Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.99 KB, 26 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>I. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Bối cảnh của đề tài Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự bùng nổ về tri thức, khoa học và công nghệ. Trong xu thế hội nhập quốc tế, những năm qua, ngành Giáo dục đào tạo ( GD&ĐT ) cả nước đã đạt được những thành tựu nhất định về quy mô và chất lượng. Cùng với việc nâng cao dân trí và phát triển nhân lực, bồi dưỡng toàn diện cho các thế hệ học sinh, ngành GD&ĐT đã góp phần đắc lực vào việc đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có một bộ phận là nguồn nhân lực chất lượng cao. 1.2. Lý do chọn đề tài Tuy nhiên, do những khó khăn về chủ quan và khách quan dẫn đến chất lượng và hiệu quả GD vẫn còn những hạn chế so với yêu cầu của đất nước. Đặc biệt là việc đổi mới quản lý chuyên môn, đổi mới dự giờ còn có những bất cập đòi hỏi người quản lý giáo dục phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm. Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy và quản lý , tôi nhận thấy muốn nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, việc dự giờ, rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường là vô cùng quan trọng, Đó là lí do tôi chọn đề tài : “ Một số kinh nghiệm dự giờ của trường THPT Long Thạnh » 1.3. Phạm vi và đối tượng của đề tài Phạm vi: Sáng kiến kinh nghiệm này được nghiên cứu trong phạm vi tổ chuyên môn, Đội ngũ cán bộ, giáo viên trường THPT Long Thạnh. Đối tượng nghiên cứu : Các giờ dạy, các giáo viên đi dự giờ đồng nghiệp , các tổ chuyên môn góp ý, trao đổi giờ dạy- học tại trường THPT Long Thạnh. 1.4 Mục đích nghiên cứu đề tài: Tiếp tục đổi mới công tác dự giờ nâng cao quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. 1.5 Phương pháp nghiên cứu:.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Khách thể nghiên cứu là phương pháp dạy của các giáo viên, phương pháp học của học sinh trung học phổ thông hoạt động trong lớp , đối tượng nghiên cứu là - Nghiên cứu các vấn đề lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. - Nghiên cứu thực trạng môn dạy, giờ dạy của giáo viên và việc học của học sinh trung học phổ thông và các biện pháp tổ chức dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp. - Đề xuất các biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy- học Sáng kiến kinh nghiệm này chỉ nghiên cứu trong một trường trung học phổ thông Long Thạnh mà người viết có dịp được dự giờ giáo viên . Sáng kiến kinh nghiệm thực hiện dựa trên các phương pháp nghiên cứu sau: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nhằm nghiên cứu lý luận của đề tài bằng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa những tài liệu, văn kiện, văn bản của Đảng và Nhà nước, của Bộ gíao dục và đào của Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Kiên Giang có liên quan đến đề tài. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Gồm phương pháp quan sát bằng cách đi dự giờ các lớp học, trường học quan sát cụ thể các hiện tượng liên quan đến môn dạy, giờ dạy, giờ học, lớp học . Phương pháp góp ý, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm nhằm tổng kết quy trình dự giờ, khắc phục đánh giá kết quả tiết dạy- học của giáo viên, học sinh ở các trường trung học phổ thông - Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê : Phương pháp này được tiến hành bằng cách điều tra các giờ dạy trước đây, các đánh giá; khảo sát xây dựng những phiếu điều tra, thực hiện các câu hỏi cho các đối tượng được nghiên cứu như: Giáo viên , học sinh; thống kê, hệ thống, xử lý các số liệu…v.v. - Phương pháp lấy ý kiến đồng nghiệp, các giáo viên giỏi, các nhà nghiên cứu: để rút ra những kết luận cho đề tài. 1.6. Những điểm mới trong kết quả nghiên cứu Những điểm mới cơ bản nhất trong thực hiện đề tài: “ Một số kinh nghiệm dự giờ của trường THPT Long Thạnh ».
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Làm cho cán bộ, giáo viên nhận thức đúng mục đích, ý nghĩa, phương pháp của công tác dự giờ trong trường học. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, nhằm nâng cao chất lượng dạy- học, cải tiến việc dự giờ, thăm lớp tạo ra sự đột phá về đổi mới phương pháp hiệu quả thiết thực đưa việc quản lý chuyên môn lên một bước tiến mới trong quá trình đổi mới vững chắc, toàn diện góp phần tích cực động viên phong trào thi đua dạy tốt, học tốt. 1.7. Tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn Thực hiện tốt việc quản lý chuyên môn thông qua việc dự giờ có phương pháp, kỹ năng tốt sẽ làm đòn bảy công phá sức ỳ của lối dạy học cũ, lối dự giờ cũ, đẩy mạnh phong trào thi đua, sáng tạo trong dạy- học tạo ra hiệu quả mong muốn đảm bảo chất lượng hiệu quả thiết thực ở mọi cấp học . Đây là đề tài vừa mang tính lý luận và thực tiễn vừa mang tính khoa học có tính khách quan hợp quy luật trong quá trình đẩy mạnh việc đổi mới dạy- học trong trường THPT Long Thạnh và các trường nói chung. II. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận - Quan điểm của Đảng về GD&ĐT trong giai đoạn cách mạng mới. Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định: “Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn thể xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước”. ( Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gianăm 2006) - Quan điểm và sự quản lý của Nhà nước về giáo dục..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> “ Phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng, đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô, vừa tăng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục” ; “ Xây dựng và thực hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các cấp về kiến thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời điều chỉnh, sắp xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù hợp với phẩm chất và năng lực từng người”. (Dự thảo Chiến lược phát triển GD&ĐT đến năm 2020, Bộ GD&ĐT, NXBGD – Hà Nội 2000) Căn cứ vào định hướng phát triển giáo dục Đại hội Đại biểu Chi bộ trường THPT Long Thạnh ( 2010- 2015) * Phấn đấu về Chỉ tiêu Đội ngũ cán bộ, giáo viên: - Năng lực chuyên môn của cán bộ quản lý, giáo viên và công nhân viên được đánh giá khá, giỏi trên 95%. - 100% Giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn. Không có giáo viên vi phạm pháp luật, vi phạm chuyên môn - 100% cán bộ quản lý (CBQL) , GV, sử dụng thành thạo máy tính. Số tiết dạy sử dụng công nghệ thông tin trên 40% .Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ và dạy học đạt hiệu quả. - Phấn đấu đến năm 2020 : 15% BGH, tổ trưởng chuyên môn có trình độ trên Đại học. 2.2 Cơ sở thực tiễn: Trường THPT Long Thạnh được thành lập 23 tháng 8 năm 2000 a. Những điểm mạnh: + Trường luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo tạo điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần cho giáo viên và học sinh. + Đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên: Trẻ, năng động, nhiệt tình, có trách nhiệm, yêu nghề, gắn bó với nhà trường, mong muốn nhà trường phát triển,.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> chất lượng chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm vững vàng, đa số đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục. Đội ngũ Cán bộ giáo viên, nhân viên gồm 50 đồng chí; 100% đạt chuẩn và trên chuẩn, trong đã có 2 đ/c đang theo học cao học. Trường có chi bộ Đảng trực thuộc Huyện Uỷ Giồng Riềng với 27 Đảng viên, Chi bộ luôn đạt trong sạch vững mạnh; có tổ chức Công đoàn với 50 Công đoàn viên, Công đoàn trường luôn đạt Công đoàn cơ sở vững mạnh ; Có tổ chức Đoàn TNCSHCM nhiều năm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. + Công tác tổ chức quản lý của BGH: Tận tâm. Công tác tổ chức triển khai kiểm tra đánh giá sâu sát, thực chất và đổi mới, được sự tin tưởng cao của cán bộ, giáo viên, công nhân viên nhà trường. + Cơ sở vật chất bước đầu đó đáp ứng được yêu cầu dạy và học trong giai đoạn hiện tại + Về tài chính: Đã được giao tự chủ ngân sách đảm bảo chế độ và quyền lợi cho đội ngũ. b. Những điểm hạn chế cần giải quyết: + Đội ngũ giáo viên đào tạo tại nhiều loại hình. + Chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên: năng lực chuyên môn và chất lượng các giờ lên lớp không đồng đều. + Ban Giám hiệu chưa có đầy đủ tầm nhìn chiến lược. Xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn chưa đồng bộ sát thực tế. Trường THPT Long Thạnh đang có những thuận lợi, thời cơ và cả những thách thức, mâu thuẫn cần giải quyết: 1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu chất lượng với số lượng 2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu của chương trình, sách giáo khoa với năng lực đổi mới phương pháp dạy- học của giáo viên 3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu của đổi mới toàn diện quản lý chuyên môn với khả năng chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ quản lý lãnh đạo ..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> 4. Mâu thuẫn giữa thói quen học tập theo kiểu bị động với yêu cầu đổi mới phương pháp học tập tích cực, kết hợp với tự học của học sinh. 5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu chuẩn nghề nghiệp giáo viên với sức ỳ của một bộ phận ngại đổi mới. Và giữa đánh giá giờ dạy với thực tế chất lượng giờ dạy, chất lượng giáo dục. - Nguyên nhân hạn chế tồn tại. *Nguyên nhân khách quan: - Giáo viên đào tạo ở các hệ khác nhau chính quy, tại chức, từ xa... thiếu đồng bộ về kiến thức và nghiệp vụ; - Kinh phí cho hoạt động chuyên môn của nhà trường eo hẹp nên gặp không ít khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động nghiệp vụ thường xuyên, tham quan học tập, cho GV đi học nâng cao trình độ, tăng cường CSVC và TB dạy học. * Nguyên nhân chủ quan: - Một số ít giáo viên chưa tâm huyết với nghề, không chịu học hỏi, tự học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. 2.3. Thực trạng của vấn đề Trước hết bản thân người dự giờ: Thanh tra viên, ban giám hiệu hay GV đều xác định cho mình dự giờ để rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy, cách tổ chức các hoạt động trên lớp và hiệu quả của tiết dạy. Mục đích dự giờ là để giúp đỡ GV thấy được khiếm khuyết của mình nhằm giúp đỡ để tiến bộ hơn - ngoài ra không vì mục đích tìm kiếm thiếu sót của đồng nghiệp mà phê phán. Đã từ rất lâu, việc dự giờ thăm lớp đã trở thành thông lệ ở tất cả các cấp học . Tùy vào mục đích của người đi dự. Đối với cán bộ quản lý, thanh tra là để đánh giá trình độ tay nghề từ đó giúp cho người giáo viên phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế để vươn lên, hoàn thiện. Còn đối với giáo viên với giáo viên, việc dự giờ là để học hỏi kinh nghiệm đồng thời giúp đồng nghiệp mình hoàn thiện tốt chuyên môn giảng dạy. Việc dự giờ mang lại nhiều tác dụng cho nhà trường để nâng cao chất lượng dạy- học..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Nhiều giáo viên tự tin vào tay nghề, tâm huyết với nghề, kết hợp phương pháp truyền thống với hiện đại. Do đó giờ học thực sự sinh động hấp dẫn. Nhiều giáo viên giảng dạy áp dụng đổi mới phương pháp, sử dụng tốt các phương tiện, công nghệ mới như áp dụng công nghệ thông tin; phương tiện nghe nhìn; áp dụng các phần mềm tiên tiến vào giảng dạy thu hút được đông đảo giáo viên, học sinh. Giờ dạy vì thế có tính hiệu quả cao. Tuy nhiên việc dự giờ thế nào để đạt hiệu quả lại là vấn đề ít được các trường quan tâm. Ngay cả số tiết dự giờ của mỗi giáo viên trong các trường khác nhau cũng không có sự thống nhất. Có trường 18 tiết/ giáo viên/ năm, có trường 16 tiết, có trường ít hoặc nhiều hơn. Quy trình dự giờ cũng không rõ ràng, có giáo viên đi dự không chuẩn bị ( sổ dự giờ, phiếu đánh giá, sách giáo khoa, tài liệu, Phân phối chương trình…) Giáo viên dự xong không đánh giá cụ thể, không ghi chép, đánh giá cụ thể tiến trình, các bước: Việc đánh giá giờ dạy giũa các tổ không đồng đều, mới đi vào ưu điểm chưa khái quát hết những khuyết điểm. Nghịch lý xảy ra là giờ dạy khá tốt nhiều nhưng số học sinh yếu kém cũng không ít.. Bảng 1. Thống kê số lượng giờ phân loại trong năm học 2011- 2012:. STT Môn đã dự 1 Toán 2 Văn 3 Lý 4 Tiếng Anh 5 Sử Tổng cộng. Tổng số 72 63 45 45 36 261. Tốt 72 45 41 42 36 236. Khá. Trung. 0 18 4 3 0 25. bình 0 2 0 0 0 2. Bảng 2: Khảo sát quy trình dự giờ. STT. Quy trình. Số. Tỉ lệ.