HỒ Q LY DƯỚI GĨC NHÌN VĂN HĨA
HỒNG KIM NGỌC
Tóm tắt
Hồ Quý Ly trong tiến trình lịch sử dân tộc là một nhân vật đã và đang gây ra nhiều đánh giá trái
chiều. Dưới góc nhìn văn hóa, Hồ Q Ly đã có nhiều đóng góp tích cực góp phần xây dựng nền văn
hóa dân tộc và cải cách, canh tân đất nước. Di sản mà ông để lại cho hậu thế, ngồi hai cơng trình kiến
trúc độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam như thành Nhà Hồ, đàn tế Nam Giao Tây Đơ, cịn
là những tư tưởng văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn, vượt khỏi biên giới quốc gia và thời đại lúc bấy giờ.
Từ khóa: Hồ Q Ly, góc nhìn văn hóa, thành Nhà Hồ.
Abstract
In the national history process, Ho Quy Ly is a person who has been causing a lot of mixed reviews.
From a cultural perspective, Ho Quy Ly has contributed actively to the development of national culture
and the reform of the country. The legacies that he left for the posterity, in addition to the two unique
architectural constructions that bearing cultural identity of Vietnam such as the Ho Dynasty citadel,
Nam Giao Tay Do sacrifice estrade, also the influential cultural ideas, transcended times and national
boundaries.
Keywords: Ho Quy Ly, cultural perspective, the Ho Dynasty citadel
M
ỗi triều đại đi qua đều để lại dấu
ấn của mình trong tiến trình lịch
sử. Dẫu tồn tại trong thời gian
ngắn ngủi, 7 năm (1400 – 1407), nhưng triều
đại nhà Hồ cũng đã để lại cho lịch sử dân tộc
nhiều dấu ấn đậm nét về tư tưởng đổi mới,
canh tân đất nước và những cơng trình xây
dựng đạt tới đỉnh cao về kỹ thuật kiến trúc.
Gắn liền với những dấu ấn lịch sử, văn hóa đó
là Hồ Quý Ly, một trong những nhân vật mà
đến nay, đang để lại cho hậu thế nhiều vấn đề
để bàn luận. Dưới góc nhìn văn hóa, có thể
khẳng định một điều rằng, Hồ Quý Ly có ảnh
hưởng và đóng góp lớn về mặt tư tưởng và
văn hóa lúc đương thời cũng như trong tiến
trình lịch sử dân tộc, điều này được thể hiện rõ
nét ở 5 khía cạnh sau đây.
1. Cốt lõi văn hóa trong tư tưởng chính trị
của Hồ Q Ly
Hồ Q Ly có tổ tiên ở Trung Quốc nhưng
ông sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, vì thế ơng
chịu ảnh hưởng tư tưởng và văn hóa Việt Nam.
Quý Ly tự là Lý Nguyên, có tổ xa là Hồ Hưng
Dật, vốn người Chiết Giang, Trung Quốc, đến
đời thứ 12 có Hồ Liêm dời đến ở hương Đại
Lại (nay thuộc Hà Trung – Thanh Hóa), làm con
ni quan Tun úy Lê Huấn. Vì thế dưới triều
đại nhà Trần, ơng cịn có tên khác là Lê Q
Ly. Năm 1400, ơng lên ngơi Hồng đế lấy lại
họ Hồ, hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên nước là
Đại Ngu (theo nghĩa Hán là niềm an vui lớn,
hàm ý mong muốn hịa bình). Việc Hồ Q Ly
mong muốn xây dựng một đất nước cường
thịnh, thái bình như thời Nghiêu Thuấn thể
hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ của ông. Mặc
dù tổ tiên của Hồ Quý Ly ở bên ngoài đất Việt,
A
ĂN HÓ
VĂN HĨA CẬN - HIỆN ĐẠI
nhưng tư tưởng của ơng vẫn là “giang sơn đã
chia, phong tục cũng khác”. Ý thức dân tộc của
Hồ Quý Ly được thể hiện rõ ràng trong hàng loạt
dẫn chứng lịch sử. Đại Việt sử ký tồn thư
chép:“Năm 1403, nhà Minh sai sứ sang địi cắt
trả lại đất Mộc Châu ở Lạng Sơn... Quý Ly sai
Hành khiển Hoàng Hối Khanh làm Cát địa sứ.
