Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
NĂNG LỰC CẦN THIẾT TRONG QUÁ TRÌNH PHIÊN DỊCH
Lƣơng Hải Yến
Đại học Hà Nội
Tóm tắt
Phiên dịch khơng phải là một hoạt động chuyển ngữ đơn thuần từ ngôn ngữ này sang
ngơn ngữ khác. Phiên dịch là q trình hoạt động gồm 3 giai đoạn. Để có thể thực hiện tốt
q trình phiên dịch, ngƣời phiên dịch địi hỏi phải có những năng lực nhất định phù hợp
với từng giai đoạn. Bài viết này sẽ khái quát cơ sở lý luận về quá trình phiên dịch và
những năng lực cần thiết cho q trình phiên dịch, từ đó phân tích và đƣa ra một số đề
xuất cho hoạt động đào tạo và học tập chuyên ngành phiên dịch.
Từ khóa
phiên dịch, quá trình phiên dịch, năng lực phiên dịch
1. Mở đầu
Phiên dịch không phải là một hoạt động chuyển ngữ đơn thuần từ ngôn ngữ này sang ngôn
ngữ khác mà là quá trình hoạt động với cơ chế phức tạp, gồm cơ chế hoạt động bên trong
của não bộ không thể quan sát đƣợc và cơ chế hoạt động bên ngoài có thể quan sát thấy
của ngƣời phiên dịch. Vậy câu hỏi đặt ra đó là q trình phiên dịch diễn ra nhƣ thế nào, và
để thực hiện đƣợc quá trình phiên dịch ngƣời dịch cần sử dụng các năng lực gì. Việc hiểu
đƣợc quá trình dịch diễn ra nhƣ thế nào và cần những năng lực gì trong quá trình đó sẽ
giúp ích cho ngƣời đào tạo cũng nhƣ ngƣời học phiên dịch.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ khái quát về cơ sở lý luận liên quan đến quá trình
phiên dịch và những năng lực cần thiết cho quá trình đó, từ đó phân tích và đƣa ra một số
đề xuất cho hoạt động giảng dạy và học tập chuyên ngành phiên dịch tại cơ sở đào tạo đại
học.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Về quá trình phiên dịch
Phiên dịch là hoạt động ngƣời phiên dịch nghe phát ngôn nguồn bằng ngữ nguồn và
dịch sang ngữ đích. Theo trực quan chúng ta có thể thấy hoạt động phiên dịch đó diễn ra
theo 2 giai đoạn: nghe ngữ nguồn - dịch (nói) sang ngữ đích. Tuy nhiên, theo các nghiên
cứu đã cơng bố, quan điểm q trình dịch gồm 3 giai đoạn đƣợc chấp nhận rộng rãi.
Liên quan đến quá trình dịch nói chung, E.Nida và Taber (1969) thơng qua quan
điểm về lõi và cấu trúc bề mặt đã đƣa ra hệ thống dịch 3 giai đoạn bao gồm: phân tích,
chuyển giao và cấu trúc lại (Jeremy Munday, 2009). Hệ thống dịch 3 giai đoạn này có thể
áp dụng cho hoạt động dịch thuật nói chung, khơng phân biệt biên dịch hay phiên dịch.
