Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Phủ định và tiêu điểm trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.04 KB, 12 trang )

Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

PHỦ ĐỊNH VÀ TIÊU ĐIỂM TRONG TIẾNG VIỆT
Nguyễn Thuỳ Nƣơng
Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Bài báo nghiên cứu về hiện tƣợng phủ định và tiêu điểm cùng sự tƣơng tác của chúng
trong ngữ liệu tự nhiên của tiếng Việt. Qua tìm hiểu những mẫu câu phủ định trong thực
tế, chúng tôi tập trung làm rõ sự phân biệt giữa phủ định logic và phủ định siêu ngơn ngữ;
trình bày sự kết hợp giữa phủ định và tiêu điểm trên bình diện ngữ dụng học. Bên cạnh
đó, chúng tơi cũng phân tích các chỉ tố đánh dấu tiêu điểm phủ định, phạm vi tác động
của một số tác tử phiếm định trỏ tiêu điểm trong câu phủ định tiếng Việt (nhƣ ―đâu‖, ―đâu
có‖, ―đâu cịn‖, ―khơng‖, ―khơng phải‖,…). Từ các phát hiện trong nghiên cứu, chúng tôi
đúc kết một số vấn đề đặc trƣng của hiện tƣợng phủ định và tiêu điểm trong tiếng Việt
trên các bình diện cú pháp và ngữ dụng.
Từ khóa
phủ định logic, phủ định siêu ngôn ngữ, tiêu điểm, chỉ tố tiêu điểm phủ định, phạm vi tác
động

1. Mở đầu
Trong logic, phủ định là một thao tác cơ bản, để nhờ đó mà từ một phán đoán này ngƣời ta sẽ
tạo ra một phán đoán mới sao cho nếu phán đoán xuất phát là chân lí thì sự phủ định ấy sai,
cịn nếu phán đốn xuất phát sai thì sự phủ định là chân lí. Sự phủ định phán đốn đƣợc xác
định trên một quy tắc duy nhất: nếu phán đoán (P) là đúng thì phán đốn (~P) là sai và ngƣợc
lại.
Trong ngơn ngữ, phủ định và khẳng định là các hành vi nhận thức tình thái của con
ngƣời đối với hiện thực cũng nhƣ đối với những điều đƣợc nói ra. Chính vì thế, phủ định
đƣợc coi là một hiện tƣợng ngơn ngữ phổ quát trên thế giới. Phủ định trong ngôn ngữ đƣợc dễ
dàng xác định thông qua các phƣơng tiện biểu đạt là những từ/cụm từ mang nghĩa phủ định.
Những phƣơng tiện này đƣợc gọi là tác tử phủ định.


Trong khi đó, tiêu điểm thơng tin (focus) là một khái niệm quan trọng thuộc địa hạt lý
thuyết thông tin/ phân đoạn thực tại câu trên bình diện ngữ dụng học. Tiêu điểm là phần thông
tin đƣợc đánh dấu là phần thông tin điểm nhấn hoặc phần thông tin mới trong câu.
Đề tài này đƣợc thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu sự kết hợp giữa phủ định và tiêu
điểm trong một số khuôn câu tiếng Việt khi hành chức trên bình diện cú pháp và ngữ dụng.
Từ đó, xem xét các phƣơng diện tƣơng tác giữa phủ định và tiêu điểm trong các câu phủ định,
tầm tác động, và các phƣơng diện hành chức ngữ dụng của chúng.
Nghiên cứu này tập trung tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi:
(a) Phủ định và tiêu điểm kết hợp nhƣ thế nào trong các câu phủ định tiếng Việt?
Các tác tử/chỉ tố đặc thù nào tham gia vào quá trình kết hợp giữa phủ định và tiêu điểm

