1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………..................................................1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG……………………………………………………...4
2
LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển và bùng nổ của các đơ thị có quy mơ ở Thành Phố Hồ Chí Minh và các
vùng lân cận đã tạo nên nhiều vấn đề môi trường đô thị cần phải giải quyết, trong đó có
tình hình ngập lụt tại các đơ thị. Thành Phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu tun chiến với
tình hình ngập lụt gần 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên sau ngần ấy thời gian đầu tư tiền
của và cơng sức tình trạng ngập lụt ở Thành Phố Hồ Chí Minh nhìn chung vẫn chưa có
chuyển biến gì đáng kể. Thành Phố Hồ Chí Minh vẫn cịn khoảng 100 điểm ngập lụt
sau mưa. Vậy nguyên nhân chính là do đâu? Đâu là giải pháp thiết thực để giải quyết
triệt để tình trạng ngập lụt sau cơn mưa này? Đây là hai câu hỏi lớn nhất mà mỗi người
dân sống học tập và làm việc tại đây đều muốn có câu trả lời. Tình trạng ngập lụt ở
Thành Phố Hồ Chí Minh đang là một trong những đề tài nóng bỏng trong các cuộc hội
thảo của giới quản lý lẫn các nhà khoa học. “Thực trạng lũ lụt ở thành phố ta hiện nay
nguyên nhân và giải pháp” là một đề tài được sự quan tâm của rất nhiều người bởi vì
nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ. Đây cũng chính là lý do nhóm chúng em
chọn đề tài này để tiến hành nghiên cứu và thực hiện.
Bài tiểu luận được thực hiện trong khoảng thời gian 4 tuần. Bước đầu đi vào thực tế,
tìm hiểu về vấn đề nhức nhối trong xã hội, kiến thức của em cịn nhiều hạn chế và bỡ
ngỡ. Do vậy, khơng tránh khỏi những thiếu sót ban đầu là chắc chắn, em rất mong nhận
được ý kiến đóng góp quý báu của thầy và các bạn học trong cùng lớp để kiến thức của
em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Phan Quốc Thái đã tận tâm hướng dẫn chúng em qua
từng buổi học trên lớp. Nếu không có những lời hướng dẫn, dạy bảo của thầy thì em
nghĩ bài tiểu luận của nhóm em rất khó có thể hoàn thiện được. Một lần nữa em xin
chân thành cảm ơn thầy. Sau cùng em xin kính chúc thầy thật dồi dào sức khỏe, niềm
tin để tiếp tục sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
3
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG
1 Lý luận chung:
1.1 Cơ sở lý luận:
1.1.1 Ngập lụt: là hiện tượng mặt đất bị
ngập
nước do ảnh hưởng của mưa lớn, lũ,
triều
cường, nước biển dâng.
1.1.2 Lũ: là hiện tượng nước sông dâng cao
trong một khoảng thời gian nhất định,
sau
đó giảm dần.
1.1.3 Triều cường: là cường độ nước dâng lên và rút xuống.
1.1.4 Đơ thị hóa:
• Là sự mở rộng của đơ thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đơ thị hay diện
tích đơ thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể
tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó
cịn được gọi là mức độ đơ thị hóa; cịn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc độ đơ thị
hóa.
• Đơ thị hóa là q trình phát triển rộng
rãi lối sống thị thành thể hiện qua các mặt dân
số, mật độ dân số, chất lượng cuộc sống,...
• Sự tăng trưởng của đơ thị được tính
trên cơ sở sự gia tăng của đơ thị so với kích
thước (về dân số và diện tích) ban đầu của đơ
thị. Do đó, sự tăng trưởng của đơ thị khác tốc
độ đơ thị hóa (vốn là chỉ số chỉ sự gia tăng theo các giai đoạn thời gian xác định như 1
năm hay 5 năm).
• Đơ thị hóa có các tác động khơng nhỏ đến sinh thái và kinh tế khu vực.
4
1.2 Cơ sở thực tiễn:
1.2.1 Điều kiện tự nhiên:
1.2.1.1 Vị trí địa lý:
• TP.Hồ Chí Minh nằm trong
toạ độ địa lý
khoảng 10 0 10’ – 10 0 38 vĩ độ bắc và
106 0 22’ –
106 054 ’ kinh độ đông . Phía Bắc giáp
tỉnh
Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh ,
Đông
và
Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông
Nam
giáp
tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây
Nam
giáp
Bình
tỉnh Long An và Tiền Giang
• TP.Hồ Chí Minh cách thủ đơ Hà Nội gần 1.730km đường bộ, nằm ở ngã tư
quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Ðông sang Tây, là tâm
điểm của khu vực Đông Nam Á. Trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km đường
chim bay. Đây là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh trong vùng và là cửa ngõ quốc
tế . Với hệ thống cảng và sân bay lớn nhất cả nước, cảng Sài Gòn với năng lực hoạt
động 10 triệu tấn /năm. Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất với hàng chục đường bay chỉ
cách trung tâm thành phố 7km.
1.2.1.2 Địa hình:
• Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng
chuyển tiếp giữa miền Ðông Nam bộ và đồng bằng sông
Cửu Long. Ðịa hình tổng qt có dạng thấp dần từ Bắc
xuống Nam và từ Ðơng sang Tây. Nó có thể chia thành 3
tiểu vùng địa hình.