Tuy nhiên, theo trƣờng phái lý thuyết dịch giải nghĩa với đại diện là nhà nghiên cứu Danica
Seleskovitch, dựa trên những quan sát và nghiên cứu dựa trên hoạt động phiên dịch, họ cho
rằng hoạt động phiên dịch là một quá trình dịch gồm ba giai đoạn: ―Dịch giải nghĩa chính
là q trình nắm bắt ngơn nghĩa, phi ngơn từ hóa các hình thức ngơn ngữ của diễn ngôn, tái
diễn đạt ngôn nghĩa bằng các phƣơng tiện của ngữ đích‖ (Vũ Văn Đại, 2011). Trong đó,
145
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
giai đoạn nắm bắt ngơn nghĩa có thể hiểu là giai đoạn hiểu diễn ngôn nguồn. Ngƣời dịch
trƣớc hết phải hiểu diễn ngơn nguồn thì mới có thể giúp ngƣời tiếp nhận hiểu đƣợc diễn
ngơn nguồn đó. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn ghi nhớ tuy nhiên ngƣời dịch không ghi nhớ
các đơn vị ngôn ngữ đơn thuần mà sẽ lƣu giữ ngôn nghĩa dƣới dạng phi ngôn từ. Giai đoạn
thứ nhất và giai đoạn thứ hai diễn ra gần nhƣ đồng thời với nhau. Giai đoạn thứ ba đƣợc
gọi là giai đoạn tái ngơn từ hóa. Đây là giai đoạn tái diễn đạt những ý nghĩa đã đƣợc phi
ngơn từ hóa bằng phƣơng tiện biểu đạt của ngữ đích. Nhƣ vậy, theo quan điểm của trƣờng
phái lý thuyết dịch giải nghĩa, dịch là một quá trình gồm 3 giai đoạn: hiểu – phi ngơn từ
hóa – tái ngơn từ hóa. Quan điểm của trƣờng phái lý thuyết dịch giải nghĩa đã trở thành cơ
sở lý luận cho nhiều nhà nghiên cứu đi sau về hoạt động phiên dịch. Komatsu Tatsuya
(2005) trong cuốn ―Kĩ thuật phiên dịch‖ (通訳の技術) đã đƣa ra hai hình thức dịch tiêu
biểu đó là dịch đuổi và dịch song song. Tuy nhiên, theo Komatsu hình thức phiên dịch cơ
bản là dịch đuổi cịn dịch song song là hình thức nâng cao của dịch đuổi. Komatsu cho
rằng q trình dịch đuổi gồm có 3 giai đoạn: hiểu (理解), bảo lƣu(リテンション), tái
diễn đạt(再表現). Theo Komatsu, giai đoạn đầu tiên của phiên dịch là ―hiểu‖ bởi vì
ngƣời dịch nếu khơng hiểu đúng thì sẽ khơng thể dịch tốt. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn
―bảo lƣu‖ những điều đã nghe hiểu đƣợc. Để bảo lƣu đƣợc những điều đã nghe hiểu ngƣời
dịch sẽ phải sử dụng trí nhớ hoặc kỹ thuật ghi chép để hỗ trợ. Giai đoạn cuối cùng của
phiên dịch là giai đoạn ―tái diễn đạt‖. Thơng thƣờng phía tiếp nhận sẽ chỉ thấy và tiếp nhận
đƣợc phần này và chất lƣợng dịch cũng sẽ đƣợc đánh giá thông qua giai đoạn cuối này.
Tuy nhiên, dịch khơng phải là q trình chuyển ngữ đơn thuần mà là quá trình tái diễn đạt
những điều bản thân ngƣời phiên dịch đã hiểu từ những thông điệp mà ngƣời nói muốn
truyền tải nên kết quả của giai đoạn thứ ba này do giai đoạn ―hiểu‖ và ―bảo lƣu‖ trƣớc đó
quyết định.
Mặc dù về mặt thuật ngữ có thể khác nhau nhƣng có thể thấy quan điểm của
Komatsu Tatsuya có sự tƣơng đồng với Danica Seleskovitch đó là quá trình phiên dịch đều
có 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn hiểu ngữ nguồn, giai đoạn thứ hai là ghi nhớ
hoặc là lƣu giữ những gì đã nghe hiểu và giai đoạn thứ ba là giai đoạn diễn đạt lại những
điều đã hiểu và đã đƣợc ghi nhớ hay lƣu giữ bằng ngữ đích. Trong ba giai đoạn trên, hai
giai đoạn đầu có thể thấy chúng diễn ra ở bên trong bộ não của ngƣời phiên dịch, giai đoạn
thứ ba là giai đoạn phiên dịch thể hiện ra bên ngồi bằng phát ngơn dịch. Việc thể hiện ra
bên ngồi có tốt hay khơng phụ thuộc vào cơ chế hoạt động bên trong của não bộ của
ngƣời phiên dịch. Tức là cơ chế hoạt động của não bộ để hiểu và ghi nhớ những gì đã nghe
sẽ quyết định chất lƣợng phát ngôn dịch.