265


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

2. Cơ sở lý luận
2.1. Phủ định và phủ định siêu ngôn ngữ
Phủ định là một phạm trù cơ bản của tƣ duy và của logic hình thức, đƣợc dùng với tƣ
cách là phạm trù đối lập với khẳng định. Vì thế, từ thời Aristotle, đây là một đối tƣợng nghiên
cứu của cả logic học và ngôn ngữ học. Nguyễn Đức Dân (1987) có bàn về hiện tƣợng phủ
định trong logic và phủ định trong ngơn ngữ. Theo đó, ông thuật lại sự đối lập giữa phán đoán
khẳng định và phán đoán phủ định là trung tâm trong logic cổ điển, hai phán đốn này có mối
quan hệ chặt chẽ về giá trị chân lí. Theo nhận thức luận của Aristotle, con ngƣời nhận thức thế
giới và biểu hiện nó qua phán đốn khẳng định P và phán đốn phủ định nó ―khơng P‖ ln
trái ngƣợc nhau về giá trị chân lí. Từ phạm trù của tƣ duy và logic, các nhà ngơn ngữ học đã
nhanh chóng nhận ra vai trị của phán đốn phủ định và câu phủ định trong hệ thống ngơn
ngữ. Cơng trình tiêu biểu của Jesperson (1917, 1924), cơng trình của Panfilov (1982) đều là
những nghiên cứu cổ điển về câu phủ định trên thế giới. Trong Việt ngữ học, các cơng trình

ngữ pháp đều đề cập đến câu phủ định ở mức độ khác nhau nhƣ Trần Trọng Kim (1939), Lê
Văn Lý (1948), Hoàng Tuệ (1962), Trƣơng Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963), Nguyễn
Kim Thản (1964), Hoàng Trọng Phiến (1980),…
Khái niệm ―phủ định siêu ngôn ngữ‖ đƣợc đề xuất đầu tiên bởi Ducrot (1972, 1973) khi
ông phân biệt phủ định miêu tả và phủ định siêu ngơn ngữ. Sau đó, Horn (1985, 1989) đã phát
triển nghiên cứu về phủ định trong ngôn ngữ tự nhiên và ơng cho rằng có thể chia nhỏ phủ
định miêu tả và phủ định siêu ngôn ngữ. Trƣờng phái nghiên cứu của Horn đã phân tích sâu
hiện tƣợng phủ định siêu ngơn ngữ trên nhiều khía cạnh.
Trọng tâm trong lí thuyết của Horn là ý niệm cho rằng các tiểu từ phủ định không chỉ
luôn lấp đầy chức năng tƣơng tự nhau trong sử dụng ngơn ngữ. Ơng xác nhận với cùng một ý
tƣởng, trong một hay vài hình thái khác có đề xuất bởi Ducrot (1972) Grice (1967) Horn
(1989, tr. 377).
Phủ định siêu ngôn ngữ chuẩn thể hiện ―một phát ngơn phủ định hình thức mà thƣờng
đƣợc dùng để phản đối lại phát ngơn trƣớc đó trên bất cứ cơ sở lý lẽ gì bao gồm cả cách nó
đƣợc phát âm‖ (Horn 1989, 2001, tr. 374). Nó hiệu chỉnh phần phát âm của từ ngữ, bản chất/
cấu tạo hình thái học của nó (cấu tạo) nhƣ (b), tính ngơn ngữ học xã hội (a, c), tác động ngữ
dụng (d, e).
a. They don‘t have kids, they have children.
b. She‘s not interesting, she‘s interested.
c. I don‘t want to buy pants, but trousers.
d. He isn‘t a proto-fascist demagogue, he‘s a POTUS.
e. She hasn‘t seen many of Murnau‘s films, she‘s seen all of them.
Hiện tƣợng này hiện nay đang đƣợc các cơng trình quốc tế xem xét ở nhiều khía cạnh
khác nhau, từ cú pháp, ngữ nghĩa, phạm vi tác động, hành vi ngôn ngữ, mơ hồ ngữ dụng,…
Phủ định trong trƣờng hợp này là một công cụ siêu ngôn ngữ rất đặc thù.