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> 01 02 03 04 05 06 07 08 09. Có Xây dựng kế hoạch dự giờ Có Chuẩn bị ( sách giáo khoa, tài liệu, phiếu đánh giá, sổ ghi chép..) Có góp ý Có xếp loại sau khi dự Có ghi rõ nhận xét ưu, khuyết điểm Có tư vấn, trao đổi với người dạy Có ý kiến bất đồng giữa người dạy và người dự Góp ý giờ dự có khoa học, chi tiết Góp ý lan man, thiếu cụ thể. lượng 28. % 62,2. 20 45 35 21 45 5 19 12. 44,4 100 77,7 46,7 100 11,1 42,2 26,7. Thống kê số liệu cho thấy số giờ trung bình rất ít. Số giờ không đạt yêu cầu không có. Nguyên nhân chủ yếu có nhiều giờ tốt, khá là do giáo viên chuẩn bị kỹ. Mặt khác việc đánh giá có khi còn cảm tính, chủ quan hoặc còn chung chung chưa cụ thể Việc dự giờ còn mang nặng hình thức. Về phía người dự ( kể cả Ban giám hiệu), ít hoặc không chuẩn bị kỹ ( đọc tài liệu, xem lịch báo giảng, nội dung bài học, các đơn vị kiến thức , trọng tâm ..), ngồi không đúng vị trí, nói chuyện trao đổi khi đang dự. Vì thế , khi góp ý đồng nghiệp còn nông cạn hoặc không đi vào trọng tâm, không giúp gì cho giáo viên cải tiến phương pháp giảng dạy. Về phía người dạy , vì người đi dự góp ý chung chung hoặc né tránh những vấn đề khó nên người dạy có tâm lý dạy lơ là, chủ quan. Bởi giờ nào cũng xếp loại khá, tốt “ cho vừa lòng nhau”. Một thực tế nữa là sự, bảo thủ hoặc bất đồng chính kiến giữa người dự với giáo viên dạy, khi tiết dạy góp ý cố ý “soi” những khuyết điểm dù là rất nhỏ của nhau, thiếu thiện cảm, làm không khí góp ý căng thẳng. Sau dự giờ còn những mâu thuẫn làm cho tình đồng nghiệp phai nhạt. Sự hợp tác, trao đổi trở nên khó gần gũi, thân mật. Thực tế hiện nay có hai kiểu dạy của giáo viên . Một là vẫn trung thành với phương pháp dạy truyền thống. Vẫn thuyết trình, tràn lan, giáo viên cung cấp kiến thức dưới dạng có sẵn sách giáo khoa, thiếu sự phân hóa. Thầy áp đặt, trò thụ động, thiên về dạy, không kiểm soát được việc học. Hai là nhiệt tình đổi mới.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> phương pháp, chỉ quan tâm phương pháp mới nhưng không quan tâm tới đặc điểm môn dạy, bài dạy, lớp dạy, môi trường sư phạm, đối tượng học sinh cũng như đối tượng bài học, trọng tâm kiến thức, kỹ năng 2.4. Các biện pháp đã tiến hành 2.4.1 Biện pháp nâng cao nhận thức của Ban giám hiệu và giáo viên: 2.4.1.1. Đổi mới nhận thức về phương pháp dự giờ của Hiệu trưởng, BGH, tổ trưởng chuyên môn nhà trường Người lãnh đạo nhà trường trước hết phải là người đi đầu trong đổi mới tư duy, tầm nhìn, phương pháp làm việc. Muốn vậy, Hiệu trưởng, Hiệu phó, tổ trưởng chuyên môn phải xác định đúng ý nghĩa, yêu cầu của việc dự giờ, đánh giá, xếp loại giáo viên. Người quản lý nắm vững các văn bản chỉ đạo của Sở GD&ĐT, của Bộ GD&ĐT, phổ biến đầy đủ quy chế chuyên môn, nguyên tắc dự, phương pháp dự giờ 2.4.1.2. Đổi mới nhận thức về phương pháp dạy, phương pháp dự giờ của giáo viên Người giáo viên nhận thức đầy đủ quy chế chuyên môn, nguyên tắc , phương pháp, kỹ năng dự giờ, kỹ năng đánh giá, xếp loại đồng nghiệp * Mục đích của biện pháp ( cho cả người dạy và người dự) Trước khi muốn người khác thay đổi thì đầu tiên mỗi người phải là người cần thay đổi và khi bạn đã thay đổi thì cả thế giới này sẽ thay đổi theo bạn. Như vậy, không ai khác từ Cán bộ quản lý đến đội ngũ giáo viên phải tự đổi mới tư duy, nhận thức đúng mục đích, yêu cầu, ý nghĩa dự giờ Trước hết bản thân người dự giờ: thanh tra viên, ban giám hiệu hay GV đều xác định cho mình dự giờ để rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy, cách tổ chức các hoạt động trên lớp và hiệu quả của tiết dạy. Đòi hỏi mỗi giáo viên trong khâu chuẩn bị giáo án cũng như, trong khi tiến hành tổ chức các hoạt động dạy học, phải làm thế nào để tác động đến, từng cá nhân học sinh với những đặc điểm khác nhau về năng lực, sở thích, nhu cầu, sao cho phát huy được tối đa khả năng của bản thân mỗi học sinh trong học tập. Đứng trước nhu cầu đó đã làm nẩy sinh và thúc đẩy một cuộc vận động đổi, mới phương pháp dạy.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> học ở tất cả các cấp trong ngành giáo dục đào tạo, dần dần, khắc phục những tồn tại phổ biến của phương pháp dạy học cũ như: Thuyết trình, tràn lan, GV cung cấp kiến thức dưới dạng có sẵn, thiếu sự phân hóa. Thầy áp đặt, trò thụ động, thiên về dạy, yếu về học, không kiểm soát được việc học. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay trước yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH, đất nước, để tránh nguy cơ bị tụt hậu về kinh tế và khoa học công nghệ thì việc cấp, bách là phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Cùng với việc thay đổi về nội, dung cần có thay đổi căn bản về phương pháp dạy học. Muốn vậy phải thực hiện đổi mới giáo dục toàn diện, đổi mới, mạnh mẽ về nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn, hóa, hiện đại hóa”., Luật giáo dục năm 2005 chương II mục 2 điều 25 có ghi: “Phương pháp giáo, dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của, HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự, học; khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực, tiễn; tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”. Và, trong chương I điều 5 có ghi “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực tự, giác, chủ động tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học khả năng, thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”., Chương trình THPT được triển khai thực hiện dưới hình thức phân ban kết hợp với dạy học tự chọn, đó chính là giải pháp thực hiện dạy học phân hóa-một, trong những định hướng cơ bản của quá trình giáo dục. Dạy học phân hóa đòi hỏi, ngoài việc cung cấp những kiến thức cơ bản và phát triển những kỹ năng cần thiết, cho học sinh, còn cần chú ý tạo ra các cơ hội lựa chọn về nội dung và phương pháp, phù hợp với trình độ, năng lực nhận thức và nguyện vọng của học sinh., Thực tiễn ở các trường phổ thông hiện nay, quan điểm phân hoá trong dạy, học chưa được quan tâm đúng mức. Giáo viên chưa thực sự coi trọng yêu cầu phân hóa, trong dạy học. a) Về phía người dạy, trước hết tránh các lối mòn tư duy sau: - Người dạy than phiền hoặc đổ lỗi. Giờ dạy không thành công là do ý thức học tập của học sinh chưa tốt, các em nói chuyện riêng, không chú ý..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Người giáo viên quên mất chủ thể điều khiển hoạt động dạy học đó là người thầy. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu xem mình đã làm như thế nào, đã có những biện pháp hiệu quả nào để tổ chức giờ dạy. Việc than vãn, phàn nàn như vậy chỉ giúp chúng ta có cảm giác nhẹ nhàng hơn, an toàn hơn do không phải lỗi của mình mà thôi. Tuy nhiên cho dù chúng ta phàn nàn, kể khó, kể khổ như thế nào thì kết quả công việc vẫn vậy, chất lượng dạy học vẫn vậy thậm chí còn đi xuống. Không chỉ dừng lại ở việc phàn nàn mà chúng ta còn rất hay đòi hỏi, cơ sở vật chất phải như thế này, phải như thế kia. Và đây cũng là “cách” rất khéo, khéo léo đến mức lừa ngay chính bản thân chúng ta, biện hộ cho năng lực làm việc của chúng ta, bao gồm cả khả năng của bản thân và tính tích cực trong công việc. Vì vậy đó là một thói quen vô cùng nguy hiểm, nó tước đi sức mạnh của chúng ta trong công việc. - Giới thiệu bài có thể có cũng được, không có cũng được Về mặt tâm lý, chúng ta sẽ không bao giờ tập trung thậm chí bỏ thời gian ra để nghe ai nói một vấn đề gì mà nó không giải quyết được vấn đề cho bản thân chúng ta, cho xã hội. Tương tự như vậy nếu trong giờ học mà học sinh không biết qua buổi học này giúp các em giải quyết vấn đề gì thì các em sẽ không bao giờ có thể tập trung, hứng thú học tập. Vì vậy trước khi vào bài chúng ta nên dẫn dắt vào bài bằng cách đưa ra những tình huống cụ thể mà thông qua bài học đó các em sẽ giải thích cũng như giải quyết được. - Mình luôn đúng, hoàn hảo trước học sinh nên chỉ có mình đúng còn học sinh có thể đúng hoặc có thể sai. Hoặc luôn coi các em như trẻ con. Chính vì nhận thức như vậy mà khi các em trả lời chưa đúng các thầy cô kết luận “sai rồi”, thậm chí các em đang trả lời thì chen ngang hoặc lạnh lùng yêu cầu các em ngồi ngay xuống. Điều đó như một gáo nước lạnh dội vào niềm tin bản vào thân các em. Tại sao chúng ta lại không đợi các em nói xong, nhẹ nhàng hỏi lại các em chỗ các em sai. Nếu các em vẫn chưa phát hiện ra chúng ta nên nhẹ nhàng hỏi thêm ý kiến các em khác để các em tranh luận. Tóm lại khi giao tiếp với các em, chúng ta cần tôn trọng các em, tôn trọng các ý kiến của các em. Hãy tổ chức, định hướng cho các em tranh luận để các em hiểu, chứ tuyệt đối không được áp đặt..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Nội dung kiến thức trình bày phải chính xác. Kết quả dẫn tới những đòi hỏi cứng nhắc. - Nội dung kiến thức cần phải cung cấp đầy đủ. Cho đến thời điểm bây giờ còn rất nhiều thầy cô có suy nghĩ này. Thực tế trong 45 phút đó cần phải làm sao cung cấp đầy đủ các nội dung kiến thức của bài trong khi những nội dung đó đã có trong sách. Kết quả thầy ở trên cứ nói cứ đọc, cứ chép những cái đã có trong SGK còn học sinh ở dưới cũng cố gắng làm sao chép cho kịp cho hết điều thầy đọc. Vậy thì còn đâu lượng thời gian để củng cố, hệ thống và rèn kỹ năng cho học sinh? Nhiều giáo viên không để ý nên trong tư duy hiểu không đúng khái niệm “giờ dạy”, “tiết dạy”. Chúng ta cần hiểu đầy đủ khái niệm đó chính là “giờ dạy học”, “tiết dạy học”, tức là giờ dạy các em cách học chứ không chỉ đơn giản là dạy lại các em nội dung kiến thức đã có trong SGK. Cụ thể là không chỉ dạy các em, rèn cho các em kĩ năng tư duy khai thác các nội dung kiến thức trong SGK mà chúng ta cần rèn cho các em kĩ năng tự học và kĩ năng tiếp cận bài học một cách có hiệu quả. Việc “thương” học sinh như vậy không khác gì so với việc chúng ta dạy cho đứa trẻ tập đi. Nhưng vì sợ trẻ ngã mà chúng ta luôn luôn bên trẻ, giữ trẻ. Kết quả trẻ rất chậm biết đi, trong khi chúng ta cũng rất vất vả phải theo trẻ. - Lấy kiến thức, hiểu biết của mình làm thước đo đánh giá học sinh. Đây chính là một tư duy, hành động mang tính cảm tính rất dễ mắc phải của người giáo viên. Kết quả là việc chấm điểm, đánh giá, công nhận khả năng của các em chưa được chính xác, khách quan, chưa động viên kịp thời. Các em mới tiếp cận với kiến thức nên những sai sót xảy ra là chuyện hoàn toàn bình thường, đặc biệt là những vấn đề khó. Đừng vì vậy mà khó khăn trong việc khen ngợi cũng như cho điểm 9, điểm 10. b) Về phía người dự giờ, cũng phải thay đổi cách dự giờ, nhận xét đánh giá với các lối mòn tư duy sau:.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> - Định kiến, hẹp hòi. Đây là cách dự giờ của những người có tư tưởng hẹp, không nhìn xa, trông rộng, muốn hạ bệ đồng nghiệp hay có động cơ không tốt. Không chú ý những ưu điểm chỉ chú ý tìm những khuyết điểm người dạy. Như vậy không nhìn thấy những ưu điểm quan trọng của người dạy, không phát huy được những thế mạnh của người dạy. - Người dự cho mình cái quyền phán xét giờ dạy mà không nhận thức đúng dự giờ còn học hỏi, nhân rộng những mô hình tốt, nêu gương tốt. - Phán xét, đánh giá, xếp loại cảm tính chủ quan, áp đặt. Đây là cách dự giờ thiếu khoa học, biện chứng. Do đó, việc cho điểm, xếp loại thiếu chính xác dẫn đến việc cho điểm trong phiếu xếp loại không được hiệu quả. Người dự không quan sát đầy đủ các hoạt động của người dạy, không đưa ra những tiêu chí rõ ràng trong từng phần việc. Do đó đánh giá, nhận xét chung chung. Đây là kiểu đánh giá không hại ai. Dễ người dễ ta. Đây là kiểu dự giờ vừa hài lòng người đánh giá vừa hài lòng những người đi dự. Người dự không quan tâm chuẩn bị kỹ quy trình dự giờ - Chỉ dự giờ nhằm mục đích cho đủ chỉ tiêu . Đây là kiểu dự giờ không cần chất lượng, hiệu quả. Người dự giờ ít tập trung quan sát người dạy, người học. Nên hiệu quả góp ý chưa cao. 2.4.1.3 Biện pháp nâng cao nhận thức: a) Đối với Ban giám hiệu: - Xác định rõ mục đích yêu cầu của việc dự giờ : Trước hết bản thân người dự giờ: thanh tra viên, ban giám hiệu hay GV đều xác định cho mình dự giờ để rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy, cách tổ chức các hoạt động trên lớp và hiệu quả của tiết dạy. Mục đích dự giờ là để giúp đỡ GV thấy được khiếm khuyết của mình nhằm giúp đỡ để tiến bộ hơn - ngoài ra không vì mục đích tìm kiếm thiếu sót của đồng nghiệp mà phê phán. Tuy nhiên trong một chừng mực, nếu một giáo viên dạy liên tục nhiều tiết, không đạt yêu cầu mặc dù đồng nghiệp, BGH đã góp ý nhưng không tiến bộ thì dự giờ còn nhằm mục đích kiểm tra tay nghề, thậm chí sẽ bị xét thi đua hoặc bị xử lý theo quy định tuỳ từng trường hợp cụ thể, mỗi trường cần có quy định rõ ràng. - Xây dựng quy chế chuyên môn, quy định chỉ tiêu dự giờ phù hợp..