Hối khanh đem các thôn như Cổ Lâu, gồm cả
thảy 59 thôn trả lại cho nhà Minh. Quý Ly trách
mắng Hối Khanh tàn tệ vì trả lại đất nhiều quá.
Phàm những thổ quan do nhà Minh đặt, Quý Ly
đều bí mật sai thổ nhân ở đó đánh thuốc độc
giết đi”(4, tr.210). Ý thức chủ quyền dân tộc của
Hồ Quý Ly cũng được thể hiện trong các cuộc
bình định vùng đất phương Nam lúc bấy giờ, khi
mà quân Chiêm Thành nhiều lần đem quân
đánh phá sâu vào bờ cõi Đại Việt
Hồ Quý Ly có một ý thức và trách nhiệm rất
cao đối với sự tồn vong của dân tộc. Chúng ta
không thể nghi ngờ về ý chí kháng chiến của
ơng trước cuộc xâm lược của nhà Minh. Sử cũ
cịn ghi lại câu nói của Tướng quốc Hồ Nguyên
Trừng: “Thần không sợ đánh mà chỉ sợ lịng dân
khơng theo”. Vì câu nói này mà Hồ Nguyên
Trừng được Quý Ly “ban cho cái hộp trầu bằng
vàng” (4, tr.112). Đây là bằng chứng sinh động
về sự phân tích, đánh giá tình hình và thực
trạng xã hội, cũng như nhận thức trách nhiệm
của triều đại nhà Hồ đối với sự tồn vong của
dân tộc.
2. Hồ Quý Ly đối với nền văn hóa dân tộc
Q trình tham gia nhiếp chính, Hồ Quý Ly
để lại nhiều dấu ấn văn hóa mang đậm màu
sắc dân tộc. Trong những năm nắm thực quyền
dưới triều đại nhà Trần, Hồ Quý Ly đã thực hiện
nhiều biện pháp để xây dựng và phát triển
văn hoá. Hồ Quý Ly đã soạn sách Minh đạo lục
gồm 14 thiên dâng lên vua Trần, trong đó ơng
nghiên cứu, tiếp thu có phê phán những tinh
tuý của văn minh Trung Hoa nhằm vận dụng
vào điều kiện thực tiễn của nước ta lúc bấy giờ.
Hồ Quý Ly, một mặt thừa nhận đóng góp của
các nhà tư tưởng, các nhà văn hố tiền bối;
mặt khác, ơng nói thẳng vào cái sai từ sự quan
liêu, xa rời thực tiễn “không sát với sự việc”, “chỉ
thạo cóp nhặt” của họ. Nét độc đáo ở đây là Hồ
Quý Ly không bị những tư tưởng chính thống chi
phối mà tiếp thu có chọn lọc những gì phù hợp
với thực tế Đại Việt. Tác phẩm Minhđạo thể hiện
Hồ Quý Ly không thuần tuý chỉ biết văn chương,
chữ nghĩa mà cịn am hiểu thời cuộc, ơng là một
nhà tư tưởng có tầm nhìn vượt thời đại. Chính
vì vậy, đương thời, vua Trần Phế Đế, khi cử ông
làm Bình chương sự, đã ban cho Hồ Quý Ly một
thanh gươm, một lá cờ đề 8 chữ: “Văn võ toàn
tài, quân thần đồng đức”(4, tr.173). Sử cũ còn
ghi lại sự việc: Mùa thu năm 1402, khi Hán
Thương đổi sổ An phủ sứ (lộ Thanh Hoa), Cảnh
Chân dâng thư nói xin theo việc cũ của nhà
Hán, mộ người nộp thóc chứa vào kho để việc
phòng bị biên cương được đầy đủ. Những người
nộp thóc thì hoặc là được ban tước cho, hoặc
được miễn tội tuỳ theo mức độ. Quý Ly
phê:“Biết được mấy chữ mà dám nói việc Hán,
Đường, thực là thằng ngọng hay nói, chỉ chuốc
lấy tiếng cười mà thơi!” (4, tr.203). Lời phê ấy
chứng tỏ Hồ Quý Ly thấu hiểu tình hình thực tế
của đất nước, mọi tư tưởng phải phù hợp với
thực tế, không thể áp dụng một cách máy móc
tiền lệ của lịch sử vào hiện tại được. Chính vì
vậy, những cải cách của Hồ Q Ly trong thi cử,
tuyển chọn quan lại bao giờ cũng xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam. Định hướng của ông về một
nền giáo dục của đất nước là: “tỏ rõ giáo hoá,
giữ phong tục”. Những quy định cụ thể của ông
nhằm nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài cho
đất nước, rất đáng ghi nhận. Nhà sử học Ngô Sĩ
Liên cũng phải cơng nhận: “Bấy giờ có chiếu lệnh
này, cịn gì tốt đẹp hơn thế nữa” (4, tr.193). Hồ
Quý Ly cũng là vị vua đầu tiên quyết định dùng
chữ Nôm để chấn hưng nền văn hoá của dân
tộc, đưa toán vào trong các kỳ thi, cho dịch kinh
thư, kinh thi.