266


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy

ngôn ngữ lần thứ VI

2.2. Tiêu điểm, tác tử tiêu điểm thông tin
Thuật ngữ Tiêu điểm (Focus) cùng với Cơ sở/Nền (Background) - Cái cho sẵn
(Givenness) và Đề (Topic) là những định nghĩa cơ bản trong phạm trù IS (Information
Structure). Tiêu điểm đƣợc coi là trung tâm đầu mối của một loạt các hiện tƣợng ngữ nghĩa và
ngữ dụng trong lí thuyết IS. Và một hiểu biết vững vàng về Tiêu điểm sẽ chỉ dẫn tới những
thấu hiểu sâu sắc về các địa hạt phức tạp trong IS. Jackendoff (1972, tr. 230) đã cho rằng Tiêu
điểm thông tin của câu là ―phần thông tin trong câu mà người nói giả định rằng nó khơng
được người nói và người nghe cùng chia sẻ‖, hay cũng chính là phần thơng tin chênh lệch
giữa ngƣời cung cấp và ngƣời tiếp nhận.
Tác tử tiêu điểm thông tin là phạm trù thuộc về lí thuyết Cấu trúc thơng tin
(Information Structure - IS) hay Phân đoạn thực tại câu - còn gọi là ―sự phân đoạn thực tại
của câu‖ (actual division of the sentence). Với định hƣớng khảo cứu các tác tử tham gia đánh
dấu cấu trúc tiêu điểm và cấu trúc thông tin của câu trên cứ liệu ngơn ngữ đơn lập điển hình là
tiếng Việt, nhà ngữ học ngƣời Đức - Daniel Hole (2008, 2013) đã tập trung làm rõ hệ thống
tiểu từ tiêu điểm (focus particle) và tiểu từ nền (background particle) với ý nghĩa là các ―tiểu
từ đánh dấu tiêu điểm‖ (focus sensitive particle/operator) – (FSP/FSO).
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này đƣợc thực hiện với phƣơng pháp miêu tả và phƣơng pháp phân tích;
nhằm làm rõ đặc điểm lý thuyết về cấu trúc thông tin của tiêu điểm và phủ định trong các mẫu
cú pháp cụ thể. Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp miêu tả trong bƣớc đầu tiên là quan sát các
khuôn mẫu câu phủ định khác nhau trong tiếng Việt. Tiếp theo đó, chúng tơi sử dụng phƣơng
pháp phân tích trong bƣớc nghiên cứu về các đặc trƣng cú pháp, ngữ nghĩa – logic trong các
mẫu câu tìm đƣợc. Bài viết cũng sử dụng một số thủ pháp phân tích cú pháp nhƣ tỉnh lƣợc,
chuyển vị, thay thế, cải biến,… khi diễn giải các mơ hình câu phủ định nhằm làm rõ tầm tác
động của các tác tử phủ định tại từng vị trí cú pháp. Trong đó, chúng tơi có sử dụng thủ pháp
phóng chiếu phủ định (the Neg-projection) là một thủ pháp cú pháp đặc thù, cũng là một áp
dụng từ phóng chiếu tham tố (the projection arguments) trong phân tích cú pháp – ngữ nghĩa
trên thế giới.

Nguồn ngữ liệu mà chúng tơi tìm kiếm là ngữ liệu ngơn ngữ tự nhiên trong tiếng Việt,
chúng tồn tại trong các văn bản nhƣ khẩu ngữ, tác phẩm văn học, diễn ngôn quảng cáo, truyền
hình,… từ đó đảm bảo tính khách quan khi phân tích các chức năng ngơn ngữ học.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Phủ định logic và phủ định siêu ngôn ngữ
Khi bàn về hiện tƣợng phổ quát phủ định, Horn (1989) đã phân biệt hai hiện tƣợng gọi là
―phủ định logic‖ và ―phủ định siêu ngôn ngữ‖ trong công trình A nature history of negation.
Chúng ta có thể xem xét hai ví dụ sau đây:
(4.1.1) Tính tình cơ ấy khơng (+neg) XẤU_Foc. Mà là TỐT_Foc.
(4.1.2) Tính tình cơ ấy không (+neg) XẤU_Foc. Mà là RẤT XẤU_Foc.