Trong bài viết này chúng tơi sẽ dựa theo quan điểm q trình phiên dịch gồm có 3
giai đoạn của Komatsu Tastuya để đƣa ra đề xuất liên quan đến hoạt động giảng dạy và
đào tạo chuyên ngành phiên dịch.
2.2. Về năng lực cần thiết cho phiên dịch
146
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Liên quan đến năng lực cần thiết cho phiên dịch đã có nhiều nghiên cứu đƣợc cơng
bố. Dƣới đây là một số nghiên cứu liên quan chúng tôi tham khảo khi tìm hiểu về vấn đề
này.
Về năng lực của ngƣời phiên dịch, mặc dù mỗi lĩnh vực dịch sẽ có những yêu cầu
riêng đối với phiên dịch tuy nhiên Torikai Kumiko (2013) đã đƣa ra một số năng lực chung
cần cho ngƣời phiên dịch nhƣ sau: năng lực sử dụng ngơn ngữ mẹ đẻ và ngoại ngữ ở trình
độ cao, năng lực về liên văn hóa, năng lực tìm kiếm thông tin và một số năng lực khác nhƣ
năng lực nói (phát âm rõ ràng, lƣu lốt, cách diễn đạt...) , năng lực phân tích thơng tin ngay
tức thời hay năng lực điều chỉnh giao tiếp.
Nguyễn Quốc Hùng (2007) cho rằng ―ngƣời phiên dịch khi bƣớc vào những hoạt
động nghề nghiệp cần chuẩn bị cho mình một cách hết sức cẩn thận về năng lực nghiệp vụ
(professional competence). Năng lực này thể hiện chủ yếu ở hai bình diện: kiến thức
(knowledge) và kỹ năng (skill)‖. Trong đó, kiến thức sẽ bao gồm kiến thức ngôn ngữ học
(về cả ngữ nguồn và ngữ đích) và kiến thức nền (kiến thức liên quan đến chủ đề dịch, kiến
thức bách khoa...) , kỹ năng có thể hiểu là kỹ năng sử dụng ngôn ngữ và kỹ năng phiên
dịch (kỹ năng nghe hiểu, kỹ năng ghi nhớ, kĩ năng tái diễn đạt).
Lê Hùng Tiến (2017) đã giới thiệu 5 loại năng lực dịch thuật của Neubert (2000):
Năng lực ngôn ngữ, năng lực ngôn cảnh, năng lực chuyên ngành, năng lực văn hóa và năng
lực chuyển dịch. Với năng lực ngôn ngữ, ngƣời phiên dịch địi hỏi phải có một năng lực sử
dụng cả ngữ nguồn và ngữ đích ở mức độ thành thục và tinh tế trên bình diện từ vựng, ngữ
âm và ngữ pháp. Với năng lực ngôn cảnh, ngƣời dịch cần có năng lực hiểu và tái tạo ngơn
bản trong hồn cảnh cụ thể để đạt mục đích giao tiếp, năng lực xử lý và kiến tạo ngôn bản
trong sự hành chức. Với năng lực chuyên ngành, ngƣời dịch phải có kiến thức chuyên
ngành ở cả hai mức độ là kiến thức bách khoa và kiến thức chuyên sâu, nhƣng không nhất
thiết phải đạt tới trình độ chuyên gia nhƣng ngƣời dịch cần có khả năng tìm kiếm và trang
bị cho mình ở mức độ đủ để chuyển dịch văn bản chun mơn. Với năng lực văn hóa,
ngƣời dịch cần phải nắm đƣợc sự khác biệt giữa hai nền văn hóa thể hiện trong ngữ nguồn
và ngữ đích, ngƣời dịch cần phải chuyển dịch cho phù hợp với chuẩn của văn hóa nguồn và
đích, điều chỉnh đƣợc những bất đồng từ khác biệt văn hóa. Với năng lực chuyển dịch,
ngƣời dịch cần có năng lực sử dụng đƣợc các thủ thuật và chiến lƣợc chuyển đổi văn bản
từ ngữ nguồn sang ngữ đích. Trong các năng lực kể trên, năng lực chuyển dịch là quan
trọng nhất, nó quyết định sản phẩm dịch mà ngƣời dịch sẽ cung cấp cho đối tƣợng tiếp
nhận ở ngữ đích.
