Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.39 KB, 15 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN I : MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài: Đảng ta đã nhận định “Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân”, nền tảng có vững chắc thì toàn hệ thống mới tạo nên cấu trúc bền vững và phát triển hài hòa Mục tiêu của giáo dục tiểu học nhằm hình thành cho học sinh cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về trí tuệ, thể chất tình cảm và các kĩ năng cơ bản. Giáo dục tiểu học tạo tiền đề cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ trở thành người có ích trong giai đoạn mới. Ở tiểu học, chính tả là một phân môn đặc biệt quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu của môn học “Tiếng Việt” là rèn luyện kĩ năng viết chính tả và kĩ năng nghe cho học sinh. kết hợp rèn luyện một số kĩ năng sử dụng tiếng Việt và phát triển tư duy cho học sinh. Mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống, con người, góp phần hình thành nhân cách con người mới. Phát triển tiếng mẹ đẻ cho học sinh trong đó có năng lực chữ viết. Dạy tốt chính tả cho học sinh tiểu học là góp phần rèn luyện một trong bốn kĩ năng cơ bản mà các em cần đạt tới. Đó là kĩ năng viết đúng, muốn viết đúng được câu văn, đoạn văn thì trước hết học sinh cần viết đúng đơn vị từ . Việc rèn luyện các quy tắc chính tả sẽ hình thành kĩ năng viết đúng đơn vị từ của học sinh, khi các em đã viết đúng, viết chính xác thì mới có điều kiện học tốt các môn học khác và trên cơ sở đó, các em rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng việt có hiệu quả. Trong suy nghĩ và giao tiếp đặc biệt là giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, người xưa thường nói “Nét chữ nết người - Văn hay chữ tốt”. Quả thật khi viết chữ đã không tốt thì văn không thể hay được . Do vậy, việc nghiên cứu phương pháp để dạy tốt môn chính tả là một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm góp phần vào việc thực hiện mục tiêu môn tiếng Việt ở trường tiểu học . Chính tả được hiểu là hệ thống quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ. Nói cách khác, Chính tả là những chuẩn mực của một ngôn ngữ được thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Mục đích của nó là làm phương.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> tiện cho việc giao tiếp bằng ngôn ngữ, đảm bảo cho người viết và người đọc thống nhất những điều đã viết. Trong thực tế hiện nay, thói quen và kĩ năng viết đúng Chính tả của học sinh tiểu học chưa tốt. Đặc biệt là đối tượng học sinh tiểu học ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa do điều kiện học tập ở nhà trường còn hạn chế. Các em ít được rèn luyện về ngôn ngữ qua các phương tiện sách báo . Một trong những nguyên nhân đưa đến thực trạng học sinh sai chính tả hiện nay là do các em đọc như thế nào viết như thế ấy. Các em chưa nắm vững quy tắc ngữ âm của chữ quốc ngữ và ít được biết đến một số mẹo luật chính tả cơ bản. Riêng với giáo viên việc dạy chính tả chỉ dừng lại ở mức độ truyền đạt hết nội dung của sách giáo khoa qua bài viết nhưng chưa chú ý đến đặc điểm ngôn ngữ vùng miền đang ở. Hơn nữa việc nắm các lỗi chính tả cần dạy cho học sinh chưa được giáo viên quan tâm đúng mức đã dẫn đến hạn chế kết