Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
NHỮNG ĐIỀU CẤM KỲ TRONG VĂN HOÁ JEJU (HÀN QUỐC)
THÔNG QUA TỤC NGỮ ĐỊA PHƢƠNG
Lƣơng Quốc An
Trƣờng đại học Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM
Tóm tắt
Phƣơng ngữ Jeju (Hàn Quốc) đang đứng trƣớc nguy cơ biến mất do số ngƣời sử dụng
đang ngày một giảm đi. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu phƣơng ngữ Jeju cũng nhƣ
các loại hình văn học dân gian địa phƣơng đƣợc viết bằng phƣơng ngữ này là một việc
làm cấp thiết. Bài viết này nghiên cứu về những điều cấm kỵ trong cuộc sống của ngƣời
dân đảo Jeju dựa trên nguồn ngữ liệu là kho tàng tục ngữ địa phƣơng đƣợc tổng hợp trong
quyển ―Từ điển tục ngữ Jeju‖ của Go Jae Hwan (2013) và một số nghiên cứu khác. Bài
viết áp dụng phƣơng pháp phân loại và tổng hợp nhằm chọn lọc ra những câu tục ngữ liên
quan đến những điều cấm kỵ trong đời sống. Thơng qua qua q trình nghiên cứu sẽ giúp
tìm ra đƣợc cấu trúc cú pháp cũng nhƣ độ hƣ thực của những điều cấm kỵ này trong bối
cảnh hiện đại
Từ khóa
tục ngữ, văn hố, cấm kỵ, đảo Jeju
1. Mở đầu
Ngôn ngữ là tấm gƣơng phản chiếu mọi mặt của đời sống con ngƣời. Bất kỳ ngôn ngữ nào
cũng hàm chứa giá trị văn hóa của dân tộc sử dụng nó. Văn học dân gian cũng là một bộ phận
hình thành và phát triển trên cái nền của ngơn ngữ nên nó cũng có chức năng nhƣ thế. Tục
ngữ Jeju (Hàn Quốc) cũng tƣơng tự vậy. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, phƣơng
ngữ Jeju đang đứng trƣớc nguy cơ biến mất do số ngƣời sử dụng ngày một giảm đi và nó
đƣợc UNESCO xếp vào vào loại ―ngôn ngữ bị đe dọa rất nghiêm trọng‖ (critically
endangered language). Một khi tiếng Jeju biến mất sẽ kéo theo những giá trị truyền thống
cũng sẽ bị mai một và biến mất đi. Vì thế, việc nghiên cứu phƣơng ngữ Jeju nói chung và tục
ngữ Jeju nói riêng là một việc làm cấp thiết nhằm lƣu giữ và bảo tồn khơng chỉ phƣơng ngữ
này mà cịn văn hố bản địa của cƣ dân trên hịn đảo.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn chƣa có nhiều cơng trình nghiên cứu về đảo Jeju cũng nhƣ
tục ngữ Jeju. Tiêu biểu nhất có thể kể đến luận văn thạc sỹ Những đặc trưng văn hố của đảo
Jeju thơng qua tục ngữ địa phương (2018) của tác giả Lƣơng Quốc An. Đây đƣợc xem là
cơng trình nghiên cứu về văn hố Jeju dựa trên nguồn ngữ liệu là tục ngữ địa phƣơng đầu tiên
ở Việt Nam. Còn ở Hàn Quốc hiện nay, sự quan tâm của các nhà khoa học (kể cả ngƣời gốc
Jeju lẫn ngƣời trong đất liền) đang ngày càng nhiều hơn. Go Jae-hwan có lẽ là một trong
những học giả đầu tiên tiếp cận với chủ đề tục ngữ Jeju. Trong cơng trình Tổng quan về tục
ngữ Jeju (1993) của ơng cũng có một chƣơng nhắc đến những điều cấm kỵ trên đảo đƣợc đúc
kết từ tục ngữ địa phƣơng. Bên cạnh đó, ơng cũng xuất bản quyển Từ điển tục ngữ Jeju
(2013) với hơn 2000 câu tục ngữ Jeju đƣợc ơng tổng hợp lại trong suốt q trình nghiên cứu.
Đây cũng là nguồn ngữ liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu văn hoá bản địa dựa trên tục
ngữ. Tác giả Moon Soon-deok với cơng trình Nét đẹp trong tục ngữ về phụ nữ Jeju (2012)
cũng có chọn lọc ra những câu tục ngữ về các điều cấm kỵ dành cho phụ nữ trên đảo. Ngoài
401
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
ra cũng còn nhiều tác giả Hàn Quốc nhƣ Go Jin-suk (2003), Kim Mi-jin (2008), Kim Juhyung (2009) … đã xuất bản nhiều cơng trình nghiên cứu về tục ngữ Jeju.
Mục đích của bài viết này là nghiên cứu về những điều cấm kỵ của cƣ dân đảo Jeju dựa
trên những câu tục ngữ địa phƣơng. Bài viết sẽ đi sâu vào tìm hiểu ba nội dung chính: thứ
nhất là cấu trúc ngữ pháp của những câu tục ngữ cấm kỵ, thứ hai là những điều cấm kỵ trong
đời sống vật chất và tinh thần của cƣ dân trên đảo đƣợc thể hiện dƣới dạng tục ngữ và thứ ba
là thảo luận về độ hƣ thực của những câu tục ngữ này dƣới góc nhìn của xã hội hiện đại.
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1. Tục ngữ và tục ngữ Jeju
2.1.1. Khái niệm tục ngữ và mối quan hệ giữa tục ngữ và văn hoá
Các học giả Việt Nam và Hàn Quốc đều đƣa ra nhiều quan điểm khác nhau khi tiếp cận
đơn vị đƣợc gọi là ―tục ngữ‖. Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, tục ngữ là ―câu nói
ngắn gọn, thƣờng có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của
nhân dân‖ (Hoàng Phê, 1995). Ngoài ra, khi đề cập đến khái niệm tục ngữ dƣới góc nhìn của
ngôn ngữ học, Nguyễn Văn Mệnh cho rằng ―tục ngữ nói về những vấn đề triết học, tƣ tƣởng,
đạo đức, chân lý, kinh nghiệm sản xuất, đấu tranh xã hội và cách đối nhân xử thế… Những
nội dung đó đƣợc biểu hiện bằng câu hoàn chỉnh‖ (dẫn theo Trần Văn Tiếng, 2006). Trong
tiếng Hàn, tục ngữ gọi là sok-dam (속담, tục đàm). Nhà nghiên cứu về tục ngữ Jeju là Go Jaehwan đã đề cập đến khái niệm tục ngữ trong Tổng quan về tục ngữ Jeju, ông cho rằng tục ngữ
―là những lời giáo huấn trong đời sống mà những ngƣời đƣơng thời thích nghi với mơi trƣờng
và rút ra đƣợc, có năm đặc tính chủ yếu, đó là tính súc tích về mặt hình thức và tính giáo huấn,
tính dân gian, tính đồng cảm, tính ẩn dụ về mặt nội dung‖ (Go Jae-hwan, 1993). Cịn trong
giáo trình Tiếng Hàn 4 của Trƣờng đại học Yonsei cũng có một phần nói về tục ngữ nhƣ sau:
―Tục ngữ là một trong những câu nói đƣợc truyền lại từ thời xa xƣa và trong những câu nói
đó hàm chứa những lời giáo huấn đúc kết kinh nghiệm sống. Đặc biệt, ý nghĩa của nó vừa rõ
ràng mà cũng vừa súc tích nên dễ học thuộc và cũng dễ sử dụng‖ (Trƣờng đại học Yonsei,
1992). Nhƣ vậy, dù là dƣới góc nhìn của ngƣời Việt Nam hay Hàn Quốc thì khái niệm tục
ngữ cũng bao hàm hai nội dung chính: một là hình thức ngắn gọn, súc tích; hai là nội dung
phản ánh nhiều mặt của đời sống con ngƣời, đúc kết đƣợc nhiều kinh nghiệm sống.