Trong các quan điểm nêu trên, chúng tôi thấy quan điểm của Neubert đã đƣợc Lê
Hùng Tiến (2017) có tính chất bao qt đƣợc quan điểm của Torikkai Kumiko và Nguyễn
Quốc Hùng nên chúng tôi lựa chọn để làm cơ sở lí luận để phân tích vấn đề nghiên cứu:
ứng với các giai đoạn phiên dịch ngƣời phiên dịch cần những năng lực gì.
Ngay ở giai đoạn hiểu, ngƣời phiên dịch đã cần phải có và phát huy năng lực ngôn
ngữ, năng lực ngôn cảnh, năng lực chuyên ngành, năng lực văn hóa. Ở giai đoạn này, về
năng lực ngôn ngữ, nếu ngữ nguồn là tiếng mẹ đẻ ngƣời phiên dịch cần phát huy năng lực
147
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
ngôn ngữ mẹ đẻ nhƣng nếu ngữ nguồn là ngoại ngữ đòi hỏi ngƣời phiên dịch phải khai
thác năng lực ngơn ngữ ngoại ngữ. Tuy nhiên, để có thể hiểu đƣợc chính xác thơng điệp
hay nói cách khác để nắm bắt đƣợc ngơn nghĩa ngƣời dịch cần có năng lực ngơn cảnh. Mỗi
một tình huống đều có một thơng điệp do đó ngƣời dịch cần hiểu đƣợc tình huống đó để
nắm bắt đƣợc chính xác thơng điệp. Ngồi ra, dù ngữ nguồn là ngôn ngữ mẹ đẻ hay ngoại
ngữ, ngƣời phiên dịch cũng cần có năng lực chuyên ngành và năng lực năng lực văn hóa.
Năng lực chuyên ngành và năng lực văn hóa ở đây có thể hiểu là kiến thức chuyên ngành
liên quan đến chủ đề dịch và những kiến thức nền của cộng đồng văn hóa nguồn. Tất cả
các phiên dịch chuyên nghiệp đều khẳng định trƣớc khi đi dịch đều cần phải có sự chuẩn bị
về kiến thức nền cũng nhƣ kiến thức chuyên ngành nhƣ đọc trƣớc các tài liệu liên quan,
các tài liệu chuyên ngành hoặc chuẩn bị trƣớc về các thuật ngữ chuyên ngành liên quan đến
chủ đề sẽ dịch (Nguyễn Quốc Hùng, 2007).
Ở giai đoạn bảo lƣu, ngƣời phiên dịch cần có năng lực ghi nhớ. Để có thể ghi nhớ
đƣợc ngƣời dịch cần biết sử dụng tốt các kỹ thuật hỗ trợ trí nhớ nhƣ ghi chép hay ghi nhớ
để có thể lƣu giữ hay bảo lƣu đƣợc thơng điệp hay đơn vị nghĩa đã thu đƣợc trong giai
đoạn hiểu chuẩn bị cho giai đoạn tái diễn đạt sang ngữ đích. Trí nhớ có giới hạn do đó khi
làm việc trong môi trƣờng áp lực, ngƣời phiên dịch nếu không biết sử dụng kĩ thuật ghi
chép hay kĩ thuật ghi nhớ có thể sẽ bị thiếu sót nhiều thơng tin quan trọng khi nghe phát
ngôn nguồn.
Ở giai đoạn tái diễn đạt, ngƣời dịch cần có năng lực chuyển dịch. Ngƣời phiên dịch
cần có kỹ năng diễn đạt tốt bằng cả hai ngơn ngữ bởi vì hình thức chuyển dịch có thể là
dịch ngƣợc hoặc dịch xi. Nếu ngữ đích là ngoại ngữ địi hỏi ngƣời dịch cần có khả năng
diễn đạt tốt bằng ngoại ngữ. Nếu ngữ đích là tiếng mẹ đẻ của phiên dịch cũng đòi hỏi
ngƣời phiên dịch phải có khả năng diễn đạt tốt bằng chính ngơn ngữ mẹ đẻ của mình.
