Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Người kể chuyện trong tiểu thuyết thất lạc cõi người của dazai osamu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.83 KB, 82 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀ NH SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Đề tài:

NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT THẤT LẠC CÕI
NGƯỜI CỦA DAZAI OSAMU
Người hướng dẫn:
Th.s. Nguyễn Phương Khánh
Người thực hiện:
Thái Thị Thu Hoài

Đà Nẵng, tháng 5/2013


2

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan kết quả khóa luận này là sự nỗ lực nghiên cứu, tìm tịi của
bản thân dưới sự hướng dẫn của Th.s. Nguyễn Phương Khánh.
Tôi xin bảo đảm về tính trung thực của lời cam đoan trên.
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2013
Người thực hiện

Thái Thị Thu Hoài




3

TRANG GHI ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài Người kể chuyện trong tiểu thuyết Thất lạc
cõi người của Dazai Osamu, chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình, đóng
góp ý kiến và động viên của cơ giáo Nguyễn Phương Khánh.
Xin cảm ơn chân thành đến các thầy, cơ giáo trong khoa Ngữ văn và các
bạn đã đóng góp ý kiến chân thành cho khóa luận của chúng tơi.
Đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sót rất mong nhận được sự góp ý, bổ
sung của q thầy cơ và tất cả các bạn.
Đà Nẵng, ngày 16 tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Thái Thị Thu Hoài


4

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
“Con người là ai? Ai là con người?”. Đó là câu hỏi mỗi con người băn
khoăn trong dòng chảy của cõi nhân sinh. Cuộc sống thay đổi, giá trị con người
như một phong thư bí ẩn được niêm phong bằng thứ keo khơng mở được. Mỗi
người cố gắng mở theo cách riêng của mình, để tìm xem bên trong phong thư đó là
gì. Dazai Osamu, tiểu thuyết gia hiện đại Nhật Bản cũng không nằm ngồi quy luật
đó.
Dazai viết về con người, nhưng đó là con người của cái cô đơn tột đỉnh, con
người của nỗi sợ hãi tận cùng, con người của sự “xa lạ” trống vắng, con người

khơng có tư cách làm người… Tất cả đó, được sống trong Thất lạc cõi người –
cuốn tiểu thuyết như những dòng tự thuật của chính Dazai về bản thân, về con
người, như một đáp án riêng của ông về hai chữ “con người”. Cái cơ đơn ln cựa
quậy, nó khơng chịu đứng n trong cuộc đời của Oba Yozo – nhân vâ ̣t trung tâm
của tiể u thuyế t.
Với lối viết tự thuật đầy ám ảnh, một thứ ngơn ngữ bình dị nhưng cuốn hút,
tác giả đã đưa người đọc “thất lạc” trong thung lũng của cơ đơn. Có thể thấy, tác
phẩm mang đậm dấu tích của cuộc đời chính Dazai về khắc khoải nhân sinh, về
day dứt siêu hình của con người trên cõi thế- chính như tên gọi của nó- Thất lạc cõi
người.
Hình tượng người kể chuyện Oba Yozo cũng chính là nhân vật trung tâm
của tiểu thuyết là một thành công điển hình của Dazai trong tác phẩm. Để làm rõ
hình tượng người kể chuyện với những nét đặc sắc riêng, tôi quyết định chọn đề tài
“Người kể chuyện trong tiểu thuyết Thất lạc cõi người của Dazai Osamu” làm đề
tài nghiên cứu.


5

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dazai Osamu là một tác giả với số lượng tác phẩm không quá đồ sộ nhưng
lại được đông đảo độc giả thế giới biết đến. Tác phẩm của ông đã được dịch ra
nhiều thứ tiếng trên thế giới. Đặc biệt cuộc đời của ông cũng như tiểu thuyết Thất
lạc cõi người đã được dựng thành phim công chiếu rộng rãi ở Nhật Bản.
* Ở nước ngồi, tác phẩm của ơng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và thu
hút khá nhiều nghiên cứu. Trong đó có thể kể đến một số cơng trình và bài viết
như: Akutagawa and Dazai: Instances of Literary Adaptation (Akutagawa và
Dazai: Những thí dụ của phóng tác văn học) của tác giả James A.O'Brien, Nhà
xuất bản Đại học Cornell, 1983. Đặc biệt là cơng trình nghiên cứu của Phyllis
I.Lyons với bài viết The Saga of Dazai Osamu: A Critical Study With Translations

(Tiểu thuyết của Dazai Osamu: Nghiên cứu phê bình với bản dịch), Nhà xuất bản
Đại học Stanford, California, 1985. Tác giả Allan Stephen Wolf với cơng trình
Suicidal Narrative in Modern Japan: The Case of Dazai Osamu (Truyện kể tự sát
ở Nhật Bản hiện đại: Trường hợp của Dazai Osamu), Nhà xuất bản Đại học
Princeton, 1990. Chúng tôi nhận thấy các tác giả đều khẳng định sự thành công của
Dazai trong thể loại tiểu thuyết tự thuật- tư tiểu thuyết.
* Ở Việt Nam việc dịch các tác phẩm của Dazai Osamu gần đây được giới
dịch thuật khá quan tâm, tuy nhiên khối lượng tác phẩm được xuất bản chưa nhiều.
Vâ ̣y nên, việc tiếp cận với văn phong Dazai còn nhiều hạn chế. Mă ̣c dù vâ ̣y, chỉ
với những bài viết mở đầu cho chặng đường nghiên cứu, Dazai đã gây ra một làn
sóng mới trong lịng đọc giả Việt Nam.
Dịch giả Hoàng Long trong bản dịch Thất lạc cõi người có phần phụ lục viết
về cuộc đời và văn nghiệp của Dazai đồng thời nói về dịng văn học “vô lại phái”.
Dịch giả cũng đã dành một phần để điểm qua những nét chính về đặc điểm chính
trong sáng tác của Dazai. Trong phần viết về tiểu thuyết Thất lạc cõi người, dịch
giả đã đề cập đến văn phong của Dazai: Tuy Thất lạc cõi người là một tiểu thuyết


6

ngắn nhưng cách xây dựng nhân vật nội dung tác phẩm thật gây xúc động lòng
người. Giọng văn hài hước, đơi khi có chút khoa trương khiến ta nhiều lần phá ra
cười xong lại bùi ngùi cảm động[9,tr.255].
Khi hình thành ý tưởng thực hiện tủ sách Tinh hoa văn học (Phương Nam
Books) thì dịch giả trẻ Hồng Long là một gương mặt được chọn để đảm trách
mảng văn chương Nhật Bản. Sau khi chuyển ngữ tiểu thuyết Thất lạc cõi người của
Dazai Osamu, Hoàng Long tiếp tục với hai tác phẩm Tà dương và Nữ sinh cũng
của Dazai Osamu... Phóng viên Trần Nhã Thụy của báo Tuổi trẻ cuối tuần trong
bài viết “Một lần dứt quyết với Dazai” đã trò chuyện với dịch giả Hoàng Long
nhân Tà dương được phát hành. Trong bài trả lời phỏng vấn, Hồng Long nói: “Có

