Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Bầu cử tổng thống mỹ 1951 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 69 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bầu cử Tổng Thống Mỹ 1951 – 2012

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hằng
Ngƣời hƣớng dẫn : Lƣu Trang

Đà Nẵng, tháng 5/ 2013

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................5
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................6
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................6
7. Bố cục của đề tài .....................................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................7
CHƢƠNG 1 : CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG MỸ ............................................................7
1.1. Vài nét về nước Mỹ ..............................................................................................7
1.1.1. Điều kiện tự nhiên .............................................................................................7
1.1.2. Sơ lược lịch sử nước Mỹ ...................................................................................8
1.2. Một số thuật ngữ, khái niệm .................................................................................8


1.3. Hiến pháp, pháp luật quy định chế độ Tổng thống Mỹ ......................................10
1.3.1. Hiến pháp, pháp luật nước Mỹ ........................................................................10
1.3.2. Những quy định của Hiến pháp, pháp luật về chế độ Tổng thống Mỹ ...........14
1.3.2.1. Tiêu chuẩn ứng cử viên Tổng thống Mỹ ......................................................14
1.3.2.2. Tranh cử và bầu chọn Tổng thống Mỹ .........................................................15
1.3.2.3. Quyền hạn Tổng thống Mỹ...........................................................................17
1.3.2.4. Nhậm chức, giữ chức và thôi chức Tổng thống Mỹ .....................................22
CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC BẦU CỬ TỔNG THỐNG MỸ THỜI KỲ 1951-2012 ...24
2.1. Khái quát công tác bầu cử Tổng thống Mỹ trước năm 1951 .............................24
2.2. Bầu cử Tổng thống Mỹ thời kỳ 1951-2012........................................................25
2.2.1. Những quy định mới bổ sung từ năm 1951 về bầu cử Tổng thống Mỹ..........25
2.2.2. Công tác tổ chức bầu cử Tổng thống Mỹ thời kỳ 1951-2012 .........................27
2.3. Một số nhận xét, đánh giá về bầu cử Tổng thống Mỹ .......................................49
2.3.1. Ưu điểm của chế độ bầu cử Tổng thống Mỹ...................................................49
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế của chế độ bầu cử Tổng thống Mỹ ............................51
KẾT LUẬN ..................................................................................................................59
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................61
PHỤ LỤC .....................................................................................................................64
2


MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Nước Mỹ - đất nước của những con người yêu chuộng tự do, dũng cảm vượt qua
Đại Tây Dương để trốn thốt sự kìm kẹp của giai cấp phong kiến ở châu Âu lục địa.
Họ muốn thoát ly khỏi ảnh hưởng của các quốc gia phong kiến, đặc biệt là nước Anh,
không chỉ về kinh tế, chính trị, qn sự mà cả mơ hình tổ chức quyền lực nhà nước.
Do vậy, họ đã tổ chức bộ máy nhà nước theo mơ hình Cộng hịa Tổng thống, theo
đúng nguyên tắc phân quyền của Montesquieu. Ngày 30 tháng 4 năm 1789, trong rền
vang tiếng đại bác và từng hồi chuông nhà thờ đổ dồn, đứng trên ban cơng tịa nhà lớn

ở góc phố Wall của thủ đơ lâm thời New York, trước sự hân hoan ngưỡng mộ của
đông nghịt quần chúng, Geogre Washington long trọng tuyên đọc diễn văn nhậm chức
Tổng thống Hợp chủng quốc, chính thức khai sinh ra một mơ hình ngun thủ quốc
gia hồn tồn mới lạ trong lịch sử chính trị thế giới. Từ đây, nước Mỹ bắt đầu có bộ
máy nhà nước hồn chỉnh để quản lý đất nước, trong đó Tổng thống được trang bị đầy
đủ quyền lực mạnh để thực hiện chức năng của mình, nhưng khơng lấn át cơ quan
quyền lực khác.
Sau hơn 200 năm lịch sử hình thành và phát triển, Hoa Kỳ từ 13 tiểu bang nhỏ
bé ban đầu ở Bắc Mỹ đã trở thành một liên bang hùng mạnh với 50 tiểu bang, một
quận thủ đô Columbia District (hay Washington D.C) và một số quốc đảo nhỏ, trở
thành cường quốc số một thế giới với nền kinh tế và chính trị - quân sự hùng hậu nhất,
chưa nước nào sánh bằng. Theo bản Hiến pháp được Hội nghị Lập hiến soạn thảo năm
1787, chính quyền liên bang Hoa Kỳ là hệ thống tam quyền phân lập với việc phân
chia quyền lực rõ ràng cho ba bộ phận độc lập của Nhà nước: Tổng thống, Quốc hội và
Tồ án. Trong đó, quyền hành pháp được trao cho Tổng thống, quyền Lập pháp cho
Quốc hội và quyền tư pháp thuộc về Tồ án. Nhưng trên thực tế thì Tổng thống Mỹ
nắm giữ quyền lực lớn nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị Mỹ: là người đứng đầu
Nhà nước, người đứng đầu Chính phủ, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, người lãnh
đạo Đảng chính trị mà Tổng thống đại diện, nhà ngoại giao chủ chốt của đất nước,...Và
Tổng thống của nước Mỹ ngày nay có quyền lực “lớn mạnh khủng khiếp”, “đã làm
thay đổi giá trị, vị thế của các Tổng thống Mỹ, biến họ thành như vua chúa – những
vua chúa hiện đại được lập nên bằng bầu cử”.[12, tr 6-7]
Từ đó dễ hiểu vì sao các cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ luôn đặc biệt thu hút
được sự chú ý, sự quan tâm theo dõi của nhiều dân tộc. Đây khơng cịn là vấn đề riêng
của một quốc gia, một khu vực nữa mà đã trở thành sự kiện chung của toàn thế giới .
Điển hình là mới đây, vào những ngày cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 2012, cuộc
cạnh tranh giữa hai ứng cử viên Barack Obama và Mitt Romney vào chức vụ Tổng
thống Hoa Kỳ thực sự sôi động và thu hút không chỉ đối với người dân Hoa Kỳ mà
3



cịn đối với nhân dân thế giới nói chung. Sức nóng của cuộc Bầu cử này vẫn cịn lan
tỏa sau khi Tổng thống đương nhiệm của Đảng dân chủ Barack Obama tái đắc cử.
Điều này dẫn đến nhu cầu muốn tìm hiểu về một vấn đề mang tính thời sự rất lớn - vấn
đề bầu cử Tổng thống Mỹ. Tuy nhiên, năm 1951 với Tu chính án XXII (điều bổ sung
thứ XXII trong hiến pháp nước Mỹ) quy định giới hạn số nhiệm kỳ của một vị Tổng
thống Mỹ không quá hai nhiệm kỳ đã mở ra thời kỳ mới trong bầu cử Tổng thống Mỹ.
Vì vậy, đó là lý do của việc báo cáo khoa học này nghiên cứu chủ yếu về “Bầu cử
Tổng thống Mỹ từ năm 1951– 2012”.
Lịch sử vấn đề
Với tu chính án XXII được đề xuất ngày 24 tháng 3 năm 1947, phê chuẩn ngày
27 tháng 2 năm 1951 giới hạn số nhiệm kỳ của Tổng thống Mỹ không quá hai nhiệm
kỳ đã tạo ra một mốc mới trong lịch sử bầu cử Tổng thống Mỹ. Tuy nhiên cho đến nay
vẫn chưa có một cơng trình nào tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ về
vấn đề “Bầu cử Tổng thống Mỹ 1951 – 2012”.
Nhìn chung, đối với vấn đề “Bầu cử Tổng thống Mỹ 1951 – 2012” vẫn có một
vài tác phẩm đề cập đến những khía cạnh có liên quan.
Tác phẩm“Bốn mươi ba đời Tổng thống Hoa kỳ” của William A. Degregorio, đã
trình bày tất cả sự nghiệp của bốn mươi ba vị Tổng thống Hoa Kỳ trải dài theo lịch sử
230 năm của nước Mỹ, từ vị Tổng thống đầu tiên Washington đến vị Tổng thống bốn
mươi ba G. Bush. Trong tác phẩm đã có nhiều chi tiết liên quan đến vấn đề bầu cử
Tổng thống Mỹ 1951 – 2012.
Tác phẩm “Nền dân trị Mỹ” của Alexis De Tocoqueville đã tìm hiểu, phân tích,
suy tưởng và dự báo về mọi khía cạnh tích cực lẫn tiêu cực của nền dân trị nước
Mỹ.Qua đó đã đề cập nhiều vấn đề có liên quan đến Bầu cử Tổng thống Mĩ.
Tác phẩm “Chế độ Tổng thống Mỹ” của Nguyễn Anh Hùng đã giải đáp nhiều
vấn đề cần tìm hiểu về chế độ Tổng thống – mơ hình Ngun thủ quốc gia Hoa kỳ: từ
quá trình hình thành và phát triển, các đặc trưng, phương thức thiết lập Tổng thống
Mỹ… Tác phẩm đã đưa ra được nhiều tài liệu quan trọng về việc Bầu cử Tổng thống
Mỹ.