Đƣơng nhiên ở giai đoạn tái diễn đạt này, ngƣời dịch vẫn cần có năng lực ngơn cảnh, năng
lực chun ngành, năng lực văn hóa để có thể có sự lựa chọn các hình thức tái diễn đạt cho
phù hợp. Khi tái diễn đạt bằng ngữ nguồn hay ngữ đích, ngƣời dịch cần có năng lực diễn
đạt chính xác, rõ ràng, rành mạch tránh sử dụng lối diễn đạt kể lể dài dịng nhƣng cũng
khơng nên quá rụt rè. Vai trò của ngƣời phiên dịch là trung gian trong quá trình giao tiếp
giữa ngƣời sử dụng ngơn ngữ nguồn với ngƣời sử dụng ngơn ngữ đích nên ngƣời phiên
dịch cần biết linh hoạt sử dụng các phong cách ngôn ngữ khác nhau phù hợp với đối tƣợng
tiếp nhận ngữ đích để giúp hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả.
2. Đề xuất
Để có thể thực hiện tốt 3 giai đoạn phiên dịch ngƣời phiên dịch cần có những năng
lực dịch thuật nhất định, tuy nhiên nhìn từ góc độ giảng dạy và học tập chuyên ngành phiên
dịch, chúng tơi thấy rằng điều quan trọng đó là làm thế nào để có thể phát triển đƣợc những
năng lực đó cho ngƣời học.
Xét từ góc độ đào tạo, cơ sở đào tạo cần xây dựng đƣợc chuẩn đầu vào, chuẩn đầu
ra và chƣơng trình đào tạo tập trung vào các năng lực dịch thuật đó. Về chuẩn đầu vào,
khơng phải bất cứ đối tƣợng nào cũng có thể học chuyên ngành phiên dịch. Nhƣ vậy, điều
148
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
kiện tiên quyết cho chuẩn đầu vào là ngƣời học phải có năng lực ngơn ngữ ở trình độ cao.
Chẳng hạn, đối với ngôn ngữ tiếng Nhật, ngƣời học muốn học chuyên ngành phiên dịch
cần đạt trình độ tối thiểu là N2. Về chuẩn đầu ra, cơ sở đào tạo cũng cần đƣa ra các chuẩn
đầu ra liên quan đến các năng lực dịch thuật nhƣ đã trình bày ở trên. Về chƣơng trình đào
tạo, hiện nay tại các cơ sở đào tạo biên phiên dịch của Việt Nam chủ yếu khai thác theo
hƣớng tiếp cận nội dung (chủ đề) nhƣng để phát triển năng lực của ngƣời học chúng tơi
nghĩ các chƣơng trình đào tạo biên phiên dịch nói chung và phiên dịch nói riêng cũng nên
theo hƣớng tiếp cận năng lực. Để phát triển năng lực của ngƣời dịch trong quá trình phiên
dịch ngƣời dạy nên chú trọng tới việc tổ chức các hoạt động thực hành phiên dịch sát với
thực tế để ngƣời học có trải nghiệm và hiểu đƣợc quá trình dịch thuật diễn ra nhƣ thế nào,
và bản thân phải phát huy những năng lực gì trong q trình đó. Trong q trình giảng dạy
phiên dịch chúng tôi cũng đã từng tổ chức hoạt động thực hành phiên dịch gần với hoạt
động trên thực tế. Vào buổi học chúng tôi mời một ngƣời bạn Nhật tới lớp để nói chuyện
bằng tiếng Nhật và mời một số sinh viên lee lên làm phiên dịch. Các bạn sinh viên không
làm phiên dịch sẽ là ngƣời quan sát q trình dịch, để sau đó sẽ mơ tả q trình dịch cũng
nhƣ phân tích những năng lực của ngƣời dịch đã sử dụng đƣợc hoặc chƣa sử dụng đƣợc.
Các bạn phiên dịch sau khi thực hiện hoạt động trải nghiệm cũng tự mơ tả lại q trình
dịch và phân tích những năng lực bản thân đã phát huy đƣợc và những năng lực chƣa khai
thác đƣợc. Từ đó, ngƣời dạy và ngƣời học trao đổi để tìm ra giải pháp và phƣơng pháp rèn
luyện để nâng cao các năng lực đó.