<span class='text_page_counter'>(14)</span> b) Các tổ, giáo viên thảo luận quy chế chuyên môn, phương pháp dự giờ đi đến thống nhất cách đánh giá, nhận xét giờ dạy đảm bảo chính xác, khoa học c) Giáo viên nhận thức quán triệt thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn, các quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên, nguyên tắc, phương pháp kỹ năng dự giờ 2.4.2. Xây dựng kế hoạch dự giờ Mục đích: Nhằm thống nhất kế hoạch dự giờ từ trên xuống dưới. Căn cứ vào kế hoạch cấp trên, Mỗi cán bộ quản lý, giáo viên lên kế hoạch cho mình. Mẫu1. Kế hoạch dự giờ, góp ý theo định kỳ hoặc đột xuất của BGH, tổ trưởng: Trang 1 Tuần. Kế hoạch dự giờ, góp ý Buổi Ngày, tháng, Dự năm. 1. sáng. O9. 10. 2012. Tiết. Môn. Tên. Bài. Chuẩn bị. lớp. Người. 11A3 2. Ngữ. dạy Cô. Vào Phủ. Sổ dự,. văn. Đầm. Chúa. Phiếu xếp. Trịnh( Lê. loại, PPCT,. Hữu Trác). SGK, Tài liệu, câu. 2. …. Trang 2 tt 1 2. ………... ……. ……. ……. ……... …………. hỏi..… ……. Kế hoạch góp ý tháng……năm. Họ và tên người dạy …………………… ……………………... Bài dạy ……………….. …………………... Thời gian (lúc..giờ..ngày..tháng..năm) ……………… ……………………. Bản kế hoạch, góp ý này thường đi kèm với sổ dự giờ và phiếu dự giờ - Lên kế hoạch dự giờ định kỳ ( kế hoạch năm, tháng, tuần) cụ thể. Lên kế hoạch giúp cho người dự và người dạy chủ động trong hoạt động. -BGH lên kế hoạch dự đột xuất ( không báo trước) Tác dụng của kế hoạch: Lên Kế hoạch cụ thể thì người dự chủ động trong hoạt động dự giờ, lên lịch góp ý đúng thời gian sẽ tránh những tiết góp ý trùng thời khóa biểu, lịch làm việc của mỗi cá nhân.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> 2.4. 3 Xây dựng quy trình dự giờ ( 5 bước). Bước 1: Chuẩn bị dự giờ -. Thông báo cho người dạy. - Nghiên cứu bài học , sách giáo khoa. Nghiên cứu kỹ chuẩn kiến thức, kỹ năng và kiến thức của bài . Trang thiết bị cần hỗ trợ cho bài giảng -. Xem thời khóa biểu, lịch báo giảng của giáo viên.. -. Xem xét trình độ học sinh lớp sẽ dự.. -. Xem xét trang thiết bị cần hỗ trợ cho bài giảng.. -. Phác thảo nội dung quan sát. Trong sổ ghi chép:. +. Quan sát hoạt động dạy: Nội dung dạy học. Tổ chức hoạt động dạy học. Sử dụng các phương pháp dạy học Sử dụng và phân phối thời gian. Sử dụng thiết bị dạy học.. +Quan sát hoạt động học: Trình độ lĩnh hội tri thức của học sinh. Nề nếp học tập của học sinh Quá trình hình thành kỹ năng-kỷ xảo của học sinh Sự tiến bộ của học sinh qua tiết dạy. Phương pháp học tập của học sinh. Kết quả học của học sinh +Quan sát các mối quan hệ trong hoạt động dạy học: Mối quan hệ giao tiếp giữa GV-HS; HS-HS. Ngôn ngữ, phát ngôn của học sinh, giáo viên. Xử lý tình huống..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Không khí làm việc. Bước 2: Tiến hành dự giờ: - Chọn vị trí ngồi dự. -Quan sát toàn bộ các bước dạy ( chú ý cả bước giới thiệu bài, củng cố, hệ thống, hướng dẫn tự học, …) -Quan sát hoạt động dạy-học. -Ghi lại hoạt động day-học. ( cần đặc biệt chú ý trọng tâm, kiến thức kỹ năng, kỹ xảo của cả giáo viên và học sinh) -Ghi nhận các đơn vị kiến thức, phương pháp, phương tiện dạy - Quan sát sự nắm bắt, vận dụng kiến thức của học sinh. - Sử dụng câu hỏi ngắn hoặc trắc nghiệm kiểm tra học sinh thông tin, tình huống xảy ra trong tiết dạy một cách trung thực (có thể ghi chú những sự việc cụ thể, những lời nói trọn vẹn…) Lưu ý : Để đánh giá đầy đủ, khoa học một tiết dạy của giáo viên, trong quá trình dự giờ, người dự cần thực hiện quan sát kỹ, đưa ra các tiêu chí phân tích với các nội dung sau: Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. - Xem xét trình độ nắm vững mục đích , yêu cầu, chương trình, nội dung giảng dạy, vị trí của bài giảng trong hệ thống chương trình. - Mức độ nắm vững kiến thức, kỹ năng của bài dạy, xác định trọng tâm, yêu tố thối thiểu cho cả lớp và những vấn đề có thể mở rộng, nâng cao cho những học sinh khá giỏi. - Việc giáo dục thái độ, tình cảm cho học sinh thông qua bài dạy. - Mục tiêu của bài dạy có đạt được không ? Năng lực sử dụng phương pháp (kỹ năng sư phạm). Phải coi đây là nội dung quan trọng nhất cần xem xét khi đánh giá năng lực sư phạm của giáo viên, vì nếu giáo viên chỉ nắm chắc kiến thức thì chưa đủ để làm.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> cho học sinh năm bài tốt. Cần giúp giáo viên nắm vững và thực hiện hai hướng đổi mới sự phạm quan trọng. - Phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh, làm cho học sinh chủ động tìm kiếm chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kỹ năng, tránh làm cho học sinh học tập một cách thụ động. - Giảng dạy theo phương pháp cá thể hoá, quan tâm đến đặc thù của các đối tượng học sinh. Trên cơ sở nắm được năng lực, nhịp độ làm việc, thói quen làm việc của từng học sinh, phát hiện những lỗ hổng kiến thức, hiểu được những khó khăn của từng đối tượng trong học tập để giúp đỡ một cách có hiệu quả. Cần xem xét trên nhiều phương diện như các khí cạnh nêu dưới đây: - Những hoạt động của giáo viên. -Chọn và sử dụng các phương pháp giảng dạy có phù hợp đặc điểm của học sinh và của môn học hay không ? (thuyết giảng, đàm thoại, trực quan, trao đổi nhóm, các hoạt động khác nhau trong cùng một giờ dạy ...); việc sử dụng ngôn ngữ có trong sáng, dễ hiểu hay không ? - Biết hình thành rõ ràng các mục tiêu và từ đó đặt vấn đề, đưa ra chỉ dẫn, yêu cầu rõ ràng, dễ hiểu hay không ? - Nghệ thuật trình bày bảng, trình bày thí nghiệm; lựu chọn, trình bày đồ dùng dạy học có đúng lúc, đúng mục đính hay không? - Phân phối thời gian có hợp lý hay không (tận dụng thời gian cho học sinh làm việc, phân bố giữa các phần, giữa lý thuyết và luyện tập)? Các biện pháp của giáo viên tổ chức, thúc đẩy học sinh chủ động học tập, sát trình độ các nhóm đối tượng và từng đối tượng. - Giáo viên có nêu vấn đề làm cho học sinh định hướng rõ ràng theo dõi bài học; các hướng dẫn, hệ thống các câu hỏi dẫn dắt cho học sinh tự tìm tòi, sáng tạo để nắm kiến thức và rèn kỹ năng hay không ? - Giáo viên có chú ý rèn luyện phương pháp học tập phù hợp với đặc điểm môn học (có ý thức phê phán, luôn luôn có ý thức lật lại vấn đề; rèn luyện khả năng.