Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thực trạng về đội ngũ giáo viên và công tác bồi dưỡng giáo viên tiếng Trung Quốc hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.47 KB, 7 trang )

Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

THỰC TRẠNG VỀ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN VÀ CÔNG TÁC
BỒI DƢỠNG GIÁO VIÊN TIẾNG TRUNG QUỐC HIỆN NAY
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Trần Khai Xuân, 2Nguyễn Thị Quỳnh Vân,3Vƣơng Huệ Nghi

1

1,2,3

Trƣờng Đại học Sƣ phạm thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt
Bài viết đề cập đến thực trạng đội ngữ giáo viên và công tác bồi dƣỡng giáo viên tiếng
Trung Quốc hiện nay ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Nhóm nghiên cứu tiến hành
phỏng vấn 2 chuyên viên phụ trách tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) và 30 giáo viên giảng
dạy tiếng Trung Quốc tại 15 trƣờng tiểu học và 5 trƣờng trung học cơ sở trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, số lƣợng giáo viên tiếng Trung
Quốc hiện nay chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu học tập tiếng Trung Quốc của học sinh từ cấp
Tiểu học đến Trung học phổ thông. Chính vì vậy, thơng qua nghiên cứu, nhóm nghiên
cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng bồi dƣỡng đội ngũ giáo viên
tiếng Trung Quốc đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội
Từ khoá
thực trạng, đội ngữ, bồi dƣỡng giáo viên, tiếng Trung Quốc

1. Mở đầu
Mặc dù tiếng Trung Quốc (còn gọi là tiếng Hoa, tiếng Hán) đã đƣợc đƣa vào giảng dạy tại các
trƣờng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hơn 10 năm qua nhƣng đến nay, mơn học này vẫn
chƣa có giáo trình thống nhất giữa các bậc học, đội ngũ giáo viên còn thiếu, phƣơng pháp


giảng dạy chủ yếu tập trung hai kỹ năng đọc và viết, khiến học sinh gặp khó khăn trong giao
tiếp… Trƣớc hết, cần phân biệt rõ, tiếng Trung Quốc: đƣợc xem nhƣ là ngoại ngữ 2, trong khi
tiếng Hoa: đƣợc xem nhƣ là tiếng dân tộc. Và hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh, ở bậc tiểu
học và trung học cơ sở chƣơng trình giảng dạy thuộc chƣơng trình tiếng Hoa tăng cƣờng,
riêng ở bậc trung học phổ thơng chƣơng trình giảng dạy thuộc chƣơng trình ngoại ngữ 2 tiếng
Trung Quốc. Vì vậy trong bài viết này chúng tôi sẽ dùng song song hai khái niệm tiếng Hoa
và tiếng Trung Quốc tuỳ theo cấp học mà chúng tôi đề cập đến trong bài.
Năm 2015, tại hội thảo ―Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp đổi mới dạy và học
tiếng Trung trong các cơ sở giáo dục vào đào tạo Việt Nam‖ do trƣờng Đại học Sƣ phạm
thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát số lƣợng trƣờng có dạy
tiếng Hoa trên tồn thành phố là 22 trƣờng tiểu học và 8 trƣờng trung học cơ sở, 1 trƣờng
THPT mở lớp dạy tiếng Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong khi giáo trình sử dụng ở tiểu học do Sở Giáo dục – Đào tạo thành phố
Hồ Chí Minh biên soạn thì lên bậc trung học cơ sở lại sử dụng bộ giáo trình do Bộ Giáo dục –
Đào tạo biên soạn. Riêng ở lớp chuyên tiếng Trung Quốc của trƣờng trung học phổ thơng Lê
Hồng Phong, do khơng có nguồn tuyển sinh từ trung học cơ sở nên trong 3 năm học trung học
phổ thơng, học sinh phải hồn thành chƣơng trình tiếng Trung Quốc 6 năm (từ lớp 6 đến lớp
12) do Bộ Giáo dục - Đào tạo biên soạn. Đối với hệ cao đẳng, đại học, cả nƣớc hiện có hơn 30