Tác phẩm “Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới” đã giới thiệu về chế độ
bầu cử của một số nước như: Anh, Pháp, Nga, Mỹ, bao gồm bầu cử Tổng thống, phó
Tổng thống, bầu cử Quốc hội, qua đó đã đề cập đến những vấn đề có liên quan đến bầu
cử Tổng thống Mỹ.
Ngồi ra cịn có một số tác phẩm khác như: Vernon A. Walters (2003), Cố vấn
năm đời Tổng thống Mỹ (Thu Hà dịch), Nxb Công an nhân dân; Nguyễn Thái Yên
Hương, Tạ Minh Tuấn (2011), Các vấn đề nghiên cứu về Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục Việt
4


Nam; Lý Thắng Khải (2004), Nội tình 200 năm Nhà Trắng, Nxb Văn hóa – Thơng
tin… có đề cập một số khía cạnh liên quan đến đề tài.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Tơi chọn đề tài “Bầu cử Tổng Thống Mỹ 1951 – 2012” để nghiên cứu nhằm thực
hiện các mục đích sau:.
- Tìm hiểu khái quát nước Mỹ với những vấn đề tổng quan như điều kiện tự
nhiên, hiến pháp, pháp luật, và những quy định của Hiến pháp, pháp luật nước Mỹ về
chế độ Tổng thống Mỹ.
- Những vấn đề liên quan đến hoạt động bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra từ năm
1951 đến năm 2012. Qua đó thấy được tính chất trọng đại và sức ảnh hưởng của vấn
đề này đến tình hình của nước Mỹ nói riêng và của cả thế giới nói chung.
- Thực hiện đề tài này giúp tôi lĩnh hội thêm kiến thức lịch sử thế giới hiện đại,
bổ sung thêm những hiểu biết nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy sau này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên thì đề tài hướng vào việc giải quyết những nhiệm vụ
sau:
- Tìm hiểu về những quy định của Hiến pháp, pháp luật nước Mỹ về chế độ Tổng
thống Mỹ.
- Khái quát được công tác bầu cử Tổng thống Mỹ trước năm 1951.

- Phân tích làm sáng tỏ về quá trình bầu cử Tổng thống Mỹ từ năm 1951 đến năm
2012 bao gồm những quy định mới bổ sung từ năm 1951về bầu cử Tổng thống Mỹ ,
công tác tổ chức bầu cử Tổng thống Mỹ thời kỳ 1951 – 2012.
- Rút ra những nhận xét đánh giá về bầu cử Tổng thống Mỹ từ năm 1951 đến
năm 2012 bao gồm những ưu điểm, hạn chế của chế độ bầu cử Tổng thống Mỹ cũng
như vai trị, ý nghĩa của cơng tác bầu cử Tổng thống Mỹ.
Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Hiến pháp, pháp luật của nước Mỹ quy
định chế độ Tổng thống Mỹ, những quy định mới bổ sung về bầu cử Tổng thống Mỹ
từ năm 1951 cùng với công tác tổ chức bầu cử Tổng thống Mỹ từ năm 1951 đến năm
2012.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: nghiên cứu về việc bầu cử Tổng thống ở nước Mỹ cùng với
một số vấn đề liên quan đến tình hình nước Mỹ.
- Về mặt thời gian: thời hiện đại mà cụ thể là nước Mỹ trong giai đoạn từ năm
1951 đến năm 2012.
5


Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài: Bầu cử tổng thống Mĩ 1951 –
2012”, tôi đã sử dụng nguồn tư liệu thành văn là chủ yếu, bao gồm các tác phẩm viết
về chế độ bầu cử tổng thống Mỹ. Ngồi ra tơi cịn tiến hành sưu tầm các tài liệu tham
khảo đặc biệt phát hành tại Cơ quan đại diện thông tấn xã Việt Nam tại Đà Nẵng, các
bài viết trên các tạp chí, trên các ấn phẩm của bộ ngoại giao nước Mỹ được lưu trữ trên
mạng Internet có nội dung liên qua đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Khi nghiên cứu đề tài phải đứng vững trên quan điểm của

chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của sử học Mác – xít, đứng trên quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh để xem xét, đánh giá vấn
đề, các hiện tượng, các sự kiện lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu chủ yếu là dựa vào phương
thức thu thập và xử lý tư liệu. Khi xử lý thơng tin thì sử dụng các phương pháp cụ thể
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống hóa các quan
điểm, các ý kiến nhận xét khác nhau của nhiều tác giã, các nguồn tư liệu thành văn để
làm sáng tỏ nội dung cần trình bày.
Đóng góp của đề tài
Đây là một đề tài thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, vì thế việc nghiên cứu ngồi ý
nghĩa khoa học sẽ có những đóng góp nhất định.
- Về mặt lý luận: nghiên cứu đề tài này sẽ cố gắng bổ sung, làm phong phú
thêm sự hiểu biết về hoạt động bầu cử Tổng thống Mỹ từ năm 1951 đến nay và một số
vấn đề liên quan đến đất nước này như: hiến pháp, pháp luật, công tác tổ chức bầu cử
Tổng thống Mỹ từ năm 1951 đến năm 2012.
- Về mặt thực tiễn: việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp một phần nào đó trong
việc làm tài liệu học tập, tham khảo cho những ai quan tâm đến lĩnh vực chính trị thế
giới hiện đại mà cụ thể là ở nước Mỹ.
Tuy nhiên, với sự hạn chế về thời gian, về tài liệu tham khảo và khả năng nghiên
cứa của cá nhân nên đề tài không thể tránh khỏi nhiều hạn chế và thiếu sót.
Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung đề tài
gồm có hai chương.
Chương 1: Chế độ Tổng thống Mỹ.
Chương 2: Tổ chức bầu cử Tổng thống Mỹ thời kỳ 1951-2012.

6


PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1 : CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG MỸ
1.1. Vài nét về nƣớc Mỹ
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Với tổng diện tích lớn thứ ba trên thế giới sau Nga và Canada, bao gồm 50 bang
và đặc khu Columbia, Mỹ là quốc gia trải dài từ Đại Tây Dương đến Thái Bình
Dương và từ Canada đến Vịnh Mexico. Chiếm phần trung tâm của lục địa Bắc Mỹ,
Hoa Kỳ phía Bắc tiếp giáp với Ca-na-đa và phía Nam tiếp giáp với Mê-hi-cơ. Phía Tây
và Đơng của Hoa Kỳ là hai đại dương lớn nhất trên trái đất: Thái Bình Dương và Đại
Tây Dương, nối liền nhau bởi kênh Pa-na-ma đào qua lãnh thổ nước Pa-na-ma. Vị trí
địa lý như trên đã kích thích lớn lao sự phát triển của nền kinh tế Hoa Kỳ. Hình thành
và tiến lên nhanh nhất, trở thành mạnh nhất trong một thời gian ngắn, nửa sau thế kỷ
thứ XIX, Hoa Kỳ đã có sẵn ngay một thị trường tiêu thụ lớn, một thế giới lớn cung cấp
rất nhiều tài nguyên cần thiết cho sự mở mang nền kinh tế. Ngoài ra bờ biển của Hoa
Kỳ - nhất là phía Đơng có nhiều đoạn khúc khuỷu, thuận lợi cho việc thành lập các hải
cảng tốt. Đường biển qua kênh đào Pa-na-ma đóng một vai trị quan trọng trong việc
nối liền hai miền Đông, Tây của Hoa Kỳ.
Địa hình: Tuy lãnh thổ rộng lớn, nhưng địa hình của nước Mỹ lại tương đối đơn
giản. Những nét chính là hai mạch núi Cóoc-đi-e ở phía Tây, và Ap-pa-las ở phía
Đơng, cách nhau bởi những đồng bằng trung tâm mênh mơng, trải ra giữa đất nước
Mỹ. Nét địa hình gồ ghề, trắc trở, gây nên bởi sự tác động thời xưa của băng hà, và
những vùng trũng lầy lội mà các sơng nhánh thuộc hệ thống sơng Mít-xi-xi-pi chưa bồi
lấp hết. Tuy nhiên, trên đồng bằng đã xuất hiện những miền nông nghiệp trù phú nhất
của nước Mỹ, trồng các loại cây thơng thường: lúa mì, ngơ, bơng, thuốc lá, mía…và
chăn ni những đàn gia súc rất đơng.
Khí hậu: Vì nước Mỹ có diện tích lớn và có nhiều địa hình rộng lớn (bề ngang
gần 5.000km) nên nước Mỹ gần như có tất cả các loại khí hậu. Với nhiều vùng sinh
trưởng từ khí hậu nhiệt đới đến địa cực, cây cỏ của nước Mỹ rất đa dạng.
Thủy văn: Những yếu tố thủy văn của nước Mỹ thuộc vào hai loại quan trọng:
sơng và hồ. Mỹ có rất nhiều hồ, và sơng lớn. Có thể xếp các sơng của nước Mỹ vào hai
hệ thống: hệ thống Mit-xi-xi-pi, quan trọng nhất và hệ thống các sông duyên hải. Hệ

thống 5 hồ lớn ở trên biên giới phía Bắc có một ý nghĩa đặc biệt lớn với nền kinh tế
Hoa Kỳ, đó là các hồ Thượng, hồ Mi-si-gơn, hồ Hua-rôn, hồ E-ri, và Ơng-ta-ri-ơ.
Ngồi ra, nguồn khống sản dồi dào có vai trò hết sức quan trọng trong việc hỗ
trợ sự phát triển của tổ hợp công nghiệp, chế tạo khổng lồ của nước Mỹ.