thể nói tác phẩm của Dazai mang tính "hậu hiện đại" đến mức ngạc nhiên. Cái bi
kịch của Yozo trong Thất lạc cõi người, cuộc vượt thoát của Kazuko trong Tà
dương có khác gì mỗi con người chúng ta trên đường tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống
đâu? Một điều nữa khiến tác phẩm của Dazai phổ cập là ngôn từ và văn phong.
Thứ tiếng Nhật trong sáng, hiện đại mà Dazai dùng trong những tác phẩm viết
cách đây 70 năm bây giờ vẫn còn gây kinh ngạc cho nhiều nhà văn khác.”
Nguyễn Nam Trân trong Tổng quan lịch sử Văn học Nhật Bản, Nhà xuất bản
Giáo dục năm 2012 trong phần “Burai- ha và tiểu thuyết thông tục mới” đã bàn về
lối viết của những nhà văn theo trường phái Burai- ha, trong đó có Dazai Osamu,
tác giả đã dành một mục riêng nói về Dazai. Theo đó, “Dazai là một nhà văn nhiều
người thích, nhất là lớp trẻ cho đến cả bây giờ… Tác giả Dazai Osamu đã gửi gắm
tâm sự của mình qua lời phát biểu của các nhân vật, trình bày tình cảm tuyệt vọng
trước xã hội mới cũng như đưa ra tín điều luân lý của ông.”[14,tr.571]
Đặc biệt, bài viết “Cuộc truy vấn về nhân sinh trong Bướm trắng của Nhất
Linh và Thất lạc cõi người của Dazai Osamu” của Nguyễn Ngọc Bảo Trâm đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 3 năm 2012, nhà xuất bản Viện văn học- Viện


7

khoa học xã hội Việt Nam đã có một cái nhìn khái lược về vấn đề nhân sinh của
tiểu thuyết thông qua việc so sánh với tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn Nhất
Linh- tiểu thuyết Bướm trắng. Về lối văn tự thuật của Dazai, tác giả có đoạn viết:
“Dùng chính cuộc đời của mình để sáng tác… Thất lạc cõi người là nơi thể hiện và
tự trào lộng cho cái tôi xuyên thấm giữa cuộc đời và nghệ thuật ấy của Dazai.
Cũng từ đó, cuộc đời nhà văn trở thành như một huyền thoại thời hiện đại của văn
học Nhật Bản”[17, tr.27,28].
Tác giả Đoàn Lê Giang trong bài viết “Nghiên cứu văn học Việt Nam và
Nhật Bản trong bối cảnh Đơng Á” đăng trên Tạp chí Văn học số 2, năm 2012 cũng
đã đề cập đến tình hình dịch thuật tác phẩm của các tác giả Nhật Bản ở Việt Nam

sau 1975, trong đó có Dazai Osamu với tiểu thuyết Thất lạc cõi người.
Phạm Vũ Thịnh trong bài viết “Dazai Osamu, Tiểu thuyết gia hiện đại Nhật
Bản” (Sydney 12-2005), đăng tải trên trang mạng internet đã có một cái nhìn khái
lược cũng như đánh giá sơ bộ về đóng góp của Dazai Osamu đối với nền văn học
Nhật Bản hiện đại về phương diện tiểu thuyết. Bài viết đã nhắc đến những thành
công về mặt nghệ thuật và nội dung của Thất lạc cõi người. Đoạn viết về nghệ
thuật tiểu thuyết của Dazai: “Dazai dùng lối viết giản dị như câu nói thường ngày.
Những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đều dựa vào những sự kiện xảy ra trong
đời ông, nên được xếp vào loại "shi-shosetsu" (tư-tiểu-thuyết, tự truyện, tiểu thuyết
tự thuật)”. Về tiểu thuyết Thất lạc cõi người, tác giả Phạm Vũ Thịnh viết: “Ðược
viết với giọng thành thực đến tàn nhẫn, khơng có chỗ trống cho tình cảm, tiểu
thuyết nầy trở thành một trong những tác phẩm "cổ điển" (classic) của văn học
Nhật Bản”.
Qua nghiên cứu các bài viết, chúng tôi thấy rằng, nghệ thuật kể chuyện cũng
như tổ chức tác phẩm cũng được nhắc đến khá nhiều. Đó là lối kể chuyện đầy hấp
dẫn, thuyết phục với ngôi kể thứ nhất. Người kể chuyện mang đậm hình bóng của


8

nhân vật trung tâm và tác giả. Qua đó, các nhà nghiên cứu cũng đã đánh giá thành
công của Dazai trong nghệ thuật “tư tiểu thuyết”. Tuy nhiên, có thể khẳng định
rằng mức độ chuyên sâu của các bài viết cịn ít, chưa khai thác triệt để nghệ thuật
cũng như nội dung của tác phẩm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đố i tươ ̣ng nghiên cứu: vấn đề người kể chuyện trong tiểu thuyết Thất lạc

cõi người của Dazai Osamu thể hiện qua hình tượng người kể chuyện ngơi thứ

nhất: nhân vật Oba Yozo; vai trò của người kể chuyện trong cấu trúc tác phẩm.


Phạm vi nghiên cứu: tác phẩm Thất lạc cõi người với bản dịch của Hoàng

Long, Nhà xuất bản Hội nhà văn, năm 2011. Tham khảo đối chiếu một số tác phẩm
khác của tác giả như Tà dương và một số truyện ngắn khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống: Từ việc tiếp xúc với tác phẩm, chúng tơi tiến hành hệ
thống hóa sự xuấ t hiêṇ của người kể chuyê ̣n trong tác phẩ m
- Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp áp dụng để phân tích đặc điểm
của hình tươ ̣ng người kể chuyê ̣n, đặc điểm của thể loại “tư tiểu thuyết” để soi nó
vào tác phẩm, giải mã kí hiệu ngôn ngữ thể hiện trong tác phẩm.
- Phương pháp so sánh: Được áp dụng trong quá trình so sánh để rút ra những đặc
trưng trong phong cách nghệ thuật của tác giả.
- Phương pháp tổng hợp: Từ những phân tích, so sánh để tổng hợp vấn đề nhằm
rút ra những kết luận cơ bản về đóng góp của tác phẩm về nội dung cũng như nghệ
thuật.
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, đề tài được cấu trúc thành
ba chương


9

Chương một: Về hình tượng người kể chuyện- nhân vật trung tâm Oba Yozo
Chương hai: Người kể chuyện- lằn ranh giữa tự thuật và hư cấu
Chương ba: Người kể chuyện và cấu trúc truyện kể



10

NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT
VỀ HÌ NH TƯỢNG NGƯỜI KỂ CHUYỆN – NHÂN VẬT
TRUNG TÂM OBA YOZO
1.1.