267


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Có thể nói cả (4.1.1) và (4.1.2) đều có sự tƣơng phản đối với miêu tả ―tính tình cơ ấy
không xấu‖, tuy nhiên chức năng của chúng lại khác nhau. Trong (4.1.1), sự phủ định là sự
bác bỏ chân trị của ―tính tình cơ ấy xấu‖, biểu đạt tính tình của cơ ấy thực ra là trái ngƣợc với
―xấu‖. Đây là loại đƣợc gọi là ―phủ định logic‖. Trong khi đó, (4.1.2) lại sử dụng phủ định để
bác bỏ ẩn ý của việc sử dụng từ ―xấu‖ với thang độ ngữ nghĩa của nó. Phân tích theo ngun
tắc cộng tác hội thoại của Grice (1975), ta thấy chúng ta khi xây dựng cuộc thoại thì Huế‖, nhƣng khơng thể sử dụng ―*Không Ba mua chiếc áo này ở
Huế‖.
Nhƣng ―không phải‖ cũng là một cụm từ tiếng Việt, với cƣơng vị này ta thấy có sự
chuyển đổi vị trí để tạo ra điểm nhấn tiêu điểm (focus) nhƣ sau:
(4.2.3) Không phải A là B =>A không phải là B. Lúc này A trở thành tiêu điểm (focus).
(4.2.4) Không phải NP – VP =>NP – không phải – VP. Lúc này NP (Noun Phrase) trở
thành tiêu điểm (focus).
Không phải Ba mua chiếc áo này ở Huế => BA không phải mua chiếc áo này ở Huế.

Lúc này BA trở thành tiêu điểm. Và những từ còn lại (―mua‖, ―chiếc áo này‖, ―ở Huế‖) khơng
thể là tiêu điểm đƣợc nữa. Chúng có thể đƣợc hiểu theo cách diễn giải phạm vi tác động ―ràng
buộc‖ mà chúng tơi sẽ trình bày dƣới đây.
Bình thƣờng chúng ta có thể sử dụng ―Ba khơng mua chiếc áo này ở Huế‖ chứ khơng nói
―Ba khơng phải mua chiếc áo này ở Huế‖, trừ phi muốn nhấn mạnh vào từ Ba, lúc này (BA)
là một tiêu điểm hẹp.
(4.2.5) Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính/ Bom giật bom rung kính vỡ đi
rồi. (Thơ Phạm Tiến Duật)
Trong trƣờng hợp này, ―khơng có kính‖ trở thành tiêu điểm, và những từ cịn lại khơng thể
thành điểm nhấn đƣợc nữa. Trƣờng hợp này cho thấy tiêu điểm sau ―khơng phải‖ có thể là cụm
từ.
4.3. Phủ định, tiêu điểm và phạm vi tác động
Với bài viết này, chúng tôi quan tâm là làm rõ vấn đề sự tƣơng tác giữa phủ định và
thành tố tiêu điểm, kết hợp của tiêu điểm (Association with Focus) trong tiếng Việt. Khái