Tục ngữ có q trình hình thành và phát triển lâu dài cùng với dòng chảy lịch sử của
dân tộc. Tục ngữ nào cũng bao hàm yếu tố con ngƣời bên trong. Con ngƣời là chủ thể sáng
tạo ra tục ngữ, cũng là khách thể mà tục ngữ muốn hƣớng đến. Mục đích mà con ngƣời tạo ra
tục ngữ là muốn truyền tải lời khuyên để mọi ngƣời sống hƣớng thiện, phê phán những thói
hƣ tật xấu và hƣớng dẫn con ngƣời hành xử đúng đắn trong giao tiếp, ứng xử và trong lao
động sản xuất. Đặc biệt, có một số lƣợng khơng ít những câu tục ngữ nhắc đến những điều
cấm kỵ trong sinh hoạt. Tục ngữ phản ánh đƣợc trình độ, năng lực, phẩm chất của con ngƣời
qua từng thời đại khác nhau. Chính vì thế, tục ngữ cũng là một bộ phận của văn hoá. Dấu ấn
văn hoá của mỗi dân tộc đƣợc in đậm trong tục ngữ của dân tộc đó. Chẳng hạn nhƣ ở Việt
Nam khi xây nhà, ngƣời ta có câu Lấy vợ kiêng tuổi đàn bà, làm nhà kiêng tuổi đàn ơng. Cịn
402
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
ở đảo Jeju thì có câu 막은 방에 이
안 다 (Không dọn nhà đến hướng bị tắc nghẽn)21.
Qua hai câu tục ngữ trên có thể thấy đƣợc rằng ở mỗi nơi ngƣời ta có quan điểm khác nhau
trong chuyện xây nhà. Trong khi ngƣời Việt thì xem trọng tuổi của chủ nhà thì ngƣời Jeju lại
xem trọng phƣơng hƣớng xây nhà. Nhƣ vậy, tục ngữ đƣợc ví nhƣ là tấm gƣơng phản ánh văn
hoá của mỗi dân tộc. Nghiên cứu tục ngữ cũng là một phƣơng thức nhằm làm rõ giá trị văn
hố của dân tộc đó.
2.1.2. Tục ngữ Jeju
Tục ngữ địa phƣơng Jeju (gọi tắt là tục ngữ Jeju) là những câu tục ngữ đƣợc viết bằng
phƣơng ngữ Jeju, do ngƣời dân trên đảo sáng tạo ra thông qua những hoạt động vật chất và
tinh thần. Bàn về tục ngữ Jeju, Go Jin-suk đã chỉ ra ba đặc trƣng chính. Thứ nhất, tục ngữ Jeju
vẫn cịn bảo tồn nhiều hình thái của tiếng Hàn trung đại mà trong tiếng Hàn toàn dân ngày nay
đã biến mất. Thứ hai, tục ngữ Jeju phản ánh rõ nét bản sắc của đảo Jeju thơng qua những
phong tục, tập qn chỉ có ở Jeju. Thứ ba, tục ngữ Jeju thể hiện đặc sắc trong văn hoá sản
xuất, văn hoá ăn mặc ở dựa trên những hoàn cảnh địa lý đặc trƣng của đảo (Go Jin-suk,
2003).
Về mặt cấu trúc cú pháp, tục ngữ Jeju cơ bản đƣợc chia làm hai dạng chính: cấu trúc
đơn và cấu trúc ghép. Ở dạng cấu trúc đơn cũng đƣợc chia ra thành hai dạng nhỏ là: dạng câu
đơn đầy đủ chủ - vị và dạng câu đơn khiếm khuyết. Dạng câu đơn đầy đủ chủ - vị là những
câu tục ngữ có đầy đủ hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ. Ví dụ nhƣ câu 쳇
똘은 종 부릴
팔 저)에 난다 (Con gái đầu lòng vốn sinh ra đã có số đầy tớ). Dạng câu đơn khiếm
khuyết là dạng câu đơn thiếu đi một thành phần chính, do đó nó có cấu tạo nhƣ một danh ngữ
hoặc một động ngữ. Câu tục ngữ 영장밧듸 떡 (Bánh ttok nghĩa địa) là một ví dụ của dạng
này, nó chỉ mới là một cụm danh từ chứ chƣa phải là câu văn hoàn chỉnh. Cũng giống nhƣ
dạng cấu trúc đơn thì dạng cấu trúc ghép cũng gồm hai dạng chính, đó là: dạng câu ghép
chính phụ và dạng câu ghép đẳng lập. Dạng câu ghép chính phụ có cấu tạo hai vế và có quan
hệ về mặt ngữ nghĩa, thƣờng nối với nhau bằng đuôi từ liên kết–젠(젱) 민 (nếu muốn), –민
(nếu). Cịn với dạng câu ghép đẳng lập thì hai vế có quan hệ đẳng lập (hoặc song song), đƣợc
nối với nhau bằng đuôi từ liên kết –곡 (và/ cịn). Tuy nhiên, cũng có những câu tục ngữ có
hình thức bên ngoài nhƣ dạng câu ghép đẳng lập nhƣng đƣợc tỉnh lƣợc vĩ tố liên kết –곡 và
một số yếu tố đƣợc lặp lại. Chẳng hạn nhƣ câu 잘 여도
구숭, 못
여
구숭 (Làm
tốt cũng (là) sai phạm, (và) làm không tốt cũng (là) khuyết điểm) đã lƣợc mất đuôi từ liên kết
–곡 (và), thay bằng dấu phẩy, cũng nhƣ động từ 이다 (là) ở hai vế.
21
Hƣớng bị tắc nghẽn ở đây chỉ phƣơng hƣớng không tốt lành, nếu xây nhà theo hƣớng đó sẽ mang lại tai ƣơng
cho cả gia đình.
403
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Bảng 1. Phân loại tục ngữ Jeju dựa theo cấu tạo câu
Cấu trúc đơn
Cấu tạo câu
Dạng câu đơn đầy đủ chủ - vị
Dạng câu đơn khiếm khuyết thành phần chính
Dạng câu ghép chính phụ
Cấu trúc ghép
Dạng câu ghép đẳng lập
Dạng có vĩ tố liên kết
Dạng lƣợc bỏ vĩ tố liên kết
(Lƣơng Quốc An, 2018)
Về mặt cấu tạo ngữ nghĩa, tục ngữ Jeju cũng giống nhƣ tục ngữ của bất kì ngơn ngữ nào
khác, cũng có những câu chỉ mang nghĩa đen, cũng có những câu chỉ mang nghĩa bóng.