Dƣới đây là một số gợi ý về phƣơng pháp rèn luyện để giúp ngƣời học có thể nâng
cao năng lực cần thiết trong quá trình phiên dịch.
Để phát triển năng lực chuyên ngành và năng lực văn hóa, ngƣời học cần ý thức
thƣờng xuyên bổ sung và mở rộng kiến thức chuyên ngành và kiến thức về nhiều lĩnh vực
khác nhau thơng qua việc tìm hiểu và đọc các tài liệu về một chủ đề bằng hai ngôn ngữ là
tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Việc đọc tài liệu bằng hai ngôn ngữ tƣởng chừng là một cơng
việc đơn giản nhƣng nếu ngƣời học kiên trì duy trì thực hiện, nó cịn có hiệu quả trong việc
nâng cao năng lực ngôn ngữ, năng lực ngôn cảnh, và cả năng chuyển dịch. Khi đọc các tài
liệu về một chủ đề bằng hai ngơn ngữ ngƣời học sẽ có đƣợc một vốn ngôn ngữ nhất định
về chủ đề, ngƣời học có trải nghiệm về nhiều ngữ cảnh khác nhau để xác định ngơn nghĩa,
và trong q trình đọc tài liệu quá trình chuyển ngữ thực ra vẫn diễn ra trong não bộ của
ngƣời học.
Để hỗ trợ cho quá trình dịch (giai đoạn bảo lƣu), ngƣời học cần rèn luyện khả năng
ghi nhớ. Đối với phiên dịch, trí nhớ đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Trí nhớ có thể là trí
nhớ bẩm sinh nhƣng cũng có thể là trí nhớ do rèn luyện mà có đƣợc. Rất nhiều ngƣời khi
học dịch đều nói rằng trong q trình nghe dịch, ngƣời học có thể nghe đƣợc nội dung phát
ngơn nhƣng sau khi nghe xong thì lại qn hết. Có một hình thức hỗ trợ cho trí nhớ của
ngƣời phiên dịch đó là Shadowing. Shadowing vốn là hình thức luyện tập trong q trình
học ngoại ngữ, tuy nhiên vẫn có thể ứng dụng vào trong luyện tập kĩ năng phiên dịch.
Trong q trình phiên dịch (đặc biệt là dịch xi từ ngoại ngữ sang tiếng mẹ đẻ) không
phải lúc nào ngƣời dịch cũng nghe hiểu đƣợc tất cả nên ngƣời học có thể áp dụng hình thức
149
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Shadowing này để vừa luyện nghe và nhắc lại những gì mình nghe hiểu đƣợc, có thể chỉ là
từ hoặc cụm từ. Việc nghe và nhắc lại đƣợc những từ hoặc cụm từ mà mình đã hiểu có thể
hỗ trợ trí nhớ của phiên dịch mà khơng cần phải ghi chép, cũng nhƣ tạo cơ sở để ngƣời
dịch có thể phán đốn nội dung của cả phát ngơn. Ban đầu có thể luyện nghe – nhẩm thành
tiếng những gì mình hiểu nhƣng khi đã quen chỉ nên tiến hành nhẩm trong đầu vì trong quá
trình dịch thực tế phiên dịch khơng thể nhẩm thành tiếng. Cịn đối với dịch ngƣợc, do ngữ
nguồn là tiếng mẹ đẻ nên ngƣời dịch có thể tiến hành Shadowing thuận lợi hơn, qua đó
ngƣời dịch có thể thu nhận và ghi nhớ nhiều thơng tin hơn. Hình thức luyện này chúng tơi
cũng đã từng thử áp dụng với đối tƣợng học thực hành phiên dịch và đã có những phản hồi
tích cực về việc cải thiện khả năng tập trung ghi nhớ thông tin, khả năng nghe hiểu, và khả
năng nói. Ngồi hình thức trên, ngƣời học cũng có thể rèn luyện kỹ thuật ghi chép để hỗ
trợ trí nhớ trong q trình bảo lƣu thông tin khi phiên dịch. Khi luyện ghi chép ngƣời học
cần phải lƣu ý luyện ghi cái gì và ghi nhƣ thế nào. Chẳng hạn, ngƣời học cần luyện ghi
chép ý chính, ghi tên riêng, ghi số liệu quan trọng, hoặc các chuỗi liệt kê. Ngƣời học có thể
luyện ghi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ hoặc ngoại ngữ và cũng có thể tự thiết lập các kí hiệu cá
nhân để sử dụng khi ghi chép sao cho hiệu quả. Khi ghi chép nên ghi theo sơ đồ để có thể
dễ hình dung ra các thơng tin và sự kết nối giữa chúng.