• Vùng cao nằm ở phía Bắc - Ðông Bắc và một phần Tây Bắc (thuộc bắc
huyện Củ Chi, đông bắc quận Thủ Ðức và quận 9), với dạng địa hình lượn sóng, độ cao
trung bình 10-25 m và xen kẽ có những đồi gị độ cao cao nhất tới 32m, như đồi Long
Bình (quận 9).
5
6
•
Vùng thấp trũng ở phía Nam-Tây Nam và Ðơng Nam thành phố (thuộc các
quận 9, 8,7 và các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Vùng này có độ
•
cao trung bình trên dưới 1m và cao nhất 2m, thấp nhất 0,5m.
Vùng trung bình, phân bố ở khu vực Trung tâm Thành phố, gồm phần lớn
nội thành cũ, một phần các quận 2, Thủ Ðức, toàn bộ quận 12 và huyện Hóc
•
Mơn. Vùng này có độ cao trung bình 5-10m.
Nhìn chung, địa hình Thành phố Hồ Chí Minh khơng phức tạp, song cũng
khá đa dạng, có điều kiện để phát triển nhiều mặt.
1.2.1.3 Địa chất và đất đai:
•
Ðất đai Thành phố Hồ Chí Minh được hình thành trên hai tướng trầm tích-
•
trầm tích Pleieixtoxen và trầm tích Holoxen.
Trầm tích Pleixtoxen (trầm tích phù sa cổ): chiếm hầu hết phần phía Bắc,
Tây Bắc và Ðông Bắc thành phố, gồm phần lớn các huyện Củ Chi, Hóc mơn,
Bắc Bình Chánh, quận Thủ Ðức, Bắc-Ðơng Bắc quận 9 và đại bộ phận khu
•
vực nội thành cũ.
Ðiểm chung của tướng trầm tích này, thường là địa hình đồi gị hoặc lượn
sóng, cao từ 20-25m và xuống tới 3-4m, mặt nghiêng về hướng Ðông Nam.
Dưới tác động tổng hợp của nhiều yếu tố tự nhiên như sinh vật, khí hậu, thời
gian và hoạt động của con người, qua q trình xói mịn và rữa trơi..., trầm
tích phù sa cổ đã phát triển thành nhóm đất mang những đặc trưng riêng.
Nhóm đất xám, với qui mơ hơn 45.000 ha, tức chiếm tỷ lệ 23,4% diện tích
•
đất thành phố.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, đất xám có ba loại: đất xám cao, có nơi bị bạc
màu; đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và đất xám gley; trong đó, hai loại
đầu chiếm phần lớn diện tích. Ð?t xám nói chung có thành phần cơ giới chủ
yếu là cát pha đến thịt nhẹ, khả năng giữ nước kém; mực nước ngầm tùy nơi
và tùy mùa biến động sâu từ 1-2m đến 15m. Ðất chua, độ pH khoảng 4,05,0. Ðất xám
•
tuy nghèo dinh dưỡng, nhưng đất có tầng dày, nên thích hợp cho sự phát
triển của nhiều loại cây trồng nơng lâm nghiệp, có khả năng cho năng suất
và hiệu qủa kinh tế cao, nếu áp dụng biện pháp luân canh, thâm canh tốt.
•
Nền đất xám, phù hợp đối với sử dụng bố trí các cơng trình xây dựng cơ bản.
Trầm tích Holoxen (trầm tích phù sa trẻ): tại thành phố Hồ Chí Minh, trầm
tích này có nhiều nguồn gốc-ven biển, vũng vịnh, sơng biển, aluvi lịng sơng
và bãi bồi... nên đã hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa có
diện tích 15.100 ha (7,8%), nhóm đất phèn 40.800 ha (21,2%) và đất phèn
mặn (45.500 ha (23,6). Ngồi ra có một diện tích nhỏ khoảng hơn 400 ha
(0,2%) là "giồng" cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mịn trơ sỏi đá
ở vùng đồi gị.
1.2.1.4 Khí hậu thời tiết:
•
Lượng
mưa
cao,
bình
qn/năm 1.949 mm. Năm cao
nhất 2.718 mm (1908) và năm
nhỏ
nhất 1.392 mm (1958). Số
ngày mưa trung bình/năm là
159
ngày. Khoảng 90% lượng mưa
hàng năm tập trung vào các
tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11; trong đó hai tháng 6 và 9 thường có
lượng mưa cao nhất. Các tháng 1,2,3 mưa rất ít, lượng mưa khơng đáng kể.
Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố khơng đều, có
khuynh hướng tăng dần theo trục Tây Nam - Ðông Bắc. Ðại bộ phận các
quận nội thành và các huyện phía Bắc thường có lượng mưa cao hơn các
•
quận huyện phía Nam và Tây Nam.
Ðộ ẩm tương đối của khơng khí bình qn/năm 79,5%; bình qn mùa mưa
80% và trị số cao tuyệt đối tới 100%; bình qn mùa khơ 74,5% và mức thấp
•
tuyệt đối xuống tới 20%.