Những câu chỉ mang nghĩa đen thƣờng đúc kết kinh nghiệm sống của tổ tiên trong lao động
sản xuất hoặc đời sống thƣờng nhật. Ví dụ: 바당 속(소곱)이 으민 날 좋곡, 어둑으민 날
궂나 (Nước biển trong thì trời đẹp, nước biển đục thì trời xấu), 고사리 좋은 헤 메역 풍년
든뎅 다 (Năm nào dương xỉ mọc nhiều thì rong biển được mùa). Cịn những câu chỉ mang
nghĩa bóng thì nói về những triết lý cuộc sống, những điều giáo huấn, răn dạy của ơng cha để
lại. Tục ngữ Jeju có câu 생이
리로 벡놈 잔치헤도 다리
나 남나 (Lấy một cặp
chân chim để đãi tiệc trăm người ăn cũng còn chừa lại một chân) khuyên mọi ngƣời thực
hành tính tiết kiệm trong ăn uống. Bên cạnh đó, cũng có những câu vừa mang nghĩa đen, vừa
mang nghĩa bóng. Ví dụ câu tục ngữ 신 사름도 엇을 때 싯곡, 엇은 사람도 실 때 싯나
(Người có tiền cũng có lúc hết tiền, người khơng có tiền cũng có lúc có tiền). Nghĩa đen của
câu tục ngữ này thể hiện rất rõ trong từng câu chữ. Cịn nghĩa bóng của câu này muốn nói
rằng đời ngƣời cũng có lúc này lúc kia khơng ai biết trƣớc đƣợc, giống nhƣ câu Sơng có khúc,
người có lúc của Việt Nam vậy.
2.2. Điều cấm kỳ
―Cấm kỵ‖ là một từ Hán Việt, trong đó ―cấm‖ nghĩa là cấm đốn, khơng đƣợc vi phạm;
còn ―kỵ‖ nghĩa là né tránh, dè chừng. Nhƣ vậy, điều cấm kỵ đƣợc hiểu là những điều bị ngăn
cấm, khơng đƣợc phép làm vì nó nguy hiểm, ghê sợ hoặc có tính chất linh thiêng nào đó nên
ngƣời ta phải kiêng kỵ. Cấm kỵ có thể phân ra thành hai loại: cấm kỵ trong ngôn ngữ và cấm
kỵ trong hành động. Trong một xã hội nào đó, ngƣời ta cho rằng nếu nói ra một số lời đƣợc
cho là ghê tởm, nguy hiểm hoặc bất cát thì tai hoạ sẽ ập đến nên họ phải né tránh. Chẳng hạn
nhƣ khi nhắc đến những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể, ngƣời ta thƣờng không dùng đúng tên
của bộ phận đó mà phải nói tránh bằng ―cái ấy‖, ―chỗ đó‖. Hoặc là ở thời phong kiến Việt
Nam có văn hoá ―huý kỵ‖. Khi đặt tên con cái hoặc địa danh nào đó, ngƣời ta phải tránh tên
của vua hoặc cha mẹ của vua, nếu không sẽ bị gán tội. Đó là cấm kỵ trong ngơn ngữ. Cịn
cấm kỵ trong hành động là những điều mà ngƣời ta không đƣợc phép làm. Ở đây có thể chia
thành ba lý do chính:
404
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Thứ nhất, do ảnh hƣởng đến tính mạng và sức khoẻ. Chẳng hạn nhƣ ở Jeju có những
câu tục ngữ dành cho thai phụ nhƣ: 애기벤 예펜은 울담을 넘지 아니
다 (Bà bầu
không được trèo qua hàng rào), 애기 밴 예펜
석(줄) 안 넘나 (Bà bầu không được
bước qua dây ngựa) nhằm khuyên răn họ phải đi đứng cẩn thận để tránh bị sảy thai.
Thứ hai, do phạm phải tổ tiên, thần linh hoặc những điều mà xã hội đó cho là linh
thiêng, bất khả xâm phạm. Phần nhiều những điều cấm kỵ này mang tính chất mê tín dị đoan.
Câu tục ngữ 새 집 짓으민 성주 내리와사 다
(Nếu xây nhà mới thì phải rước thần Seongju về)
là một ví dụ. Thần Seongju là vị thần đứng đầu trong số các vị gia thần đƣợc ngƣời Jeju rƣớc
về nhà mới để cầu mong sự phồn vinh và bình an vơ sự. Nếu khơng làm thì nhà đó sẽ xảy ra
tai ƣơng.
Thứ ba, do những định kiến xã hội buộc mọi ngƣời trong xã hội đó phải tuân theo. Đối
tƣợng mà những điều cấm kỵ này nhắm đến thƣờng là phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt, trong xã
hội phong kiến trọng nam khinh nữ thì ngƣời phụ nữ là đối tƣợng đặc biệt phải giữ ý tứ trong
ngôn từ và hành động, nếu không sẽ bị buông lời dèm pha. Chẳng hạn nhƣ những câu tục ngữ:
정월 초 를날 여자 놈의 집이 안 간다 (Đàn bà không qua nhà người khác ngày mồng
một tháng Giêng), 샛절 드는 날 여자가 놈의 집이
아가지 말라 (Đàn bà đừng tìm
đến nhà người ta vào ngày Lập xuân).
Những điều cấm kỵ thƣờng chỉ có tính chất tƣơng đối. Nghĩa là nó có thể là điều cấm
kỵ ở trong một xã hội nào đó, nhƣng lại là bình thƣờng ở một xã hội khác. Chẳng hạn nhƣ ở
Trung Quốc, việc tặng đồng hồ cho ngƣời khác là điều cấm kỵ bởi vì trong tiếng Trung Quốc,
―tặng đồng hồ‖ đồng âm với từ ―tiễn đƣa ai đó lần cuối trƣớc khi qua đời‖. Tuy nhiên, chuyện
này lại bình thƣờng ở những nƣớc khác nhƣ Việt Nam, Hàn Quốc.
Những điều cấm kỵ đơi khi cịn là những điều răn đe, giáo huấn nhằm hƣớng dẫn con
ngƣời cách hành xử đúng đắn, phù hợp với chuẩn mực của xã hội đó. Đặc biệt khi những điều
cấm kỵ này đƣợc thể diện dƣới dạng tục ngữ thì tính giáo huấn càng rõ nét hơn. Chẳng hạn
nhƣ ở Hàn Quốc có câu 남에 침을 뱉으면 버짐난다 (Nhổ nước bọt lên người khác sẽ bị ghẻ)
để răn đe ngƣời ta không đƣợc xúc phạm, miệt thị ngƣời khác bằng việc nhổ nƣớc bọt vào họ.
Ngồi ra cũng có câu 아침에 여자와 말다툼을 하든지 욕을 먹으면 재수 없다 (Sáng sớm
cãi nhau hoặc chửi thề với phụ nữ thì xúi quẩy) nhằm khun ngƣời ta khơng nên cãi vã vào
sáng sớm, vì nếu làm nhƣ vậy sẽ xui xẻo suốt cả ngày.
Tóm lại, cấm kỵ là những điều mà ngƣời ta e sợ nên khơng đƣợc phép làm, có thể do
nhiều lí do nhƣ ảnh hƣởng đến tính mạng, sợ phạm phải những điều linh thiêng hoặc không
đúng với chuẩn mực xã hội. Những điều cấm kỵ này chỉ mang tính tƣơng đối và đơi khi nó
cịn là những lời răn dạy, giáo huấn cho mọi ngƣời làm theo.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Để nghiên cứu về những điều cấm kỵ ở đảo Jeju thông qua tục ngữ địa phƣơng, chúng
tôi sử dụng chủ yếu phƣơng pháp phân loại và tổng hợp nhằm tìm kiếm những câu tục ngữ
Jeju có liên quan đến những điều cấm kỵ. Sau đó sẽ phân loại những câu tục ngữ đó theo từng
phƣơng diện của văn hố để phân tích chúng. Nguồn ngữ liệu mà chúng tôi dùng để nghiên
405
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
cứu là hơn 2000 câu tục ngữ trong quyển Từ điển tục ngữ Jeju của tác giả Go Jae-hwan (2013)
cũng nhƣ những câu tục ngữ khác do tác giả sƣu tầm đƣợc trên mạng và ở các cơng trình
nghiên cứu khác.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Cấu trúc cú pháp của những câu tục ngữ Jeju liên quan đến điều cấm kỳ
Điều cấm kỵ là một trong những đề tài hay gặp trong kho tàng tục ngữ Jeju. Vì cũng là
tục ngữ Jeju nên chúng có những cấu trúc cú pháp tƣơng tự nhƣ vậy (xem phần 2.1.2.) nhƣng
có một số đặc trƣng riêng biệt. Xét về mặt cấu tạo câu thì những câu tục ngữ liên quan đến
điều cấm kỵ đƣợc chia thành hai dạng chính.