7


1.1.2. Sơ lƣợc lịch sử nƣớc Mỹ
Lịch sử nước Mỹ là quá trình trải nghiệm dân chủ suốt hơn 200 năm qua. Là một
trong những quốc gia đa dạng về chủng tộc nhất trên thế giới. Tuy nhiên, nước Mỹ vẫn
phát triển và thịnh vượng nhờ quá trình liên tục thích nghi và thỏa hiệp.
Mỹ là một quốc gia do người châu Âu lập nên. Quá trình lịch sử của nước này
còn rất còn rất mới mẻ so với nhiều quốc gia khác. Châu Mỹ được tìm ra vào năm
1492. Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ 16, người Châu Âu mới bắt đầu di cư sang Hoa Kỳ
ngày một nhiều. Thoạt đầu, người ta đinh cư dọc theo ven biển và mở rộng vào nội địa
khi dân số đã tăng. Cứ mỗi lần định cư trên bờ biển, họ thường khai hoang một khu đất
nhỏ trong rừng rậm và thường bắt đầu mở nơng trại. Tồn thể lục địa đều được chinh
phục theo cung cách này. Và theo thời gian, thông qua chiến tranh và những cuộc mua
bán, những miền đất bao la này đã trở thành Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (The United
States of America).
Nước Mỹ tách ra khỏi khối thuộc địa Anh năm 1776 và được công nhận là một
quốc gia độc lập sau khi Anh và Mỹ ký Hiệp ước Paris năm 1783.
Năm 1788, hiến pháp đã có hiệu lực để thi hành, George Washington là vị tổng
thống đầu tiên của nước Mỹ. Khi mới thành lập, nước Mỹ chỉ có 13 bang. Hiện nay,
nước Mỹ có 50 bang và 5 khu hành chính trực thuộc gồm thủ đô Washington D.C,
Samoa, Guam, Virgin Islands và Puerto Rico. Mỗi bang có chính phủ riêng, thủ phủ
riêng và trong mỗi bang lại có nhiều cơ quan chính quyền địa phương nhỏ hơn nữa
như : quận, hạt, tỉnh; thị trấn (thành phố) và xã. Chính vì thế quốc kỳ của nước Mỹ
hiện nay có 50 ngơi sao đại diện cho 50 Bang và 13 vạch trắng và đỏ tượng trưng cho

13 thuộc địa Anh đã tuyên bố độc lập và trở thành 13 Bang đầu tiên của nước này.
Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới hiện nay. Những
sự kiện đáng ghi nhớ nhất trong lịch sử nước Mỹ là cuộc Nội chiến Bắc - Nam (1861 1865), đại suy thoái kinh tế trong những năm 30, thất bại trong chiến tranh ở Việt Nam
và vụ khủng bố 11/9 năm 2001.
1.2. Một số thuật ngữ, khái niệm
* Bầu cử
Bầu cử là một quá trình đưa ra quyết định của người dân để chọn ra một cá nhân
nắm giữ các chức vụ thuộc chính quyền. Đây là cơ chế thông thường mà các nền dân
chủ hiện dùng để phân bổ chức vụ trong bộ máy lập pháp, thỉnh thoảng ở bộ máy hành
pháp, tư pháp, và ở chính quyền địa phương. Bầu cử là một trong những chế định quan
trọng trong ngành Luật pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành ra các cơ quan đại
diện cho quyền lực của Nhà nước.
* Đại cử tri đoàn
8


Đại cử tri đoàn (tiếng Anh:Electoral College) của Hoa Kỳ là một thuật từ dùng
để chỉ 538 đại cử tri tổng thống cứ bốn năm một lần họp lại để bầu lên Tổng
thống và Phó tổng thống Hoa Kỳ. Các đại cử tri tổng thống được bầu lên theo thể thức
phổ thông đầu phiếu vào ngày được gọi theo truyền thống là "ngày bầu cử". Các đại cử
tri tổng thống họp tại các tòa nhà quốc hội tiểu bang nhà của mình (hay tại Đặc khu
Columbia) vào ngày thứ hai đầu tiên sau ngày thư tư lần thứ hai trong tháng 12 và vì
thế khơng phải là một cuộc họp toàn quốc. Tại 51 cuộc họp (50 tiểu bang cộng Đặc
khu Columbia), được tổ chức cùng ngày, các đại cử tri cùng bỏ phiếu. Chính vì có sự
tập hợp kết quả bầu cử của 51 nhóm nên mới có định nghĩa kỹ thuật là đại cử tri đoàn
mặc dù 51 nhóm này thực sự khơng có tập hợp về chung một nơi để bầu cử. Hệ
thống đại cử tri đoàn, giống như một đại hội toàn quốc, là một nhân tố gián tiếp trong
tiến trình bầu lên tổng thống.
* Bầu cử gián tiếp
Bầu cử gián tiếp một loại bầu cử mà ở đó cử tri khơng thực sự chọn các ứng cử

viên cho các chức vụ nào đó mà thường bầu ra những người sẽ chọn lựa các ứng cử
viên. Cách thức này thường được dùng trong các cuộc bầu cử trong cơng đồn và đơi
lúc ở các tổ chức khác.
Bầu cử tổng thống Mỹ dùng hình thức bầu cử này. Cử tri Mỹ bầu ra danh
sách đại cử tri cho Đại cử tri đồn, sau đó họ sẽ bầu trực tiếp tổng thống.
Các chức vụ Chủ tịch nước, Thủ tướng của Việt Nam cũng dùng hình thức này.
Đầu tiên, cử tri cả nước bầu ra các đại biểu Quốc hội. Sau đó, Quốc hội tự giới thiệu
và bầu ra chủ tịch nước đứng đầu đất nước và thủ tướng đứng đầu chính phủ. Tương
tự, ở các cấp địa phương, cử tri bầu ra đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp. Sau đó,
Hội đồng Nhân dân bầu ra chủ tịch và các phó chủ tịch chính quyền địa phương.
* Bầu cử tổng thống Hoa kỳ
Việc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ là việc chọn lựa người làm tổng thống Hoa
Kỳ trong nhiệm kỳ 4 năm, bắt đầu từ trưa Ngày Nhậm chức (20 tháng 1 năm sau cuộc
bầu cử). Các cuộc bầu cử được chính quyền mỗi tiểu bang (chứ khơng phải do chính
quyền liên bang) tổ chức.
Bầu cử tổng thống diễn ra 4 năm một lần. Cuộc bầu cử gần đây nhất diễn ra vào
ngày 6 tháng 11 năm 2012. Cuộc bầu cử kế tiếp sẽ diễn ra vào năm 2016. Các cuộc
bầu cử diễn ra vào ngày bầu cử là ngày thứ ba sau ngày thứ hai đầu tiên trong tháng 11
mỗi 4 năm.
Bầu cử tổng thống là một quá trình gián tiếp. Theo Hiến pháp, chỉ có Đại cử tri
đồn nước Mỹ mới có quyền bầu chọn tổng thống trực tiếp. Các thành viên trong đại
cử tri đồn cho mỗi tiểu bang được tiểu bang đó chọn, và họ có quyền bầu cho bất cứ
cá nhân nào, nhưng họ rất hiếm khi bầu cho những nhân vật khác người được chỉ định.
9


Số phiếu được đếm và chứng nhận vào đầu tháng 1. Người nào giành được trên nửa số
phiếu sẽ là người thắng cuộc.
* Tổng thống Hoa Kỳ
Tổng thống Hoa Kỳ là nguyên thủ quốc gia và cũng là người đứng đầu chính phủ

Hoa Kỳ. Đây là viên chức chính trị cao cấp nhất về mặt ảnh hưởng và được công nhận
như vậy tại Hoa Kỳ. Tổng thống lãnh đạo ngành hành pháp của chính phủ liên bang
Hoa Kỳ và là một trong hai viên chức liên bang duy nhất được tồn quốc Hoa Kỳ bầu
lên (người kia là Phó Tổng thống Hoa Kỳ).
Trong số những trách nhiệm và quyền hạn khác, Điều khoản II Hiến pháp Hoa
Kỳ giao cho Tổng thống hành xử một cách trung thành luật liên bang, đưa Tổng thống
vào vai trò tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ, cho phép Tổng thống đề cử
các viên chức tư pháp và hành pháp với sự góp ý và ưng thuận của Thượng viện và
cho phép Tổng thống ban lệnh ân xá.
Tổng thống được dân chúng bầu lên một cách gián tiếp thông qua Đại cử tri
đoàn trong một nhiệm kỳ bốn năm. Kể từ năm 1951, các Tổng thống Hoa Kỳ chỉ được
phục vụ giới hạn hai nhiệm kỳ theo Tu chính án 22, Hiến pháp Hoa Kỳ.
* Ứng viên Tổng thống
Trong chính trị Hoa Kỳ và chính phủ, hạn ứng viên tổng thống có hai ý nghĩa
khác nhau.
Đầu tiên là người được lựa chọn bởi các đại biểu của một đảng chính trị là của
đảng đề cử cho Tổng thống của Hoa Kỳ , thường là của đảng hội nghị đề cử quốc
gia . Các ứng cử viên cũng có thể được gọi là "tổng thống ứng cử viên . "
Ý nghĩa thứ hai là người đề cử của Tổng thống Mỹ ngồi để bổ nhiệm vào bất kỳ
của nhiều vị trí chính phủ, dưới sự của Tổng thống quyền hành pháp , tùy thuộc vào sự
chấp thuận của Quốc hội.
* Tu chinh án
Tu chính án có thể là:
- Một văn bản sửa đổi bổ sung cho một khế ước, luật hoặc đạo luật.
- Tu chính án hiến pháp là một văn bản sửa đổi bổ sung cho một hiến pháp.
Một tu chính án hiến pháp (sửa đổi hiến pháp) là một sự thay đổi trong hiến
pháp của một quốc gia hay của một bang (thí dụ các tiểu bang của nước Mỹ). Trong
các nền pháp lý có hiến pháp "cứng rắn" hay "vững chắc", các tu chính án cần có một
quy trình đặc biệt khác với quy trình được dùng để ban hành luật thông thường.
1.3. Hiến pháp, pháp luật quy định chế độ Tổng thống Mỹ