Con người cô đơn và “thấ t la ̣c” giữa đời
Người kể chuyện- trung gian giữa tác phẩm và bạn đọc trong Thất lạc cõi

người của Dazai Osamu được xây dựng từ chính nhân vật “tơi” trong tiểu thuyết.
Đó chính là hình tượng nhân vật Oba Yozo- nhân vật trung tâm của cuốn tiểu
thuyết.
Hiện lên trong tiểu thuyết, Oba Yozo trước tiên là một con người cô đơn và
dường như anh bị “thất lạc” giữa đời. Cái cô đơn của Oba Yozo xuyên thấm trong
cuộc sống của anh, như một sợi dây vơ hình, dai dẳng, đeo bám lấy cuộc đời anh,
không buông tha anh cho đến cuối đời. Giữa cuộc sống muôn vàn hỗn loạn, giữa
biết bao bế tắc mà cuộc đời mà Oba gặp phải, dường như ta nhận ra cô đơn như là
điều kiện để tồn tại của nhân vật trung tâm- Oba Yozo- người kể chuyện của tác
phẩm.
Cô đơn, trạng thái bắt gặp khi con người không thể đối diện với cuộc sống
thực tại bằng những cảm xúc thật của mình, thấy mình khơng tài nào hịa nhập
được với chính những con người xung quanh mình, và dường như khơng một ai
hiểu mình, và thậm chí cịn cơ đơn ngay với khi đối diện trực tiếp với chính mình.
Nhân vật Oba Yozo- người kể chuyện xưng “tôi” trong tác phẩm cũng rơi vào
trạng thái cơ đơn như thế.
Và khi cịn nhỏ, cậu bé Oba Yozo đã nhận thấy “sự tẻ ngắt của cuộc sống
cần kiệm của con người đã làm tôi vô cùng buồn chán” [9, tr.16]. Chính cậu đã
sớm nhận thấy rằng cuộc sống xung quanh mình thật buồn chán và tẻ nhạt, và



11

chính cuộc sống đó đã làm cho tâm hồn cậu trở nên “cô đơn”. Và rồi “tôi hầu như
không thể nói chuyện được với những người xung quanh. Tơi khơng biết mình nên
nói cái gì và nói như thế nào cả”[9, tr.19]. Đó chính là “cơ đơn”. Anh nhận thấy
nhiều điều “bất tín” từ cuộc sống thực tại, những mối quan hệ “trống rỗng”, tất cả
đều làm cho anh thấy mình khơng thể hịa nhập thực sự với cuộc sống đó và ngay
chính bản thân mình. Anh tự sống thật với mình trong ốc đảo cơ đơn mà chính anh
tạo ra, được trang bị với cuộc sống bằng thứ băng dính khơng màu- thằng hề.
Nhiều lần anh tự cảm thấy rằng “cái nỗi niềm cơ độc của mình khơng biết bày tỏ
cùng ai”[9, tr.30]. Cái cô đơn của Oba là cái cô đơn mà anh tự cảm nhận được
ngay trong cuộc sống của chình mình và anh đối diện được với nó, và tìm cách để
sống với nó, thậm chí là để trốn tránh nó. Vì cơ đơn nên Oba không thể “dự tưởng
nổi” cuộc đời, không thể sống được như người ta vẫn sống trên cõi người này. Oba
như một “con người bị chấn thương bởi sức ép của thực tại hỗn tạp, là con người
mang những ám ảnh về cuộc đời của mình, bởi sự đổ vỡ của thang bảng giá trị thời
đại”.[15, tr.45]. Bi kịch trong đời sống của anh là bi kịch của kẻ lạc lối ngay trong
chính sự tồn tại và thấu cảm bản thân mình.
Khi vào đại học, sống trong một mơi trường năng động của tuổi trẻ, cậu bé
Oba Yozo khi xưa vẫn vậy, vẫn thấy mình cơ đơn, lạc lõng với mọi hoạt động của
trường đại học. “Tơi khơng tài nào hịa nhập với đời sống tập thể được. Hơn nữa
cứ nghe mấy lời “nhiệt tình tuổi trẻ” với “niềm tự hào tuổi trẻ” là tơi đều rùng
mình ớn lạnh tồn thân. Tơi chẳng thể đắm mình trong cái “tinh thần đại học” ấy
được”[9, tr.46]. Và còn hơn thế nữa, khi đã có khả năng tự lập, tạo mối quan hệ với
anh bạn Horiki, tìm đến rượu, thuốc lá và thậm chí là đàn bà, anh vẫn không quên
đi nỗi cô đơn của bản thân mình. Cơ hồ những thứ đó như những chất kích thích
chỉ làm cho anh vơi đi nỗi sợ hãi con người mà thôi, ngoại trừ ra cũng khơng thể
làm anh thấy hịa nhập với cuộc sống “nhân gian” này được. “Tôi trầm mặc trong



12

nhà, im hơi kín tiếng, lúc nào cũng có cảm giác sợ hãi như thể ai đó sắp sửa xơng
vào nhà bắn cho một phát chết tươi. Vì vậy, tơi lao ra khỏi nhà, đi tham gia các
hoạt động ngầm” [9, tr.59]
Ngay cả với người con gái yêu anh, cùng tự sát với anh cũng là một người
cô đơn, như chính cơ đơn là định mệnh của cuộc đời Oba Yozo, nó cựa quậy như
một con thoi khơng đứng n trong anh. Và cũng từ chính người đàn bà đó mà anh
cảm thấy “cơ độc như thể một cơn gió lạnh tuôn thổi quanh thân nàng, để những lá
khô vàng rơi loạn vũ”[9, tr.66]. Sự tồn tại của Oba Yozo trên cõi đời phải chăng
cũng như một chiếc lá vàng khô, lẻ loi rơi theo một chiều hướng không xác định.
Như chính bản thân anh, sống trong cuộc sống nhưng ln u ám xung quanh là cái
CƠ ĐƠN bất khả tương giao.
Cơ đơn, Oba “sợ hãi ngay chính hạnh phúc”- điều mà ai ai cũng mong
muốn, đặc biệt là những người tuổi trẻ như chính tuổi mà Oba đang trải qua. Tuổi
trẻ của khát khao, tuổi trẻ của hạnh phúc, tuổi trẻ của niềm tin và hi vọng nhưng
giờ Oba lại sợ hãi ngay chính những điều đó. Và Oba sợ hãi chính hạnh phúc, sợ
điều gọi là hạnh phúc sẽ làm tổn thương chính tâm hồn yếu ớt của cậu- tâm hồn
của một con người ln trói chặt bởi sự sợ hãi cuộc sống.
Sau vụ tự tử không thành công cùng với người con gái mà lần đầu tiên Oba
Yozo cảm thấy rung động, nỗi cô đơn trong con người anh ngày càng dâng cao, và
nỗi sợ hãi cuộc sống nhân gian vì thế cũng dâng cao trong anh. “Với tâm trạng
buồn bã, chán nản cuộc đời này(…) tôi thấy bầu trời chiều đang xuống cùng lũ vịt
trời bay về tựa như hình chữ “nữ” vậy’[9, tr.79]. Cái cơ đơn dường như không khi
nào rời khỏi trạng thái tâm lý của Oba, nó theo anh như chính chiếc bóng của tâm
hồn anh. “Và nếu ví cuộc đời của Oba như biển sâu” thì cơ đơn “là cái bóng huyền
bí bảng lảng ở đáy tận cùng sâu thẳm” nhưng có lẽ sẽ không bao giờ tiêu tan đi
được cả bởi đơn giản, cơ đơn như chính cái điều kiện để anh có thể sống, tồn tại,