4.1.1. Dạng khơng có đuôi từ liên kết –(으)민
Đây là những câu tục ngữ thể hiện trực tiếp, rõ ràng điều muốn cấm kỵ mà không đi với
đuôi từ liên kết –(으)민 (nếu) mang nghĩa điều kiện – kết quả. Chúng thƣờng kết thúc bằng
những đuôi câu: – 다 (phải), –지 말라 (đừng), –(으)민 안 뒌다 (không đƣợc phép)
hoặc dạng phủ định: 안 (không), 아니 (không). Với những câu tục ngữ kết thúc bằng đuôi
câu – 다
(phải) là dạng hƣớng dẫn ngƣời ta phải thực hiện một điều gì đó để tránh mang lại tai
ƣơng cho bản thân. Còn với những câu tục ngữ kết thúc bằng 지 말라 (đừng), (으)민 안
뒌다 (không đƣợc phép) hoặc 안 (khơng), 아니 (khơng) là dạng cấm đốn, khơng cho
phép ngƣời ta làm việc đó. Riêng những câu dùng đuôi –지 말라 (đừng) cho cảm giác cứng
rắn, mạnh mẽ hơn và có tần suất xuất hiện nhiều nhất.
Dạng – 다(phải) có những câu tục ngữ nhƣ: 들에 강(간) 음식 먹을 때 코시헤
뒝(뒌) 먹어사
다 (Khi ăn ngoài đồng thì phải sẻ một miếng cho quỷ thần trước rồi mới
ăn), 사돈
땐 근본을 봐사
다 (Khi chọn thông gia phải xem xét nguồn gốc). Thông
thƣờng những câu tục ngữ cấm kỵ ở dạng này khơng nhiều vì đã là điều cấm kỵ thì dùng dƣới
dạng cấm đốn, phủ định sẽ thể hiện rõ ý nghĩa hơn. Ngoài ra, nếu dùng dƣới dạng – 다 (phải)
thì thƣờng kèm thành phần chỉ thời gian –ㄹ땐 (khi) để làm rõ đƣợc tình huống cấm kỵ.
Dạng –지 말다 (đừng), –민 안 뒌다 hoặc 안 (khơng), 아니 (khơng) có những câu
tiêu biểu nhƣ: 영
등
엔
서
답
널
지
말
라
(Vào tháng Linh Đăng thì đừng nên phơi quần áo)22, 노롬(름)쟁이
사위 말라 (Đừng tìm con rể là con nghiện cờ bạc), 여자는
날개 먹으민 안 뒌다
23
(Phụ nữ không được ăn cánh gà) , 정지 옆이 통시 안 다 (Không xây nhà vệ sinh kế
nhà bếp), 호상옷 씰(실)
작 안 지운다 (Không thắt dây chỉ của áo liệm)... Những câu
22
Linh Đăng là một nữ thần đƣợc ngƣời Jeju tin rằng giáng trần vào ngày mùng 1 tháng Hai Âm lịch để xem xét
tình hình nơng nghiệp ở mỗi nhà trên đảo. Vào tháng Linh Đăng tức là tháng Hai Âm lịch, ngƣời dân Jeju tin
rằng phải cẩn thận trong mọi điều, kể cả phơi đồ cũng nên hạn chế. Nếu phơi quần áo trong tháng này dễ bị sâu
bọ bám vào (Moon Soon-deok, 2012).
23
Ngƣời Jeju xƣa tin rằng việc nếu phụ nữa mà ăn cánh gà sẽ bay nhảy lung tung nên nghiêm cấm việc làm này.
Đàn ơng thì ăn đƣợc (Moon Soon-deok, 2012).
406
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
tục ngữ này thể hiện một cách trực tiếp những điều cấm kỵ. Đôi khi xuất hiện chủ ngữ, là đối
tƣợng mà câu tục ngữ đó muốn nhắm đến. Chẳng hạn nhƣ những câu: 여자는 식전에 놈이
집에 가지 말라 (Phụ nữ đừng đến nhà người khác vào buổi sáng), 새각씨 밥 흘령 먹지
말라 (Cô dâu đừng quậy cơm khi ăn), 상젠 물색옷 입지 말라 (Tang chủ đừng mặc áo
sặc sỡ). Những câu này đều có chủ ngữ nhƣ phụ nữ, cô dâu, tang chủ là đối tƣợng mà câu tục
ngữ muốn hƣớng đến. Cịn nếu khơng có chủ ngữ thì có hai trƣờng hợp. Một là, đối tƣợng
muốn nhắm đến là tất cả mọi ngƣời, không phân biệt đối tƣợng nào. Hai là, ngƣời đọc phải
đốn dựa trên tình huống. Câu tục ngữ 쥥(쥉)이
리는 배랑 타지 말라 (Đừng lên chiếc
24
thuyền mà chuột bỏ chạy) rõ ràng khơng có chủ ngữ, nhƣng đối tƣợng mà nó muốn hƣớng
đến là những ngƣời ngƣ dân đi biển dựa trên bối cảnh ―lên thuyền‖.
4.1.2. Dạng có điều kiện –(으)민
Đây là dạng câu ghép chính-phụ với đi từ liên kết –(으)민 (điều kiện – kết quả).
Những câu tục ngữ thuộc dạng này thƣờng theo mơ-tp ―nếu làm hành động nào đó sẽ dẫn
đến một kết quả khơng hay ở phía sau‖. Dạng này có những câu nhƣ 것
박접
민 줴짓나
(Bạc đãi thức ăn là gây tội), 먹는 물에 춤 바끄민 줴받나 (Nhổ nước bọt vào nước uống
là có tội), 소중이 일러불민 재수 다 봣저 (Làm mất bộ sojungi thì gặp xui), 할망 직
아이안티 눈꿀 민 줴짓나 (Liếc xéo đứa bé được bà Tam Thần phù hộ là có tội), 못
말 민 지
손에 앙얼 간다 (Nói lời xấu thì con cái chịu tai ương). Nhìn những ví dụ trên,
có thể thấy những điều cấm kỵ ln nằm ở vế trƣớc của đuôi –(으)민 (vế điều kiện). Đó là
những hành động mà con ngƣời khơng nên làm nhƣ là không đƣợc bạc đãi thức ăn, không
đƣợc làm mất bộ sojungi, khơng đƣợc nói xấu ngƣời khác… Nếu làm những điều này sẽ dẫn
đến một kết cục nào đó tuỳ vào mỗi câu tục ngữ. Nhƣ vậy, thay vì cấm cản trực tiếp nhƣ dạng
thứ nhất bằng những đi câu mệnh lệnh nhƣ ―đừng‖, ―khơng đƣợc‖ thì dạng này có kèm
thêm một kết quả để thể hiện tính răn đe hơn.