quả giảng dạy của phân môn chính tả hiện nay. Từ thực tế, qua hai năm theo đi trong khối và trực tiếp đứng lớp giảng dạy tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả ở lớp 3 trường Tiểu học Bảo Nam 2”. Nhằm nâng cao chất lượng dạy học Chính tả ở trường Tiểu học. 2. Mục đích nghiên cứu : 2.1. Điều tra lỗi chính tả cơ bản thường hay mắc phải của học sinh; nguyên nhân của các lỗi đó để tìm ra biện pháp khắc phục. 2.2. Vận dụng các nguyên tắc dạy trong phân môn Chính tả hình thành kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh tiểu học. 2.3. Soạn giáo án theo hướng đổi mới, phương pháp và nội dung bài dạy cho sát thực với việc rèn chính tả cho học sinh địa phương. 3.Khách thể và đối tượng nghiên cứu: 3.1. Khách thể :.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Lỗi chính tả học sinh thường mắc ở trường Tiểu học Bảo Nam 2. 3.2. Đối tượng Việc dạy và học chính tả của học sinh khối lớp 3 trường Tiểu học Bảo Nam 2. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu : Nhiệm vụ của người giáo viên ngoài việc nâng cao chất lượng toàn diện mà còn phải quan tâm đến chữ viết của học sinh.Chữ viết có đẹp , đúng chính tả thì mới hấp dẫn được người đọc. Chữ viết có đúng thì người đọc mới dễ dàng hiểu rõ nội dung của bài văn mà mình muốn diễn đạt. Do đó dạy môn chính tả trong trường Tiểu học là rất quan trọng mà giáo viên cần phải quan tâm. 5. Phương pháp nghiên cứu: Qua nhiều năm dạy lớp 3 tôi nhận thấy được những mặt tồn tại của học sinh khi viết chính tả là: chữ viết không cẩn thận, sai rất nhiều lỗi chính tả, những chữ rất đơn giản và gặp thường xuyên mà có em vẫn viết sai các tiếng có âm đầu tr/ch; s/x;d/gi; ng/ngh;g/gh và các dấu thanh. Sở dĩ các em thướng viết sai là do không nắm vững quy tắc viết chính tả hoặc do ảnh hưởng cách phát âm của địa phương. Vậy muốn học sinh viết đúng chính tả, trước tiên giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu nghĩa các từ khó, phân tích kĩ những từ học sinh thường viết sai trên lớp, có như thế thì mới khắc phục lỗi chính tả cho các em . Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đề ra, tôi xây dựng nhóm phương pháp như sau: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: + Nghiên cứu tài liệu và các văn bản chỉ đạo của các cấp có liên quan đến đề tài. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phương pháp điều tra. + Phương pháp quan sát. + Phương pháp trò chuyện..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> + Phương pháp thu thập thông tin. - Nhóm phương pháp hỗ trợ. +Thống kê 6. Giả thuyết khoa học: Nếu việc tìm hiểu nguyên nhân về các lỗi chính tả của học sinh thường mắc phải được chú trọng thì việc vận dụng các nguyên tắc, biện pháp, phương pháp dạy học về phân môn chính tả sẽ thuận lợi và giúp cho học sinh khắc phục được các lỗi thường mắc, giúp giáo viên đạt kết quả cao trong quá trình rèn luyện kĩ năng viết đúng cho học sinh tiểu học. PHẦN II: NỘI DUNG Chương I : Cơ sở lí luận. 1. Cơ sở tâm lí học: Dạy chính tả là rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết thành thạo chữ tiếng Việt theo các chuẩn chính tả và làm bài tập, qua đó rèn các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, cung cấp cho học sinh vốn từ, vốn hiểu biết về các mảng khác nhau của đời sống. Có thể