Với ý thức bảo tồn và phát triển nền văn hóa
Việt, xây dựng bản sắc văn hóa riêng cho triều
đại của mình, Hồ Q Ly coi trọng chữ Nơm. Ơng
thường sử dụng chữ Nơm trong các tác phẩm
của mình. “Quốc âm thi nghĩa” là cuốn sách
bằng chữ Nôm, được ông biên soạn
A
ĂN HÓ
VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
và viết bài tựa với nội dung chủ yếu là dịch và
giải nghĩa Kinh Thi. Bài tựa của Hồ Quý Ly
trong Quốc âm thi nghĩa, theo Đại Việt sử ký
tồn thư là khơng tn thủ khn phép cũ mà
“phần nhiều theo ý mình” (4, tr.190). Ông còn
dịch một số tác phẩm và sáng tác thơ bằng
chữ Nôm. Rõ ràng việc coi trọng chữ Nôm (một
sáng tạo lớn của ông cha ta dựa trên cơ sở chữ
Hán), đưa chữ Nôm ứng dụng vào thực tiễn
cuộc sống đã khẳng định ý thức dân tộc và
quyết tâm xây dựng nền văn hóa mang đậm
bản sắc dân tộc của Hồ Quý Ly. Đây cũng là
tiền đề cho những tác phẩm văn học sáng tác
bằng chữ Nôm ra đời và phát triển rực rỡ gắn
liền với tên tuổi của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Hồ Xuân Hương... sau này.
trí kiến trúc. Các làng cổ cùng tồn bộ cảnh
quan sơng hồ, núi non mang đậm chất phong
thủy điển hình cịn được lưu giữ tương đối
nguyên vẹn, phản ánh rõ nét về một thời kỳ
lịch sử, văn hóa, văn minh Việt Nam với những
đặc trưng mang tầm khu vực và thế giới. Giá
trị văn hóa nổi bật của kinh thành Tây Đơ biểu
hiện trên hai tiêu chí như sau:
3. Dấu ấn của Hồ Quý Ly trong những cơng
trình kiến trúc
Tiêu chí 1: Thành Nhà Hồ phản ánh sự giao
lưu văn hóa (cụ thể là chịu ảnh hưởng của Nho
giáo Trung Hoa), biểu hiện vương quyền tập
trung ở thời kỳ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV.
Thành là kết quả của những bước phát triển mới
trong phong cách kiến trúc trên phương diện kỹ
thuật và quy hoạch đô thị: tận dụng triệt để điều
kiện thiên nhiên xung quanh; đưa thêm vào các
cơng trình và cảnh quan đô thị những yếu tố
riêng biệt của Việt Nam và Đơng Nam Á.
Di sản văn hóa mà nhà Hồ để lại cho hậu
thế, cho đến nay đã được nhân loại cơng nhận
là có giá trị trường tồn. Đó là những cơng trình
kiến trúc độc đáo mang đậm sắc màu văn hóa
dân tộc. Hai cơng trình thể hiện rõ nét nhất tinh
hoa văn hóa Việt thời bấy giờ là kinh thành Tây
Đô (thành Nhà Hồ ngày nay) và đàn tế Nam
Giao. Hồ Quý Ly không phải là tác giả của hai
cơng trình này, song khơng thể nói ơng khơng
có vai trị gì trong việc xây dựng chúng. Trên
thực tế, khó chứng minh được cơng lao của
ơng đến đâu, điều có thể khẳng định ở đây là
thành Tây Đơ và đàn tế Nam Giao đã thể hiện
tư tưởng chiến lược của Hồ Quý Ly.