Bên cạnh đó, cũng có dạng –(으)민 나쁘다 (nếu làm… thì xui xẻo) xuất hiện nhƣ là tục
ngữ cấm kỵ. Đó là những câu tục ngữ nhƣ: 상제가 새각씨나 새시방 옷을 멩글민
나쁘다 (Người để tang làm đồ cưới cho cơ dâu thì xui xẻo), 제 벌인 방이 여자가
들어가민 나쁘다 (Phụ nữ bước chân vào căn phòng chuẩn bị cúng kiếng là xui), 본향당에
갈 때 인사허민 나쁘다 (Chào nhau khi đi đến Miếu thờ là xui). Thay vì đƣa ra một kết cục
cụ thể nào đó thì những câu tục ngữ này chỉ dùng mỗi tính từ 나
쁘다 (xấu, xui) để diễn tả hậu
quả khi thực hiện điều đƣợc cho là cấm kỵ.
4.2. Những điều cấm kỳ trong đời sống vật chất thông qua tục ngữ địa phƣơng
Jeju là một hòn đảo nằm giữa đại dƣơng với bốn bề đƣợc bao phủ bởi biển cả mênh
mông nên từ thuở sơ khai, ngƣời dân nơi đây đã biết dựa vào biển để sinh tồn và phát triển
24
Chuột là loài động vật nhạy cảm với thời tiết. Nếu bão sắp đến thì những con chuột trên thuyền sẽ tháo chạy ra
hết. Khi nhìn cảnh tƣợng này, ngƣ dân sẽ biết đƣợc trời sắp có bão và khơng ra khơi nữa (Go Jae-hwan, 2013).
407
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
kinh tế. Biển cả rộng lớn mang lại nhiều lợi ích kinh tế nhƣng cũng đồng thời chứa đựng
nhiều mối hiểm nguy tiềm tàng đe dọa đời sống của con ngƣời nên cƣ dân Jeju vừa sợ biển,
vừa tôn sùng biển (Lƣơng Quốc An, 2017). Chính vì điều kiện sống khó khăn và nguy hiểm
nhƣ thế nên ngƣời dân ở đây càng đặt ra nhiều điều cấm kỵ hơn so với bất kỳ nơi nào ở Hàn
Quốc.
Ngày xƣa, ngƣời dân đảo Jeju kiếm sống chủ yếu bằng nghề biển. Đàn ơng thì đánh bắt
cá ngồi khơi cịn phụ nữ thì làm nghề hải nữ25 và trồng trọt trên những thửa ruộng nhỏ ven
biển. Trải qua nhiều đời gắn bó với biển nên họ đã đúc kết đƣợc nhiều tri thức dân gian và
truyền lại cho các thế hệ sau thông qua những câu tục ngữ ngắn gọn, dễ nhớ. Chẳng hạn nhƣ
với nghề đi biển có những điều cấm kỵ liên quan đến tàu bè. Chiếc thuyền đánh cá không chỉ
là kế sinh nhai của ngƣời đi biển mà nó cịn liên quan đến tính mạng của ngƣời ra khơi nên có
những quy tắc ngầm buộc phải tuân theo nhƣ là: 쥥
(쥉)이
리는 배랑 타지 말라 (Đừng
lên chiếc thuyền mà chuột bỏ chạy), 웨 수(세)기 튀는 듼 가지 말라 (Đừng đi sau lưng
cá heo)26. Đặc biệt, câu tục ngữ 애비 아 광 성젠
배에 안 탄다 (Bố, con trai và anh
em trai không đi cùng thuyền) cho thấy điều cấm kỵ lớn nhất của nghề biển là tất cả đàn ông
trong gia đình khơng đƣợc lên cùng một chiếc tàu để ra biển. Nếu nhỡ gặp phải bất trắc thì gia
đình đó sẽ khơng có con trai nối dõi.
Bên cạnh đó, nhắc đến Jeju không thể không nhắc đến nghề hải nữ. Môi trƣờng làm
việc của các hải nữ là dƣới đáy biển với đất đá lởm chởm, địa hình gồ ghề, có nhiều mối hiểm
nguy tiềm tàng. Chính vì thế họ cũng đặt ra những điều cấm kỵ trong lúc hành nghề để bảo vệ
tính mạng cũng nhƣ giúp cho chuyến ra biển đƣợc suôn sẻ, thuận lợi. Những câu tục ngữ cấm
kỵ liên quan đến nghề hải nữ cũng khá nhiều, tiêu biểu có câu: 소중이 일러불민 재수 다
봣저 (Làm mất bộ sojungi thì gặp vận xui). Bộ sojungi là bộ đồ lặn của hải nữ, họ thƣờng
đem phơi trên bờ tƣờng sau khi đi lặn trở về. Vì là trang phục lao động nên là món đồ vơ cùng
quý báu, họ tin rằng nếu làm mất sẽ mang lại những điều xui xẻo cho bản thân nên tuyệt đối
phải giữ kỹ. Ngồi ra cũng có những điều cấm kỵ nói lên kinh nghiệm đi biển của những cơ
hải nữ nhƣ là: 물 가볼 때 사흘은 물에 안 든다 (Khi thuỷ triều lên thì ba ngày khơng
xuống biển), 동
짓광 섣
전북 새끼 치중 땐 안
문다 (Tháng Đơng Chí và tháng
Chạp không bắt bào ngư đang ấp trứng).
Hoạt động kinh tế truyền thống trên đảo Jeju là bán nông bán ngƣ. Cùng với nghề khai
thác hải sản thì trồng trọt và chăn nuôi cũng là những nghề nghiệp không kém phần quan
trọng nhằm giải quyết nhu cầu ăn uống của cƣ dân trên đảo. So với nghề đánh bắt hải sản thì
nơng nghiệp và chăn ni ít nguy hiểm hơn. Dù vậy thì vẫn có những điều cấm kỵ buộc phải
tn theo. Trong trồng trọt thì có những câu tục ngữ cấm kỵ nhƣ: 땅도 못
디게 둘민
25
Theo định nghĩa của Viện bảo tàng Hải nữ Jeju thì: ―Hải nữ là những ngƣời phụ nữ làm nghề lặn biển để thu
lƣợm hải sản bằng cách tự điều tiết hô hấp của bản thân và khơng phụ thuộc vào bất kì thiết bị, máy móc nào‖.
Đối tƣợng khai thác của họ chủ yếu là những loài hải sản và thực vật biển sống ở những vùng nƣớc cạn dƣới
mực nƣớc biển khoảng 20m nhƣ bào ngƣ, nghêu sò, hải sâm hoặc rong biển, tảo biển... (Lƣơng Quốc An, 2017)
26
Bởi vì theo sau cá heo thƣờng là một đàn cá mập nguy hiểm.