1.3.1. Hiến pháp, pháp luật nƣớc Mỹ
* Hiến pháp
10


Hiến pháp Hoa kỳ được soạn thảo bởi học giả - chính trị gia James
Madison vào năm 1787, là bộ luật tối cao của nước Mỹ. Bản Hiến pháp này gồm 7
điều và 27 Tu chính án, là một văn kiện sống còn, tồn tại song song với lịch sử của
nước Mỹ và được áp dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày.
Nó là bản hiến pháp đầu tiên của thế giới được soạn thảo ngày 17 tháng 9 năm
1787 dựa trên tư tưởng tam quyền phân lập giữa ba nhánh lập pháp (Quốc hội), hành
pháp (Tổng thống), tư pháp (tòa án) do Montesquieu, một triết gia người Pháp đề
xướng. Nó được phê chuẩn sau các cuộc hội nghị tại 13 tiểu bang đầu tiên. Cùng
với Tuyên ngôn Độc lập viết năm 1776, bản hiến pháp này đã thể hiện tinh thần khoa
học, tiến bộ và nhân bản của người Mỹ trong việc xây dựng một nhà nước cộng hòa
đầu tiên trên thế giới trong lịch sử cận đại. Nó đã tạo ra một chính quyền thống nhất và
tập trung hơn chính quyền dưới những Điều khoản Liên hiệp.
Hiến pháp Hoa Kỳ là bản hiến pháp lâu đời và nổi tiếng nhất với trên 200 năm
lịch sử. Từ khi được hiệu lực năm 1789, nó đã được tham khảo nhiều lần để làm mơ
hình cho các hiến pháp của những quốc gia khác.
Hiến pháp đặt quyền người dân trên hết. Quyền hạn của chính phủ được người
dân ủy nhiệm. Vì thế, hiến pháp đưa ra nhiều hạn chế quyền hạn của các viên chức
này. Các đại biểu chỉ được tiếp tục phục vụ nếu họ được tái bầu cử trong các cuộc bầu
cử có định kỳ. Các viên chức bổ nhiệm chỉ phục vụ khi người bổ nhiệm cho phép. Một
ngoại trừ của điều này là các thẩm phán của Tòa án Tối cao, được tổng thống bổ
nhiệm trọn đời, để tránh các ảnh hưởng chính trị. Hiến pháp cịn cho phép người dân
thay đổi nó qua các tu chính án. Tuy Hiến pháp đã được bổ sung nhiều lần từ khi được
sử dụng, các nguyên tắc của văn kiện này vẫn được giữ nguyên như của năm 1789.
Chính quyền mà Hiến pháp thành lập là một chính quyền liên bang. Những quyền
được nêu ra được trao cho chính phủ liên bang, cịn các quyền khơng nêu ra được giữ

lại cho các bang và người dân. Hiến pháp này, cùng với các bộ luật được thông qua và
hiệp định được tổng thống ký có vị trí cao hơn tất cả các bộ luật khác.
Ngồi ra, hiến pháp cịn quy định quyền hạn cụ thể cho Quốc hội: ví dụ, quyền
tạo ra luật bản quyền tác giả; quyền gây quỹ, chi tiêu, và phát hành tiền tệ…Hiến
pháp cũng nêu lên và hạn định vai trò và quyền lực của Tổng thống. Ví dụ, Tổng thống
là Tổng tư lệnh quân đội, làm việc với Quốc hội trong việc soạn thảo luật, có trọng
trách ký kết các hiệp ước quốc tế (nếu có biểu quyết đồng ý của hai phần ba thượng
nghị sĩ),…
Từ khi Tu chính án thứ 14 được bổ sung vào Hiến pháp, mọi người dân đều được
luật pháp bảo vệ đồng đều. Mọi tiểu bang đều có quyền ngang nhau, khơng bang nào
được chính quyền liên bang thiên vị. Mỗi tiểu bang phải công nhận và tôn trọng các bộ
11


luật của những tiểu bang khác. Chính quyền tiểu bang, như chính quyền liên bang,
phải theo thể chế cộng hịa, với quyền tối cao được người dân giữ.
Trên thế giới, hiến pháp Mỹ đã được nghiên cứu, trích dẫn, và được sử dụng như
một mơ hình cho các Hiến pháp của các quốc gia khác. Đây là một văn kiện được xây
dựng từ bốn lĩnh vực chủ chốt của nước Mỹ: pháp luật, lịch sử, chính phủ, và văn hóa.
Như vậy, Hiến pháp Hoa Kỳ khơng chỉ đặt nền móng cho tính chất “ tối cao” của
pháp luật trong một cơ chế pháp quyền, mà còn thể hiện khát vọng không ngừng của
nhân dân Mỹ. Khát vọng của dân Mỹ không những chỉ được thể hiện tại thời điểm ban
hành Hiến pháp mà cịn được nói lên trong ngày hơm nay cũng như sau này.
* Pháp luật
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ có nhiều cấp, có thể là nhiều hơn hầu hết các nước
khác. Nguyên nhân một phần là do có sự phân chia giữa luật liên bang và bang. Để
hiểu được điều đó, cần nhắc lại rằng lịch sử Hoa Kỳ khơng phải hình thành từ một
quốc gia, mà là một liên minh 13 khu vực thuộc địa, mỗi khu vực đều độc lập tách
khỏi Anh Quốc.
Hiến pháp đã xác định nhiều ranh giới giữa luật liên bang và bang. Nó cũng phân

chia quyền lực liên bang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp để tạo ra cái
gọi là “tam quyền phân lập” và gìn giữ một cách thiêng liêng hệ thống “kiềm chế và
đối trọng”, nhằm ngăn chặn khơng cho một ngành nào đó có thể lạm dụng quyền lực
của các ngành khác. Bên cạnh đó, mỗi ngành có đóng góp riêng biệt vào hệ thống
pháp lý. Trong hệ thống đó, Hiến pháp quy định những loại luật mà Quốc hội có thể
thơng qua.
-Lập pháp: Quyền làm luật của Quốc hội bị giới hạn. Nói chính xác hơn, nó được
người dân Mỹ ủy quyền thơng qua Hiến pháp, trong đó quy định những lĩnh vực mà
Quốc hội có quyền hoặc khơng có quyền làm luật. Điều I, Mục 9 của Hiến pháp cấm
Quốc hội thông qua một số loại luật. Ví dụ, Quốc hội khơng được thông qua một đạo
luật áp đặt thuế xuất khẩu. Do đó, trong giai đoạn đầu của lịch sử nền cộng hòa, nhờ
nắm được vai trò diễn giải, nên ngành tư pháp đã nắm thêm một vai trò cực kỳ quan
trọng trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.
-Tư pháp: Cũng như các ngành khác, quyền của ngành tư pháp Hoa Kỳ được quy
định trong Hiến pháp. Hiến pháp chỉ quy định thẩm quyền xét xử liên bang trong một
số loại tranh chấp nhất định. Ngày nay các tòa án liên bang vẫn tiếp tục diễn giải
quyền thương mại theo nghĩa rộng, mặc dù khơng rộng đến mức có thể cho phép Quốc
hội có thể thơng qua bất cứ loại luật nào.
-Hành pháp: Trong một số lĩnh vực, mối quan hệ giữa hành pháp và hai ngành
kia là không rõ ràng.
12


Nhưng khi đất nước ngày càng phát triển và hiện đại hóa, mối quan hệ giữa ba
ngành trong hệ thống luật pháp cũng phát triển để giải quyết các vấn đề phức tạp hơn
của xã hội công nghiệp và hậu cơng nghiệp. Vai trị của ngành hành pháp thay đổi
nhiều nhất.
Các tịa án sẽ vơ hiệu hóa một đạo luật trao quá nhiều quyền cho một cơ quan.
Một đạo luật quan trọng là Đạo luật thủ tục hành chính đã giải thích các thủ tục mà
một cơ quan phải tuân thủ khi ban hành các quy tắc, đánh giá vi phạm và áp dụng chế

tài. Nó cũng quy định các bên được phép đưa một quyết định của cơ quan hành pháp
ra xem xét trước toà như thế nào.
Nhưng ngoài ra còn nhiều vấn đề phức tạp khác: luật Mỹ không chỉ là các đạo
luật do Quốc hội thông qua. Trong một số lĩnh vực, Quốc hội có thể cho phép các cơ
quan hành pháp được ban hành các quy tắc chi tiết hóa luật định. Và tồn bộ hệ thống
được dựa trên các quy tắc pháp lý truyền thống của Thông luật Anh. Mặc dù Hiến
pháp và các đạo luật đều có giá trị cao hơn thơng luật, tồ án vẫn tiếp tục áp dụng các
nguyên tắc thông luật bất thành văn để lấp các chỗ trống chưa được Hiến pháp đề cập,
cũng như không được Quốc hội luật hóa.
Các nguồn luật khác
Nguồn rõ ràng nhất của luật pháp Mỹ là các đạo luật do Quốc hội thông qua,
được bổ sung bằng các quy định hành chính. Đơi khi những nguồn này quy định rõ
ràng ranh giới giữa hành vi hợp pháp và phạm pháp nhưng khơng có nhà nước nào có
thể ban hành đủ luật để khép kín được tất cả các tình huống. Rất may là đã có một thực
thể khác quy định các nguyên tắc và chuẩn mực pháp lý giúp lấp các chỗ trống, như :
-Thơng luật: Khi khơng có sự khống chế của các quy định hiến pháp và đạo luật,
các tòa án liên bang và bang thường đối chiếu với thơng luật; đó là một tuyển tập các
quyết định tư pháp, thông tục và quy tắc chung có từ nhiều thế kỷ trước ở nước Anh và
vẫn tiếp tục phát triển cho đến nay. Ở nhiều bang, thơng luật tiếp tục đóng vai trò quan
trọng trong tranh chấp hợp đồng, do các nhà làm luật của bang thấy không cần thiết
phải thông qua các đạo luật quy định tất cả những trường hợp bất thường về hợp đồng
có thể xảy ra.
-Tiền lệ tư pháp: Các tòa án xét xử các hành vi vi phạm luật và các tranh chấp
nảy sinh từ luật. Thông thường, tòa án cần phải diễn giải luật. Để làm điều đó, các tịa
án tự ràng buộc bởi cách giải thích luật trước đó của các tồ án cùng cấp hoặc cao hơn.
Đây được gọi là nguyên tắc “theo quyết định trước”, hay đơn giản gọi là tiền lệ. Nó
giúp bảo đảm sự nhất quán và có thể lường trước. Nếu phải đối mặt với các tiền lệ
hoặc luật án lệ bất lợi, bên bị thường tìm cách phân biệt sự khác nhau giữa những yếu
tố khách quan của vụ việc đang xem xét với các sự kiện đã dẫn đến quyết định trước
đó.