Tiêu chí 2: Thành Nhà Hồ là ví dụ nổi bật về
một quần thể kiến trúc giữa một cảnh quan
thiên nhiên, minh chứng cho sự phát triển nở rộ
của Nho giáo thực hành cuối thế kỷ XIV của Việt
Nam. Đây là một thời kỳ mà tư tưởng này đã
lan rộng khắp Đông Á và trở thành một triết lý
có tầm ảnh hưởng lớn đối với việc cai trị của các
quốc gia trong khu vực. Việc sử dụng những khối
đá lớn chứng tỏ sức mạnh tổ chức của một nhà
nước tân Nho giáo, cho thấy sự giao lưu về kỹ
thuật xây dựng trong khu vực Đông Nam Á, và sự
thay đổi hướng trục chính làm nên điểm khác
biệt về thiết kế của thành Nhà Hồ so với chuẩn
mực Trung Hoa (7, tr.73).
Thành Tây Đơ hay cịn gọi là thành Nhà Hồ là
trung tâm kinh thành của Việt Nam những năm
cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XV. Từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XVIII, thành Tây Đô trở thành trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của khu vực Bắc
Trung bộ Việt Nam. Giá trị nổi bật tồn cầu của
khu di sản bao gồm tịa thành đá với tường
thành, cổng thành, đường giao thông nội ngoại
thành được xây dựng bằng kỹ thuật đá lớn. Các
tầng văn hóa nối tiếp nhau trong lịng đất, lưu
giữ các dấu tích cung điện, đền đài, miếu mạo,
đường xá và nghệ thuật trang
Ngồi việc xây dựng thành Tây Đơ, để
khẳng định tính chính thống của vương triều
và uy quyền của Hồng đế, đồng thời tỏ rõ ý
thức tự cường, tự tôn văn hóa dân tộc, Hồ Quý
Ly đã cho lập đàn tế Nam Giao và tổ chức lễ tế
giao hàng năm. Đàn tế Nam Giao Tây Đô được
vương triều Hồ xây dựng và hồn thành năm
1402, nằm trong lịng tay ngai của dãy Đốn Sơn
thuộc động An Tơn, phủ Thanh Hóa lúc bấy
giờ (tức huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa ngày
nay), có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử, kiến trúc.
Cấu trúc đàn tế Nam Giao Tây Đô vừa mang đặc
A
ĂN HÓ
VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
điểm chung của các đàn tế Nam Giao phương
Đông, vừa mang đặc điểm riêng của Việt Nam.
Điểm khác biệt đó là: phần trung tâm và cao
nhất của đàn tế khơng phải ở chính tâm của
đàn mà dựa vào sườn núi, mặc dù vịng ngồi
của nó khá giống với vịng ngồi của đàn Nam
Giao ở Bắc Kinh, đời nhà Nguyên - Trung Quốc.
Đặc biệt, đàn Nam Giao Tây Đơ có trục linh đạo
quay theo hướng Đơng Bắc - Tây Nam. Trung
tâm nền đàn dịch hẳn về phía Tây Bắc, lớp
tường đàn trong cùng có góc chạy vát chéo. Vị
trí xây dựng và cách thức quy hoạch các cơng
trình theo lối cao dần lên và dựa vào núi, cho
thấy cơng trình có sự gần gũi với di sản văn
hóa Vat Phu (Lào), nơi đây nhân dân ln tin
rằng có một ngọn “núi thiêng”, trong đó thần
linh ngự trị và cai quản. Quan niệm này phổ
biến trong các cộng đồng cư dân Đơng Nam
Á. Trong bối cảnh đó, cấu trúc đàn tế Nam
Giao Tây Đô thực sự độc đáo, hiếm có khi so
sánh với các đàn tế ở Việt Nam nói riêng cũng
như ở các quốc gia phương Đơng nói chung.