Để phát triển năng lực chuyển dịch ngƣời học cần tích cực rèn luyện hoạt diễn đạt
bằng hai ngơn ngữ. Ở đây, chúng tơi xin đề xuất hình thức luyện diễn đạt thông qua hoạt
động đọc thành tiếng tài liệu bằng hai ngôn ngữ. Hoạt động đọc thành tiếng gồm 4 hoạt
động cụ thể: 1) Đọc tài liệu bằng tiếng mẹ đẻ - trình bày lại bằng tiếng mẹ đẻ, 2) Đọc tài
liệu bằng ngoại ngữ - trình bày lại bằng ngoại ngữ, 3) Đọc tài liệu bằng ngoại ngữ - trình
bày lại bằng tiếng mẹ đẻ, 4) Đọc tài liệu bằng tiếng mẹ đẻ - trình bày lại bằng ngoại ngữ.
Trong quá trình luyện tập để phát triển năng lực diễn đạt ngƣời học nên luyện tập theo thứ
tự từ 1- 4 các hoạt động trên.
Về hoạt động đọc tài liệu bằng tiếng mẹ đẻ - trình bày lại bằng tiếng mẹ đẻ, ngƣời
học tìm tài liệu về các chủ đề mình quan tâm bằng tiếng mẹ đẻ sau đó đọc 1-2 lần rồi tự
mình trình bày lại thành tiếng mà khơng nhìn bản gốc để xem mình nắm đƣợc những thơng
tin gì, cố gắng trình bày những thơng tin mình hiểu một cách logic, dễ hiểu. Việc trình bày
lại đƣợc các nội dung mình đã đọc bằng ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ giúp tăng cƣờng khả năng diễn
đạt bằng tiếng mẹ đẻ của ngƣời dịch khi dịch xuôi từ ngoại ngữ sang tiếng mẹ đẻ.
Về hoạt động đọc tài liệu ngoại ngữ - trình bày lại bằng ngoại ngữ, tƣơng tự nhƣ
việc đọc tài liệu bằng tiếng mẹ đẻ, ngƣời học cũng cần tìm các tài liệu bằng ngoại ngữ về
chủ đề cần luyện dịch. Ngƣời học có thể sử dụng khả năng ngoại ngữ của mình để trình
bày lại chủ đề đã đọc bằng ngoại ngữ đó. Có thể khi trình bày lại bằng ngoại ngữ, ngơn
ngữ diễn đạt có thể sẽ ngắn hoặc đơn giản hơn so với văn bản nguồn và cần chú ý chuyển
theo văn phong ngơn ngữ nói. Trình bày lại nội dung đã đọc bằng chính ngữ nguồn là
ngoại ngữ sẽ giúp ngƣời học tăng khả năng diễn đạt bằng ngoại ngữ, hỗ trợ cho quá trình
dịch ngƣợc từ tiếng mẹ đẻ sang ngoại ngữ.
150
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Về hoạt động đọc dịch tài liệu từ ngoại ngữ sang tiếng mẹ đẻ, ngƣời học sẽ tiến
hành nhìn văn bản ngoại ngữ để đọc dịch thành tiếng sang tiếng mẹ đẻ. Đây là trƣờng hợp
ngƣời phiên dịch cầm văn bản viết bằng ngữ nguồn là ngoại ngữ, đọc đến đâu dịch đến đấy
ra ngữ đích là tiếng mẹ đẻ. Nhìn văn bản có cái khó là ngƣời học bị phụ thuộc nhiều vào
cấu trúc câu của ngữ nguồn, nên khi chuyển sang ngữ đích, nếu khơng có khả năng đọc
lƣớt nhanh hai ba câu một lúc, câu đích sẽ trở nên mơ hồ hoặc lủng củng. Kỹ thuật nhìn
vào văn bản dịch địi hỏi ngƣời học rèn luyện năng lực đọc nhanh, nắm bắt đƣợc mạch ý
chính và diễn đạt một cách nhanh chóng. Khi đọc dịch nên đọc to thành tiếng với âm lƣợng
nhƣ khi nói bình thƣờng. Cần luyện đọc dịch thƣờng xuyên, lúc đầu là những tài liệu dễ,
chủ đề quen thuộc, sau dần sẽ là những tài liệu khó, chủ đề ít gặp.