dạy Chính tả theo hai cách: có ý thức và không có ý thức + Cách không có ý thức: (phương pháp máy móc, cơ giới) Dạy chính tả không cần biết đến sự tồn tại của các quy tắc chính tả, dựa trên sự lặp lại không cần biết lí do, quy luật của hành dộng. Phương pháp này củng cố trí nhớ một cách máy móc, không thúc đẩy sự phát triển của tư duy. + Cách có ý thức: (phương pháp dạy học có tính tự giác). Bắt đầu từ việc nhận thức quy tắc, mẹo luật chính tả. Trên cơ sở đó tiến hành luyện tập và từng bước đạt tới các kĩ xảo chính tả. Việc hình thành các kĩ xảo chính tả bằng con đường có ý thức sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức. Đó là con đường ngắn nhất và có hiệu quả cao. 2. Cơ sở thực tiễn.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Số bài, thời lượng học: Mỗi tuần có 2 bài chính tả, mỗi bài học trong 1 tiết. Cả năm học sinh được học 62 tiết chính tả. Chương trình của phân môn chính tả ở khối lớp 3 gồm các dạng sau: * Chính tả đoạn, bài: Học sinh nhìn – viết (tập chép) hoặc nghe – viết một đoạn hay một bài có độ dài trên dưới 60 chữ (tiếng). Phần lớn các bài chính tả này được trích từ bài tập đọc vừa học trước đó hoặc là nội dung tóm tắt của bài tập đọc. * Chính tả âm, vần : Nội dung cụ thể của chính tả âm, vần là luyện viết các tiếng có âm vần dễ viết sai chính tả do không nắm vững quy tắc của chữ quốc ngữ (c /k, g/gh, ng/ngh, ia/ya, i/y,…) Hoặc do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương (tr/ch, s/x, r/d/gi, an/ang, ac/ at, tất cả các dấu thanh ) Các bài tập luyện viết những tiếng dễ viết sai do cách phát âm địa phương bao giờ cũng là loại bài tập lựa chọn, dành cho một vùng phương ngữ nhất định. Giáo viên sẽ căn cứ vào đặc điểm phát âm và thực tế viết chính tả của mỗi lớp hoặc mỗi học sinh mà chọn bài tập thích hợp cho các em. Nhìn chung phần lớn các bài viết đều có số lượng chữ viết tương đối phù hợp với học sinh lớp 3. Sau mỗi bài viết đều có phần luyện tập để rèn luyện, củng cố cho học sinh viết đúng chính tả. Khi nghiên cứu sách giáo viên, tôi thấy có gợi ý gồm một số từ viết đúng được sách giáo khoa đưa ra, giáo viên nên chọn thêm các từ khác cho phù hợp với phương ngữ, hoặc trong các bài tập phân biệt có thể chọn hình thức phân biệt cho phù hợp với ngôn ngữ từng vùng miền. Chương II : Nội dung nghiên cứu 1. Thực trạng của việc dạy và học : Kết quả khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt đầu năm của lớp 3A là:.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> GIỎI. KHÁ. TB. YẾU. Sĩ số Tổng 8. 0. Tỉ lệ. Tổng 0. Tỉ lệ. Tổng. Tỉ lệ. Tổng. Tỉ lệ. 3. 37,5. 5. 62,5. 1.1. Dạy chính tả của giáo viên Qua các tiết dự giờ tham khảo, hầu hết các tiết dạy chính tả chưa được giáo viên đầu tư cao mà chủ yếu dựa vào sách giáo khoa và sách giáo viên là chính. Một số giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm phương ngữ vùng miền đang ở, không xác định rõ các lỗi chính tả cơ bản của học sinh trong lớp nên việc rèn chính tả không đi vào trọng điểm, giáo viên ít củng cố và khắc sâu cho học sinh nắm các quy tắc, mẹo luật chính tả qua bài viết hoặc qua bài tập. Hơn nữa việc phát âm của giáo viên chưa được chuẩn dẫn đến hạn chế về học và viết chính tả của học sinh. Bên cạnh đó còn tồn tại một thực trạng phổ biến hiện nay là: Nhiều giáo