270


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

niệm ―sự tương tác phạm vi‖ (scope interaction) hay ―sự mơ hồ phạm vi‖ (scope ambuiguity)
là những điều đƣợc nhắc tới khi bàn về mối quan hệ giữa phủ định và tiêu điểm.
Trong cơng trình Negation, Matti Miestamo (2017) nhận định rằng các ngơn ngữ có
nhiều cách khác nhau để biểu diễn phạm vi tác động của phủ định, và giới hạn nó với những
thành tố đặc thù. Ơng cho rằng điều này liên hệ rất gần với đánh dấu tiêu điểm trong một
ngơn ngữ: phủ định có xu hƣớng tƣơng tác với tiêu điểm, và khi một thành tố đƣợc tiêu điểm
hoá xuất hiện trong một sự phủ định, kết quả là thƣờng có một phạm vi hẹp với thành tố đƣợc
tiêu điểm hoá đơn độc trong phạm vi của phủ định. Sự kết hợp giữa phủ định và tiêu điểm có
nhiều vấn đề nảy sinh: trong tiêu điểm lệ thuộc vào vị trí phủ định, phủ định tố đóng tại vị trí

có liên quan tới thành tố trong tiểu điểm, trong khi đó trong vị từ lệ thuộc vị trí phủ định, phủ
định tố đƣợc đặt ở vị trí có liên quan tới vị từ và tiêu điểm đƣợc biểu hiện theo những cách
khác, chẳng hạn nhƣ với sự điệu tính hay các trợ từ tiêu điểm.
Khi bàn đến vấn đề kết hợp của tiêu điểm trong câu phủ định, chúng tôi chú ý tới hiện
tƣợng thành tố tiêu điểm sẽ mơ hồ (ambiguity) với phủ định, đây cũng là điều mà Jackendoff
(1972) đã từng đề cập tới.
Xem xét câu phủ định:
(4.3.1) Không phải tôi mua chiếc xe này ở Huế.
(4.3.1a) Không phải tôi (mua chiếc xe này ở Huế)_FocP.
(4.3.1b) Không phải tôi (MUA)_Foc chiếc xe này ở Huế.
(4.3.1c) Không phải tôi mua (CHIẾC XE NÀY)_Foc ở Huế.
(4.3.1d) Không phải tôi mua chiếc xe này (Ở HUẾ)_Foc.
Sở dĩ có hiện tƣợng mơ hồ giữa tác tử phủ định và thành tố tiêu điểm nhƣ diễn giải nhƣ
các trƣờng hợp ở trên là do phạm vi hoạt động của ―khơng phải‖ q rộng – chính xác hơn là
bị hạn chế phạm vi tác động (scope) của từ phủ định, với vị trí phát triển trƣớc ngữ tiêu điểm
(FocP) thì nó có thể tác động đến từng thành phần khác nhau trong ngữ tiêu điểm nhƣ (4.3.1b)
(4.3.1c) (4.3.1d). Lúc này, ngữ nghĩa phủ định trong câu bị mơ hồ là do phủ định đã không
kết hợp chặt đƣợc với tiêu điểm, tạo ra sự diễn giải ―tự do‖ đối lập với diễn giải ―ràng buộc‖.
Tức là, nếu sự phủ định đƣợc thể hiện trong vùng phạm vi tác động của tác tử phủ định thì nó
tạo ra diễn giải ―ràng buộc‖, còn nếu phủ định nằm trong vùng hạn chế của các tác tử thì nó
tạo ra diễn giải ―tự do‖. Khi muốn xác định tiêu điểm ràng buộc, chúng ta có thể dùng sự lên
– xuống đƣờng nét ngôn điệu để nhấn mạnh tiêu điểm.
(4.3.1b*) không phải~(MUA)_Foc chiếc xe này ở Huế. (~tôi bán)
(4.3.1c*) không phải mua ~(CHIẾC XE NÀY)_Foc ở Huế. (~chiếc xe khác)
(4.3.1d*) không phải mua chiếc xe này ~(Ở HUẾ)_Foc. (~ở Hà Nội)
Giải thích cách diễn giải ―tự do‖ và ―ràng buộc‖ trong các câu mơ hồ phủ định, chúng ta
có thể dùng sơ đồ phóng chiếu vị trí cú pháp của phủ định (neg-projection). Với cách diễn giải
―tự do‖, nó sẽ tƣơng ứng với các cấu trúc cú pháp mơ hồ phủ định. Theo đó, yếu tố phủ định