408
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
용시(농 ) 잘 안 뒌다 (Nếu cư xử với đất đai đến mức khơng chịu đựng được thì chuyện
làm nông sẽ không suôn sẻ) với ý nghĩa là không đƣợc canh tác quá mức mà phải cho đất đai
nghỉ ngơi sau mỗi vụ mùa, 수박 동맺일 때 몸 비린 여
뎅겨나민 수박 벌러진다
(Cơ gái khó nhìn bước vào ruộng dưa đang ra quả thì dưa vỡ hết) là câu tục ngữ cấm ngƣời
ta đi vào ruộng dƣa hấu khi đang ra quả, 콩밭에 똥사민 베락 맞나 (Đi ngoài trên cánh
đồng đậu sẽ bị sét đánh) là cấm việc đi ngoài bừa bãi trên thửa ruộng đang canh tác. Ngoài ra
trong chăn ni cũng có những câu nhƣ: 종
(소) 꽂인 밧딘
쉬 안 놓나 (Khơng thả ngựa
bị vào ruộng được cắm cọc) nghĩa là nơi cắm cọc là thửa ruộng nhà ngƣời khác nên khơng
đƣợc tuỳ ý thả ngựa bị vào, 밤질 걸을 때 밧갈쉐랑 앞셉곡,
랑 앞셉지 말라 (Đi
đường đêm thì để bị đi trước, đừng để ngựa đi trước) là vì lồi bị điềm đạm hơn nên khi gặp
tiếng động lạ vào ban đêm cũng khơng giật mình, 석은 몸에 안 감나 (Khơng quấn dây
ngựa quanh mình), 도새기 새끼 날 때
다상 보민 숭 다 (Nhìn lợn đẻ con là bị quở
mắng) là những hành động cấm kỵ khi nuôi gia súc, nếu phạm phải sẽ làm kinh động những
loại vật này.
Jeju là hịn đảo nằm giữa biển và ln phải hứng chịu ảnh hƣởng của bão. Chính vì thế
nên vào ngày xƣa hoạt động sản xuất trên đảo không đƣợc ổn định. Có năm đƣợc mùa, có
năm mất mùa. Thêm vào đó hịn đảo đƣợc hình thành bởi hoạt động phun trào núi lửa nên thổ
nhƣỡng ở đây chủ yếu là đất bazan, khơng thích hợp để trồng lúa nƣớc. Điều này dẫn đến việc
ngƣời dân nơi đây rất quý trọng thức ăn. Họ xem việc lãng phí là điều cấm kỵ lớn nhất. Do đó
xuất hiện những câu tục ngữ địa phƣơng nhƣ: 것 박접 민 줴짓나 (Bạc đãi thức ăn là gây
tội), 먹는 물에 춤 바끄민 줴받나 (Nhổ nước bọt vào nước uống là có tội), 먹는 물에
돌 데(네)끼민 저승(싕)강 눈썹으로 건져 올려사 다(Ném đá vào nước uống thì xuống
Âm Phủ phải lấy lông mày vớt lên hết), 싯
(씻)을 때 물 하영 쓰민 저승(싕)강 그 물 다
먹어사 다 (Dùng nhiều nước khi rửa mặt thì sau này chết phải uống hết nước đó). Hậu
quả xuất hiện trong những câu tục ngữ này nhƣ ―có tội‖, ―xuống Âm Phủ‖, ―chết đi‖ tuy nghe
rất nặng nề, nhƣng phần nào cho thấy đƣợc thái độ cứng rắn của ngƣời dân Jeju đối với những
ngƣời sống lãng phí.
Về văn hố cƣ trú, trong tâm thức của ngƣời Jeju thì nhà cửa khơng quan trọng bằng
ruộng đồng nên có những câu tục ngữ nhƣ: 집 물림 말앙 밧 물림 라 (Đừng thừa kế nhà,
hãy thừa kế ruộng), 큰 집 물리지 말앙 족은 밧 물리라 (Đừng thừa kế căn nhà to, hãy
thừa kế thửa ruộng nhỏ). Bên cạnh đó khi xây nhà cũng có những điều cấm kỵ cần phải lƣu ý,
chẳng hạn nhƣ: 산은 올려 쓰곡, 집은
려 짓으라 (Xây mộ thì xây trên cao, cất nhà thì
cất dưới thấp), 막은 방에 이
안 다 (Khơng dọn đến hướng bị nghẽn), 정지 옆이
통시 안 다 (Không xây nhà vệ sinh kế nhà bếp). Những điều cấm kỵ trên cũng phần nào
cho thấy ngƣời Jeju rất tôn trọng tổ tiên, rất xem trọng phƣơng hƣớng khi xây nhà để tránh
gặp phải những điều bất tƣờng. Đặc biệt, lợn là lồi gia súc đƣợc ni trong nhà, mà cụ thể ở
Jeju chuồng lợn thƣờng kết hợp với nhà vệ sinh nên ngƣời ta phải xây nhà bếp tránh xa nhà vệ
sinh để đảm bảo vệ sinh.
409
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
4.3. Những điều cấm kỳ trong đời sống tinh thần thông qua tục ngữ địa phƣơng
Trong các nghi lễ liên quan đến vịng đời của con ngƣời thì sinh nở đƣợc xem là giai
đoạn đầu tiên nhất. Sinh con đẻ cái là việc hệ trọng trong cuộc đời mỗi ngƣời. Dƣới định kiến
Nho giáo ngày xƣa, nó cịn là nghĩa vụ thiêng liêng không thể chối bỏ của ngƣời phụ nữ. Vì
thế, việc sinh nở lúc nào cũng phải nghiêm túc và cẩn trọng từ giây phút bắt đầu mang thai,
cho đến khi đứa bé chào đời. Vào thời điểm y học vẫn chƣa phát triển nhƣ ngày nay thì xác
xuất sảy thai hoặc em bé mới sinh bị chết yểu khá là cao. Ngƣời Jeju ngày xƣa chỉ biết dựa
vào kinh nghiệm của những ngƣời đi trƣớc để chăm sóc cho các bà bầu hoặc những bà mẹ
đang ở cử. Có những điều cấm kỵ buộc họ phải tn theo nhằm bảo tồn tính mạng cho cả mẹ
và con. Trong lúc mang thai thì thai phụ phải cẩn trọng lời nói vì sợ đứa con trong bụng sẽ
nghe đƣợc và bắt chƣớc, thành thử có câu tục ngữ 애기벤 여자 놈 숭보지 말라 (Bà bầu
không được dèm pha người khác). Trong hành động, đi đứng cũng có những điều cấm kỵ nhƣ
애기벤 예펜은 울담을 넘지 아니
다 (Bà bầu không được trèo qua hàng rào), 애기 밴
예펜 석(줄) 안 넘나 (Bà bầu không được bước qua dây ngựa). Trong ăn uống phải cẩn
trọng những món dễ bị ơi thiu do thời đó chƣa có tủ lạnh, cũng nhƣ Jeju có nền nhiệt cao hơn
so với đất liền. Điều này thể hiện qua những câu tục ngữ nhƣ 애기벤 여자
궤기 먹지
말라 (Bà bầu không được ăn thịt gà), 애기벤 여자 도새기궤기 먹지 말라 (Bà bầu
khơng được ăn thịt lợn). Có những điều cấm kỵ sau này đƣợc khoa học kiểm chứng, nhƣng
cũng có những điều mang màu sắc mê tín dị đoan. Chẳng hạn nhƣ: 산달에는 집수리 지
아니 다 (Tháng sinh nở không được sửa nhà), 뜬
집의서
뜬 해에 두 여자가 애기
나지 말라 (Hai phụ nữ cùng nhà không được sinh con cùng năm). 애기 벤 여
철릿장
보지 말라 (Bà bầu không được nhìn vào hài cốt). Đối với những bà mẹ mới sinh con cũng
có những phong tục khá thú vị nhƣ câu 쳇 애기 낭 분 젯 짱 건 사물 나는 듸 강
비와사 다 (Sinh con đầu lòng phải vắt sữa đổ xuống nơi suối chảy). Ngƣời Jeju xem sữa
mẹ là thiêng liêng nhất. Nếu trẻ bú xong còn dƣ thì phải vắt ra hết đem đổ xuống suối chứ
khơng đƣợc vứt bừa bãi. Họ tin rằng nếu đổ sữa mẹ xuống suối thì sau này sữa của bà mẹ đó
cũng nhiều nhƣ dịng nƣớc suối, khơng lo bị thiếu sữa (Lƣơng Quốc An, 2018). Trên đảo Jeju,
ngƣời ta tin rằng đứa bé sinh ra sẽ đƣợc bà Tam Thần (삼승할망, samseung halmang) phù hộ
vƣợt qua mọi bệnh tật, ốm đau. Ở thời điểm đó, việc sinh đƣợc một đứa bé là một điều rất
may mắn nên ngƣời Jeju rất mực yêu thƣơng trẻ em. Việc xem thƣờng hay hành hạ một đứa
trẻ là điều tối kỵ, đƣợc thể hiện ở câu tục ngữ 할망 직
아이안티 눈꿀 민 줴짓나
(Liếc xéo đứa bé được bà Tam Thần phù hộ là mang tội). Bên cạnh đó cũng có những câu
nhƣ 애기날 때 여러 사름안티 알뤼지 말라 (Khi sinh con đừng kể cho nhiều người
biết), 소나이 귀
집안의서 소나이 나민 사름덜안티 알뤼지 말라 (Nhà hiếm nam
mà sinh con trai thì đừng thơng báo người khác biết) dùng để ngăn cấm việc loan tin khắp nơi
làm cho hàng xóm hiếu kì kéo đến xem, cũng nhƣ ma quỷ mang đến cho đứa bé vận vui.