13

đối diện với người và cũng để đối diện với chính mình. Cuộc sống- tình bạn- tình
u và ngay cả tình cảm gia đình của Oba chỉ có thể gói gọn trong hai chữ cô đơn.
Anh sống cô độc, lẻ loi một mình, khơng lấy đâu ra một sự cảm thơng, chia sẻ từ
mọi vật hiện hữu xung quanh mình. Sống với tư cách như một người xa lạ với nhân
gian khốc lên mình một nhân dạng và một cái tên để tồn tại. “Trừ cái gã Horiki là
bạn chơi bời ra thì tơi chỉ cịn lại tồn thống khổ (…) Mỗi lần trên phố tình cờ gặp
mặt người quen thơi là tơi đã chống váng, giật bắn người lên như thể là bị chóng
mặt vậy”[9, tr.89]. Cái giật bắn người của Oba làm cho ta liên tưởng đến cái run sợ
của một kẻ phạm trọng tội khi nhắc đến cảnh sát hay là một kẻ đã gây ra một lỗi
lầm gì lớn lao mà khơng thể xóa bỏ. Khắc khoải thay cho một người “tơi khơng có
bạn hữu cũng khơng có chỗ nào mà đi nữa”[9, tr.90]. Ta càng cảm thấy tê tái hơn
khi nghĩ đến câu nói của chính Oba rằng “sợi dây độc nhất nối kết mình với nhân
gian chỉ là cái gã Horiki kia thôi” và khi nghĩ đến đây khơng chỉ có Oba cảm thấy
buốt lạnh mà ngay chính ta cũng đang cảm thấy như vậy. Một anh chàng với một
vẻ bề ngoài tuấn tú, có tài năng hội họa, từng học tại một trường cao đẳng, xuất
thân trong một gia đình có bố là công chức vậy mà lại trở nên cô độc và lẻ loi như
vậy, kể ra thật đáng suy nghĩ.
Đứng trước cuộc đời chính mình- cuộc đời như một cánh diều rách nát
nhưng khơng bị gió thổi đi mà vẫn níu giữ lại với nhân gian- Oba dường như mất
phương hướng, khơng biết con đường phía trước của mình. Sợ hãi rồi nghi ngờ và
nhạy cảm với tất cả mọi thứ, kể cả lời nói của một con bé cũng khiến cho anh sững
người. Đó là nơi mà anh cho là an toàn nhất cũng làm cho anh cảm thấy mất hết
niềm tin. Oba là một con người “vô danh không có cả niềm vui bất tận lẫn nỗi
sầu khổ lớn lao”[9, tr.109]. Nhiều lần tình yêu đến và đi quá nhanh, hơn cả sự đau
khổ đến với anh. Để rồi “thế gian này thật đáng sợ đến mức không thể nào tưởng
nổi”[9, tr.113]



14

Cô đơn giữa nhân gian và rồi Oba “thất lạc” khơng tìm ra lối thốt cho mình.
Bến đỗ hạnh phúc tưởng chừng sẽ đến với một con người đa cảm như anh nhưng
rồi mọi thứ tuột khỏi tầm tay, thời gian cứ trơi vơ tình, dịng xốy của đời người
khơng dừng lại để xóa sạch đi nỗi cơ đơn trống vắng trong tâm hồn anh mà ngược
lại chính cơ đơn đã khiến anh thất lạc giữa cõi người. Tự mình sống để đi tìm cảm
giác hạnh phúc là gì?
Cái “thất lạc” của Oba bắt đầu ngay từ thuở nhỏ, khi anh sớm nhận ra mình
khác với những người trên thế gian này biết bao nhiêu. Điều đó làm anh sống khép
kín và sợ hãi trước con người. Anh trở nên khép kín con người thật của mình, tách
xa với cuộc sống, xa lạ với con người và xa lạ với chính bản thân mình. Ngay từ
khi cịn nhỏ, Oba đã ln cảm thấy xa lạ với ngay trong gia đình mình. Để rồi hồi
nghi về tư cách làm người của mình trong mối quan hệ với mọi người. “Đối với
con người lúc nào tôi cũng run cầm cập, tôi lại không chút nào tự tin về hành vi cử
chỉ của mình với tư cách là một con người”[9, tr.21], Oba nhận ra sự khác biệt giữa
mình với nhân gian, cảm giác khơng hiểu người khác đã có sẵn trong tâm thức của
anh, anh xa lạ với cuộc sống xung quanh, luôn luôn tồn tại cái cảm giác sợ hãi và
bất an đối với cuộc sống, như có một con ác ma ln rình rập xung quanh, chực
cho nuốt chửng cậu và cuốn lấy cậu đi khỏi cuộc sống. Oba thất lạc giữa cõi đời,
cơ hồ về sự tồn tại của chính bản thân mình và băn khoăn về mối quan hệ của
chính mình với cuộc sống nhân gian, “cho đến tận bây giờ hình như tơi vẫn chưa
hiểu cơng việc của con người là như thế nào. Và nỗi bất an rằng quan niệm về hạnh
phúc của mình hồn tồn khác với quan niệm về hạnh phúc của tất thảy nhân gian
làm tơi trằn trọc, rên rỉ thậm chí phát cuồng lên từng đêm”[9, tr.18].
Với Oba Yozo, ta dường như khơng thể tìm thấy mối liện hệ nào giữa anh
và cuộc sống cũng như tình cảm mà anh dành cho cuộc sống này là gì. Tất cả
dường như đều xa lạ đến mức như chưa từng nhìn thấy bao giờ. Vả chăng nó cũng



15

mơ hồ không thể định nghĩa và nắm bắt được trong tâm trí của Oba Yozo. Xung
quanh anh lúc nào cũng như có một màn sương ngăn cách mà mắt thường của nhân
gian khơng thể nhìn thấy được, đó là sự ngăn cách của cuộc sống con người với
cuộc sống của một con người như Oba Yozo. Anh chàng Oba Yozo đã vẽ bức
tranh ác ma, như chính hiện thân của nhân gian mà anh đang sợ, đang cố né tránh
nó. “Những con người vốn sợ hãi nhân gian thì trái lại thường hình thành một thứ
tâm lý muốn tận mắt thấy được một yêu quái đáng sợ (…) Cho nên tất cả các họa
sĩ đều bị bóng ma ẩn trong nhân gian uy hiếp, và kết quả của sự uy hiếp ấy là họ tin
vào huyễn ảnh, giữa ban ngày ban mặt mà vẫn nhìn ra yêu quái”[9, tr.43].
Những nỗi sợ hãi của Oba với nhân gian luôn thường trực như chính cái
bóng ma ln hiện hình trong tâm trí anh mà khơng thể nào chia sẻ cùng ai. Anh
đối phó với nó bằng sự sợ hãi bởi anh khơng có khả năng để lựa chọn cũng như
khơng thể phản kháng. Với Oba Yozo, ta như đang bắt gặp nhân vật chính trong
tác phẩm Con cú mù của Sadegh Hedayat. Nhân vật tơi trong câu chuyện là một
hình tượng nhân vật cô đơn và xa lạ với thế giới. “Trong đời mình, tơi đã phát hiện
ra một vực thẳm đáng sợ nằm giữa tôi và người khác và nhận ra rằng cách tốt nhất
là giữ câm lặng và cất giữ những ý nghĩ cho riêng mình chừng nào cịn có thể”.
Anh bị bỏ rơi giữa cuộc đời như một thứ siêu hình tồn tại độc lập, dị biệt với thế
giới còn lại của cuộc sống hiện hữu xung quanh.
Xa lạ với nhân gian, Oba Yozo đi tìm câu trả lời cho mặt trái bí ẩn trong con
người. Nỗi ám ảnh bi ai luôn bao bọc lấy anh và cuối cùng anh cho rằng mình là
một phần tử đứng bên lề, bên rìa của xã hội- “thất lạc”. “Có một từ để gọi đó là “kẻ
ngồi rìa xã hội”. Từ này vốn dùng để chỉ những kẻ thất bại thảm hại hay những kẻ
không lương thiện trong thế giới này. Nhưng đối với tôi kể từ khi được sinh ra, tơi
đã thấy mình là kẻ ngồi rìa”[9, tr.55]. Suy nghĩ của Oba khiến cho người đọc mơ
hồ tưởng tượng rằng với cuộc sống nhân gian, anh đã phạm một sai lầm to lớn