Về gió, Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính và
chủ yếu là gió mùa Tây - Tây Nam và Bắc - Ðơng Bắc. Gió Tây -Tây Nam
từ Ấn Ðộ Dương thổi vào trong mùa mưa, khoảng từ tháng 6 đến tháng 10,
tốc độ trung bình 3,6m/s và gió thổi mạnh nhất vào tháng 8, tốc độ trung
bình 4,5 m/s. Gió Bắc- Ðơng Bắc từ biển Đơng thổi vào trong mùa khô,
khoảng từ tháng 11 đến tháng 2, tốc độ trung bình 2,4 m/s. Ngồi ra có gió
tín phong, hướng Nam - Ðơng Nam, khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 tốc độ
trung bình 3,7 m/s. Về cơ bản TPHCM thuộc vùng khơng có gió bão. Năm
1997, do biến động bởi hiện tượng El-Nino gây nên cơn bão số 5, chỉ một
phần huyện Cần Giờ bị ảnh hưởng ở mức độ nhẹ.
1.2.2 Đánh giá tình trạng ngập lụt:
•
Trước hết, ngập lụt khơng phải là một hiện tượng mới và hiếm có ở Việt
Nam. Tồn bộ khu vực đồng bằng Bắc Bộ hiện nay vốn là vùng đầm lầm và chỉ
có thể trở thành nơi định cư của con người khi ông cha chúng ta biết đắp đê tri
thủy và làm thủy lợi để tát cạn vùng đầm lầy này. Tuy nhiên, bất chấp kinh
nghiệm chống chọi hàng ngàn năm, lũ lụt vẫn là dạng thiên tai phổ biến nhất và
có sức tàn phá ghê gớm nhất ở Việt Nam. Theo trang thông tin Prevention Web,
lũ lụt đang ảnh hưởng đến cuộc sống của 4% dân số và gây thiệt hại 3% GDP
của Việt Nam. Lũ lụt như vậy còn là một trải nghiệm phổ biến ở Việt Nam.
Thực tế này có thể làm giảm tính trầm trọng của vấn đề ngập lụt tại TP HCM
trong nhận thức của cộng đồng nói chung trong đó có các cơ quan chức năng
bởi ngập lụt tại thành phố không gây ra thiệt hại về người và thiệt hại không
đáng kể về tài sản so với lũ lụt tại các địa phương khác. (Nguồn:
/>•
Đã đầu tư gần 29.000 tỷ đồng từ 2008, nhiều khu vực trước đây ở TP HCM
được ví như “rốn ngập” nay khơng cịn nữa nhưng những tuyến đường chưa
từng ngập giờ trở thành "sơng". (Nguồn:
•
/>Ngập khơng chỉ do biến đổi khí hậu mà cịn do q trình đơ thị hóa q
nhanh; nhiều người dân thiếu ý thức khi xả rác, chất thải trực tiếp vào hệ thống
cống, rãnh,…khiến tình trạng ngập ở thành phố càng nghiêm trọng.
Mực nước các sông, kênh của TPHCM đo được ở trạm Phú An tăng đến
1.5cm/năm.
•
Những cơn mưa lớn ngày một dày đặc hơn với vũ lượng trung bình năm sau cao
hơn năm trước 0.8mm. Nếu trước đây cứ 5 năm mới có những cơn mưa trên thì
nay chỉ mới có 3 năm đã xuất hiện. Còn những cơn mưa với vũ lượng khoảng
100mm thì năm nào cũng xuất hiện. Đặc biệt, vào đầu mùa mưa năm nay trên
địa bàn TPHCM đã xuất hiện cơn mưa hiếm thấy với lượng mưa 117m.
• Mưa lớn kéo dài trong nhiều tháng qua tại TPHCM đã có trên 100 vị trí thường
xun ngập trong năm, trong đó khu vực nội thành có đến 60 điểm. Nhiều nhất
các tuyến đường Nguyễn Hữu Cảnh, Điện Biên Phủ, D2, D3, Xô Viết Nghệ
Tĩnh, Cao Thắng, Trần Xuân Xoạn,…không chỉ gây ngập sau mưa, đến sáng
hôm sau hoặc thậm chí nhiều ngày sau tại nhiều khu vực nêu trên vẫn cịn đang
trong tình trạng ngập nước, lượng nước mưa khơng thể tiêu thốt được do gặp
triều cường, hoặc do hệ thống cống, rãnh xuống cấp không đủ đáp ứng như cầu
thoát nước.
NHỮNG ĐIỂM NGẬP TPHCM:
•
Có
mặt trên đường khi cơn mưa vừa ngớt, các điểm ngập cố hữu như tuyến đường
Cô Bắc, Cô Giang, Phan Đình Phùng, Nguyễn Hữu Cảnh, Đinh Bộ Lĩnh,… đã
biến thành sông, nước dâng trên mặt đường từ 30 – 50 cm, thậm chí có nơi
80cm.
• Những tuyến đường trước đây hiếm khi xảy ra ngập như Trần Hưng Đạo thì lúc
này cũng khơng thốt nổi tình trạng ngập nặng. Khơng cịn nhìn thấy đường để
đi, nước ngập lưng bánh xe, rác nổi lềnh bềnh, xe máy hầu như chạy qua những
tuyến đường ngập đều khơng thốt khỏi tình trạng “chết máy”. Thật xót xa khi
chứng kiến những hình ảnh người dân phải đẩy bì bỏm, dò dẫm lội từng bước
trong dòng nước mưa cuốn xiết pha lẫn với nước cống tràn lên đen ngõm. Kẻ thì
đi bn, người thì đi làm, đi học cứ thế phải đắm chìm trong dịng nước dơ bẩn
ấy, và với bộ dạng uể oải mỗi khi đường ngập như thế.