271



Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

(+neg) sẽ xuất hiện ở vị trí trung tâm của phủ định (Neg-head), tại ngay nơi bắt đầu ngữ phủ
định. Theo Tomoko Kawamura (2007), vị trí biểu diễn của đặc trƣng (+neg) quyết định vị trí
phạm vi (scope) của phủ định, theo đó nếu đặc trƣng phủ định (+neg) xuất hiện tại vị trí trung
tâm tiêu điểm (Foc-head) thì sẽ có diễn giải ―ràng buộc‖, trong khi đó nếu nó xuất hiện tại vị
trí trung tâm phủ định (Neg-head) nằm trong ngữ phủ định (NegP) thì sẽ có diễn giải ―tự do‖.

Hình 1: Cách diễn giải ―tự do‖ về vị trí thành tố phủ định
Trong khi đó, với trƣờng hợp (4.1.3) và (4.1.4) ở trên, phân tích cách diễn giải ―ràng
buộc‖ là thể hiện ở vị trí của tác tử phủ định (+neg) sẽ xuất hiện ở vị trí trung tâm tiêu điểm
(Foc-head) thông qua thao tác chuyển vị chỉ tố phủ định ―khơng‖.

Hình 2: Cách diễn giải ―ràng buộc‖ vị trí của tác tử phủ định
Trong các diễn ngôn quảng cáo, chúng tôi cũng thấy hiện tƣợng sự phủ định khơng có sự
tƣơng hợp với các tiêu điểm câu, dẫn đến hiện tƣợng mơ hồ ngữ nghĩa phủ định.
(4.3.2) Khơng chỉ_(+neg) (LÀM SẠCH VÀ CHĂM SĨC)_Foc nhƣ kem đánh răng thông
thƣờng. (Quảng cáo kem đánh răng Ngọc Châu).
(4.3.2*) Khơng chỉ_(+neg) làm sạch và chăm sóc (NHƯ KEM ĐÁNH RĂNG THÔNG
THƯỜNG)_Foc.

272


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI


(4.3.3) POND‘S MEN mới không chỉ (+neg) (là sữa rửa mặt THÔNG THƢỜNG)_Foc,
chứa chiết xuất từ hạt cà phê, giúp da sáng, trông đầy năng lƣợng. (Quảng cáo POND‘S MEN
energy charge).
4.4. Tác tử phiếm định trỏ tiêu điểm
Trong tiếng Việt, các tác tử phủ định siêu ngôn ngữ đƣợc hình thành do hành vi chất vấn
– bác bỏ những yếu tố ―phiếm định‖ nhƣ ―ai, gì, nào, đâu, sao, bao giờ, bao nhiêu…‖.
―Đâu‖ là một đại từ phiếm định có phạm vi hoạt động rất rộng trong tiếng Việt, chúng
cũng có phạm vi tác động (scope) cú pháp rộng với tiêu điểm trong câu phủ định. Có những
tác tử nhƣ đâu cịn, cịn đâu, đâu có, có đâu, đâu phải…+P (P là một cụm từ, một mệnh đề
bất kỳ). Khi khảo sát các trƣờng hợp ―đâu còn p‖, ―còn P đâu‖, ―còn đâu P‖ trong các câu
phủ định, chúng tôi thấy chúng khác nhau bởi sự phát triển ý nghĩa vị trí và phạm vi tác động
(scope).
(4.4.1) Vắng tuyển Anh, Euro 2008 đâu còn (+neg) (HẤP DẪN)_Foc (Báo VnExpress)
(4.4.2) Thời buổi này đâu còn (+neg) (CẢNH ―CHỒNG CHÚA VỢ TÔI‖)_Foc... (Báo
Lao Động)
(4.4.3) Tiêu chuẩn Ramsar thế giới là bảo vệ tính tồn vẹn, nay mình khơng quản lý, bảo
vệ nổi thì đâu cịn (+neg) (LÀ DI SẢN)_Foc? (Báo Lao Động)
(4.4.4) Sáng cà phê, chiều nhậu, tối lƣớt Facebook - còn đâu (+neg) (THỜI GIAN TẬP
THỂ DỤC)_Foc (Báo VnExpress)
(4.4.5) Còn đâu (+neg) (năm mùi khó chịu). (Quảng cáo Comfort)
(4.4.5*) Đâu cịn (+neg) (năm mùi khó chịu).
Xét về ngữ nghĩa, cách dùng ―còn đâu‖ và ―đâu còn‖ khác nhau bởi ý nghĩa vị trí của tác
tử phủ định ―đâu‖, vị từ tồn tại ―còn‖ đứng trƣớc tác tử phủ định ―đâu‖ thì nghĩa là xác định
sự tồn tại của một điều phủ định, từ đó có hàm ý ―nuối tiếc‖; trong khi đảo lại trật tự, tác tử
phủ định ―đâu‖ đứng trƣớc vị từ tồn tại ―cịn‖ thì khơng cịn hàm ý ―nuối tiếc‖ nữa mà chỉ là
một ngữ phủ định ―khơng cịn năm mùi khó chịu‖, ―khơng cịn hấp dẫn‖,…
Chúng ta có thể thấy rằng sự khác biệt về phạm vi tác động (scope) của phủ định trong
các trƣờng hợp trên là đến từ việc khác nhau về vị trí cú pháp của phủ định. Thủ pháp biểu
diễn phóng chiếu phủ định (the Neg-projection) có thể giúp xác định phạm vi tác động
(scope) của phủ định.