599


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

trƣờng tuyển sinh ngành tiếng Trung Quốc, song nội dung chƣơng trình và điều kiện học tập
mỗi nơi mỗi khác.
Theo thạc sĩ Vƣơng Quế Thu, cán bộ Sở Giáo dục – Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh,
cho biết hiện nay giáo viên đang sử dụng bộ sách Hoa ngữ (gồm 10 cuốn) do Nhà xuất bản
Giáo dục phát hành để dạy từ lớp 1 đến lớp 5, chƣa có sách hƣớng dẫn giáo viên và tài liệu

băng, đĩa đi kèm. Các lớp dạy tiếng Hoa ở bậc tiểu học và trung học cơ sở phần lớn có cơ sở
vật chất nhƣ lớp học thơng thƣờng, chƣa có danh mục thiết bị dạy học tối thiểu khiến giáo
viên loay hoay tự mày mò thiết bị dạy học hoặc dùng chung trang thiết bị môn tiếng Anh để
nâng cao chất lƣợng giảng dạy. Bên cạnh đó, hàng loạt ứng dụng cơng nghệ đã có hiện nay
nhƣ phần mềm luyện phát âm chuẩn, sửa âm sai trên điện thoại di động, thiết kế bài giảng
điện tử sử dụng công nghệ… chƣa đƣợc sử dụng phổ biến trong quá trình dạy học khiến
ngƣời học giảm hứng thú, hiệu quả học tập chƣa cao.
Nhƣ vậy, có thể thấy đƣợc, thực trạng giảng dạy tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) cịn mang
tính tự phát, mỗi nơi mỗi kiểu, chƣa có sự thống nhất trong chƣơng trình giảng dạy cũng nhƣ
thống nhất về cơng tác bồi dƣỡng đội ngũ giáo viên đáp ứng nhu cầu dạy và học tiếng Trung
Quốc (tiếng Hoa).
Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên, chúng tôi tiến hành khảo sát 30 giáo viên trong câu
lạc bộ giáo viên tiếng Hoa hiện đang giảng dạy tại các trƣờng tiểu học và trung học cơ sở trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, mục đích tìm hiểu thực trạng cơng tác bồi dƣỡng đội ngũ
giáo viên tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đƣa ra một số giải
pháp trong bài viết này.
2. Có sở lí luận
2.1. Khái niệm bồi dƣỡng giáo viên
Bồi dƣỡng giáo viên là một q trình khơng ngừng phát triển và hồn thiện về mặt tƣ
tƣởng chuyên môn, kiến thức chuyên môn của giáo viên, tức là một quá trình phát triển của
giáo viên từ một ngƣời mới đến một giáo viên chuyên nghiệp. Nội dung của bồi dƣỡng giáo
viên chủ yếu bao gồm bốn điểm: số một, bồi dƣỡng giáo viên trƣớc tiên nhấn mạnh giáo viên
là một cá thể có một tiềm lực vô hạn, và phát triển không ngừng; số hai, bồi dƣỡng giáo viên
yêu cầu xem giáo viên là một nhân viên chuyên nghiệp; số ba, bồi dƣỡng giáo viên yêu cầu
giáo viên trở thành một ngƣời học; số bốn, bồi dƣỡng giáo viên yêu cầu giáo viên phải có tính
tự chủ trong việc tập huấn. Việc tự chủ trong bồi dƣỡng giáo viên xem trọng việc phát triển
tính cách và sở trƣờng của cá nhân giáo viên, phát huy tối đa tiền lực của giáo viên.
2.2. Đặc điểm bồi dƣỡng giáo viên
Đặc điểm của bồi dƣỡng giáo viên chủ yếu bao gồm tính đa dạng, tính tự chủ, tính liên
tục. Thứ nhất, tính đa dạng. Trƣờng đại học vốn là nơi cập nhật và xây dựng kiến thức, giáo

viên có trách nhiệm khơng ngừng đào tạo nhân tài cho xã hội, và cịn đảm nhiệm cơng tác
nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực chun mơn. Tính phức tạp trong cơng tác giáo viên
quyết định tính đa dạng của bồi dƣỡng giáo viên. Thứ hai, tính tự chủ. Do yêu cầu về cải cách
đội ngũ giáo viên trong trƣờng đại học, học lực của giáo viên cao, trƣờng học đƣợc xem là nơi