16

khơng thể dung tình, khơng thể bng tha. Anh bị chối bỏ, bị hất tung ra lề cuộc
sống. Cái xa lạ như một định mệnh, cứ tự nhiên đến với Oba, khơng cách nào thốt
ra khỏi.
Con người của Oba ln nơm nớp lo âu và sợ hãi về cuộc sống, ln chồng
chất những khổ đau về hạnh phúc mà mình đang kiếm tìm. Anh chạy trốn trong
những thứ mà mình khơng ưa thích, khơng coi nó ra gì để coi đó là vỏ bọc hữu
hiệu cho sự sợ hãi của mình. Khi đi học cao đẳng, anh vào Đảng, và anh đã nghĩ
rằng “trở thành Đảng viên, nếu bị bắt tù chung thân trong ngục tối thì cũng thường
tình thơi. Lúc đó, thậm chí tơi cịn nghĩ rằng thay vì sợ hãi đời sống thực của con
người thế gian, rên rỉ trong nỗi khổ địa ngục mất ngủ từng đêm thì vào nhà lao xem
thử biết đâu đời sẽ thú vị hơn chăng”[9, tr.57]. Oba khi lớn lên, biết đến đàn bà vẫn
sợ, sợ những sự giúp đỡ của những người phụ nữ mà anh gặp, sợ cái cảm giác gối
đầu lên ngực một người phụ nữ để yên giấc… Tất cả thật đáng sợ đối với Oba
Yozo. “Vì chịu cái ơn đó mà lúc nào tơi cũng cảm thấy lo âu vô cớ, sợ hãi mơ hồ
đến mức không thể nhúc nhích được tay chân mình mấy(…) Tâm tư tôi vẫn quái lạ
và sợ hãi sự tự tin và bạo lực của con người”[9, tr.64]. Sự sợ hãi của Oba dường
như thấm sâu vào trong tất cả những mối quan hệ mà anh có được trên cõi đời này,
anh luôn sợ hãi cuộc sống như sợ một điều nguy hiểm ln cận kề với chính mình.
Anh thất lạc giữa cõi đời mà không ai hay biết, những người phụ nữ vẫn luôn dõi
theo những bước chân của anh trên cuộc sống đồng thời họ đã dành cho anh những
ưu ái và cả tình yêu. Oba cứ chạy trốn như một kẻ phạm trọng tội để thấy mình xa
lạ, cái cảm giác mình “khơng có tư cách làm người” ln ám ảnh trong tâm trí
anh, khơng gì có thể xóa hết. Những mối quan hệ càng làm cho anh thêm hồ nghi
cuộc sống và thêm sợ hãi. Oba không thể nào tìm thấy được sự cảm thơng của tha
nhân, khơng thể nương nhờ vào ai kể cả vào chính mình… Cảm giác thất lạc giữa
cõi người như bóp nghẹt bầu khí quản của anh, bảng lảng, day dứt khơng ngi



17

trong vũ trụ khép kín của chính anh. Oba một mình đứng giữa một thái cực riêng
biệt của cuộc đời, không ai hiểu, không ai thấu cảm, không ai quan tâm… MẶC
KỆ.
Với con mắt của một người xa lạ, anh nhìn cuộc sống với những ối oăm,
những con người thật đáng kinh sợ. Anh bạn Horiki rốt cuộc cũng chỉ là một con
người ích kỉ chỉ quan tâm đến tiền, rượu và đàn bà mà thôi. Cái lão cá bơn cũng là
một con người đáng sợ hãi, chỉ quan tâm tới tiền và lợi ích của lão, coi thường
người khác. Để rồi, Oba nhận ra chân lí cho chính riêng mình bởi “cái lối thể hiện
khoe mẽ bề ngồi của những con người thế gian vẫn làm tôi cảm thấy u uất không
chịu nổi”[9, tr.85]. Cũng đã nhiều lần Oba tự nghiệm lại chính mình, thấy mình
khơng có “cái năng lực để mà yêu quý người khác” và “nghi ngờ rằng khơng biết
nhân gian thật sự có khả năng u hay không nữa”[9, tr.89]
Oba tuyệt vọng và đánh mất bản thân mình, anh để cuộc đời mình thất lạc
giữa cuộc sống mà ai cũng thấy màu hồng. Đến đây, ta như thấy có điểm tương
đồng giữa sự tồn tại trên cõi đời giữa Oba Yozo cách suy nghĩ của Alber Camue
trong Kẻ xa lạ, ông cho rằng ““con người đã bị bỏ rơi trước một vũ trụ hung bạo”,
và cuộc đời chỉ là một sự vô nghĩa, “sự vô nghĩa sinh ra từ sự đối chiếu giữa lời
kêu gọi của con người và sự im lặng của cuộc đời”[11, tr.311]. Nổi lên đó chính là
nhân vật Meursault- đúng như tên gọi của tiểu thuyết, Meursault là một người xa lạ
đối với cuộc sống xung quanh. Anh sống thờ ơ, lạnh nhạt với cuộc sống xung
quanh, cuộc sống cứ trôi qua ngày này qua tháng khác, chẳng để lại một dấu ấn gì
tốt đẹp cho anh, và anh cũng chẳng cần biết, cuộc sống có gì và nó diễn ra như thế
nào. Trước cảnh mẹ ở bệnh viện anh ngạc nhiên đến trịn xoe đơi mắt khi thấy mọi
người sụt sùi, rồi trước đề nghị cưới xin của người yêu anh nghĩ thật phiền phức và
cho rằng cưới hay không cũng chỉ là một. Cái dửng dưng trước cuộc đời, không
phải là cái khinh bạc đối với cuộc sống, mà bắt gặp giữa hai nhân vật là sự xa lạ