13


Năm 1787, để điều hành 13 tiểu bang Bắc Mỹ tức Hợp Chủng Quốc vừa mới
được thành lập, những nhà soạn thảo Hiến Pháp, phân vân giữa hai chế độ Quốc hội
của Thụy Sĩ và chế độ Đại nghị của Anh quốc. Họ cho rằng dân chúng không đủ khôn
ngoan để đánh giá đức hạnh ưng cử viên Tổng thống và họ cũng bác bỏ ý kiến cho
rằng chức vụ Tổng thống nên được Quốc hội quyết định. Chính vì thế, Hiến pháp Hoa
Kỳ đã khai sinh ra một thể chế hồn tồn mới: chế độ Tổng thống. Trong đó, Vua và
Thủ Tướng của Anh Quốc gộp lại làm một vị duy nhất – vừa lãnh đạo tối cao đất
nước, vừa điều hành Chính phủ – vị đó có danh xưng là Tổng Thống Mỹ.
1.3.2. Những quy định của Hiến pháp, pháp luật về chế độ Tổng thống Mỹ
1.3.2.1. Tiêu chuẩn ứng cử viên Tổng thống Mỹ
Bất cứ người nào ra ứng cử Tổng thống Mỹ cũng đều phải thỏa mãn những tiêu
chuẩn cơ sở bắt buộc do hiến pháp quy định: không dưới 35 tuổi, đã sống ở Mỹ (nội
cư trên 14 năm), là công dân Mỹ và được sinh tại Mỹ.
Mức tuổi 35 bị đánh giá là thấp so với tuổi quy định của ứng cử viên nguyên thủ
quốc gia các nước dân chủ trên thế giới hiện nay. Thực tế lịch sử bầu cử Tổng thống
Mỹ cũng cho thấy chưa ai đắc cử Tổng thống mà đang ở tuổi dưới 43. Cử tri Mỹ
khơng thích những ứng cử viên trẻ vì coi họ chưa thực sự chín chắn, thiếu kinh nghiệm
và bản lĩnh lãnh tụ. Người Mỹ cũng khơng thích bầu những ứng cử viên già (trên 65
tuổi) vào chức vụ tổng thống vì lo ngại vấn đề sức khỏe và khả năng chịu đựng ở
cương vị ln đầy căng thẳng này. Nhìn chung những ứng cử viên Tổng thống được
ưa thích thường ở độ tuổi từ 45 đến 60 tuổi.
Nước Mỹ được coi là một quốc gia của dân nhập cư và một xã hội mang tính cơ
động cao. Hiện nay ở Mỹ có mặt đầy đủ mọi chủng tộc trên thế giới; khoảng 11%
người Mỹ sinh tại nước ngoài, 18% dân Mỹ chuyển nhà hàng năm, 27% người Mỹ
sinh sống ở bang khác bang nơi họ sinh ra và một tỷ lệ lớn người sinh tại Mỹ nhưng
phần nhiều thời gian lại cư trú, làm việc ở nước ngồi. Chính vì vậy, điều kiện gốc tích
bản địa và thời hạn nội cư 14 năm trở nên rất cần thiết. Hàng triệu người Mỹ xuất sắc

bị gạt khỏi cơ may trở thành tổng thống chỉ vì tiêu chuẩn quan trọng này.
Để trở thành ứng cử viên Tổng thống Mỹ, ngoài ba tiêu chuẩn pháp lý bắt buộc
(tuổi tác, gốc tích, thời gian nội cư), cịn phải thỏa mãn hàng loạt tiêu chuẩn thực tế
phức tạp khác.
Am hiểu luật pháp là nền tảng không thể thiếu cho một con đường chính trị tốt,
vì vậy hầu hết các chính khách Mỹ đều có kiến thức sâu rộng về luật hoặc đã từng trực
tiếp hành nghề luật. Tính đến nay, nước Mỹ qua 44 đời Tổng thống thì có tới 27 Tổng
thống vốn là luật sư, 17 Tổng thống còn lại xuất thân từ nhiều ngành nghề khác nhau.

14


Phải có danh tiếng tầm cỡ quốc gia và kinh nghiệm lãnh đạo đáng kể, nên các
ứng cử viên Tổng thống Mỹ thường là Tổng thống đương nhiệm, Phó Tổng thống,
thống đốc bang, nghị sĩ liên bang, bộ trưởng liên bang, thẩm phán Tòa án Tối cao…
Bên cạnh tư cách đạo đức và năng lực điều hành, yếu tố học vấn và gia đình của
ứng cử viên cũng rất được quan tâm. Phần lớn các Tổng thống Mỹ đều có học vấn cao
với nhiều bằng cấp đại học. Một gia đình êm ấm và danh giá cũng thường tạo nên
những thiện cảm lớn của những cử tri bình dân.
Đảng phái chính trị là một tiêu chuẩn cực kỳ quan trọng tuy không được quy
định trong hiến pháp. Trừ vị Tổng thống đầu tiên (Washington), tất cả Tổng thống Mỹ
đều là nhân vật chủ chốt của một đảng phái nào đó. Suốt một thế kỷ rưỡi qua, Cộng
hòa và Dân chủ là hai đảng lớn nắm giữ quyền lực nhà nước Mỹ và Tổng thống luôn là
người của một trong hai đảng này. Cũng có những ứng cử viên của các đảng nhỏ khác
(gọi chung là “đảng thứ ba”) và những ứng cử viên độc lập (không thuộc đảng phái
nào), nhưng họ khơng có cơ hội đắc cử vì thiếu sự ủng hộ của những lực lượng chính
trị xã hội hùng mạnh.
1.3.2.2. Tranh cử và bầu chọn Tổng thống Mỹ
* Tranh cử tổng thống Mỹ
Chiến dịch tranh cử được các đảng xúc tiến từ trước năm bầu cử và được các ứng

cử viên Tổng thống thực hiện từ ngay khi tuyên bố ra ứng cử, nhưng chỉ trở nên quyết
liệt sau đại hội đảng toàn quốc. Lúc này nội bộ mỗi đảng đều đạt đến sự đoàn kết cao
độ và dồn sức cho ứng viên duy nhất của mình. Các ứng viên Tổng thống và các đảng
phái cùng những người ủng hộ sử dụng rất nhiều công sức, tiền bạc, thời gian để tổ
chức vận động, giới thiệu, quảng cáo, tuyên truyền về tiểu sử và chương trình hành
động. Họ đi tới mọi miền đất nước, tổ chức diễn thuyết, gặp gỡ cử tri, trả lời phỏng
vấn và tranh luận với nhau trên đài truyền hình.
Hai ứng cử viên Tổng thống của hai đảng chính thường ngang tài ngang sức, nên
tỷ lệ cử tri ủng hộ họ chênh lệch không nhiều. Vì vậy, để chiến thắng, mỗi ứng cử viên
đều cố gắng khuếch trương sự hồn hảo, năng lực, thành tích của mình, cơng kích
mạnh vào điểm yếu của đối thủ, cũng cố sự trung thành trong đảng, dồn công sức tranh
cử vào các bang lớn và tìm cách lơi kéo những cử tri trung dung.
Tất cả ứng cử viên Tổng thống đều có bộ máy riêng trợ giúp chiến dịch tranh cử.
Bộ máy này gồm tồn chun gia chính trị dày dạn sẽ giúp phác thảo chiến lược, soạn
diễn văn, lập thời khóa biểu tiếp xúc cử tri, thực hiện thăm dị dư luận và thu thập
thơng tin về chiến dịch tranh cử của ứng viên mình cũng như đối thủ.
Tranh luận tranh cử Tổng thống Mỹ là những cuộc họp báo chung được truyền
hình trực tiếp, do các ứng viên Tổng thống thực hiện. Những cuộc đối đầu trực tiếp
này đã trở thành một phần rất được mong đợi trong mỗi kỳ bầu Tổng thống.
15


Suốt chiến dịch tranh cử, thăm dò dư luận được tiến hành thường xun bởi
nhiều báo chí, đài, hãng thơng tấn, viện nghiên cứu… Mỗi đảng cịn có một bộ phận
liên tục tổ chức các cuộc thăm dò nhằm cung cấp cho ứng viên và ban lãnh đạo đảng
thông tin cập nhật về mức độ ảnh hưởng của cử tri.
Chi phí tranh cử rất tốn kém, các ứng cử viên cùng đảng của họ phải huy động và
sử dụng một lượng tiền khổng lồ lấy từ nhiều nguồn khác nhau. Trước kia, các nhà tài
phiệt là thành phần chính đóng góp tiền cho chiến dịch tranh cử Tổng thống. Để ngăn
ngừa việc dùng tiền bạc thao túng bầu cử nói chung, từ năm 1907 hàng loạt đạo luật

liên quan đã được ban hành. Đặc biệt, Đạo luật Bầu cử liên bang năm 1974 đưa ra
nhiều hạn chế rất rõ ràng: tất cả các tổ chức, cá nhân nước ngồi khơng được tài trợ
cho bầu cử Tổng thống Mỹ, mỗi người Mỹ chỉ được đóng góp tối đa 1.000 USD (từ
năm 2001, sửa đổi là 2.000 USD) cho chiến dịch tranh cử của một ứng viên nào đó và
mỗi tổ chức Mỹ chỉ được đóng góp tối đa 5.000 USD… Nhưng luật cũng quy định bất
kỳ người Mỹ nộp thuế thu nhập nào cũng có thể trích 1 USD ủng hộ quỹ bầu cử công
cộng. Quỹ sẽ tài trợ một phần phí tranh cử cho các ứng viên và đảng phái. Mỗi đảng
chính (Cộng hịa, Dân chủ) nhận từ quỹ 2 triệu USD để cho đại hội tồn quốc và
khơng q 10,3 triệu chi cho chiến dịch tranh cử. Dù sao, lượng tài trợ từ cơng quỹ
cũng khơng thấm tháp gì so với tổng chi phí nên các đảng đều phải tích cực thu hút
những nguồn tài trợ khác mà luật không điều chỉnh. Tuy nhiên, tiền bạc chỉ là công cụ
quan trọng chứ không phải là công cụ đem lại chiến thắng trong bầu cử ở Mỹ và có
gần 40% số cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ mà người chi phí nhiều tiền hơn vẫn bị thua.
* Bầu chọn Tổng thống Mỹ
Cuộc bầu cử chính thức (tổng tuyển cử) diễn ra trên toàn nước Mỹ vào ngày thứ
Ba liền sau ngày thứ Hai đầu tiên của tháng 11 thuộc năm bầu cử. Cử tri các bang trực
tiếp bỏ phiếu bầu ra những đại cử tri bang mình. Số đại cử tri mỗi bang đúng bằng số
nghị sĩ mà bang ấy có trong Quốc hội liên bang. Hiện nay, tổng số đại cử tri của các
bang là 538 và tất cả các đại cử tri các bang này hợp thành đại cử tri đoàn
Ban đầu, Hiến pháp Mỹ quy định trong Khoản 1 Điều II rằng Quốc hội có thể
quyết định thời gian chọn các đại cử tri và để họ đi bỏ phiếu “trong cùng một ngày trên
khắp nước Mỹ”. Năm 1792, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật xác định ngày thứ
Tư đầu tiên của tháng 12 làm ngày các đại cử tri gặp gỡ và bỏ phiếu bầu chọn ra Tổng
thống và Phó Tổng thống. Đạo luật cũng yêu cầu các bang chỉ định những đại cử tri
của mình trong vịng 34 ngày trước ngày ấn định tiến hành cuộc bầu cử.
Theo quy định, ứng viên Tổng thống nào chỉ cần được nhiều người ủng hộ nhất
trong số đại cử tri mỗi bang thì sẽ được hưởng tồn bộ số phiếu đại cử tri bang đó.
Những đại cử tri có trong danh sách mỗi đảng đề cử thường đều phải ít nhiều cam kết
16