600


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

bắt nguồn của những kiến thức mới, giáo viên dễ dàng tiếp xúc với những thành tựu mới về
lĩnh vực cơng nghệ và giáo dục, ƣu thế này có lợi cho việc xúc tiến bồi dƣỡng giáo viên. Và
đối tƣợng dạy học của giáo viên là sinh viên có tƣ duy linh hoạt năng động, có năng lực tƣ
duy và ý thức sáng tạo tƣơng đối cao, dễ dàng chấp nhận kiến thức và tƣ tƣởng mới, không
ngừng theo đuổi những kiến thức mới, mở rộng lĩnh vực trí thức, tầm nhìn. Ngồi ra thời đại
xã hội học tập đã khiến mọi ngƣời chú trọng về việc học tập suốt đời, Giáo viên càng là đối
tƣợng thực hiện. Những nhân tố này thúc đẩy giáo viên tự chủ học tập, chủ động tham gia các
phƣơng pháp học tập khác nhau, không ngừng xúc tiến việc bồi dƣỡng giáo viên. Thứ ba, tính
liên tục. Một mặt, bồi dƣỡng giáo viên là một q trình động thái khơng ngừng phát triển. Mặt
khác, bồi dƣỡng giáo viên xuyên suốt quá trình dạy học của giáo viên. Kết cấu của việc bồi
dƣỡng giáo viên là triết lý chuyên môn, kiến thức chuyên môn, năng lực chuyên môn, thái độ
chuyên môn và động cơ, ứng dụng công nghệ mới trong dạy học thuộc về phát triển năng lực
chuyên môn trong bồi dƣỡng giáo viên.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn 30 Thầy/Cô giảng dạy tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) ở
các cấp và 2 chuyên viên phụ trách mảng tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) của Sở giáo dục đào
tạo thành phố Hồ Chí Minh, sau đó tổng hợp phân tích đƣa ra kết quả nghiên cứu. Câu hỏi
phỏng vấn gồm:
1. Số lƣợng các trƣờng có dạy tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) hiện nay tại thành phố Hồ

Chí Minh?
2. Số lƣợng giáo viên dạy tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) ở bậc phổ thông hiện nay là
bao nhiêu Thầy/Cô?
3. Một năm Thầy/Cô tham gia bao nhiêu đợt tập huấn nâng cao nghiệp vụ chuyên môn?
4. Động lực nào giúp Thầy/Cô tham gia lớp tập huấn?
5. Những nội dung tập huấn nào Thầy/Cô cho là cần thiết?
6. Thầy/Cơ muốn nâng cao năng lực gì sau khi tham gia tập huấn?
7. Thầy/Cơ lựa chọn hình thức tập huấn nào trong các hình thức sau: tập huấn trực tiếp,
trực tuyến?
8. Hiện nay Thầy/Cô đang dạy ở bậc học nào?
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Số lƣợng các trƣờng có dạy tiếng Trung tại thành phố Hồ Chí Minh
4.1.1. Tiểu học
Hiện nay chƣơng trình giảng dạy tiếng Hoa ở bậc tiểu học là chƣơng trình tiếng Hoa tăng
cƣờng, tức là dạy tiếng dân tộc cho ngƣời thiểu số, đối tƣợng ngƣời Học chiếm đa số là ngƣời
Hoa. Vì vậy những trƣờng có dạy chƣơng trình này tập trung ở các quận có đơng ngƣời Hoa
sinh sống nhƣ quận 5, quận 6, quận 11... So với năm 2015, số lƣợng các trƣờng có dạy tiếng
Hoa đã giảm và đƣợc phân bổ nhƣ sau:

601


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Quận 5

Quận 6
Quận 11


Trƣờng tiểu học Hùng Vƣơng
Trƣờng tiểu học Nguyễn Viết Xuân
Trƣờng tiểu học Huỳnh Kiến Hoa
Trƣờng tiểu học Nguyễn Đức Cảnh
Trƣờng tiểu học Châu Văn Liêm
Trƣờng tiểu học Kim Đồng
Trƣờng tiểu học Nguyễn Thi
Trƣờng tiểu học Lạc Long Quân
Trƣờng tiểu học Phạm Văn Hai
Trƣờng tiểu học Âu Cơ
Trƣờng tiểu học Đề Thám
Trƣờng tiểu học Hàn Hải Nguyên
Trƣờng tiểu học Thái Phiên
Trƣờng tiểu học Phú Thọ
Trƣờng tiểu học Lê Đình Chinh

4.1.2. Trung học cơ sở
Sau khi tốt nghiệp chƣơng trình tiếng Hoa tăng cƣờng ở bậc tiểu học, các em học sinh sẽ
tiếp tục học tiếp lên bậc trung học cơ sở. Tuy nhiên, số trƣờng có dạy chƣơng trình tiếng Hoa
tăng cƣờng giảm đáng kể, cụ thể nhƣ sau:
Quận 5
Quận 6
Quận 11

Trƣờng THCS Trần Bội Cơ
Trƣờng THCS Mạch Kiếm Hùng
Trƣờng THCS Phạm Đình Hổ
Trƣờng THCS Hậu Giang