18

với cuộc sống, cơ hồ không thể hiểu được cuộc sống và cũng chẳng thể nhận ra
được mình cần gì từ cuộc sống. Bị tuyên án tử hình, Meursault thản nhiên vì cuộc
đời đối với anh chẳng có gì đáng tiếc, cịn Oba thì tự tử vì đơn giản, cuộc sống
chẳng dung tình cho anh.
Xa lạ với cuộc sống, mất tư cách của chính một con người đang tồn tại trên
nhân gian, có lúc Oba đã nghĩ mình giống như một con cóc. “Con cóc. Đó chính là
tơi. Khơng phải chuyện thế gian tha thứ hay không, bị chối bỏ hay khơng mà vấn
đề tơi là một con vật cịn hèn kém hơn cả chó mèo. Một con cóc, cử động khềnh
khàng chậm chạp”[9, tr.103]. Để đến một lúc anh nhận rằng rốt cuộc “Đối với cuộc
đời, dần dần tôi chẳng dụng tâm gì nữa. Tơi nghĩ rằng cái gọi là cuộc đời cũng
chẳng đáng sợ đến thế”[9, tr.106]. Oba- một con người thất lạc giữa bốn bề cuộc
sống xô bồ, khơng có một bến đỗ bình n, ln nghĩ rằng mình mất tư cách làm
người. Suy nghĩ đó đã chốn lấy tâm trí anh, hoạch định những việc anh làm trong
cuộc sống và cả những ngờ vực mà anh dành cho cuộc sống cũng như chính bản
thân mình. Anh đã từng bộc lộ suy nghĩ đó của anh đối với Yoshiko- một cô gái
bán thuốc “Anh là kẻ chẳng có tư cách gì. Em đừng lấy anh mà làm chi nữa”. Và
chính lần đó anh đã quyết “một lần phân tranh thắng bại” cho cái lằn ranh giữa sự
sợ hãi và rung cảm của anh đối với Yoshiko, nhưng rồi kết quả không như mong
muốn, hạnh phúc mà Oba níu giữ khơng được bao lâu, những hồ nghi về cuộc sống
vẫn không buông tha cho tâm hồn anh. Oba vẫn một mình đơn phương độc mã
giữa cuộc đời với biết bao nhiêu khổ đau, dằn vặt tận sâu đáy tâm hồn mình.
Đơi khi cùng với cuộc sống với Yoshiko. Oba đã dần lấy lại niềm tin trong
cuộc sống nhưng cùng với sự xuất hiện của Horiki và những kí ức của quá khứ đã
níu lại trong anh những khoảnh khắc chạnh lòng, những phút giây chỉ dành cho
đau khổ và thất vọng chực trào. Và khơng có gì có thể cứu vớt được anh ra khỏi
địa ngục trần ai với những bất tín được khi tận mắt anh và Horiki chứng kiến cảnh



19

ơng chủ làm nhục vợ mình mà anh khơng thể nói được một lời nào cũng khơng thể
nhào đến để cứu Yoshiko. “Từ đêm đó, tóc tơi bắt đầu ngả màu bạc, tôi dần mất
hết sự tự tin, nghi ngờ toàn thể con người, những hy vọng vào cuộc đời, cũng như
niềm vui và sự thông cảm tiêu tan hết cả(…) Tơi đã bị đâm một nhát chí mạng vào
giữa ấn đường, và vết thương này từ đó về sau, mỗi lần gặp tha nhân đều không
ngừng đau thương rỏ máu”[9, tr.126]
Với Oba Yozo- một con người tràn ngập sự cô đơn và thất lạc giữa cõi đời,
ta thấu hiểu được nghịch cảnh của một con người trong sự xa lạ với cuộc sống, bất
cần với những mối quan hệ xung quanh. Một con người luôn day dứt không ngừng,
luôn sợ hãi nhân gian và nhận ra mình mất tư cách làm người- “thất lạc cõi người”.
1.2. Đối diêṇ cuô ̣c số ng bằ ng “mă ̣t na ̣ hề ”
Cuộc sống xung quanh như khó hiểu, cơ hồ như khơng thể hịa nhập được
với một đứa trẻ như Oba Yozo. Bên trong con người của một cậu bé lúc nào cũng
cười là những suy nghĩ, những ngổn ngang mà cậu khơng thể nói cùng ai. Từ cái
cơ đơn trong cuộc sống, từ những trăn trở ngay trong chính bản thân mình, “tơi”Oba Yozo “đã suy nghĩ ra là một anh hề”[9, tr.19]. Cuộc đời khó chấp nhận với
anh, nhưng anh vẫn không nỡ vứt bỏ con người, thế là anh buộc phải sắm vai hề để
che chắn bản thân trước cuộc đời, và tìm quên trong những cuộc trác táng, rồi mỗi
lúc một dấn sâu, khơng thốt nổi bi kịch đã được cài sẵn cho cuộc đời mình. Và
anh đã diễn vai hề một cách rất hoàn hảo.
Và như Oba Yozo suy nghĩ, thì “đó là hành động tìm kiếm tình u cuối
cùng của tơi đối với con người. Dù sợ hãi con người đến cùng cực nhưng tôi dường
như khơng thể nào dứt bỏ được con người. Vì vậy tôi gắng nối kết với con người
bằng một sợi dây mong manh của chú hề. Bề ngồi thì cười liên miên bất tuyệt cịn
bên trong thì tốt mồ hơi vì thập phần nguy hiểm có thể nói đến mức thử ngàn lần



20

mà khơng biết chắc có lần nào thành cơng hay khơng”[9, tr.20]. Đó là cách mà Oba
đã chọn để sống và đối phó với cuộc sống nhân gian.
Oba đã trang bị cho mình chiếc mặt nạ của một chàng hề lúc nào cũng tươi
cười nô đùa cùng mọi người nhưng thực chất anh ta kinh sợ những điều “bất tín”,
ghê tởm cái phần bản chất xấu xa mà con người cất giữ. Cái mặt nạ mà Oba Yozo
tạo ra chính là vũ khí để cậu đối phó với xung quanh, đối phó với ngay cả với
những con người bên cạnh, những người thân trong gia đình, khơng trừ một ai.
Cậu đã đảm đương vai một chú hề từ nhỏ, từ lúc cịn sống trong gia đình. Cậu đối
diện với cuộc sống bằng mặt nạ hề như một điều tiên yếu mà cậu cần có. Bởi lẽ
vậy nên, “tơi khơng biết từ lúc nào nữa đã trở thành một đứa trẻ khơng nói ra một
lời nào thật lịng cả”[9, tr.20]. Cái mặt nạ hề mà Oba tự tạo ra cho mình thực sự đã
là một chiếc bao an toàn cho cậu cho đến khi gặp cậu bạn Takeichi. Chính cái mặt
nạ hề đã tạo cho Oba một “vẻ ngoài mỉm cười tươi tắn, và còn làm người khác
cười nữa nhưng bên trong là cả một cõi lòng u uất, như muốn nói rằng chẳng thể
nào khác được”[9, tr.44].
Từ khi sinh ra trong gia đình, là một đứa con được yêu thương thì Oba Yozo
đã là một tồn tại người kì quái ln nhìn cuộc đời bằng cái nhìn xa lạ nhất, xuất
phát từ nỗi sợ hãi sâu thẳm đối với đời sống nặng nề, thống khổ. Một đứa trẻ
“không chút nào tự tin về hành vi cử chỉ của mình với tư cách là một con người”,
“tự chôn giấu nỗi đau khổ của mình”[9, tr.21] để diễn cho trịn vai một chú hề tài
ba, luôn làm người khác không nhịn được cười.
“Thằng hề Oba Yozo hay làm những trị khơi hài để chọc mọi người cười, từ
những người thân trong gia đình đến bạn bè và thầy giáo với mong muốn người
khác không nhận ra con người thật và nỗi sợ hãi trong chính mình”[17, tr.21]. Oba
Yozo đã tự nhận lấy và đảm đương vai diễn của một thằng hề như “sợi dây mong
manh” để gắn kết và có thể tồn tại với đời.