• Đáng chú ý, những điểm ngập nặng lại rơi vào những khu vực gần các tuyến
sông, rạch, cửa xả nhưng phải mất hàng giờ sau mới rút hết.
• Do mưa đúng vào giờ tan tầm nên lượng người trú mưa đồng loạt đổ ra đường
cùng lúc càng khiến tình trạng kẹt xe thêm nghiêm trọng. Hàng loạt vụ kẹt xe
kéo dài tại nhiều tuyến đường như Nam Kì Khởi Nghĩa, Bạch Đằng, khu vực
vòng xoay Hàng Xanh,…khiến người dân vừa thoát khỏi cảnh ngập nước, vừa
rơi vào ngay vùng kẹt xe. Mưa khơng dứt, phải trân mình hàng tiếng đồng hồ
•
trên đường, bị nhiễm lạnh, khơng những thế cịn phải hít khói bụi của xe.
TPHCM dù chưa gặp trận “đại hồng thuỷ” như đã xảy ra ở Hà Nội năm 2008
(Nguồn: nhưng TPHCM đã xảy ra những
trận mưa lịch sử, gây thiệt hại nặng nề về tài sản. Chưa kể, TPHCM là vùng
thấp, không chỉ bị tác động bởi mưa, triều cường dâng mà còn phải “chịu trận”
trước những đợt xả lũ của hồ chứa nước Dầu Tiếng (Tây Ninh), Trị An (Đồng
Nai), và hồ thủy điện ở Bình Phước.
• Đã có dự báo, nếu xảy ra lũ lớn thì phần lớn diện tích của quận 2, 7, 8, 9, huyện
Nhà Bè…sẽ chìm sâu trong nước. Hiện tượng đảo nhiệt đô thị đã làm cho lượng
mưa tại thành phố trong 20 năm gần đây tăng 16ml, với mức bình quân
0,8ml/năm. Hiện tượng gia tăng đột ngột về lượng mưa đã gây ra nhiều biến đổi
phức tạp của chu kỳ ngập lụt, trong khi đó, hệ thống thốt nước cũ đã bị quá tải.
Nếu theo kịch bản nước biển dâng cao trong 50 năm tới thì phần lớn người dân
các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long sẽ “chạy” về thành phố, trong khi
đến năm 2020, toàn bộ khu vực thấp trũng của địa phương sẽ bị đơ thị hóa toàn
bộ. Vì vậy, cần phải có những cách nhìn nhận mới để thiết kế hoặc duy tu cho
những cơng trình chống ngập phù hợp và hiệu quả.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA
VẤN ĐỀ
2
Thực trạng vấn đề:
2.1 Thực trạng vấn đề ngập lụt ở tp HCM trong 10 năm gần đây:
•
Thành phố Hồ Chí Minh là một đơ thị thường xuyên bị tác động của triều
cường, mưa lớn vào mùa mưa, hệ thống thoát nước lạc hậu đang trong quá trình
cải tạo khiến ngập lụt thường xảy ra trên diện rộng. Thực trạng này đang ngày
càng gây nhiều tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, sự phát triển bền vững ở
đô thị lớn nhất cả nước, đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi những giải pháp cả trước
mắt và lâu dài.
• Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu " tuyên chiến '' với tình trạng ngập lụt từ
gần 10 năm nay. Tuy nhiên sau ngần ấy năm đầu tư tiền của và cơng sức, tình
trạng ngập lụt ở tp HCM nhìn chung vẫn chưa có chuyển biến gì đáng kể.
Trước đây:
Tháng 11/2006 tồn thành phố còn 105 điểm ngập (47 điểm ngập do mưa, 51
điểm ngập do mưa kết hợp với triều, một số điểm ngập do khơng có cống). Các
trường hợp ngập điển hình như khu vực Bùng binh Cây Gõ- Tân Hịa Đơng- Bà
Hom ( Quận 6 ); khu vực Bình Thạnh ( đường Nguyễn Hữu Cảnh ); quận 2
( phường Thảo Điền ); ngã tư Bốn Xã (quận Bình Tân); kênh Ba Bò ( quận Thủ
Đức); đường Đỗ Xuân Hợp (quận 9)... Đỉnh điểm là ngày 7/11/2006 triều cường
đã gây ra ngập tại tp HCM trên diện rộng ảnh hưởng đến sinh hoạt, sức khỏe
của người dân và gây cản trở giao thông của thành phố. Triều cường đã gây
ngập tại hơn 40 điểm trong nội đô, đáng chú ý là đã phát sinh 6 điểm ngập mới
trong thành phố.
Ở vùng ngoại thành, triều cường đã phá vỡ đê bao làm ngập cho các vùng canh
tác nông nghiệp gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất nông nghiệp. Thời gian này,
các phương tiện thơng tin báo trí đã làm nhiều tập trung cho sự kiện này. Lắng
dịu trong thời gian ngắn, cưới năm 2006 do triều cường lại làm vỡ đê bao làm
ngập nhiều khu vực như quận Thủ Đức( phường Hiệp Bình Chánh); quận
12( phường Thạnh Lộc, Thạnh Xuân , An Phú Đông, Thời An ); huyện Hóc
Mơn ( xã Nhị Bình, Tân Hiệp ); quận Gị Vấp (phường 5).