273


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Hình 3: Sơ đồ cú pháp của vị trí ―cịn đâu‖ trong câu 4.4.5

Hình 4: Sơ đồ cú pháp của vị trí ―đâu cịn‖ trong câu 4.4.5*
5. Thảo luận và đề xuất
Kết quả từ nghiên cứu về phủ định và tiêu điểm cùng sự tƣơng tác của chúng trong các mẫu
câu phủ định tiếng Việt đã xác định đƣợc ý nghĩa của chúng trên bình diện cú pháp và ngữ dụng
học.
Thứ nhất, sự tƣơng tác giữa chúng thể hiện rõ phạm vi tác động (scope) của các tác tử
phủ định trong câu có tiêu điểm. Bên cạnh đó là sự mơ hồ về phạm vi tác động trong các tác
tử phủ định này trong từng vị trí mà nó tham gia cấu trúc phủ định. Từ đó khi tìm cách triển
khai câu phủ định cần chú ý hiện tƣợng mơ hồ này.
Thứ hai, cần chú ý giá trị sử dụng của các tác tử phủ định nhƣ ―không‖, ―không phải‖,
―đâu‖. Trong tiếng Việt, chẳng hạn chúng ta có thể tạo ra hai chiều nghĩa khẳng định và phủ
định khi chúng đƣợc dùng trong các kết hợp (nhƣ ―đâu còn‖, ―cịn đâu‖, ―đâu có‖, ―có đâu‖,
―đâu phải‖, ―đâu đến‖, ―đâu nhƣ‖, v.v…) ở các câu chất vấn hay câu bác bỏ. Với sự khác biệt
về chức năng siêu ngôn ngữ của tác tử phủ định trên bình diện miêu tả của chúng nhƣ điều
kiện chân trị, chân giá trị, bài viết này đã phân tích sự mơ hồ trong một số trƣờng hợp với
những thử nghiệm về cấu trúc phủ định, cấu trúc bác bỏ, các khái niệm ngữ nghĩa và ngữ
dụng trong các câu phủ định, câu bác bỏ tiếng Việt. Các khía cạnh trên sẽ đƣợc dùng để giải