viên chưa nghiên cứu kĩ về chính tả cho bản thân mình và cho học sinh trong giờ dạy các môn học khác. Hầu hết giáo viên chỉ phát âm đúng trong giờ tập đọc, chính tả còn các môn khác phát âm theo kiểu bình thường của người địa phương.Ta vẫn biết rằng việc phát âm không đúng chuẩn cũng ảnh hưởng rất lớn đến chính tả. Ví dụ: Phát âm“con tầm”mà thực chất là “con tằm”. Phát âm “mái tốc’’mà thực chất là “mái tóc”. Phát âm “mầu sắc’’mà thực chất là “ màu sắc ’’. Chính vì thế, nếu ta không hiểu nghĩa từ thì khó mà viết đúng. Việc phát âm chưa chuẩn ấy luôn diễn ra trước học sinh trong lớp, trong trường và ngoài xã hội. 1.2. Học chính tả của học sinh ..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Mấy năm gần đây các trường tiểu học trong huyện nói chung và trường trường Tiểu học Bảo Nam 2 nói riêng, phong trào chữ viết đã được chú trọng và ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, qua khảo sát bài viết của học sinh khối lớp 3 còn hạn chế. Nhiều em chưa nắm vững các quy tắc, mẹo luật chính tả, có em phát âm sai dẫn đến bài viết sai nhiều lỗi chính tả. Mặt khác một số em do thiếu cẩn thận nên để thừa hoặc thiếu một số nét, thiếu dấu dẫn đến sai lỗi chính tả (chủ yếu thiếu dấu thanh do học sinh dân tộc phát âm không chuẩn đặc biệt là dân tộc Khơ Mú). 1.3. Lỗi chính tả của học sinh ở trường Qua dự giờ một số tiết chính tả ở khối lớp 3 của trường, sau khi khảo sát một số bài chính tả ở các lớp, tôi thống kê được một số lỗi của học sinh mắc phải như sau:. PHỤ ÂM ĐẦU. VẦN. THANH. SL. TL(%). SL. TL(%). 6. 75. 5. 62,5. SL. 8. TL(%) 100. + Về lỗi âm đầu: HS thường viết sai các cặp phụ âm : l/n, tr/ch, s/x, r/d/gi, ng/ngh, g/gh. Trong đó lỗi chính tả tập trung ở r/d/gi, ch/tr , s/x và các dấu thanh. (100%) + Về lỗi phần vần: HS vẫn còn lẫn lộn các cặp vần : ui/ uơi , in/inh, ăn/anh, ưu/ươu, iêu/iu (chiếm 80%) hoặc viết sai ở các vần khó như : uya, uyn, uyt, ươt (chiếm 50%) + Về lỗi dấu thanh: Chủ yếu là sai do đọc thiếu dấu thanh nên khi viết hầu hết viết sai theo đọc. 2. Nguyên nhân học sinh mắc lỗi chính tả.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> - Qua nghiên cứu phân tích, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc viết sai lỗi chính tả của học sinh là do phát âm sai dấu thanh. Ví dụ : suy nghĩ / suy nghỉ nghĩ ngợi / nghỉ ngơi cũ kĩ / cu ki + Do đặc điểm phương ngữ của học sinh còn phát âm sai các tiếng có phụ âm đầu tr/ch, s/x, d/r/gi, nên dẫn đến việc phát âm sai các tiếng có phụ âm này: Ví dụ : giải phóng / dải phóng; rì rào/dì dào xúc động / súc động truyền thống / chuyền thống Theo thống kê số âm tiết sai về vần cũng chiếm tỉ lệ đáng kể. Nguyên nhân của hiện tượng này là do HS chưa nắm vững cấu tạo nên còn viết lẫn lộn - Ở một số cặp vần khó phân biệt hay do phát âm sai (không chuẩn) dẫn đến viết sai: Ví dụ : ươu / ưu ; con hươu / con hưu ưu / iu : nghỉ hưu / nghỉ hiu ươi / ui : quả chuối / quả chúi - Với các cặp vần có âm ă, â học sinh thường hay nhầm lẫn như sau: Ví dụ: bà cháu / bà chấu gặp gỡ / gập gỡ thứ sáu / thứ sấu Vậy nguyên nhân chính dẫn đến mắc lỗi chính tả của học sinh là : - Thứ nhất, do ảnh hưởng của cách phát âm tiếng địa phương - Thứ hai, do chưa hiểu biết đầy đủ về các quy tắc chính tả và nội dung ngữ nghĩa của các từ. 3. Biện pháp giải quyết: *Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 3: - Muốn học sinh viết đúng chính tả giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho bản thân mình để từ đó luyện cho học sinh phát âm đúng và chính xác như với những tiếng có thanh ngã thì ta phải đọc nặng giọng và hơi ngân dài hơn so với những tiếng có thanh hỏi. Những tiếng có âm cờ thì ta phải đọc nặng giọng hơn so với những tiếng có chứa âm tờ. hoặc những tiếng có chứa âm cuối là.