Về khía cạnh văn hóa phi vật thể, để phục vụ
cho lễ tế Nam Giao, nhà Hồ cho tập Nhã Nhạc,
lấy con các quan văn làm Kinh Vĩ Lang, con các
quan võ làm Chỉnh Đốn Lang, cho học các điệu
múa văn và võ. Nhã Nhạc trở thành nghi thức
văn hóa, văn nghệ cung đình và là một trong
những nghi thức không thể thiếu trong các kỳ
đại lễ, quốc lễ và được lưu truyền rộng rãi
trong dân gian. Nhã Nhạc vừa mang tính bình
dân, đại chúng lại vừa hàm chứa tính bác học
sâu xa. Sau này Nhã Nhạc được các vua triều
Nguyễn rất ưa chuộng và được bổ sung, phát
triển lên một tầm cao mới. Thông qua lễ tế
Nam Giao, nhà Hồ cho đặt lại thể thức văn hóa
tế lễ, phẩm phục của quan lại và dân chúng:
quan nhất phẩm mặc áo màu tía; quan nhị
phẩm mặc áo màu hồng; quan tam phẩm mặc
áo màu hồng điều; quan tứ phẩm mặc áo màu
lục; quan ngũ phẩm, lục phẩm, thất phẩm mặc
áo màu biếc; quan bát phẩm và cửu phẩm mặc
áo màu xanh; dân thường và nô tỳ dùng màu
trắng. Lệ cũ trước đây theo bên Tàu, đặt ra 2
bậc lễ nghi, nhà Hồ cho làm 3 bậc lễ nghi (tiểu,
trung và đại). Cứ 3 năm tổ chức một đại lễ, hai
năm tổ chức một trung lễ, tiểu lễ được tổ chức
hằng năm. Trong đại lễ, nhà vua ngồi xe thái
bình, phía trước là 40 hình người bằng gỗ mặc
áo vóc cầm cờ. Có năm, nhà vua đi thuyền nhỏ
ở hồ Chu Tước. Thuyền được kéo bởi dây thừng
làm bằng gấm vóc. Trong dịp trung lễ, nhà vua
ngồi trên ngai trạm trổ bách cầm. Vào dịp tiểu
lễ, thiên tử chỉ ngồi ngai nhỏ. Như vậy, về khía
cạnh văn hóa vật thể cũng như văn hóa phi vật
thể, đàn tế Nam Giao (Tây Đơ) có những điểm
tương đồng và khác biệt với các đàn tế khác ở
Việt Nam và các quốc gia phương Đông trong
cùng thời đại và trong lịch sử. Điều đó chứng
tỏ nhà Hồ đã sớm biết kế thừa, chọn lọc tinh
hoa của các nước trong khu vực, đồng thời xây
dựng bản sắc văn hóa riêng cho đất nước mình.
Trở lại với Hồ Q Ly, sự gắn bó của ông với
những công trình kiến trúc cần được hiểu một
cách sâu xa hơn: Tư tưởng văn hóa của một
thời đại được kết tinh trong những cơng trình
này. Tư tưởng đó vừa kế thừa truyền thống, vừa
cách tân truyền thống. Để hình thành tư tưởng
đó, khơng thể một mình Hồ Q Ly, song cần
khẳng định vai trị khởi xướng của ơng là quan
trọng. Cốt lõi văn hóa trong tư tưởng chính trị
của ơng, như trên đã phân tích là tinh thần
dân tộc. Cốt lõi ấy cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
quan niệm của ơng trong q trình xây dựng
nền văn hóa nước Đại Ngu: ơng muốn tạo nên
những nét riêng văn hóa cho triều đại mình.
Thành Tây Đơ và đàn tế Nam Giao Tây Đô, xét
trên phương diện tư tưởng văn hóa, quả đã
thể hiện được bản lĩnh Hồ Quý Ly.