Năm 2007 tồn thành phố có 85 điểm ngập do mưa và triều phân bố như sau:
_Lưu vực Nhiêu Lộc, Thị Nghè : 12 điểm ngập ; Lưu vực Hàng Bàng :28 điểm
ngập ; Lưu vực Tàu Hủ - Bến Nghé- Kênh Đôi- Kênh Tẻ : 7 điểm ,.....
Hiện nay:
Từ tháng 9/2015 đến nay, tp HCM đã xảy ra những đợt mưa lớn gây triều cường
ngập lụt nghiêm trọng ở mức cao nhất trong nhiều năm qua. Đặc biệt là 2 cơn
mưa lớn kéo dài trong nhiều giờ, ngày 15/9 và 27/10 đã gây ngập trên diện rộng.
Hàng loạt tuyến đường, khu dân cư bị ngập sâu. Nghiêm trọng nhất là ở các
quận: Bình Thạnh, Thủ Đức, Bình Tân, Phú Nhuận, quận 8, 6, 11, 12. Các tuyến
đường bị ngập nghiêm trọng nhất: Kinh Dương Vương ( quận 11); Nguyễn Hữu
Cảnh ( quận Bình Thạnh), Kha Vạn Cân ( Thủ Đức), Nguyễn Văn Qúa (quận
12)... Với mực nước sâu từ 0.3 tới 0.5 mét. Hàng loạt phương tiện giao thông bị
ùn tắc , ngập sâu trong nước.
Từ đầu mùa mưa 2016 tp HCM có hơn 10 trận mưa gây ngập trên các tuyến
đường. Đặc biệt, cơn mưa kéo dài hơn 2 tiếng vào chiều 26/9 đã khiến nhiều
tuyến đường và khu vực ngập nặng, gây ùn tắc giao thông cục bộ do đúng giờ
tan tầm . Đáng lưu ý tình trạng ngập diễn ra trên diện rộng, thậm chí ở cả những
vị trí lâu nay ít gặp.
Cụ thể những tuyến đường tràn gần nửa bánh xe ở quận 1 như Lê Lộc, Hàm
Nghi, tại quận 3 như đườg Nguyễn Thiện Thuật, Kì Đồng ; quận 10 đường 3/2
Lí Thường Kiệt ; tại quận 4 như đường Tơn Đản,...
====> Tình trạng ngập nước vẫn không thuyên giảm đến thời điểm hiện tại .
2.2 Phân tích thực trạng vấn đề:
Dù đã đầu tư cả tỉ đồng vào đê bao thốt nước khai thơng cống rảnh nhưng hiện
tượng ngập lụt HCM vẫn khơng có chiều hướng suy giảm mà ngày càng gia tăng ,
và bắt đầu xu hướng ngập trên nhiều diện rộng . Kể cả 1 số nơi chưa từng ngập bao
giờ.
CHƯƠNG III: NGUYÊN NHÂN
CỦA VẤN ĐỀ
3
Nguyên nhân của vấn đề:
Theo chúng tôi, những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng ngập lụt vô cùng
nghiêm trọng hiện này là những ngun nhân:
3.1 Ngun nhân chủ quan:
•
•
•
Vị trí tạo thành của một “đô thị ngập triều”.
Do mưa, nhất là lượng nước mưa đô thị ngày càng tăng cao.
Do kênh rạch bị san lấp q nhiều. Sơng rạch dày đặc, diện tích mặt nước lớn,
dễ truyền tải những biến động lan truyền vật chất, năng lượng, điều kiện ngập
nước.
• Tình trạng người dân xả rác xuống hệ thống thoát nước (miệng thu hầm ga,
kênh rạch) còn phổ biến. Nên khi mưa lớn, áp lực nước cao sẽ cuốn rác vào lưới
chắn, cản trở dịng chảy.
• Dự án chống ngập 'rùa bị'. (Nhiều dự án đã được triển khai để xóa các điểm
ngập còn lại (giai đoạn 2016-2020) nhưng tiến độ chậm do vướng thủ tục, như:
Dự án cải tạo rạch Xuyên Tâm, Cải tạo rạch Ông Búp, Kênh tiêu Liên Xã...
Hoặc thi công chậm như: Xa lộ Hà Nội (chân cầu Rạch Chiếc), Nguyễn Văn
Quá (quận 12)...)
• Chưa thực hiện các dự án hỗ trợ thốt nước.
• Một số cơng trình thốt nước đang thi công cũng được cho là một trong những
nguyên nhân làm ảnh hưởng đến khả năng thoát nước của tuyến cống hiện hữu.
• Do điều kiện mặt đất bị bê tơng hóa cao, nước khơng thấm đến được tầng nước
sâu và tầng nước ngầm, vừa gây ngập tầng đất mặt lại vừa làm mất lượng nước
bổ sung cho lượng nước ngầm hằng năm, làm mực nước ngầm ngày càng tụt sâu
hơn.
• Triều cao.
• Hệ thống kênh rạch bị san lấp, xuống cấp.
•
Do hình thành nhiều con đê bao khép kín, chống ngập đất nơng nghiệp thì lại
dồn về ngập đất đơ thị.