21

Cuộc đời đầy rẫy giả tạo và phi lý không thể hiểu nổi. Ngay từ khi sinh ra, từ
khi còn là một cậu bé, trong gia đình Oba vẫn ln lo sợ, cậu “tự chơn giấu nỗi đau
khổ của mình”[9,tr.21] và từ đó cậu nghĩ ra “mặt nạ hề” để chọc mọi người cười,
để tồn tại và sống.
Oba nhận lấy vai diễn của mình, cố làm “giống như thật” để khơng ai có thể
nhìn thấu tâm can của chính mình, khơng thấy nỗi cơ đơn và lạc lõng mà chính
Oba đang mang trong trái tim mình. Trong suốt chặng đường mà Oba Yozo đã trải
nghiệm với chính bản thân mình, vai hề luôn được cậu diễn xuất thật tốt. Che đậy
bản thân và con người của chính anh, kể cả lúc anh cô đơn và kể cả cận kề của sự
hạnh phúc, vai hề cũng được xuất hiện. Có nhiều người, đeo mặt nạ đến lúc nó trở
thành gương mặt thật của họ, chẳng cần phải thay đổi nữa. Nhưng với Yozo thì
sao? Anh ta thấu được cuộc sống, nhưng khơng thể dung hịa nó, và đeo mặt nạ
vào chỉ để che đi cái tôi thật mà anh ta biết nếu lộ ra người đời sẽ khơng dung thứ
cho nó. Vì thế, trong anh ta có hai con người cùng tồn tại- một con người của chính
sự cơ đơn, lạc lõng và một con người luôn mỉm cười sau chiếc mặt nạ hề. Con
người thật ln nhìn con người giả kia mà ngậm cười.
Sự hóa thân của Oba Yozo vào một người chuyên diễn trò hề quả thật rất
“chuyên nghiệp”, cậu làm cho mọi người cười theo ý cậu muốn mà không chút
nghi ngờ. “Tôi chọc cười mọi người trong gia đình. Ngay cả đối với những người
hầu cận, tơi cũng ráng sức mà diễn vì tơi cảm thấy họ đáng sợ và không thể hiểu
được hơn cả những người trong gia đình tơi”[9, tr.22]. Suy nghĩ đó đã chứng tỏ
rằng Oba sợ những người xung quanh, anh cố diễn vai hề để tỏ ra hiểu mọi người,
và hơn hết là để tiếng cười bao che cho sự sợ hãi đang xuất hiện trong anh. Với bố,
Oba cũng sợ, Oba cũng diễn vai hề, để làm vừa lòng bố và để bớt sợ hơn. Và quả
thật, vai hề thật hữu hiệu, bố cậu đã cười và khoe về cậu với mẹ. Thật là thành
công không nhỏ của Oba Yozo trong vai hề này. Lớn lên, đi học, Oba tiếp tục diễn



22

vai hề của mình cho bạn bè ở trên lớp. “Tuy lười biếng như thế nhưng nhờ vào vai
diễn thằng hề của tôi mà càng ngày tôi càng được bạn bè trong lớp yêu mến”[9,
tr.32]. Vai hề dường như rất hợp với Oba trong mọi môi trường mà anh tiếp xúc,
nó đã làm cho anh tiếp xúc với cuộc sống tự tin hơn, sự sợ hãi nhân gian dường
như đã được che đậy kĩ càng hơn. “Tôi đã diễn và thu được thành công nhất định.
Một kẻ xảo quyệt đến độ đó thì làm gì có chuyện thất bại trong diễn xuất khi ra
một xứ khác cơ chứ”[9, tr.32]. Và thành cơng đối với vai diễn mà Oba có vẻ rất
thỏa mãn là “Tơi đã có thể làm cho huấn luyện viên quân sự có giọng rất cao như
sấm bật cười một cách nhẹ nhàng”[9, tr.33].
Tự đeo chiếc mặt nạ hề, Oba che giấu sự sợ hãi của mình, sự cô đơn, buồn
thảm và cả sự mất niềm tin vào cuộc đời. Và rồi, dường như không thể “qua mặt”
được Takeichi, Oba đã vẽ cho Takeichi xem bức tranh “bóng ma”- đó là bức tranh
thể hiện đúng “bản chất của con người tôi vốn che giấu bấy lâu nay”. Đến đây, bản
chất “thằng hề” của Oba được bộc lộ rõ nét, không phải là sự phát giác của người
khác mà do chính cậu nhận ra, tự bộc lộ với Takeichi. Chính một lần bị cậu bạn
này phát giác mà Oba luôn không an tâm dưới cái mặt nạ của chú hề mà cứ lo sợ
bất chợt bị người khác phát hiện ra nữa. Con người thật của anh luôn được giấu
giếm, ngay với cả chính bản thân mình, Oba cũng sống bằng mặt nạ hề, anh khơng
cho phép mình sống với những chất chứa trong lịng. Khơng tìm thấy hạnh phúc và
niềm tin thì làm sao cho phép mình sống thật với chính mình được. Oba sợ hãi và
như muốn tan hịa mình ra trong một thế giới mà khơng ai nhận ra chính con người
thật của chính mình, như chính một bóng ma tồn tại trong hư khơng, vơ danh,
khơng ai biết đến. Như thế, có lẽ anh sẽ thấy hạnh phúc hơn nhiều. Bởi nỗi hiu
quạnh trong tâm hồn, nỗi chán ngán cuộc đời vô cảm luôn bảng lảng trong anh như
chính bóng ma vơ hình. Có khi anh gia nhập vào cả những tổ chức bất hợp pháp để
trá thân mình, để mình cảm thấy mình khơng bị lạc lõng mặc dù anh cũng chẳng