sẽ bầu cho ứng viên Tổng thống và Phó Tổng thống của đảng mình nếu được cử tri
chọn lựa.
Các đại cử tri sẽ nhóm họp tại bang mình vào ngày thứ Tư đầu tiên của tháng 12
thuộc năm bầu cử để bầu hai ứng viên vào chức Tổng thống và Phó Tổng thống. Trong
đó, theo hiến pháp quy định, ít nhất phải có một ứng viên là cơng dân của bang khác.
Tiếp theo họ lập danh sách những ứng viên được chọn, ghi rõ số phiếu bầu cho mỗi
người, ký tên xác nhận rồi niêm phong cẩn thận, gửi đến chủ tịch Thượng viện. Chủ
tịch Thượng viện là người duy nhất có quyền mở những danh sách ấy trước sự chứng
kiến của các nghị sĩ trong một phiên họp chung của Quốc hội mới được bầu ra tổ chức
vào tuần đầu tháng Giêng năm sau. Toàn bộ phiếu của tất cả đại cử tri được đếm công
khai. Ứng viên nào thu được đa số tuyệt đối phiếu, sẽ đắc cử Tổng thống.
Hiến pháp Mỹ nguyên thủy (ban hành năm 1787) quy định nếu không ai thu
được đa số tuyệt đối phiếu (hơn 50%) thì hại viện sẽ bầu một trong hai người có số
phiếu cao nhất làm Tổng thống. Trong trường hợp vẫn không ai đạt số phiếu cần thiết,
Hạ viện sẽ bầu chọn một trong năm ứng viên có số phiếu cao nhất làm Tổng thống
nhưng theo phương thức: mỗi bang chỉ được bỏ một đại phiếu và ít nhất phải có 2/3 số
bang tham dự; người đắc cử phải được đa số tuyệt đối đại phiếu (hơn 50%). Sau khi
bầu chọn được Tổng thống, người có số phiếu nhiều nhất do đại cử tri bầu sẽ là Phó
Tổng thống. Nhằm ít nhiều khắc phục sự rườm rà này, Điều bổ sung thứ XII (năm
1804) của Hiến pháp Mỹ được ban hành, quy định lại rằng phải bầu riêng Tổng thống
và Phó Tổng thống; nếu khơng ai thu được đa số tuyệt đối phiếu cử tri thì Hạ viện sẽ
bỏ phiếu chọn Tổng thống cũng bằng cách trên nhưng khơng q 3 ứng viên Tổng
thống có số phiếu cao nhất, cịn Thượng viện sẽ bỏ phiếu chọn Phó Tổng thống trong 2
ứng viên Phó Tổng thống có số phiếu cao nhất và nếu Quốc hội không làm xong
những việc ấy thì trước ngày đương kim Tổng thống kết thúc nhiệm kỳ thì Phó Tổng
thống đương nhiệm có quyền lên nhậm chức Tổng thống.
1.3.2.3. Quyền hạn Tổng thống Mỹ
Quyền hạn là quyền được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ. Quyền hạn
Tổng thống Mỹ cũng chính là nghĩa vụ, trách nhiệm của chức vị này và được coi như

yếu tố quan trọng nhất cấu thành nên địa vị, chức năng, quyền lực, vai trò, ảnh hường
của Tổng thống Mỹ. Quyền hạn Tổng thống Mỹ rất rộng lớn, khá tồn diện, gồm 8
nhóm cơ bản.
* Quyền trong lĩnh vực hành pháp
Vai trò của Tổng thống Mỹ đặc biệt quan trọng với sự ủy thác trọn vẹn của Hiến
pháp: Quyền hành pháp sẽ được trao cho một vị Tổng thống hợp chủng quốc Mỹ
(Khoản 1, Điều II). Trên cơ sở vững chắc đó, Tổng thống thể hiện những quyền hạn và
hoạt động hành pháp chủ yếu sau:
17


- Trực tiếp lãnh đạo ngành hành pháp, toàn quyền thực thi những chính sách, luật
lệ do Quốc hội thơng qua, trên phạm vi toàn liên bang.
- Đề ra và quyết định các cơ cấu tổ chức, hoạt động của nền hành chính quốc gia.
- Lãnh đạo và quản lý chung tất cả các bộ cùng rất nhiều cơ quan, ủy ban liên
bang và đội ngũ viên chức dân sự.
- Sử dụng rộng rãi và mạnh mẽ quyền lập pháp bằng việc ban hành rất nhiều văn
bản để hoạch định chính sách, thực thi pháp luật và điều hành quản lý quốc gia.
- Đề cử và bổ nhiệm những thành viên Nội các, những chức vụ chính trị quan
trọng khác trong chính phủ, những vị trí cơng chức hành chính quan trọng trong guồng
máy hành pháp liên bang, những quan chức cao cấp của bộ ngành.
- Toàn quyền bãi miễn những quan chức của Chính phủ nếu họ khơng hồn thành
nhiệm vụ, mắc sai lầm, gây thiệt hại nghiêm trọng trong cơng việc.
Khó có thể liệt kê hết những quyền hạn của Tổng thống Mỹ trong lĩnh vực hành
pháp rộng lớn và phức tạp. Tuy vậy điều rất dễ nhận thấy là những quyền hạn đó tạo
nên phần cơ bản nhất của quyền lực Tổng thống, chúng ngày càng được tăng cường và
giúp Tổng thống kiềm chế hữu hiệu đối với hệ thống cơ quan lập pháp, tư pháp.
* Quyền trong lĩnh vực lập pháp
Dù không thuộc ngành lập pháp, không năm giữ quyền lập pháp nhưng Tổng
thống Mỹ vẫn có nhiều quyền hạn trong lĩnh vực này.

- Cơng bố luật
Tổng thống Mỹ - với tư cách nguyên thủ quốc gia – là người duy nhất thay mặt
nhà nước công bố với nhân dân những đạo luật mà Quốc hội thông qua. Chỉ khi được
Tổng thống công bố, những đạo luật đó mới được ban hành và mới bắt đầu có hiệu
lực, giá trị thực thi.
- Sáng quyền lập pháp
Sáng quyến lập pháp (quyền sáng kiến về lập pháp) là sáng kiến đề nghị luật. Với
chế độ Tổng thống Mỹ, hiến pháp trao cho Quốc hội chức năng lập pháp và không quy
định rõ ràng cho Tổng thống sáng quyền đó. Nhưng thực thế, Tổng thống vẫn có
quyền hạn rất lớn trong lĩnh vực này. Tổng thống dù không thuộc ngành lập pháp
nhưng vẫn đóng vai trị ngày càng quan trọng trong tiến trình lập pháp. Như vậy, Tổng
thống có quyền cung cấp thông tin và thực hiện những biện pháp thích hợp để tác động
hoặc trợ giúp Quốc hội trong tiến trình lập pháp. Hai sáng quyền lập pháp quan trọng
của Tổng thống Mỹ là gởi thông điệp cho Quốc hội và sáng kiến về luật ngân sách.
- Triệu tập kỳ họp Quốc hội bất thường
Khoản 3 Điều II Hiến pháp Mỹ quy định: “Trong trường hợp cần thiết, Tổng
thống có quyền triệu tập hai Viện hoặc một trong hai Viện. Trong trường hợp bất đồng
giữa hai Viện về thời gian hoãn họp, Tổng thống sẽ quyết định về thời gian cuộc họp
18


sẽ hoãn đến bao giờ mà Tổng thống cho là thích hợp”. Như vậy, bên cạnh quy định
những kỳ họp thường lệ, Hiến pháp cũng ghi nhận các kỳ họp bất thường nhằm dự liệu
giải quyết những vấn đề xảy ra trong hoàn cảnh đặc biệt.
- Bổ nhiệm ghế thượng nghị sĩ tạm thời bỏ trống
Khoản 2 Điều II Hiến pháp Mỹ quy định: “Tổng thống sẽ có quyền bổ sung vào
những chỗ trống có thể xảy ra trong thời gian giữa hai kỳ họp của thượng viện bằng
cách cấp giấy ủy nhiệm có thời hạn đến cuối kỳ họp sau của thượng viện”. Quyền bổ
nhiệm này giúp Tổng thống có thể ít nhiều thay đổi tỷ lệ nghị sĩ trong thượng viện
theo hướng lợi cho mình do đảng cầm quyền.