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> âm ngờ thì khi đọc ta phải ngân dài hơn so với những tiếng có chứa âm cuối là âm nờ… - Là giáo viên dạy lớp phải bổ sung, điều chỉnh mục đích của môn chính tả sao cho phù hợp với lớp mình phụ trách, cũng như trong việc lựa chọn để cho học sinh làm bài tập chính tả. Vì bài tập chính tả có phân định rõ: một là phần bài tập bắt buộc; hai là bài tập lựa chọn dành cho các vùng có phương ngữ khác nhau. Nên nhắc nhở phân tích các từ ngữ mà học sinh viết sai và thường gặp trong các môn học khác để các em hiểu nghĩa từ và luôn viết đúng. - Rèn học sinh viết đúng chính tả là rất quan trọng và cần thiết. Nên ngay từ đầu năm học tôi đã điều tra và cập nhật các thông tin về học sinh thông qua giáo viên chủ nhiệm năm trước, phụ huynh học sinh và bạn đồng nghiệp. + Sai âm: tr/ch; s/x + Sai vần: an/ang; uôn/ uông; iêc/ iêt + Sai về luật chính tả: g/gh; ng / ngh * Dựa vào điều tra, cập nhật và phân loại học sinh. Tôi đưa ra một số biện pháp thực hiện như sau: - Đọc mẫu - Hướng dẫn cách viết: Việc đọc đúng, rõ ràng rành mạch, mạch lạc, đọc hay, đọc chuẩn của giáo viên là quan trọng nhất. Không những đọc đúng mà còn phải viết đúng, đẹp, đúng quy cách chữ hiện hành do Bộ Giáo dục quy định. Trình bày khoa học trong dạy học (nhất là ghi trên bảng lớp vì chữ viết chính là dụng cụ trực quan hữu hiệu mà các em có thể dựa vào đó để bắt chước, rèn luyện). Như chúng ta đã biết muốn viết đúng thì phải đọc đúng. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh viết chính tả phải hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ nhất là khi phân tích từ khó, tiếng khó. Giáo viên vừa cho học sinh viết vừa đánh vần kết hợp với đọc để khi các em viết đỡ bị sai. Hướng dẫn viết chữ đầu câu ta phải viết như thế nào? (Viết hoa chữ cái đầu tiếng). Danh từ riêng phải viết như thế nào? (Viết hoa). Tùy từng bài cụ thể mà giáo viên hướng dẫn học sinh viết hoa danh từ riêng cho đúng với quy tắc. - Sau dấu câu phải viết như thế nào? (Viết hoa chữ cái đầu câu)..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Đối với bài văn ta viết và trình bày như thế nào? (Viết thụt vào một ô li chữ đầu bài và sau khi hết một đoạn so với lề vở). - Đối với bài thơ ta viết và trình bày như thế nào? Bài thơ có 4,5 tiếng thì các chữ đầu dòng thơ phải viết hoa chữ cái đầu của tiếng và viết bằng nhau (các chữ đầu dòng thơ phải viết thẳng hàng). - Bài thơ lục bát phải trình bày theo thể thơ: Dòng 6 tiếng viết thụt lùi vào 2 ô li so với lề vở. Dòng thơ 8 tiếng dịch ra 1 ô li so với lề vở và cứ như thế cho đến hết bài thơ. Các chữ đầu dòng thơ đều phải viết hoa. - Thông qua phân môn Tập đọc và các môn học khác… Hoặc giờ ra chơi hằng ngày tôi gọi một vài em hay mắc lỗi để tìm hiểu nguyên nhân mà các em sai về từ, chữ, âm, vần thường mắc phải. Cùng