274



Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

thích các chức năng của phủ định siêu ngơn ngữ và hành vi ngôn ngữ siêu phủ định trong
tiếng Việt.
Thứ ba, hành vi phản hồi, hiệu chỉnh thông tin hay bác bỏ chất vấn của một số mẫu câu
phủ định siêu ngôn ngữ trong tiếng Việt chƣa đƣợc chú ý nhiều. Theo chúng tôi, đây là hiện
tƣợng thú vị và có nhiều thách thức trong nghiên cứu lý luận ngôn ngữ học.
6. Kết luận
Nghiên cứu của chúng tôi dựa trên việc tìm kiếm các mẫu câu phủ định trong thực tế
ngôn ngữ tự nhiên của tiếng Việt (sách, báo, tác phẩm văn học, quảng cáo,…). Kết quả nghiên
cứu là những đặc trƣng khi sử dụng câu phủ định trong tiếng Việt với nhiều chức năng ngữ
pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng; nhất là chức năng ―siêu ngôn ngữ‖ của nó. Trong khi đó, tiêu
điểm là một đơn vị thơng tin có phạm vi hành chức và tƣơng tác khác nhau với từng tác tử
phủ định và vị trí cú pháp của nó trong câu. Vì thế, theo chúng tơi, mối quan hệ cú pháp –
chức năng giữa tiêu điểm, phủ định và phạm vi tác động trong các khuôn câu trong bài này là
những câu tiếng Việt tự nhiên và đặc trƣng. Chúng ta có thể áp dụng các khuôn câu phủ định
và phủ định siêu ngôn ngữ trong nghiên cứu hành vi ngôn ngữ ở cấp bậc diễn ngôn văn bản,
hoặc lƣu ý về cách sử dụng chúng trong giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài.
Tài liệu tham khảo
Hole, D. (2008). Even, also and only in Vietnamese. In interdisciplinary studies on information
structure. Vol 11. Germany: Postdam University Press.
Hole, D., & Lobel, E. (2013). Linguistics of Vietnamese. De Gruyter Mouton, Germany.
Horn, L.R. (1989). A natural history of negation. Chicago: University of Chicago Press.
Jackendoff, R.S. (1972). Semantic interpretation in generative grammar. Cambridge: MIT Press.
Larrivée, P. (2018). Metalinguistic negation from an informational perspective. Glossa: A journal of
general linguistic, 3(1), 1-22.
Miestamo, M. (2017). Negation. In Aikhenvald and Dixon (Eds). The Cambrige handbook of
Linguistic typology.
Tomoko, K. (2007). Some interaction of focus and focus sensitive elements. Stony Brook University.

Nguyễn Đức Dân (1987). Lô gích – ngữ nghĩa – cú pháp. Hà Nội: Nxb ĐH&THCN.
Nguyễn Thùy Nƣơng (2018). Tiểu từ và tiểu từ tiêu điểm trong tiếng Việt. Tạp chí Ngơn ngữ & Đời
sống, 8(275).
Nguyễn Thùy Nƣơng (2018). Tiêu điểm và kết hợp của tiêu điểm trong tiếng Việt. Kỷ yếu ―Một số
vấn đề Khoa học xã hội và Nhân văn‖, Hội thảo khoa học Sau đại học. Nxb ĐHQG TP. HCM.

NEGATION AND FOCUS IN VIETNAMESE
Abstract
This paper reports on the negation and focus phenomena in natural Vietnamese sentences.
Base on negative sentences in written and spoken Vietnamese, we focus on the distinction

275


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

between logic and meta-linguistic negation, the interaction between negation and focus in
pragmatics. Besides, the analysis of collected data helped find out some negative focus
marker and their scope in negative sentences in Vietnamese (e.g. ―đâu‖, ―đâu có‖, ―đâu
cịn‖, ―khơng‖, ―khơng phải‖). The findings result in this paper, we showed that some
issues of negation and focus in Vietnamese in syntax and pragmatics aspects.
Keywords
Logic negation, meta-linguistic negation, focus, negative focus marker, scope

276




×