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> trình bày vấn đề, tự làm thí nghiệm; củng cố hệ thống khái niệm, rèn luyện kỹ năng sử dụng thuật ngữ, rèn luyện kỹ năng của môn học ...) hay không ? - Giáo viên có kích thích học sinh động não, chủ động làm việc, không tiếp thu thụ động hay không ? (chú ý cả 3 nhóm trình độ khá giỏi, trung bình và yếu). - GV giảng dạy và tổ chức hoạt động có phù hợp với đối tượng hay không ? -GV có tổ chức, quản lý hoạt động theo nhóm để học sinh được làm việc phù hợp với năng lực hoặc để có thể trao đổi thảo luận hay không ? - GV đã điều khiển lớp học như thế nào? việc thu hút sự chú ý của học sinh. - GV có làm chủ khi xử lý các tình huống sư phạm hay không ? - GV có đánh giá chính xác, khách quan kết quả học tập hay không ? - Gv có hướng dẫn chu đáo cho học sinh ở nhà không? - GV có làm chủ các mối quan hệ với học sinh và lớp học hay không ? - GV có tạo được không khí tin cậy,biết lắng nghe, đóng vai trò chủ đạo trong giảng dạy, làm cho học sinh tích cực học tập hay không ? Những chỉ báo quan sát để nhận xét kết quả học tập khi dự giờ. - Thái độ của học sinh trong lớp, sự tham gia xây dựng bài, tính chắc chắn của nội dung phát biểu trả lời của học sinh. - Việc vận dụng kiến thức kỹ năng để làm bài tập tại lớp. - Không khí và nhịp độ hoạt động của lớp, của nhóm. - Nền nếp học tập của học sinh : sử dụng sách giáo khoa, vở ghi, vở bài tập, cách sử dụng bảng, biểu, cách sử dụng vở nháp … - Quan hệ của các nhóm hoặc tưng học sinh với nhau. Về phương pháp quan sát, có thể đặt một vài câu hỏi hay làm một trắc nghiệm nhanh để khẳng định nhận định của mình về kết quả tiếp thu của học sinh (công việc này không bắt buộc và không làm mất thời gian của tiết dạy). Bước 3. Phân tích giờ dạy của giáo viên (với người cùng dự giờ trước khi góp ý).
<span class='text_page_counter'>(19)</span> -Căn cứ vào thông tin thu nhận. -Phân tích kết quả học tập. -Đề ra các giải pháp giúp giáo viên tiến bộ, hoàn thiện trong giảng dạy. -Dự kiến, thống nhất nội dung trao đổi với giáo viên. (Xác định nội dung trao đổi, sắp xếp các vấn đề cần trao đổi, chuẩn bị cách tiếp cận, cách trao đổi cho phù hợp, đúng đối tượng và hiệu quả.) Bước 4: Góp ý với giáo viên: Đây là bước quan trọng trong quá trình dự giờ. Người dự phải thận trọng Đưa thông tin giờ dạy đến giáo viên, tư vấn, giúp đỡ giáo viên cải tiến, hoàn thiện về quá trình giảng dạy. -Tạo cảm giác an toàn cho giáo viên trước, trong và sau khi trao đổi. -Đề nghị giáo viên nêu mục đích, yêu cầu của bài, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học đã được thể hiện trong tiết dạy so với dự kiến ban đầu đã thực hiện đến đâu, có khó khăn, thuận lợi gì trong quá trình thực hiện. -Nêu nhận xét ưu-khuyết điểm, phân tích những nguyên nhân của những ưu, khuyết điểm đó. -Cùng với giáo viên tìm ra phương án để nâng cao chất lượng bài giảng. -Nêu những lời khen cụ thể, sát thực, khả thi, kinh nghiệm tiên tiến.Tranh luận để làm sáng tỏ những vấn đề còn bất đồng hoặc chưa đầy đủ.. Bước 5: Đánh giá, xếp loại giờ dạy: Người dự cần có phương pháp đánh giá khoa học, khách quan dựa vào các tiêu chí sau: a. Đánh giá trình độ nghiệp vụ sư phạm a.1 Đánh giá trình độ nắm chương trình, nội dung giảng dạy. Tốt: Nắm vững chương trình và yêu cầu của môn học, bài học; làm chủ nội dung bài dạy, xây dựng đầy đủ và chính xác các kiến thức, kỹ năng và giáo dục thái độ cho học sinh theo yêu cầu của chương trình, xác định đúng trọng tâm bài dạy. Biết.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> quan tâm đến nhóm học sinh năng lực học tập yếu và biết mở rộng, nâng cao hợp lý kiến thức cho cả lớp hoặc cho học sinh khá giỏi, chỉ dẫn áp dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống phù hợp với nội dung bài học. Khá: Nắm vững chương trình và yêu cầu của môn học, bài học; làm chủ nội dung bài dạy, xây dựng đầy đủ và chính xác các kiến thức, kỹ năng và giáo dục thái độ cho học sinh theo yêu cầu của chương trình, xác định đúng trọng tâm bài dạy. Biết mở rộng nâng cao cho cả lớp hay cho những học sinh khá giỏi, chỉ dẫn cho học sinh áp dụng kiến thức vào cuộc sống (khác với loại giỏi là việc mở rộng nâng cao kiến thức có thể chưa hợp lý, việc áp dụng các kiến thức vào cuộc sống có thể chưa thật phù hợp với nội dung bài học). Đạt yêu cầu: Nắm vững chương trình và yêu cầu của môn học, bài học; xây dựng đầy đủ và chính xác kiến thức, kỹ năng và giáo dục thái độ cho học sinh theo yêu cầu của chương trình, có thể có sai sót không đánh kể, không ảnh hưởng đến việc xây dựng các kiến thức, kỹ năng cơ bản cho học sinh xác đinh chưa rõ nhưng không quá sai lệch trọng tâm bài dạy. liên hệ thực tế còn hạn chế. Chưa đạt yêu cầu: Phạm một trong hai trường hợp sau đây: - Tuy kiến thức chính xác nhưng không nắm được yêu cầu chương trình của môn học, bài học, hoặc quá cao so với yêu cầu hoặc trình bày lan man. - Có nhiều sai sót nghiêm trọng trong kiến thức, kỹ năng làm cho học sinh không nắm được bài. a.2. Đánh giá trình độ vận dụng phương pháp. Tốt: Biết căn cứ vào nội dung, mục đích yêu cầu, đối tượng học sinh để lựa chọn phương pháp thích hợp, vận dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học. Việc vận dụng phương pháp đạt các yêu cầu sau đây: - Trình bày rõ ràng, ngôn ngữ (nói và viết bảng) chính xác, trong sáng, có củng cố khắc sâu. - Sử dụng đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học (theo yêu cầu của bài dạy) hợp lý..