- Phủ quyết
Một quyền hạn Tổng thống Mỹ có ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực lập pháp là sự
phủ quyết, theo đó, Tổng thống có thể chấp thuận hoặc khơng chấp thuận đã được
Quốc hội thông qua. xs
Theo Khoản 7 Điều I Hiến pháp Mỹ quy định, tất cả những dự luật do Quốc hội
thông qua trước khi được ban hành phải đệ trình lên Tổng thống. Trong vịng mười
ngày, nếu đồng ý, Tổng thống sẽ ký công bố nghị luật đó. Nếu khơng đồng ý Tổng
thống sẽ phủ quyết- gửi trả Viện đã soạn thảo ra dự luật đó và yêu cầu Quốc hội xem
xét lại. Quốc hội phải bàn bạc, sửa đổi… và chỉ khi không dưới 2/3 nghị sĩ từng viện
tán thành thì dự luật này mới trở thành đạo luật được. Như vậy, trong trường hợp ấy,
quyền phủ quyết của Tổng thống có giá trị bằng 1/6 quyền lực biểu quyết thông qua dự
luật của từng Viện trong Quốc hội.
- Được Quốc hội ủng hộ
Quyền được Quốc hội ủng hộ là một quyền hạn khơng chính thức của Tổng
thống vì vừa khơng được quy định trong Hiến pháp hay luật lệ, vừa mang nhiều tính
bị động chứ không phải chủ động như những quyền khác, nhưng đặc biệt quan trọng.
Tổng thống khó có thể hoạt động hữu hiệu nếu khơng có ít nhiều sự ủng hộ từ Quốc
hội. Thực tế cho thấy, hầu hết các Tổng thống đều được đa số nghị sĩ trong một hoặc
cả hai Viện của Quốc hội ủng hộ.
* Quyền trong lĩnh vực tƣ pháp
- Đề cử và bổ nhiệm thẩm phán liên bang
Tổng thống Mỹ được quyền đề cử và bổ nhiệm các thẩm phán liên bang, quan
trọng nhất là 9 vị Thẩm phán tòa án tối cao. Quyền hạn này ít nhiều làm giảm tính độc
lập của hệ thống tòa án và tạo cho Tổng thống sự ủng hộ nhất định từ phía ngành tư
pháp nhất là khi đối tượng đề cử, bổ nhiệm lại là người thân của Tổng thống.
- Ân xá cho phạm nhân
Tổng thống có quyền ân xá cho bất kỳ ai đã bị kết tội vì phạm luật liên bang – trừ
trường hợp còn nghi vấn hoặc phản bội Tổ quốc. Sự ân xá có thể là hoàn toàn hoặc
19



một phần và có điều kiện. Quyền hạn này rất có ý nghĩa khi Tổng thống hủy bỏ án tử
hình, ân xá cho tù chính trị hoặc giảm hình phạt cho những tội nhân đặc biệt. Chẳng
hạn, năm 1974, Tổng thống Gerald Ford đã ân xá cho cựu Tổng thống Nixon về những
lỗi lầm của ông này trong vụ Watergate trước khi tòa án quyết định.
- Hạ lệnh truy nã và bắt giữ tội phạm đặc biệt
Tổng thống được quyền phát lệnh truy nã, bắt giữ - trên phạm vi liên bang và
quốc tế - đới với những tội phạm nguy hiểm cho nước Mỹ và thế giới. Điển hình là vụ
Tổng thống G. Bush (Bush cha) phái quân đội đến Panama cuối năm 1989 để bắt Tổng
thống Antonio Noriega của nước này đem về Mỹ xét xử vì tội buôn bán ma túy.
* Quyền trong lĩnh vực an ninh và quốc phòng
Là nguyên thủ quốc gia, Tổng thống Mỹ là người thống lĩnh các lực lượng vũ
trang – nắm quyền chỉ huy tối cao đối với quân đội, cảnh sát và nhiều đơn vị vũ trang
đặc biệt; điều động, sử dụng các lực lượng này vì mục đich an ninh, quốc phòng của
nước Mỹ. Tổng thống được quyền phong hàm cấp, bổ nhiệm và bãi nhiệm những chức
vụ quan trọng trong lực lượng vũ trang. Tổng thống có thể cho thành lập những cơ
quan và lực lượng vũ trang đặc biệt – như Tổng thống Truman thành lập Hội đồng An
ninh quốc gia (NCS) và Cục tình báo Trung ương (CIA) năm 1947, Kenedy thiết lập
Lực lượng đặc nhiệm tác chiến hỗn hợp (SEAL) năm 1962…
Trong lĩnh vực an ninh và quốc phòng, đáng kể nhất là “thẩm quyền chiến tranh”
- quyền được phát động chiến tranh - của Tổng thống. Tổng thống Mỹ có quyền ban
bố tình trạng chiến tranh với nước khác, quyền phái quân đội đến can thiệp vào những
cuộc xung đột trên thế giới, quyền cho sử dụng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt....
* Quyền trong lĩnh vực danh dự và nghi lễ quốc gia
Được coi là biểu tượng vĩ đại của quốc gia và dân tộc, Tổng thống Mỹ được để
tên, ảnh, chữ ký… của mình trong phần quan trọng nhất của văn bản nhà nước, tiền,
phù hiệu… Tổng thống có quyền ban thưởng huân huy chương, tặng phẩm quốc gia…
cho những cá nhân, tổ chức có cống hiến xuất sắc. Tổng thống cũng chủ trì rất nhiều
nghi lễ quốc gia: từ việc cắt băng khánh thành các cơng trình lớn, khai mạc hội nghị,
viếng tượng đài liệt sĩ, trao bằng tốt nghiệp đến việc đánh trái bóng chày đầu tiên trong

mùa bóng chày hàng năm hay đón tàu vũ trụ trở về sau chuyến bay…
* Quyền trong lĩnh vực đối ngoại
Trong lĩnh vực đối ngoại, Tổng thống có quyền hạn rộng lớn và ngày càng quan
trọng do vai trò quốc tế đặc biệt của nước Mỹ. Tổng thống vừa là người hoạch định,
vừa là người thực thi chính sách đối ngoại. Thực tế, Tổng thống là người duy nhất
được bổ nhiệm, triệu hồi đại sứ và các đại diện ngoại giao nước mình; tiếp nhận đại sứ
và quốc thư nước ngồi; dẫn đầu những cuộc thăm mang tính chất quốc gia và ở mức
cao nhất đến các nước. Tổng thống có quyền phong hàm cấp, quyết định vấn đề nhân
20


sự và trật tự công tác ngoại giao. Tổng thống cịn được quyền cơng nhận chính phủ
nước ngồi và cho phép hay ngăn cản quan hệ ngoại giao với họ; ấn định các mức độ
quan hệ của Mỹ với mọi quốc gia trên thế giới.
Tổng thống thay mặt nhà nước tham dự hội nghị quốc tế, đàm phán và ký kết các
loại điều ước quốc tế liên quan. Tổng thống cũng có thể hủy bỏ hiệp ước mà khơng
cần sự chấp thuận của Thượng viện hoặc Quốc hội.
* Quyền đặc biệt
Là nguyên thủ quốc gia, Tổng thống Mỹ được thể chế và luật pháp giành cho
những quyền hạn đặc biệt được sử dụng trong những tình thế đặc biệt để duy trì sự tồn
tại, phát triển và trật tự đất nước. Đáng kể nhất là quyền khẩn cấp, đặc quyền hành
pháp, quyền sung công và quyền pháp lệnh.
- Quyền khẩn cấp
Quyền khẩn cấp là quyền hạn được nới rộng thêm cho Tổng thống Mỹ theo Hiến
pháp (Khoản 2 và 3 Điều II) bởi các đạo luật, hoặc vì tính khẩn cấp của tình hình,
nhằm đối phó với vấn đề đang diễn ra. Quyền khẩn cấp bao gồm quyền ra lệnh tổng
động viên hoặc động viên cục bộ (từng phần), ban bố tình trạng khẩn cấp, tình trạng
chiến tranh… Kèm theo đó là những hành động như: đột ngột cho thay đổi tiến trình
hành pháp, cho bắt giữ hoặc tiêu diệt những nhân tố gây nguy hiểm đối với an ninh
nước Mỹ, cho sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt (ví dụ, Tổng thống Truman cho ném

bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki năm 1945…)
- Đặc quyền hành pháp
Đặc quyền hành pháp là yêu cầu của Tổng thống mà theo đó, bộ phận hành pháp
có thể khơng cung cấp thông tin cho Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội, các tịa án…
để đảm bảo sự bí mật thông tin trong nội bộ ngành hành pháp hoặc để đảm bảo lợi ích
quốc gia. Như vậy, đặc quyên hành pháp là quyền bảo mật thông tin giành riêng cho
Tổng thống cùng bộ máy hành pháp giúp việc và quyền này được bảo vệ, khơng hề bị
kiểm sốt bởi hệ thống cơ quan lập pháp, tư pháp hay bởi bất cử tổ chức, cá nhân nào.
- Quyền sung công
Quyền sung công là việc Tổng thống cùng bộ máy hành pháp giữ lại nhưng
khoản tiền được luật pháp cho phép và chuẩn chi. Có bốn hình thức cơ bản: (1) Sung
cơng nhằm đem lại hiệu quả phù hợp, điển hình là việc Tổng thống Jefferson quyết
định tịch thu tiền dành để sản xuất các tàu chiến trên sông Mississippi; (2) Sung cơng
trong tình trạng khẩn cấp – như tình trạng chiến tranh, (3) Sung công lúc đã đạt được
mục tiêu bằng cách tịch thu nguồn ngân sách khi mục đích của chương trình đã hồn
tất; (4) Sung cơng để cưỡng chế tuân thủ pháp luật.
- Quyền pháp lệnh
21


Quyền pháp lệnh là quyền hạn ban hành các văn bản pháp quy (sắc lệnh, lệnh
hành pháp, chỉ thị…) của Tổng thống để điều hành xã hội tạm thời thay cho các đạo
luật của Quốc hội.
* Quyền lợi
Trừ phương diện kinh tế, Tổng thống Mỹ là người được hưởng nhiều quyền lợi
nhất nước Mỹ.
Điều kiện sống và làm việc của Tổng thống Mỹ thật lý tưởng. Đội ngũ chăm sóc
sức khỏe cho Tổng thống gồm những bác sĩ giỏi được tuyển chọn trong và ngoài nước.
Tổng thống phải theo chế độ ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi, luyện tập… đặc biệt được
hướng dẫn bởi các chuyên gia tâm sinh lý nổi tiếng. Dinh Tổng thống – Nhà Trắng –