trò chuyện trao đổi giúp các em đọc đúng luyện thanh từ đó sẽ nhớ lâu hơn. Rồi dần dần đọc đúng, đến viết đúng. Với cách luyện đọc đúng thường xuyên dần dần các em sẽ khắc sâu hơn và hình thành viết đúng chính tả. Như câu nói “Mưa dầm thấm đất” - Phân tích từ khó: Khi viết chính tả bài: “Bàn tay cô giáo’’ đến phần phân tích từ khó giáo viên phải phân tích cách hiểu nghĩa từ “Bàn tay’’ để khi viết học sinh viết đúng không lẫn lộn với từ “tai’’. Giáo viên phân tích: bàn tay, ngón tay luôn viết y (dài) nói chung “cái tay” dùng để cầm, nắm một vật gì đó thì luôn viết y (dài) mới đúng. Còn cái “tai” để nghe có nghĩa là lỗ tai thì viết i (ngắn) và chữ “tai” đi với chữ khác tạo thành từ có nghĩa không tốt thì viết i (ngắn) như: tai nạn, tai ương… Với cách giải thích như thế tôi chắc rằng khi viết chính tả ở bất kỳ môn học nào thì học sinh dần dần có thói quen viết đúng chính tả. Ở phần lên lớp trong bước hướng dẫn học sinh viết đúng từ khó, giáo viên nên chú ý giải thích nghĩa của từ và có sự so sánh phân tích kĩ để học sinh hiểu được nghĩa của từ đã học thì học sinh mới viết đúng từ ấy ở mọi lúc mọi nơi. - Giúp học sinh hiểu ý nghĩa của từ : Khi dạy chính tả giúp học sinh hiểu nghĩa của từ là rất quan trọng.Các em hiểu nghĩa từ thì sẽ viết đúng.Thông qua các môn học Tập đọc, luyện từ và câu. Tôi còn giúp các em có vốn từ rất phong phú thông qua các trò chơi học tập như “Bộ sưu tập từ của em”. Ví dụ :.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Dạy bài chính tả nghe viết: Một nhà thông thái Qua bài tập 3a tìm những tiếng bắt đầu bằng r/d/ gi. Tôi cho các em tìm những từ theo nội dung bài tập yêu cầu (theo nhóm).Sau đó cho các em tổng hợp từ vào bảng nhóm theo cột (làm bộ sưu tập từ) của nhóm cho các em trình bày nhóm nào có nhiều từ hơn và giải nghĩa đúng là nhóm thắng cuộc - tuyên dương. Sau khi các bạn trình bày học sinh dưới lớp đặt câu hỏi cho đội bạn giải nghĩa từ. Bạn cho biết thế nào là dỗ dành? - Chấm chữa bài: +Việc chấm chữa bài cho học sinh sau khi viết chính tả, cũng không kém phần quan trọng thường giáo viên thu tất cả vở học sinh để tự mình chấm. Như vậy giáo viên đã bỏ qua bước cho học sinh tự sửa lỗi trên vở của mình hoặc của bạn (học sinh đổi vở cho nhau để bắt lỗi). Bằng cách này giáo viên chỉ có một điểm lợi là giảm bớt thời gian trên tiết dạy. Nhưng có điểm bất lợi rất lớn là học sinh không được tiếp xúc với bài mình vừa viết, không tự phát hiện ra những lỗi viết sai với sự hướng dẫn sữa chửa của giáo viên. Như vậy việc tự bản thân học sinh sửa lỗi chính tả cho mình hoặc sửa lỗi cho bạn sẽ giúp học sinh khắc sâu và nhớ lâu hơn những lỗi chính tả mà mình mắc phải. +Bản thân giáo viên luôn luôn phát âm chuẩn ở mọi lúc, mọi nơi, trong lớp, trong trường tạo thành một thói quen để cho học sinh có ý thức viết đúng chính tả. Ngoài việc phát âm chuẩn tôi còn kết hợp giải nghĩa từ giúp học sinh hiểu nghĩa từ và phân biệt nghĩa từ của các chữ cần viết. Ví dụ: Cháu (cháu nội, cháu ngoại) cháu có nghĩa là người thuộc thế hệ sau không phải là con. Cháo (cháo gà, cháo lòng) cháo có nghĩa là thức ăn lỏng. + Đối với học sinh thường viết sai thanh hỏi, thanh ngã tôi thường hướng dẫn các em phân biệt cách phát âm hai dấu thanh này. Ngoài ra tôi còn cho học sinh học thuộc luật chính tả với thanh hỏi, thanh ngã là: ngang-sắc-hỏi (có nghĩa là tiếng không có dấu thanh hoặc có thanh sắc thì thường đi với tiếng có thanh hỏi) huyền-ngã -nặng (có nghĩa là tiếng có thanh huyền hoặc thanh nặng thường đi chung với tiếng có thanh ngã). Nhưng luật trên chỉ tương đối thôi chứ không tuyệt đối..