<span class='text_page_counter'>(21)</span> - Biết hướng dẫn phương pháp học tập cho học sinh (phương pháp chung và phương pháp môn học). - Biết tổ chức cho học sinh làm việc nhiều trên lớp. Mọi học sinh đều được làm việc theo khả năng của mình. - Biết gợi mở, hướng dẫn để học sinh tự tìm tòi kiến thức, có nhiều biện pháp phát huy tính chủ động của học sinh. -Quan tâm đên các đối tương khác nhau trong việc giao bài tập về nhà … - Tiến trình tiét học hợp lý, thu hút được chú ý của mọi học sinh, phân phối thời gian thích hợp cho các phần, các khâu, giữa hoạt động của thầy và trò. - Quan hệ thầy trò thân ái. Khá: Biết căn cứ vào nội dung bài, vào mục đích yêu cầu, vào đối tượng học sinh để xác định phương pháp thích hợp, phải đạt các yêu cầu sau đây: - Trình bày rõ ràng, ngôn ngữ (nói và viết bảng) chính xác, trong sáng, có củng cố khắc sâu. - Sử dụng đồ dùng dạy học (nếu cần) hợp lý. -Có tổ chức cho học sinh làm việc trên lớp, nhiều học sinh được làm việc. - Biết gợi mở, hướng dẫn để học sinh tự làm tìm tòi kiến thức, tuy nhiên có chỗ còn lúng túng. - Quan tâm đến các đối tượng khác nhau khi giao bài tập, hướng dẫn riêng. - Tiến trình tiết học hợp lý, thu hút được chú ý của đại bộ phận học sinh, phân phối thời gian thích hợp cho các phần các khâu. - Quan hệ thầy trò thân ái. Lưu ý: nếu giáo viên dạy một lớp trình độ học sinh quá kém thì ở hai mức tốt và khá không yêu cầu cao về việc hướng dẫn học sinh tìm tòi kiến thức nhưng các yêu cầu khác vẫn phải đạt như trên. Đạt yêu cầu: Phải đạt các yêu cầu dưới đây: - Trình bày rõ ràng, ngôn ngữ (nói và viết bảng) chính xác, có củng cố..
<span class='text_page_counter'>(22)</span> - Có sử dụng đồ dùng hạy học (nếu cần) có sẵn trong phòng thí nghiệm hay dễ kiếm. - Có tổ chức cho học sinh làm việc trên lớp nhưng có thể hiểu quả chưa cao. - Có chú ý hướng dẫn để học sinh tự tìm tòi kiến thức, tuy nhiên có chỗ còn lúng túng. - Chú ý quan tâm đến các đối tượng khác nhau trong việc giao bài tập, hướng dẫn riêng. - Tiến trình tiết học hợp lý, thu hút được chú ý của đa số học sinh. - Quan hệ thầy trò bình thường. Chưa đạt yêu cầu: Nếu phạm vào một trong các trường hợp sau đây: - Còn nhiều lúng túng, chưa bao quát được lớp, phương pháp kém hiệu quả. - Chỉ dạy theo lối đọc chép. - Có thái độ, hành vi tỏ ra không tôn trọng nhân cách học sinh. a. 3. Đánh giá hiệu quả tiết dạy thông qua kết quả học tập của học sinh. Xem xét việc nắm các kiến thức kỹ năng cơ bản, hình thành tình cảm, thái độ của học sinh. Tốt: Học sinh cả lớp hăng hái và có nền nếp học tập, hầu hết biết vận dụng kiến thức, kỹ năng thành thạo. Khá: Đa số học sinh hăng hái, nền nếp học tập tốt, phần lớn biết vận dụng kiến thức kỹ năng. Đạt yêu cầu: Học sinh hăng hái học tập và biết vận dụng kiến thức, kỹ năng. Chưa đạt yêu cầu: học sinh thiếu hăng hái học tập, nhiều học sinh chưa vận dụng được kiến thức, kỹ năng. Ghi chú: có thể đánh giá hiệu quả tiết dạy thông qua quan sát việc học tập của học sinh mà không nhất thiết phải kiểm tra kiến thức của học sinh. Đánh giá phân loại một tiết dạy được chi tiết hoá tại các văn bản hướng dẫn riêng cho bậc trung học..