• Do hàng loạt cơng trình xây dựng nhà cao tầng được xây dựng cũng là một
trong những một những nguyên nhân cơ bản mới. Do các đơn vị thi cơng đã
khơng thực hiện đúng an tồn lao động, tự tiện xả nước lẫn bùn đất, bê tơng vào
•
hệ thống thốt nước, gây nghẽn cống.
Thàn phố có lịch sử phát triển lâu đời và đang trên đà phát triển mạnh mẽ, chính
vì lâu đời nên hệ thống tiêu thốt q cũ kỹ, cháp vá và có nhiều điều bất cập.
Do hệ thống thoát nước cũ, lưu lượng nhỏ, qua nhiều năm khơng cịn phù hợp
với hiện tại và hư hỏng nhiều. Quản lý hệ thống khơng khoa học, thiếu chun
mơn.
• Tài nguyên Đất – Nước vùng này đang được khai thác mạnh mẽ phục vụ cơng
•
cuộc phát triển: Nơng nghiệp, thủy điện, thủy sản,…
Do khả năng quản lý và duy tu các cơng trình thốt nước đã được phân cấp cho
địa phương quản lý cịn q yếu kém. Chun mơn của cán bộ công tác và quản
lý không đáp ứng u cầu và khơng có kinh nghiệm cao; kinh phí của địa
phương không đủ đáp ứng để duy tu sửa chữa các cơng trình của hệ thống, dẫn
đến nhiều hậu quả nghiêm trọng.
• Ngồi ra, cịn nhiều cơng trình tư nhân không được chú trọng hệ thống nước
thải, không đáp ứng được tiêu chuẩn hệ thống thốt nước, khơng được duy tu và
bảo trì một cách hiệu quả.
3.2 Nguyên nhân khách quan:
•
•
Do mưa lớn.
Ngập do lũ từ thượng nguồn, nạn chặt phá rừng làm cho dòng nước lũ chảy xiết
xuống hạ nguồn.
• Ngập do triều từ biển vào.
• Do ý thức người dân cịn q kém.
• Do sự trì trệ trong cơng tác bảo quản hệ thống thốt nước của các cơ quan ban
ngành có liên quan.
CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP CHO
VẤN ĐỀ
4
Giải pháp cho vấn đề:
4.1 Một số ý kiến của các chuyên gia về giải pháp chống ngập tại TPHCM:
•
Những giải pháp nào để khắc phục tình trạng này đang là vấn đề thu hút sự quan
tâm của các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngồi nước
•
Ơng Kondo Kensaku - Giám đốc Cơng ty Kubota Nhật bản cho biết, với tình
hình ngập nước ở TP.HCM, song hành với những biện pháp cấp bách và tức thời
thì những giải pháp dài hạn phải được triển khai như áp dụng thiết bị máy bơm
di động, sử dụng trạm bơm thế sẽ giải quyết được việc ngập nước cục bộ vùng
nội đô, với công suất từ 20 - 60m khối/giờ. Ngồi ra, hệ thống cơng trình hỗn
thốt nước và lưu trữ tạm thời nước mưa cũng là những giải pháp tức thời.
•
Cịn ơng Yu Kaneko - Giao dịch viên quốc tế công ty YEC Nhật Bản chia sẻ:
"Theo chúng tơi, những giải pháp mà chúng ta có thể áp dụng tại TP.HCM đó là
cần triển khai cải tạo hệ thống sông và kênh rạch, xây dựng hệ thống giếng và
đường hầm thốt nước cơng nghệ mới, hay còn gọi là hệ thống Super open
Caison. Và ở Nhật, để chống ngập nước, chúng tơi cịn áp dụng phương pháp
khoan và đào hầm. Ưu điểm của giải pháp này là thi cơng được ở những mơi
trường có diện tích nhỏ hẹp".
•
Đi cùng với các giải pháp cơng nghệ của Nhật, các chuyên gia đến từ Châu Âu
cũng đề xuất 6 giải pháp tổng thể và các biện pháp cụ thể. Trong đó, nhóm
chuyên gia khuyến nghị TP.HCM nên ứng dụng công nghệ mới để nâng cấp hệ
thống cũ và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng mới cho công tác chống ngập với
thời gian nhanh hơn và độ bền tốt hơn.
•
Ơng Olaf Juttner - Người phát ngơn cơng ty AIC - Đức khẳng định " Ở nước
chúng tôi, các giải pháp chống lũ bằng đê điều được áp dụng rộng rãi và giảm
thiểu được đáng kể lũ lụt. Là những nước thường bị ảnh hưởng bởi thiên nhiên,
chúng ta nên chấp nhận quy luật của tự nhiên và áp dụng các giải pháp thơng
minh để sống chung với điều đó. Theo đó, những hệ thống chống lũ cơ động
như các vách ngăn, các con đê di động, hay việc báo động lũ qua các thiết bị di
động cũng là những giải pháp mà chúng ta có thể áp dụng".(
/>
•
Trong khi đó, chuyên gia đến từ Malaysia Haris F.Abdullah cho biết, công ty
của ông từng xây dựng thành công hệ thống đường ngầm tại Malaysia để làm
đường thoát nước vừa kết hợp làm đường giao thơng. "Nếu TP HCM có nhu
cầu, chúng tơi có thể đầu tư xây dựng các dự án chống ngập theo các hình thức
BOT (xây dựng - kinh doanh – chuyển giao), BT (xây dựng – chuyển giao),
BOO (xây dựng – sở hữu – kinh doanh)…", ông nói.