23

thích thú gì với những tổ chức đó. Thậm chí anh cịn có cảm giác chán ngán nữa.
“Bất hợp pháp. Đối với tơi đó cũng là một niềm vui thầm lặng. Hay có thể nói là
tơi cảm thấy dễ chịu với điều đó. Thật đáng sợ biết bao cái gọi là hợp pháp trong
thế giới này, nó chứa đựng một nỗi dự cảm về một thứ gì đó như một sức mạnh
khủng khiếp không tài nào hiểu được. Tôi không thể ngồi trong căn phịng máy
lạnh khơng có cửa sổ như thế được. Chẳng thà nhảy ra ngoài, bơi lặn trong cái biển
phi hợp pháp kia rồi chết chìm tơi còn cảm thấy vui hơn.”[9, tr.55]
Với phụ nữ, mặt nạ hề cũng được Oba sử dụng. Phải chăng, con người
không trừ một ai Oba đều cảm thấy đáng nguy hại và cần phải ngụy trang bằng
chính vai diễn của mình. Anh sợ làm cho các nàng có cảm tình với anh tức giận và
càng sợ các nàng không lo lắng cho anh mặc dù anh cũng chẳng thích các nàng là
bao. “Mỗi lần nhận được quà nàng đưa cho (toàn là những thứ tạp nham chán
ngấy mà tôi ngay lập tức phải đem cho ông lão ở quán gà nướng) tơi đều tỏ ra rất
vui vẻ, nói đùa vài câu chọc nàng cười”[9, tr.63].
Cũng có lúc Oba cảm thấy mệt mỏi vì chính vai hề mà mình tạo ra, cơ hồ
mặt nạ hề đó chỉ dùng cho những ai mà anh thấy đáng sợ, cịn nếu như tìm được ai
có chung nỗi sầu thảm với mình, dường như anh cũng chẳng muốn đóng vai hề
làm gì nữa. Bởi đó là người có cũng nỗi lịng mà anh đang khắc khoải. Với nàng
Tsuneko- người con gái mà Oba đã cùng trầm mình ở Kamakura- Oba “cảm thấy
yên tâm với người con gái này nên tơi chẳng có ý muốn diễn hề gì nữa mà cứ thế
thể hiện ra nỗi sầu thảm cùng với bản tính trầm ngâm ít nói của mình”[9, tr.65].
Sau lần tự tử không thành công, vai hề vẫn được diễn xuất với ông cảnh sát già,
một vai diễn mà Oba đã hết sức nhập tâm nhưng rồi cũng chẳng thu được tác dụng
gì. Bởi cuộc sống này, nhân gian này, dù anh có đóng vai hề, có mang chiếc mặt nạ
hồn hảo thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng thể cho anh có một cơ hội để tìm
thấy hạnh phúc, cơ hội để có niềm tin từ chính cuộc đời mà mình đang trải nghiệm.



24

Phải chăng, tất cả đó, tất cả những mối quan hệ trong chính cuộc sống mà con
người đang cố tỏ vẻ tốt với nhau, tất cả những cơ may, hạnh phúc mà con người ta
“lượm nhặt’ được trong cuộc sống cũng chỉ là những sự giả dối, những chú hề mà
thôi. Mang mặt nạ hề, cơ hồ Oba Yozo cũng khơng nhận ra được mục đích của biết
cái mặt nạ đó là gì. Đơn giản là anh biết cái chú hề trá hình kia muốn chọc cho
người ta cười, hịng che đi những yếu đuối, những yêu thương, những mối nhợ
buộc anh ta với con người… mà anh ta không nhận ra, chỉ mang máng thế mà
khơng hiểu vì sao, “Dù sợ hãi con người đến cùng cực nhưng tôi dường như không
thể nào dứt bỏ được con người”
Mang mặt nạ hề, Oba đã cố lội ngược dòng định mệnh, hóa thân mình vào
những tiếng cười reo vui của mọi người xung quanh nhưng cuối cùng tìm về với
bản thân mình, lối thốt cho nỗi buồn thảm, lối thốt cho sự cơ đơn dường như vẫn
bế tắc. Chính anh cũng khơng biết mình đang đứng ở đâu, ở đoạn đường nào trong
chính đoạn đường mà anh đã đi. Chính anh cũng khơng biết hạnh phúc mà mình
đang kiếm tìm là gì, để rồi mặt nạ hề tan vỡ, anh muốn “mọi thứ rồi cũng sẽ trơi
qua”, anh tìm về với cái chết.
1.3. Con người trên hành trình tự hủy và “ngày càng muố n chế t”
Đứa trẻ tinh ranh Oba Yozo chuyên đóng vai hề rồi bỗng chán ngán với cái
mặt nạ mình mang trong suốt cõi người. Oba vẫn luôn “nuôi dưỡng nỗi chán ngán
đối với mọi thứ diễn ra xung quanh mình nên lơ là chuyện học hành vốn phải làm
theo người cha(…)rồi biết đến rượu bia, thuốc lá, đĩ điếm, tiệm cầm đồ. Và cuộc
đời Oba Yozo là hành trình dài trên con đường tự đày đọa và tự hủy”[17, tr.24]
Chính bởi sự cơ đơn, lạc lồi đó dẫn đến nỗi tuyệt vọng vơ chừng. Tuyệt
vọng với cuộc đời, nên khơng có đích sống nào hết, tìm đến cái chết nhiều lần cũng
như hủy hoại bản thân không thương tiếc. Kẻ cô đơn luôn nổi loạn, dù anh ta
khơng định làm gì ầm ĩ, nhưng rốt cuộc, lại biến mình thành kẻ ai cũng biết tới.



25

Bởi đời người như một vòng luẩn quẩn vĩnh viễn “trong đó cá nhân con người bị
tan biến vào “đám đông những kẻ cô đơn”, đánh mất sự đồng thanh tương ứng
trong tư tưởng, ý nghĩa và mục tiêu tồn tại của mình”[16, tr.39]. Nỗi tuyệt vọng
khiến Oba khơng thể gánh được bất cứ thứ gì liên quan đến tình cảm, từ tình yêu
trong sáng thành thật, đến sự dâng hiến ngây thơ, thậm chí là cả hạnh phúc. Hạnh
phúc cũng thành thứ khơng chịu nổi thì mới thấy con người ta xa lạ đến mức nào,
cô đơn đến mức nào. Mà như thế, cũng có nghĩa là người ta đã trượt ra ngồi mọi
quy định, khn khổ của đời sống tẻ ngắt này.
Anh hoang mang khi mình sinh ra trong cuộc đời như một sân khấu mang
đầy vở diễn. Oba luôn ái ngại khi tiếp xúc với cuộc sống xung quanh. Oba Yozosống trong cuộc sống của mình nhưng luôn bị ám ảnh bởi những giá trị của cuộc
sống, ln muốn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “mình là ai trên cõi đời này, liệu sự
hiện diện của mình có ích gì cho cuộc sống hay khơng?”. Những phân vân, nỗi băn
khoăn lo lắng trong hành trình đi tìm giá trị của cuộc sống và giá trị của chính
riêng bản thân mình và rồi anh tự nhận ra mình sợ cuộc sống của nhân gian. Anh
tìm cách lãng qn trong chính những cuộc vui, tìm về với rượu bia, đàn bà.
Chẳng hứng thú gì với việc học hành, Oba trốn đi học vẽ ở một trường tư thục, và
quen biết Horiki. Và rồi, từ Horiki, “Chẳng bao lâu sau, tôi hiểu được rằng rượu
bia, thuốc lá, đàn bà là những phương pháp rất tốt để có thể lãng quên nỗi sợ hãi
con người trong một thoáng chốc. Thậm chí tơi cịn nghĩ rằng để thực hiện được
điều này, nếu như bán hết cả những gì mình có thì tơi cũng khơng một chút hối hận
gì”[9, tr.51]. Hơn thế, “ý thức phạm tội” như anh suy nghĩ luôn hiện diện trong
cuộc sống của anh. Nó ln cựa mình, thúc giục anh làm một điều gì đó, khơng
phải là sự bằng phẳng như cuộc sống mà anh đang sống. Và chính cái ý thức đó đã
đánh thức, ln làm tỉnh giấc sự đau khổ trong anh trước thế giới con người.
“Trong thế giới con người, một đời tôi đau khổ vì cái ý thức này, nó như thể là



×