Về hoạt động đọc dịch tài liệu từ tiếng mẹ đẻ sang ngoại ngữ, hoạt động này địi hỏi
ngƣời học phải có vốn từ vựng và khả năng ngữ pháp của ngoại ngữ thật tốt. Ngƣời học có
thể tìm tài liệu về những chủ đề gần gũi với độ khó vừa phải để luyện dịch. Có thể đọc
trƣớc qua bằng tiếng mẹ đẻ và đánh dấu những phần từ, cụm từ khó để tìm hiểu cách diễn
đạt trƣớc. Có thể ghi bổ sung phƣơng án dịch gợi ý bằng ngoại ngữ vào những cụm từ đó
để hỗ trợ q trình đọc dịch. Sau khi ngƣời học đã luyện dịch từ, cụm từ, từng câu đơn lẻ
nên luyện dịch với toàn bộ văn bản để luyện mức độ vận dụng một cách nhuần nhuyễn
hoặc luyện trí nhớ cũng nhƣ phản xạ với các từ vựng và ngữ pháp đã học cũng nhƣ cách
liên kết nội dung cho tồn văn bản.
Ngồi các hình thức chúng tôi gợi ý nhƣ trên, ngƣời dạy và ngƣời học hồn tồn có
thể tìm hiểu và tự đƣa ra các hình thức luyện tập phù hợp với từng năng lực cần thiết.
3. Kết luận
Phiên dịch là một hoạt động ngôn ngữ gồm 3 giai đoạn: hiểu, bảo lƣu và tái diễn
đạt. Để có thể thực hiện tốt 3 giai đoạn trong q trình phiên dịch, ngƣời phiên dịch địi hỏi
phải có những năng lực dịch thuật nhất định phù hợp với từng giai đoạn. Bài viết này đã
trình bày khái quát về quá trình phiên dịch và những năng lực cần thiết cho q trình phiên
dịch, từ đó đã phân tích và đƣa ra một số đề xuất cho hoạt động giảng dạy và học tập
chuyên ngành phiên dịch. Ngƣời học có thể chủ động rèn luyện để nâng cao các năng lực
dịch thuật của mình theo một số phƣơng pháp mà chúng tôi đã đề xuất.
Tài liệu tham khảo
Jeremy Munday (2009). Nhập môn nghiên cứu dịch thuật – Lý thuyết và ứng dụng (Trịnh Lữ dịch).
NXB Tri thức.
Komatsu Tatsuya (2005). Tsuyaku no gijutsu. Kenkyusha.
Lê Hùng Tiến (2017). Về cơ sở lý luận đào tạo biên phiên dịch ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu
Nước ngồi, 33(2), 105-117.
Nguyễn Quốc Hùng (2007). Hướng dẫn kỹ thuật phiên dịch Anh Việt, Việt – Anh. NXB tổng hợp
TP Hồ Chí Minh.
Torikai Kumiko (2013). Yoku wakaru honyakutsuyakugaku. Minervashobo.
Vũ Văn Đại (2011). Lý luận và thực tiễn dịch thuật. Đại học Quốc gia Hà Nội.
151
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
THE NECESSARY COMPETENCES FOR THE INTERPRETING
PROCESS
Abstract
Interpreting is not merely a word for word substitution from one language to another. The
process of interpreting consists of three stages. In order to perform well the interpreting
process, the interpreter requires certain competences suitable for each stage. This article
will give an overview of the interpreting process and the necessary competences for the
interpreting process, thereby making some suggestions for specialized interpreting
teaching and learning.
Keywords
interpreting, interpreting process, competences for interpreting process
152