4.1.3. Trung học phổ thông

Đối với bậc trung học phổ thông, theo lộ trình thực hiện sẽ có các trƣờng nhƣ:
Quận 5
Quận 11

Trƣờng THPT Hùng Vƣơng
Trƣờng THPT Trần Khai Nguyên
Trƣờng THPT Trần Quang Khải
Trƣờng THPT Nam Kỳ Khởi Nghĩa

Nhƣng theo nhƣ khảo sát, hiện nay chỉ có trƣờng THPT Trần Quang Khải có chƣơng
trình giảng dạy tiếng Trung Quốc nhƣng là chƣơng trình ngoại ngữ 2 chứ khơng cịn là
chƣơng trình tiếng Hoa tăng cƣờng. Ngồi ra, cịn có những trƣờng cũng có giảng dạy tiếng
Trung Quốcnhƣng theo chƣơng trình riêng của mỗi trƣờng. Ví dụ trƣờng Văn Lang (cả 3 bậc
đều có tiếng Hoa), trƣờng THPT chuyên Lê Hồng Phong (chủ yếu đào tạo học sinh thi học
sinh giỏi), trƣờng THPT Bùi Thị Xuân (tiếng Trung ngoại ngữ 2).
Theo thống kê của Sở Giáo dục Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh, số lƣợng giáo viên
tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh khoảng 300 ngƣời. Số học
sinh học tiếng Trung (tiếng Hoa) khoảng 10,299 học sinh. Lƣợng học sinh và giáo viên đƣợc
phân bổ ở các cấp học nhƣ sau:
Bậc học
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông

Số lớp
259
84

Số học sinh Số giáo viên phụ trách
8528

197
1771
110
Chƣa có thống kê cụ thể

602


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

4.2. Thực trạng bồi dƣỡng giáo viên hiện nay
Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc bồi dƣỡng giáo viên hằng năm không đƣợc tổ chức
thƣờng xuyên và theo định kỳ vì khơng mang tính chất bắt buộc. Các lớp này thƣờng đƣợc
mở theo các hình thức nhƣ:
- Sở giáo dục đào tạo mời giảng viên sƣ phạm qua tập huấn hè.
- Các đợt tập huấn hè do Văn phòng kinh tế Đài Bắc cử giáo viên từ Đài Loan sang tập huấn.
- Các đợt tập huấn ở Đài Loan đƣợc tài trợ một phần kinh phí do Văn phịng kinh tế Đài Bắc
hỗ trợ.
Theo đánh giá của các Thầy/Cô tham gia, những đợt tập huấn này cũng chỉ là dịp những
Thầy/Cô giảng dạy tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) ở các cấp ngồi lại giao lƣu, trao đổi chuyên
môn và bổ sung kiến thức tiếng, kiến thức công nghệ thông tin. Thực chất, những nội dung về
phƣơng pháp giảng dạy khơng đƣợc chú trọng nhiều, vì những yếu tố sau:
1. Đối tƣợng học sinh khác nhau
2. Hình thức tổ chức lớp học khác nhau
3. Bản thân giáo viên cũng chƣa nắm rõ về các kiến thức trong giáo dục học đặc biệt là
phƣơng pháp dạy học, kỹ thuật dạy học.
4. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) vẫn chƣa
phổ biến và áp dụng rộng rãi.
Mặc dù vấn đề bồi dƣỡng giáo viên vẫn cịn nhiều bất cập, nhƣng các Thầy/Cơ vẫn rất

hăng hái tham gia vì mỗi năm chỉ có một lần, họ tham gia để tìm cái mới, để thấy rằng mình
có cập nhật kiến thức mỗi năm. Và đây cũng là sân chơi duy nhất để các Thầy/Cô rèn luyện
phát triển chuyên môn nghiệp vụ mỗi năm.
5. Đề xuất giải pháp
Thơng qua kết quả nghiên cứu ở trên, có thể thấy đội ngũ giáo viên hiện nay chƣa đáp
ứng đƣợc nhu cầu dạy và học tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) cũng nhƣ vấn đề bồi dƣỡng
chuyên môn nghiệp vụ giáo viên cũng chƣa đƣợc tổ chức thƣởng xuyên. Vì vậy, chúng tôi đề
xuất kiến nghị nhƣ sau để tăng cƣờng chất lƣợng bồi dƣỡng giáo viên tiếng Trung Quốc, đáp
ứng nhu cầu đổi mới hệ thống giáo dục ngoại ngữ toàn quốc gồm:
Một là, xây dựng khung đào tạo năng lực giáo viên tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) gồm
năng lực thiết kế dạy học, năng lực tổ chức dạy học và năng lực đánh giá dạy học.
Hai là, xây dựng các khoá bồi dƣỡng thƣờng xuyên về phƣơng pháp và kỹ thuật dạy học
tích cực hiện đại dành cho giáo viên tiếng Trung thơng qua nhiều hình nhƣ trực tuyến toàn
phần hoặc trực tuyến một phần.
Ba là, xây dựng khung chƣơng trình đào tạo năng lực dạy học theo mơ hình TPCK. Mơ
hình gồm 3 yếu tố trọng tâm là kiến thức nội dung (CK), kiến thức sƣ phạm (PK) và kiến thức
công nghệ (TK).