•
Ngồi ra, các chun gia nước ngồi cũng khuyến nghị TP HCM nên ứng dụng
tồn bộ cơng nghệ mới để nâng cấp hệ thống cũ và xây dựng cơ sở hạ tầng cho
công tác chống ngập với thời gian nhanh hơn. Cùng với các giải pháp công
nghệ, họ cho rằng yếu tố con người để thực hiện các đề án chống ngập là nhân
tố quyết định, do vậy cần có những chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt
động này. ( />
giup-tp-hcm-chong-ngap-3287592.html)
• ơng Nguyễn Tăng Cường, chủ tịch hội đồng quản trị kiêm tổng giám đốc Công
ty cổ phần Tập đồn cơng nghiệp Quang Trung (Ninh Bình) cho biết vừa đề
xuất thí điểm hệ thống chống ngập kiểu mới cho TP.HCM.
•
Theo ơng Cường, giải pháp chống ngập này chỉ cần đưa máy bơm ly tâm đặt tại
một số vị trí mà không cần vớt rác, đào đường lắp cống mới.
•
Theo đó, doanh nghiệp sẽ tự ứng vốn đầu tư cho một số khu vực TP thường
xuyên xảy ra ngập úng với ngun tắc thành cơng mới được thanh tốn tiền, cịn
khơng doanh nghiệp sẽ tự chịu chi phí.
•
Cũng theo ông Cường, nhiều năm qua với các số liệu đo được cho thấy tình
trạng ngập úng tại TP có chiều hướng gia tăng, trải dài trên địa bàn nhiều quận,
huyện. Hệ thống chống ngập của công ty thiết kế bằng máy bơm ly tâm có thể
hút nước với cơng suất 96.000 m3/g, hoạt động bằng dầu hoặc điện.
•
Bơm hút đặt tại các cửa xả nước TP tiếp giáp với sông, đảm bảo chức năng hút
nước vừa có bộ lọc tự động tách rác thải đưa vào xe chuyên dụng mang đến nơi
thu gom.
•
Ơng Cường cho biết, hệ thống bơm hút ly tâm tự động kết hợp với cảm biến đo
mực nước, chỉ cần ngồi ở trung tâm để điều khiển, máy bơm hút nước từ chỗ
thấp lên chỗ cao, gắn trực tiếp vào cống thốt nước có sẵn của TP. Máy bơm có
thể đẩy nước chảy xa tới 10km mà không thể dội ngược lại do được trang bị van
một chiều.
•
Ơng Cường cho rằng hệ thống chống ngập kiểu mới có thể làm giảm từ 60 đến
70% chi phí cho cơng tác nạo vét và thơng cống của TP. Ngồi ra, nơi đặt thiết
bị nằm ở cuối cửa xả tiếp giáp với cống nên khơng ảnh hưởng nhiều đến diện
tích đất, hoạt động chung của TP. ( />
•
Theo PGS.TS Hồ Long Phi, Giám đốc Trung tâm quản lý nước và biến đổi khí
hậu (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh), hồ điều tiết là một trong những giải
pháp nhằm chứa nước mưa đã được ứng dụng tại nhiều nước. Khi mưa vượt tần
suất thiết kế của hệ thống thoát nước thì có thể áp dụng giải pháp này. Tuy
nhiên, PGS.TS Hồ Long Phi cho rằng, giải pháp trên chỉ hỗ trợ và bổ sung thêm
cho các giải pháp chống ngập và chỉ chống ngập cục bộ. Thời gian tới, chính
quyền TP Hồ Chí Minh cần triển khai đồng bộ các giải pháp tổng thể như: Đầu
tư cống thoát nước, cống kiểm soát triều, đê bao, quy hoạch hạ tầng, cơng trình
thủy lợi...( />•
Theo ơng Nguyễn Ngọc Cơng, Giám đốc Trung tâm Điều hành chương trình
chống ngập nước TP, ngoài các giải pháp siêu máy bơm, hồ điều tiết ngầm…
trung tâm còn triển khai kết hợp nhiều giải pháp chống ngập khác, như nạo vét
nhiều đoạn, tuyến kênh rạch trên địa bàn, bao gồm cả kênh rạch lớn như Tàu Hủ
- Bến Nghé, Nhiêu Lộc - Thị Nghè, kênh Vạn Tường, Tham Lương - Bến Cát…
Về lâu dài, UBND TP cũng đã chỉ đạo xử lý tình trạng nhà cửa lấn chiếm sơng,
kênh rạch nhằm tạo thơng thống cho nước lưu thơng.
•
Theo ơng Cơng, nhìn chung ngập hiện nay chủ yếu ở những khu vực hệ thống
cống cũ, cửa thốt nước của hệ thống này nằm ở cao trình cũ. Khi mưa lớn
khoảng 80 - 100mm, kết hợp với triều cường thì hệ thống này bị vơ hiệu hóa
hồn toàn. Để giải quyết ngập căn cơ, phải xây dựng hệ thống thốt nước và
khẩn trương khơi thơng hệ thống mương rạch thốt nước để tăng lưu lượng
dịng chảy, tăng dung tích chứa nước tại các kênh rạch như Cầu Sơn, Xun
Tâm, Bùi Hữu Nghĩa, Ruột Ngựa... ( />
•
Nhóm chun gia quốc tế đến từ Nhật Bản, Malaysia, Đức… đã chia sẻ về một
số giải pháp chống ngập như giải pháp trị thủy kết hợp, cơng nghệ phịng chống
lũ lụt, mơ hình sống chung với nước hay phương án chống ngập lụt thơng minh.