<span class='text_page_counter'>(23)</span> Căn cứ phiếu điểm, biểu điểm. Người dự và người dạy ký tên trong phiếu. Hoàn thành hồ sơ dự giờ đảm bảo chính xác, khách quan, vô tư. 2.4.4. Kết quả đạt được Trong quá trình quản lý chỉ đạo chuyên môn, triển khai kế hoạch, phương pháp, nghiệp vụ, hoạt động dự giờ của 7 tổ chuyên môn, tôi đã làm bảng tổng kết sau: Trước khi thực hiện đề tài:. STT 01 01 02 03. 04. Quy trình dự giờ ( qua thực tế dự giờ góp ý các tổ, GV, Số. Tỉ lệ. khảo sát sổ dự giờ, phiếu dự giờ) lượng Số giáo viên đi dự có chuẩn bị PPCT, SGK, tư liệu, phiếu 16/ 45 đánh giá, kế hoạch dự giờ Số giáo viên có sổ ghi chép cụ thể ưu, khuyết, phân tích từng. %. hoạt động 12/45 Số giáo viên dự giờ góp ý chi tiết, khách quan, khoa học,. 26,7. đánh giá đầy đủ Số giáo viên đánh giá một tiết dạy tập trung vào : - Những hoạt động của giáo viên - Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm - Trình độ vận dụng phương pháp - Đánh giá hiệu quả tiết dạy thông qua kết quả học tập của. 19 /45. 42,2. 22/45 23/45 16/45. 48,9 51,1 35,6. học sinh ( có phát câu hỏi cho học sinh trả lời ngắn) 11/45 - Số GV chỉ đánh giá bằng phiếu điểm, không ghi rõ nhận xét 28/45. 24,4 62,2. 35,6. Kết quả Sau khi thực hiện đề tài. STT 01 02 03 03. Quy trình dự giờ (( qua thực tế dự giờ góp ý các tổ, GV, Số. Tỉ lệ. qua khảo sát sổ dự giờ, phiếu dự giờ) lượng Số giáo viên đi dự có chuẩn bị PPCT, SGK, tư liệu, phiếu 36/ 45 đánh giá Số giáo viên có sổ ghi chép cụ thể ưu, khuyết, phân tích từng. %. hoạt động 32/45 Số giáo viên dự giờ góp ý đồng nghiệp chi tiết, khách quan,. 71,1. khoa học Số giáo viên đánh giá một tiết dạy tập trung vào : - Những hoạt động của giáo viên - Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm - Trình độ vận dụng phương pháp - Đánh giá hiệu quả tiết dạy thông qua kết quả học tập của. 30/45. 66,7. 38/45 33/45 23/45. 84,4 73,3 51,1. học sinh ( có phát câu hỏi cho học sinh trả lời ngắn). 21/45. 46,7. 80.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> 04. - Số GV chỉ đánh giá bằng phiếu điểm, không ghi rõ nhận xét 6/45. 13,3. Sau khi áp dụng đề tài, giáo viên đi dự giờ có chuẩn bị chu đáo, có xây dựng kế hoạch, quy trình cụ thể. Nhiều giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, không khí thảo luận tranh luận sôi nổi. kết quả giờ dạy được đánh giá càng ngày càng có chiều sâu thực sự. Việc cho điểm cũng đạt tính chính xác cao. Vì vậy mà chất lượng dạy- học nâng lên. Giáo viên có cơ sở đánh giá, tự tin hơn. III. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Những bài học kinh nghiệm Trong quá trình thực hiện đề tài “Một số kinh nghiệm dự giờ của trường THPT Long Thạnh » Chúng tôi đã và rút ra những bài học kinh nghiệm như sau: Ở đây chúng tôi áp dụng một nguyên tắc rất đơn giản “Trước khi muốn người khác thay đổi thì đầu tiên bạn phải là người cần thay đổi và khi bạn đã thay đổi thì cả thế giới này sẽ thay đổi theo bạn.” - Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận về đổi mới phương pháp dạy- học phương pháp dự giờ trong trường THPT. - Đề xuất được giải pháp cấp thiết cần phải xây dựng đầy đủ quy chế chuyên môn, tiến trình dự giờ ở trường THPT, khắc phục khó khăn và hạn chế trong tình hình thực tế dạy và học của trường THPT hiện nay. - Qua thực hiện đề tài, tôi rút ra bài học cho mình : Nếu Hiệu phó, Hiệu trưởng là tấm gương sáng trong chuyên môn nghề nghiệp, có nhiều tìm tòi đột phá quản lý thì việc quản lý chuyên môn sẽ có hiệu quả chuyển biến trong cả một đội ngũ. Ngược lại, Ban Giám hiệu thiếu sáng tạo, không có tầm nhìn, không đưa ra được những kế hoạch cụ thể thì dù có nhiều khẩu hiệu vẫn không khả thi. 3.2. Ý nghĩa của của kinh nghiệm - Kết quả bước đầu thực hiện quy trình dự giờ ở trường THPT Long Thạnh mà tôi thực hiện cho thấy đã phát huy tác dụng rõ rệt trong công tác quản lý chuyên môn. Đó là về phía người dạy sau khi được góp ý, thầy cô giáo tự tin, bản lĩnh, sáng tạo tự tìm tòi, đổi mới cách dạy. Giáo viên tận tâm, sử dụng đồ dùng dạy học, tăng cường rèn kỹ năng cho học sinh. Tiết học sôi nổi, hấp dẫn. Còn người dự.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> cũng hiểu rõ những việc phải làm, từng bước dự giờ. Kết quả đánh giá đồng nghiệp càng rõ ràng hơn, khoa học hơn. Công tác giáo dục nâng cao nhận thức , tập huấn phương pháp dự giờ cho giáo viên có tác động tích cực tạo động lực cho các hoạt động khác tích cực góp phần thúc đẩy các hoạt động của nhà trường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hàng năm. 3.3. Khả năng ứng dụng Đề tài này đã áp dụng trong trường THPT Long Thạnh và đã xây dựng thành quy định cụ thể rõ ràng trong bản quy chế chuyên môn có thể áp dụng chung trong các cấp học. Tùy theo đặc thù từng trường, Hiệu Trưởng, Hiệu phó xây dựng quy trình sao cho thống nhất từ trên xuống. 3.4. Những kiến nghị, đề xuất Hoạt động dự giờ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đòi hỏi nhiều công việc, hoạt động. Vì vậy Mỗi ban Giám hiệu phải coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong việc đổi mới phương pháp, đổi mới quản lý. Trước hết, nhận thức đúng, xác định rõ yêu cầu, mục đích dự giờ thăm lớp. Người dự giờ phải là người có tâm, có trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, nắm rõ quy trình, phương pháp kỹ năng dự giờ. Người dạy cũng phải xác định rõ các quy trình của người dự từ đó thực hiện đầy đủ nhiệm vụ giảng dạy làm hết trách nhiệm. Cả hai phía đều có một một mục đích là nâng cao chất lượng chuyên môn, tự đổi mới. Phải tránh cho việc dự giờ là một gánh nặng, chạy theo số lượng mà không chú ý đến chất lượng dự giờ. Người dự giờ coi việc dự giờ là trách nhiệm là nghĩa vụ là niềm vui là vinh dự. Vì vậy phải chuẩn bị chu đáo, phải tiến hành đầy đủ các bước, đánh giá đồng nghiệp thỏa đáng, biết cầu thị, lắng nghe ý kiến phản hồi, xếp loại khách quan, công bằng chính xác. Người dạy lắng nghe ý kiến người dự, bổ sung, ghi nhận những ý kiến đúng, chia sẻ, thân ái, đoàn kết. Có như vậy việc dự giờ mới trở thành phong trào thi đua để mỗi giáo viên tự tin, đổi mới, hoàn thiện làm cho chất lượng dạy- học được nâng lên rõ rệt..
<span class='text_page_counter'>(26)</span> Hết /. Trần Đức Thủy.
<span class='text_page_counter'>(27)</span>