của Hiến pháp nhằm đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật, đặc biệt
là Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, khắc phục các hạn chế, tăng cường tranh tụng,
bảo đảm tính công khai, dân chủ, công bằng, tạo thuận lợi cho người tham gia tố
tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quá trình tham gia tố tụng, bảo vệ
được quyền và lợi ích chính đáng của mình. Do vậy, Nhà nước ta đã cho ban
hành BLTTDS năm 2015. Trong BLTTDS quy định khá cụ thể và chi tiết tại các
điều 214, 215, 217, 289. Theo đó, các quy định này đã kế thừa cơ bản các căn
cứ, thủ tục ĐCGQVADS tại Điều 192 BLTTDS 2004, sửa đổi năm 2011, quy
định về việc gửi quyết định đình chỉ giải quyết vụ án tại khoản 2 Điều 194
BLTTDS 2004 cũng như kế thừa các quy định về đình chỉ đối với yêu cầu một
phần, thay đổi địa vị tố tụng tại khoản 2 Điều 218, Điều 219 BLTTDS 2004, sửa
đổi 2011 như: Căn cứ đình chỉ như trường hợp đương sự có u cầu tố tụng
nhưng khơng nộp tiền tạm ứng chi phí định giá và chi phí khác theo quy định;
Bổ sung tại khoản 3 về việc Tòa án phải sao chụp và lưu lại đơn khởi kiện, các
tài liệu chứng cứ kèm theo khi đình chỉ giải quyết vụ án; Bổ sung quy định tại
khoản 4 về việc Tòa án xét xử sơ thẩm lại vụ án (sau khi có quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm) phải đồng giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề

khác có liên quan khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; Bổ sung quy định
về trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc được triệu tập đến lần thứ hai
mà vẫn vắng mặt khơng có lý do thì phải có sự đồng ý của bị đơn, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Về cơ bản, những quy định này đã khắc phục được
những thiếu sót, hạn chế trong quy định về ĐCGQVADS so với những quy định
cũ.

20


×