•
Nhóm chun gia cho rằng, 2 quy hoạch về chống ngập tại Thành phố Hồ Chí
Minh gồm quy hoạch 1547 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lập, quy
hoạch 752 do JICA – Nhật Bản lập, đang tồn tại nhiều điểm yếu. Cụ thể, quy
hoạch 752 (lập năm 2002) chưa đề cập đến biến đổi khí hậu, dự báo dân số thấp
hơn thực tế còn quy hoạch 1547 (lập năm 2008) yếu trong công tác dự báo nên
chưa lường hết mực nước thực tế (cao hơn mực nước thiết kế).
•
Từ đó, nhóm chun gia khuyến nghị Thành phố Hồ Chí Minh cần có các giải
pháp tăng lưu lượng thốt nước thơng qua tăng tiết diện của hệ thống thốt
nước, tính tốn lại mực nước thiết kế; mở rộng, nâng cấp hệ thống thốt nước
bẩn trong tồn thành phố; quy hoạch các khu vực thoát nước, lưu trữ nước bằng
hồ, hầm, ống tiêu, trữ tạm thời. Ngoài ra cũng cần tính các cơng trình lâu dài với
tầm nhìn đến năm 2050.
•
Theo chuyên gia đến từ Đức, với quan điểm sống chung với nước nên nước Đức
đã đầu tư hơn 5 tỷ USD để xây dựng không gian cho nước, để nguồn nước trở
về với tự nhiên. Cùng với đó, người dân được trang bị hệ thống thông tin để
sống cơ động khi nước lên và chủ động trở lại cuộc sống bình thường khi nước
xuống.
•
Mặt khác, tại thành phố cảng, quy hoạch đường dành cho người đi bộ, đường
cho xe đạp phải cao hơn mặt nước biển từ 4-5,5m, cịn các cơng trình kiến trúc
và đường phố cao hơn từ 7,5-8m.
•
Trong khi đó, chun gia Nhật Bản lại tập trung vào giải pháp trữ nước đô thị,
chia cống rãnh, bể điều tiết, cống ngầm trong thành phố (đường kính 12,5m, dài
4,5km).
•
Malaysia cũng có xây đường hầm thốt nước mưa gồm 3 phần, trong đó 2 phần
trên là đường, phần ở dưới là đường hầm thoát nước mưa. Khi lũ sắp đến, 2
tuyến trên sẽ được đóng lại để sơ tán giao thơng, sau đó tồn bộ 3 phần sẽ được
mở để sẵn sàng chứa nước lũ.( />
truong-va-phat-trien/201510/chia-se-nhieu-giai-phap-chong-ngap-lut-tai-tp-hochi-minh-2631580/index.htm).
4.2 Đề xuất của nhóm về giải pháp chống ngập lụt tại thành phố Hồ Chí Minh:
Vấn đề ngập lụt tại thành phố hiện tại hiện rất nan giải vậy đâu sẽ là giải pháp
tốt nhất cho quá trình chống ngập lụt, chúng ta đều biết được các chuyên gia
hàng đầu việt nam cũng như nước ngoài đã đưa ra rất nhiều biện pháp để giải
quyết tình trạng ngập lụt nhưng vẫn chưa có những phản hồi tích cực trong dư
luậnvà quần chúng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Với Những sinh viên ngành công nghệ sinh học chúng em khơng có nhiều kiến
thức trong lĩnh vực này cũng như cũng rất khó để đưa ra những giải pháp tốt
nhất cho việc chống ngập lụt tại thành phố Hồ Chí Minh, với những hiểu biết
hạn hẹp về lĩnh vực này nhóm em xin được đề xuất những phương án chống
ngập lụt cơ bản, tuy nhỏ nhưng có thể góp sức vào tình hình chống ngập lụt hiện
nay.
Giải pháp thứ nhất : Nâng Cấp Hệ Thống Giao Thơng
• Theo chúng ta được biết thành phố Hồ Chí Minh là 1 trong những thành phố có
hệ thống giao thơng chằng chịt, bao gồm các đường lớn, nhỏ và các hẻm đan
xen nhau vì thế hệ thống thốt nước cũng 1 phần bị ảnh hưởng rất lớn
• Các hệ thống thốt nước giao thông hiện gần như bị tê liệt khi xảy ra mưa lớn
cục bộ trên diện rộng, do hệ thống thốt hiện nay đều xuống cấp trầm trọng
khơng đủ khả năng đào thoát lượng nước quá lớn khi xảy ra mưa lớn nên tình
•
trạng ngập lụt xảy ra thường xun
Vậy nên để chống ngập lụt có hiệu quả đầu tiên Ban Quản Lý Đô Thị Và Sở
Giao Thông Vận Tải Thành Phố Hồ Chí Minh cần đưa ra những biện pháp cần
thiết để cải thiện hệ thống giao thông và hệ thống thoát nước hiện tại như
thường xuyên nạo vét cống rảnh, nâng cấp đường xá, cần mạnh tay xử lý
nghiêm những hành vi xả rác bừa bãi xuống các kênh rạch hay hệ thống thoát