Khi em bé đến tuổi trƣởng thành sẽ phải dựng vợ gả chồng. Ngay từ q trình chuẩn bị
hơn lễ cũng đã có nhiều điều kiêng cử. Chẳng hạn nhƣ: 잔칫옷 홀어멍 안 다 (Bà mẹ góa
410
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
phụ không may đồ cưới), 홀어멍이 새각씨 쳇옷을
르민 나쁘다 (Bà mẹ góa phụ cắt
may bộ đồ đầu tiên của cơ dâu thì xui xẻo), 상제가 새각씨나 새시방 옷을 멩글민
나쁘다 (Người để tang làm đồ cưới cho cô dâu chú rể thì xui xẻo). ―Áo cƣới‖ ở đây cũng
bao hàm cả tấm chăn và những trang phục, trang sức của cô dâu và chú rể dùng trong ngày
cƣới. Nếu để cho những ngƣời nhƣ gố phụ hoặc ngƣời có tang may sẽ làm cho cuộc hôn
nhân này gặp nhiều xui xẻo. Trong lễ cƣới cũng có nhiều điều kiêng kỵ buộc cả cô dâu lẫn
chú rể phải thận trọng và tuân thủ nghiêm ngặt, nếu không sẽ rƣớc về những điều bất hạnh
cho gia đình. Dễ dàng nhận thấy những điều cấm kỵ nhƣ: 잔칫날 새각씨 울지 말라 (Cô
dâu không được khóc vào ngày cưới), 잔칫날 씨집간 새각씨 안테레만 보아사
다 (Cơ
dâu lấy chồng chỉ được nhìn vào trong nhà vào ngày cưới), 씨어멍 잔칫날 새각씨
들어오는 거 보지 말라 (Mẹ chồng khơng được nhìn con dâu mới bước vào nhà trong
ngày cưới) đa số áp đặt lên ngƣời phụ nữ. Cô dâu khơng đƣợc phép khóc vì kết hơn là một sự
kiện vui vẻ, cũng khơng đƣợc nhìn ra ngồi cửa vì sẽ bị hiểu lầm là muốn bỏ trốn. Kể cả bà
mẹ chồng quyền uy cũng phải tránh mặt đi trong ngày cƣới vì ngƣời ta tin rằng nếu mẹ chồng
và con dâu mới nhìn thẳng mặt nhau vào ngày cƣới thì sau này quan hệ mẹ chồng, nàng dâu
sẽ khơng sn sẻ. Điều này khơng khó hiểu, bởi vì dù ở xa đất liền nhƣng Nho giáo vẫn ảnh
hƣởng ít nhiều đến tƣ tƣởng của ngƣời dân trên đảo. Trong xã hội Nho giáo nhƣ thế thì ngƣời
phụ nữ là đối tƣợng khơng có nhiều tiếng nói và buộc phải tuân theo một số nguyên tắc nhất
định. Thật ra suy cho cùng việc đặt ra những điều cấm kỵ này cũng xuất phát từ tình thƣơng
yêu của các bậc cha mẹ dành cho con gái mình, khơng muốn con mình làm sai để rồi bị nhà
chồng xem thƣờng.
Sinh lão bệnh tử là hành trình mà bất kì ai cũng phải trải qua. Khi một ngƣời vừa mất,
ngƣời nhà sẽ tiến hành tẩm liệm. Việc may áo liệm cũng có điều kiêng cử. Đó là câu tục ngữ:
호상옷 씰(실)
작 안 지운다 (Không thắt dây chỉ của áo liệm). Ngƣời Jeju tin rằng khi
may áo liệm mà thắt dây chỉ đồng nghĩa với nỗi hận lúc sinh thời của ngƣời đó cũng bị thắt
lại, khơng đƣợc hóa giải nên đây là điều khơng tốt lành. Khi cử hành tang lễ thì tang chủ cũng
phải chú ý một số điều nhƣ 상젠 물색옷 입지 말라 (Tang chủ không được mặc áo lộng
lẫy), 동네 좋은 일 셔도 상젠 나뎅기지 말라 (Trong xóm có chuyện vui thì tang chủ
cũng khơng được đi loanh quanh). Đối với những ngƣời hàng xóm cũng có nhiều điều phải
cẩn trọng, nhƣ là: 동네 영장난 때 성복 기 전이 머리 빗지 말라 (Trong xóm có nhà chịu
tang, đừng nên chải đầu trước khi người ta mặc tang phục), 동네 영장난 때 바농질 지
말라 (Trong xóm có nhà chịu tang đừng nên may vá). Ngƣời Jeju quan niệm việc chải đầu
hoặc may vá khi hàng xóm có tang giống nhƣ việc đồng ý cho ngƣời mất kéo theo mình cùng
xuống Âm Phủ. Nếu nghiêm túc thực hiện những điều kiêng cử này, một mặt vừa thể hiện
lịng tơn trọng ngƣời mất, mặt khác tránh đƣợc việc chuốc họa vào thân.