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> Ví dụ: Vất vả, chăm chỉ, sư tử, số lẻ. Buồn bã, giã gạo, gìn giữ, giữa đường. Hoặc để viết đúng thanh ngã tôi cho học sinh học thuộc 13 chữ thường gặp đó là: cũng, chỗ, đã, giữ (gìn), giữa (đường), lẽ (phải), mãi mãi, mỗi, (một), nỗi (niềm),học (nữa), những, sẽ (làm), vẫn (còn). Hoặc để viết đúng dấu hỏi tôi cho thuộc 13 chữ sau: hất hủi, đắt đỏ, tất cả, lẻ lôi, lơ lửng, trẻ trung, niềm nở, bền bỉ, vỏn vẹn, câu hỏi, sửa bài tập, ở lớp, kiểm tra. Sau đó tôi cho học sinh làm bài tập điền thanh hỏi, thanh ngã các từ sau đây: Câu hỏi thì điền dấu gì? (dấu hỏi) Giữa đường thì điền dấu gì? (dấu ngã) + Viết đúng chính tả không chỉ là cách viết đúng tiếng từ mà gồm cả cách viết hoa, cách dùng dấu câu.Vì thế tôi luôn nhắc nhở học sinh không viết hoa tuỳ tiện và kết hợp với giảng dạy phân môn luyện từ và câu để hướng dẫn học sinh cách sử dụng dấu câu. + Điều quan trọng nhất là lúc nào giáo viên cũng trang bị cho học sinh, nhắc nhở học sinh viết đúng chính tả ở tất cả các phân môn khác và chú ý chữa lỗi chính tả cho học sinh mặc dù đang học phân môn khác và rèn luyện chữ viết cho học sinh. + Giáo viên phải hoà mình gần gũi với học sinh khuyến khích động viên các em học tập, khen thưởng kịp thời, phê bình đúng lúc. + Tổ chức trò chơi cho các em hứng thú học tập. + Tạo cho học sinh niềm vui, niềm tin trong học tập. Các em cảm nhận nhà trường là mái ấm là nguồn vui không thể thiếu.Các em ngày càng yêu trường mến lớp và ham thích học tập hơn. Chương III : Kết quả nghiên cứu 1.Kết quả đạt được : Với những biện pháp trên cộng với lòng tận tụy của bản thân và sự nỗ lực học tập của thọc sinh lớp tôi chủ nhiệm ngày càng tiến bộ đạt kết quả khả quan hơn ..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng tại lớp và trong khối. Kết quả đạt được tăng lên rõ rệt cụ thể như sau: Học lực môn Tiếng Việt : Lớp 3A (Kết quả kiểm tra định kì lần 3) GIỎI. KHÁ. TB. YẾU. Sĩ số. 8. Tổng. Tỉ lệ. Tổng. Tỉ lệ. Tổng. Tỉ lệ. Tổng. Tỉ lệ. 1. 12,5%. 2. 25%. 4. 50%. 1. 12,5. Thực tế lúc ban đầu học sinh ở lớp 3A có trình gần tương đương nhau. Nhưng sau một thời gian thực nghiệm được tiến hành, với nội dung bài dạy sát với trọng điểm chính tả của lớp. Kết hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học đã thu được kết quả như bảng thống kê trên. Điều này chứng tỏ khi dạy chính tả cần nắm vững trọng điểm chính tả của lớp và đặc điểm phương ngữ nơi mình dạy để giúp học sinh rèn luyện , khắc phục sửa lỗi chính tả. Việc cung cấp các mẹo luật chính tả cho học sinh lớp 3 là cần thiết giúp các em viết đúng chính tả. Đối với giáo viên, cần nắm vững phương pháp giảng dạy của bộ môn để phối hợp vận dụng vào thực tế lớp mình đang dạy nhằm góp phần nâng cao chất lượng phân môn chính tả nói riêng và môn Tiếng Việt ở tiểu học nói chung Khi bài chính tả viết đúng, trình bày đẹp cũng như các môn học khác cũng tăng lên rõ rệt. Đặc biệt trong các lần kiểm tra sau thì điểm khá đã tăng lên nhiều. Khi chữ viết tiến bộ thì các em sẽ cẩn thận hơn, đua nhau chăm học hơn và ham học nhiều hơn. Chữ viết tiến bộ thì chất lượng đạo đức cũng tăng lên. Đây là một trong những thành công lớn của quá trình vận dụng nghiên cứu trên. PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1.Bài học kinh nghiệm:.