4. Đánh giá chung về Hồ Quý Ly
Những tư tưởng và cải cách của Hồ Quý Ly
có tầm ảnh hưởng lớn, đã vượt qua biên giới
thời đại lúc bấy giờ. Các triều đại sau này, trên
cơ sở tư tưởng và những cách tân của ơng, đã ít
nhiều học tập, áp dụng vào thực tiễn lịch sử và
đã thu được những thành công đáng kể. Nhà
Lê (sau cuộc kháng chiến chống quân Minh
thắng lợi), từ những tiền đề cải cách của nhà
Hồ, đã xây dựng được một chính thể quân chủ
A
ĂN HÓ
VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
tập quyền trọng Nho, tạo nên một giai đoạn
phồn thịnh mới của Đại Việt ở khu vực Đông Á
và Đông Nam Á.
Nguyễn Trãi, danh nhân văn hoá thế giới,
người đã từng đỗ Thái học sinh tại kinh thành
Tây Đơ khoa Nhâm Thìn (1400), sau mười năm
cùng Lê Lợi nếm mật, nằm gai, đã đánh bại nhà
Minh. Trong niềm tin chiến thắng ấy, một lần
đi qua cửa biển Thần Phù (Nga Sơn), ông nhớ
đến bậc tiền nhân và đã có những vần thơ ca
ngợi Hồ Quý Ly dưới góc độ là một anh hùng:
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Văn Chấy - Trịnh Thị Hạnh (2014), Hồ
Quý Ly - Hoàng đế cách tân, Nxb. Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
2. Phạm Cúc (1992), Hồ Quý Ly - nhà cải cách
giáo dục tiến bộ, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5
– 1992, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử
học, Hà Nội.
3. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Hồ Quý Ly (tiểu
thuyết lịch sử), Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
4. Ngô Sỹ Liên và các sử gia, Đại Việt sử ký Tồn
Họa phúc hữu mơi phi nhất nhật
thư, Nxb. KHXH, Hà Nội 1973.
Anh hùng di hận kỷ thiên niên”.
5. Lâm Bá Nam (1992), Hồ Quý Ly và ý thức dân
(Chuyện họa phúc có thời có vận
Anh hùng để hận mãi ngàn năm).
Khát vọng lớn nhất của Hồ Quý Ly là canh
tân để đất nước cường thịnh và có sức mạnh
chống quân xâm lược. Tiếc thay khát vọng của
ông đã không thành hiện thực. Điều đó được
sử gia phong kiến cũng như giới sử học hiện
đại đã và đang phân tích, đánh giá. Không
phải ngẫu nhiên mà tên tuổi Hồ Quý Ly được
ghi vào Bách khoa từ điển của nước ngoài như
một nhà cải cách văn hóa lớn.
Tóm lại, Hồ Quý Ly trong thời gian trị vì,
ơng đã để lại cho hậu thế nhiều dấu ấn văn
hóa có giá trị. Dẫu lịch sử dân tộc vẫn cịn
đang bàn luận và có nhiều ý kiến trái chiều về
triều đại này nhưng xét một cách cơng bằng
thì trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của mình,
nhà Hồ đã để lại nhiều thành tựu và bài học
quan trọng cho các triều đại và thế hệ lãnh đạo
sau. Từ góc nhìn văn hóa, có thể khẳng định,
triều đại nhà Hồ đã để lại những thành tựu
huy hồng. Những thành tựu này ít nhiều đều
liên quan tới tên tuổi Hồ Quý Ly, người xứng
đáng được xem như một anh hùng canh tân
văn hóa. Và khi nào thành Nhà Hồ - di sản văn
hóa thế giới của Việt Nam - cịn được biết đến
thì khi đó, người ta không thể không nhớ tới
nhân vật Hồ Quý Ly.
tộc, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 – 1992, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học xuất bản,
Hà Nội.
6. Văn Sơn, Nguyễn Duy Sĩ (1992), Hồ Quý Ly và
canh tân đất nước, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số
5 – 1992, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử
học xuất bản, Hà Nội.
7. Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ
(2011), Thành Nhà Hồ - Di sản thế giới, tập 1: Giá trị
nổi bật toàn cầu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ
(2011), Thành Nhà Hồ Thanh Hóa (Hồ Citadel),
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
9. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1971),
Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb KHXH, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 20 - 9 - 2016
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 3 - 2017
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017
H.K.N
(PGS. TS., Khoa Ngơn ngữ và Văn hóa Quốc tế,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội)
A
ĂN HĨ
VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
A
ĂN HÓ