603


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Kiến thức sƣ
phạm công
nghệ
(TPK)

Kiến thức nội

dung sƣ phạm
công nghệ

Kiến thức
công
nghệ
(TK)
Kiến thức
Kiến thức
sƣ phạm
nội dung
(PK)
(CK)

Kiến thức nội
dung công
nghệ (TCK)

Kiến thức nội
dung sƣ phạm
(PCK)
Ngữ cảnh
Mơ hình TPCK
6. Kết luận
Thơng qua phỏng vấn bài nghiên cứu đã giúp chúng ta có đƣợc một cái nhìn tổng quan
về thực trạng đội ngũ và công tác bồi dƣỡng giáo viên tiếng Trung Quốc (tiếng Hoa) hiện nay
tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó cho thấy lực lƣợng giáo viên giảng dạy tiếng Trung Quốc
(tiếng Hoa) ở bậc phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là khá mỏng, thiếu kiến thức
về phƣơng pháp và kỹ thuật dạy học hiện đại; cũng nhƣ việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học cịn rất yếu, do đó nhu cầu bồi dƣỡng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ

là rất cao; tuy nhiên không đƣợc đáp ứng theo yêu cầu, do nhiều yếu tố khách quan cũng nhƣ
chủ quan. Có thể thấy, trong sự nghiệp giáo dục, đội ngũ giáo viên là những ngƣời trực tiếp
làm cơng tác chăm sóc, giáo dục, truyền tải kiến thức cho ngƣời học, là ngƣời quyết định sự
thành công của một nền giáo dục. Công tác bồi dƣỡng vì thế có thể thấy vừa có tính cấp bách,
vừa có tính chiến lƣợc lâu dài, nhằm đảm bảo chất lƣợng dạy và học ngoại ngữ nói chung và
tiếng Trung nói riêng. Vì vậy, trong bài viết chúng tôi cũng đề xuất một số giải pháp trong
công tác bồi dƣỡng giáo viên, hy vọng sẽ là một gợi mở giúp các nhà quản lí có những giải
pháp tốt nhất trong vấn đề bồi dƣỡng đội ngũ giáo viên.
Tài liệu tham khảo
Thủ tƣớng chính phủ (2008). Quyết định số 1400/QĐ-TTg về đề án ngoại ngữ 2020 ―Dạy và
học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân‖ ngày 30/9/2008.
Cuong, Đ.M., & Doan, N.T. (2001). Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

604


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Xi,W.Y., & Chun, Zh.Y.(2018).高职教师信息化教学能力标准构建研究.数字教育专栏
(truy cập vào ngày 10 tháng 9 năm 2020).
Ping, Zh.Y.(2020). 基 于 TPCK 模 型 的 中 职 教 师 信 息 化 教 学 能 力 提 升 策 略 研
究. (truy cập vào ngày 12 tháng 9 năm 2020).

THE CURRENT SITUATION OF CHINESE TEACHING STAFF AND
THE TRAINING OF CHINESE TEACHERS IN HO CHI MINH CITY
Abstract
The article discusses the current situation of Chinese teaching staff and the training of
Chinese teachers in Ho Chi Minh City. Our research team has interviewed 2 specialists in

charge of Chinese language and 30 Chinese teachers who are teaching at 15 primary
schools and 5 secondary schools in Ho Chi Minh City. The research result shows that the
current number of Chinese language teachers has not met the needs of learning Chinese
from students in Primary and Secondary schools. Therefore, through this study, the
research team proposes a few solutions which can improve the quality of fostering
Chinese language teachers, meet the learning needs of society.
Keywords
reality, teacher career training, chinese teachers

605



×