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Từ thực tiễn việc rèn “Chính tả” trong phân môn Chính tả ở tiểu học nói chung, ở lớp tôi phụ trách năm học 2012 - 2013 nói riêng. Tôi rút ra một số bài học sau: - Để dạy tốt phân môn chính tả, rèn chữ viết cho học sinh giáo viên cần phải nắm vững chương trình của lớp mình dạy. - Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp về phương pháp dạy môn chính tả nhằm giúp học sinh nhận thức được viết đúng, viết đẹp là rất quan trọng. Ông bà xưa thường nói: “Nét chữ nết người”. - Tìm hiểu đặc điểm tính cách của từng em. - Rèn cho học sinh ngồi đúng tư thế. - Rèn cho học sinh có ý thức chuẩn bị bài ở nhà. - Tập cho học sinh có thói quen ghi chép những điều cần lưu ý vào sổ tay. - Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. - Tạo không khí sôi nổi trong giờ học phát huy tính tích cực của học sinh. 2.Kết luận: Thực tế hiện nay, học sinh chúng ta kể cả học sinh Trung học trong quá trình tạo lập văn bản còn viết sai nhiều lỗi chính tả. Vì vậy người giáo viên cần thấy được vai trò và vị trí quan trọng của phân môn Chính tả. Cần sử dụng quỹ thời gian dành cho môn Chính tả một cách triệt để và có hiệu quả Tiến hành soạn giảng có đổi mới nội dung và lựa chọn phương pháp sát hợp với trọng điểm chính tả của lớp và bổ sung thêm các dạng bài tập nhằm nâng cao hiệu quả dạy phân môn chính tả. Vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy của phân môn. Chú trọng phương pháp dạy học có ý thức sẽ rèn cho các em kĩ xảo viết đúng tạo tiền đề cho HS học tốt các môn học khác và đặc biệt là trong giao tiếp bằng văn bản được chính xác hơn. Giáo viên tiểu học cần trang bị cho bản thân các kiến thức về ngôn ngữ học, ngữ âm học, ngữ nghĩa học, chuẩn chính tả, các mẹo luật, các ngoại lệ của.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> việc viết chính tả. Ngoài ra giáo viên còn phải là người nắm vững cơ sở tâm lí học trong giảng dạy chính tả. Đề tài này được thực hiện ở địa bàn nông thôn vùng sâu vừng xa nhưng đã thu được kết quả khả quan. Vì vậy việc xác định trọng điểm chính tả theo ngôn ngữ vùng để xây dựng bài giảng là việc cần thiết cần được vận dụng và nhân rộng ở một số nơi khác. 3. Kiến nghị: - Các cấp quản lí, chuyên môn tạo mọi điều kiện, khuyến khích giáo viên chủ động trong việc khai thác nội dung, sáng tạo và xây dựng các kiểu bài tập phù hợp để giúp học sinh khắc phục lỗi chính tả. - Cung cấp các tài liệu về Nghiên cứu Tiếng Việt, từ điển Tiếng Việt. - Tổ chức các chuyên đề về giảng dạy phân môn Chính tả. - Cung cấp kịp thời các phương tiện dạy học phục vụ cho môn học. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện do những yếu tố khách quan và khả năng lí luận có hạn, thời gian lại eo hẹp. Bởi vậy đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học các cấp để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn ! Bảo Nam, ngày 15 tháng 4 năm 2013 Người viết:. Vy Thị Thương.
<span class='text_page_counter'>(16)</span>