5. Thảo luận về tính hƣ thực của những câu tục ngữ cấm kỳ ở đảo Jeju
Đảo Jeju đƣợc mệnh danh là quê hương của 18.000 vị thần. Chức năng chủ yếu của
những vị thần này là phù hộ cho sự bình n và ban phƣớc lành để ngƣời dân có đƣợc mùa
màng thuận lợi. Với hoàn cảnh địa lý cách biệt với đất liền, đất đai bạc màu và thƣờng xuyên
411
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
xảy ra thiên tai, ngƣời dân Jeju chỉ có thể đặt niềm tin vào những yếu tố tâm linh để trấn an
tinh thần cho mình. Chính vì niềm tin tuyệt đối vào các đấng tối cao nhƣ thế nên họ đặt ra
những điều cấm kỵ để tránh làm phật lịng các vị ấy. Ở Jeju có tục thờ thần rắn nên có
câu 배염 려난 막댕인 거찌(시)지도 말라 (Đừng động vào cây gậy từng dùng để đánh
rắn). Sẽ ra sao nếu ngƣời đó vơ tình chạm tay vào cây gậy đó? Có lẽ là sẽ bất an và mất ăn,
mất ngủ trong nhiều ngày. Giống nhƣ ngƣời Việt cũng có câu Có thờ có thiêng, có kiêng có
lành, vậy nên suy cho cùng việc tuân thủ tốt những điều cấm kỵ cũng là một cách để trấn an
tâm lý. Câu tục ngữ 정월 초 를날 여자 놈의 집이 안 간다 (Đàn bà không qua nhà người
khác ngày mồng một tháng Giêng) và 여
자 속옷 울담에 널지 말라 (Đồ lót đàn bà đừng phơi
trên hàng rào) cũng rất phù hợp khi đặt trong bối cảnh triều đại Joseon (1392 – 1910), một
thời kì mà Nho giáo đƣợc xem là quốc giáo trên tồn bán đảo Korea. Trong xã hội đó, ngƣời
phụ nữ luôn bị ràng buộc bởi nhiều điều cấm kỵ mà những ngƣời ngày nay cảm thấy rất vô lý
và khó hiểu. Nhƣng họ khơng thể khơng làm, để tránh bị xã hội dèm pha. Phật giáo cũng ảnh
hƣởng đến đời sống tinh thần của ngƣời Jeju ngày xƣa nên trong nhiều câu tục ngữ cũng ẩn
chứa nội dung nghiệp báo, luân hồi. Chẳng hạn nhƣ câu: 먹는 물에 돌 데(네)끼민
저승(싕)강 눈썹으로 건져 올려사
다 (Ném đá vào nước uống thì xuống Âm Phủ phải
lấy lơng mày vớt lên hết). Có những điều cấm kỵ nếu đặt trong bối cảnh hiện đại tƣởng chừng
rất vô lý và mang màu sắc mê tín nhƣng nhìn từ hồn cảnh lịch sử và địa lý của đảo Jeju thì
hồn tồn có thể hiểu đƣợc. Chính những điều này đã tạo nên một bản sắc văn hố rất riêng
cho đảo Jeju.
Cũng có những câu tục ngữ cấm kỵ bề ngồi mang màu sắc mê tín dị đoan nhƣng thực
chất lại có tính khoa học, tính hợp lý vì nó đúc kết kinh nghiệm của cha ơng để lại. Ví dụ nhƣ
trong chuyện mang thai có câu 산달에는 집수리 지 아니 다 (Tháng sinh nở không được
sửa nhà). Có ngƣời sẽ nghĩ rằng ngƣời Jeju sợ việc xây cất nhà cửa sẽ mang lại điều xui xẻo
cho bà mẹ sắp sinh hoặc ngƣợc lại nhà có ngƣời mang thai mà còn xây nhà sẽ làm cho gia
đình gặp tai ƣơng. Nhƣng thật chất việc xây nhà trong lúc mang thai sẽ làm kinh động đến
thai phụ, bụi bặm xuất hiện trong quá trình xây, sửa nhà cũng ảnh hƣởng đến sức khoẻ mẹ và
con. Tính khoa học còn thể hiện trong rất nhiều những câu tục ngữ khác, đặc biệt là kinh
nghiệm đi biển, trong lao động sản xuất.
Nhìn chung, trong số những câu tục ngữ về điều cấm kỵ ở đảo Jeju, cũng có những câu
mang tính khoa học và cũng có những câu phi khoa học. Nhìn vào những câu tục ngữ phi
khoa học đó và đánh giá ngay là mê tín là một việc làm rất phiến diện. Chúng ta phải đặt
chúng vào hoàn cảnh lịch sử, địa lý của đảo Jeju để hiểu đƣợc bối cảnh hình thành của những
điều cấm kỵ này. Thơng qua đó sẽ hiểu đƣợc tƣ duy, suy nghĩ của cƣ dân trên đảo ngày xƣa.
6. Kết luận
Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy những điều cấm kỵ ở bất kỳ xã hội nào và những điều
cấm kỵ này thƣờng đƣợc thể hiện dƣới dạng tục ngữ ngắn gọn, dễ nhớ và có tính giáo huấn
cao. Jeju là một hòn đảo tách biệt khỏi bán đảo Korea, nằm trơ trọi giữa biển khơi mênh mông
đầy rẫy nguy hiểm. Chính vì vậy ở Jeju ngày xƣa đã đặt ra nhiều điều cấm kỵ để trấn an tâm
412
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
lý bản thân và trong số đó cũng có nhiều điều mang tính khoa học, có thể áp dụng đƣợc trong
xã hội hiện đại. Thông qua nghiên cứu này, chúng tơi hy vọng đã mang đến một cái nhìn khái
quát về những điều cấm kỵ ở Jeju thông qua tục ngữ địa phƣơng. Qua đó, nhấn mạnh đƣợc
tầm quan trọng của việc nghiên cứu phƣơng ngữ, đặc biệt là những phƣơng ngữ đang có nguy
cơ biến mất nhằm mục đích gìn giữ và bảo tồn bản sắc văn hố của dân tộc sử dụng phƣơng
ngữ đó.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Hoàng Phê (Chủ biên, 1995). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng.
Lƣơng Quốc An (2017). Hải nữ Jeju – Nhìn từ góc độ văn hố biển. Tạp chí Hàn Quốc, 01 (19), 38-45.
Lƣơng Quốc An (2018). Những đặc trưng văn hố của đảo Jeju (Hàn Quốc) thơng qua tục ngữ địa
phương. Luận văn Thạc sĩ, Trƣờng đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM.
Trần Văn Tiếng (2006). So sánh một số đặc điểm cú pháp, ngữ nghĩa của tục ngữ tiếng Việt và tiếng
Hàn. Luận án Tiến sỹ, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ Tp. Hồ Chí Minh.
Tiếng Hàn
고재환 (1993).제주속담총론. 서울:민속원출판사. (Go Jae-hwan (1993). Tổng quan về tục
ngữ Jeju. Seoul: NXB Minsukwon)
고재환 (2013). 제주속담사전. 서울: 민속원출판사. (Go Jae-hwan (2013). Từ điển tục ngữ
Jeju. Seoul: NXB Minsukwon).
고진숙
(2003).
국어사용능력신장을위한제주속담활용지도방안.
제주교육대학교석사학위논문. (Go Jin-suk (2003). Phương án chỉ dẫn vận dụng tục ngữ Jeju
để nâng cao năng lực sử dụng quốc ngữ. Luận văn Thạc sỹ Trƣờng Đại học Giáo dục Jeju).
문순덕 (2012). 제주여성속담의미학. 서울: 민속원출판사. (Moon Soon-deok (2012). Nét
đẹp trong tục ngữ về phụ nữ Jeju. Seoul: NXB Minsukwon).
연세대학교 (1992). 한국어 4.서울: 연세대학교출판부. (Trƣờng Đại học Yonsei (1992).
Tiếng Hàn 4. Seoul: NXB Đại học Yonsei).
TABOOS IN JEJU (SOUTH KOREA) CULTURE
THROUGH LOCAL PROVERBS
Abstract
Jeju dialect (South Korea) has become endangered because users of this are in great
decline. That is the reason why researching Jeju diaclect and Jeju folk literature written in
this dialect seems to be very urgent. This paper will properly investigate some taboos in
Jeju culture based on local proverbs which were compiled in ―Jeju proverb dictionary‖ of
Go Jae-hwan (2013) and in other researches. This paper uses classification and synthesis
method to select some Jeju proverbs related to local residents' taboos. We aim at finding
out grammatical structures and the truth of these taboos in modern society through the
researching process.
Keywords
proverb, culture, taboo, Jeju island
413