đặt tại thủ đô là nơi sống và làm việc của Tổng thống và gia đình. Nhà Trắng được
thiết kế với những tiêu chuẩn tối ưu về kết cấu, mỹ thuật, môi trường; được trang bị
cực kỳ sang trọng, hiện đại và được đảm bảo an ninh nghiêm ngặt.
Tổng thống Mỹ hưởng mức lương cao nhất giành cho quan chức, từ năm 2001 là
400.000 USD/năm – gấp hơn 10 lần mức lương trung bình của một viên chức Mỹ.
Tổng thống cịn được hưởng những khoản như phụ cấp công tác 50.000 USD/năm, chi
phí du lịch 100.000 USD/năm, chi phí tiếp khách chính thức 19.000 USD/năm… [12,
tr129]
Vai trò đặc biệt của nước Mỹ khiến các vị Tổng thống của nước này thường có
uy lực và được trọng vọng bậc nhất trong số các nguyên thủ quốc gia trên thế giới.
1.3.2.4. Nhậm chức, giữ chức và thôi chức Tổng thống Mỹ
Suốt một thời kỳ dài, các Tổng thống mới của Mỹ nhậm chức vào ngày 4 tháng 3
mặc dù biết mình đắc cử từ đầu tháng 11 năm trước. Khoảng cách thời gian đó thật tế
nhị bởi vì trong 4 tháng trời, Tổng thống cũ hoạt động cầm chừng với trạng thái của
người chờ bị thay thế, cịn Tổng thống mới thì nơn nóng muốn chính thức hóa quyền
lực bản thân. Nhưng đến năm 1933, Quốc hội Mỹ họp khẩn cấp để thông qua Điều bổ
sung thứ XX của Hiến pháp, quy định lại rằng Tổng thống và Phó Tổng thống mới đắc
cử sẽ nhậm chức vào trưa ngày 20 tháng 1, nhiệm kỳ của Tổng thống và Phó Tổng
thống cũ cũng chấm dứt vào trưa hơm đó.
Lễ nhậm chức thường tiến hành vào buổi trưa tại Thủ đô Washington. Trước kia,
khoảng gần giữa trưa ngày chậm chức, Tổng thống sắp mãn nhiệm cùng người sắp kế
nhiệm sẽ tiến tới Đồi Capitol (nơi đặt trụ sở Quốc hội Mỹ) bằng xe ngựa. Từ năm
1921, họ mới cùng nhau đến đó bằng ơtơ. Khu vực cầu thang phía Đơng và phía Tây
của tịa nhà sẽ là nơi Chánh án Tòa án tối cao dẫn tân Tổng thống vào chỗ tuyên thệ
trước sự chứng kiến của các nghị sĩ và những khách mời, quan chức khác. Tân Phó
Tổng thống sẽ là người đầu tiên đọc lời tuyên thệ rồi mới đến lượt tân Tổng thống. Sau
khi tân Phó Tổng thống hồn thành nghi thức tun thệ của mình, tân Tổng thống sẽ
22



đặt tay trái lên cuốn Kinh thánh do vợ mình (tân Đệ nhất phu nhân) cầm, giơ tay phải
ngan mặt, hướng về phía Chánh án Tịa án Tối cao đứng đối diện, nói lời tuyên thệ
được Hiến pháp ghi rõ: “Tôi long trọng tuyên thệ rằng tôi sẽ trung thành thực thi
nhiệm vụ Tổng thống Hoa Kỳ và tận dụng hết khả năng của mình để duy trì, giữ gìn và
bảo vệ Hiến pháp Hợp chủng quốc Mỹ” và phần kết là câu nguyện: “Chúa Trời sé
giúp đỡ tôi”! [12, tr 165] rồi hôn lên Kinh thánh. Tiếp theo vị nguyên thủ mới của
nước Mỹ sẽ đọc một bài diễm văn nhậm chức. Đồn xe chở Tổng thống sau đó sẽ nối
đuôi khởi hành từ đồi Capitol về Nhà Trắng theo đại lộ Pennsylvania. Hai Tổng thống
mới và cũ sẽ đổi chỗ cho nhau trên xe: người mới ngồi bên phải và người tiền nhiệm
bên trái (trước đó trên đường đến Đồi Capitol thì ngược lại).
Hiến pháp Mỹ nguyên thủy 1787 quy định nhiệm kỳ Tổng thống khá ngắn – chỉ
4 năm, nhưng lại không quy định mỗi người được giữ chức Tổng thống tối đa là bao
nhiêu nhiệm kỳ. Với cơng lao, vị thế và uy tín của mình, vị Tổng thống đầu tiên
Washington đáng lẽ có thể giữ chức suốt đời, nhưng ông đã tự nguyện dừng lại ở mức
hai nhiệm kỳ. Các Tổng thống kế vị đều noi gương đó. Nhưng đến năm 1940, Tổng
thống F. D. Roosevelt phá vỡ tiền lệ này bằng việc ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba, rồi thứ
tư (năm 1944) và làm Tổng thống liên tục trong 12 năm 1 tháng 8 ngày – đến tận lúc
ông chết trên cương vị người đứng đầu nhà nước Mỹ, ngày 12 tháng 4 năm 1945. Năm
1951, Quốc hội Mỹ thông qua Điều bổ sung thứ XXII của Hiến pháp, chính thức quy
định khơng ai được giữ chức Tổng thống quá hai nhiệm kỳ.
Tổng thống thôi chức khi hết nhiệm kỳ, tự nguyện từ chức có lý do chính đáng
và được Quốc hội chấp thuận, bị cách chức theo thủ tục đặc biệt nếu phạm tội nặng…
Hiến pháp Mỹ còn quy định trong trường hợp Tổng thống đương nhiệm không thể tiếp
tục đảm nhận chức vụ (như từ chức, chết, mất khả năng điều hành…), Quốc hội sẽ trao
quyền cho Phó Tổng thống đương nhiệm. Nếu cả Tổng thống lẫn Phó Tổng thống đều
lâm vào tình trạng trên Quốc hội sẽ bầu chọn một quan chức tạm làm Tổng thống cho
tới khi Tổng thống hoặc Phó Tổng thống phục hồi khả năng đảm nhiệm chức vụ hoặc
cho tới khi bầu được Tổng thống mới trong nhiệm kỳ bầu cử kế tiếp.

23



CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC BẦU CỬ TỔNG THỐNG MỸ THỜI KỲ 19512012
2.1. Khái quát công tác bầu cử Tổng thống Mỹ trƣớc năm 1951
Theo Hiến pháp năm 1787 của nước Mỹ (áp dụng từ năm 1789), Tổng thống
là nhân vật quan trọng trong hệ thống chính quyền Mỹ, là nguyên thủ quốc gia và cũng
là người đứng đầu chính phủ Mỹ đại diện cho chính quyền và sự hợp nhất của dân tộc.
Đây là viên chức chính trị cao cấp nhất về mặt ảnh hưởng và được công nhận như vậy
tại Mỹ. Tổng thống lãnh đạo ngành hành pháp của chính phủ liên bang Hoa Kỳ và là
một trong hai viên chức liên bang duy nhất được toàn quốc Mỹ bầu lên (người kia
là Phó Tổng thống Hoa Kỳ.
Tính từ khi lập quốc vào năm 1776 đến năm 1951, nước Mỹ đã có 33 vị do nhân
dân trực tiếp bầu chọn đưa lên làm Tổng thống lãnh đạo đất nước. Trong thời gian từ
năm 1951 trở về trước, đa số các ứng cử viên ra tranh cử Tổng Thống hầu hết là những
tướng lĩnh, anh hùng trong chiến tranh, với uy tín cá nhân được tạo dựng trong các
cuộc chiến, họ được nhân dân ủng hộ để trở thành người thống lĩnh của đất nước.
Từ năm 1951 trở về trước, có 33 đời Tổng thống với những nhiệm kỳ khác nhau
như sau:
4 nhiệm kỳ : duy nhất có Tổng Thống F. D. Roosevelt, đời thứ 32,
2 nhiệm kỳ : có 9 Tổng Thống thuộc các đời : thứ 1, 3, 4, 5, 7, 18, 26, 28, 33.
1 nhiệm kỳ : còn lại 23 đời Tổng Thống đều chỉ ở 1 nhiệm kỳ mà thơi. Đó là
Tổng Thống của các đời : thứ 2, 6, 8, 9, 10, 11, 12, 13,14, 15, 16, 17, 19, 20, 21, 22,
23, 24, 25, 27, 29, 30 và 31. Có nhiều lý do : các vị Tổng thống này hoặc không ra tái
ứng cử hay hoặc có tái ứng cử, nhưng bị thất cử …
Như vậy, với cơng lao, vị thế và uy tín của mình, vị Tổng thống đầu tiên
Washington đáng lẽ có thể giữ chức suốt đời, nhưng ông đã tự nguyện dừng lại ở mức
hai nhiệm kỳ. Các Tổng thống kế vị đều noi gương đó. Nhưng đến năm 1940, Tổng
thống F. D. Roosevelt phá vỡ tiền lệ này bằng việc ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba, rồi thứ
tư (năm 1944) và làm Tổng thống liên tục trong 12 năm 1 tháng 8 ngày – đến tận lúc
ông chết trên cương vị người đứng đầu nhà nước Mỹ, ngày 12 tháng 4 năm 1945. Năm

1951, Quốc hội Mỹ thông qua Điều bổ sung thứ XXII của Hiến pháp, chính thức quy
định: Tổng Thống có nhiệm kỳ là 4 năm và khơng người nào được bầu giữ chức vụ
Tổng thống quá hai nhiệm kỳ và không người nào đã đảm đương chức vụ Tổng thống
hoặc là Quyền Tổng thống quá hai năm trong nhiệm kỳ mà người khác đã đắc cử Tổng
thống lại sẽ được bầu vào chức vụ Tổng thống hơn một nhiệm kỳ. Quy định này được
ban hành đã tạo tiền đề mới cho chế độ Tổng thống Mỹ, các vị Tổng thống dù có cơng
lao, vị thế lớn như thế nào cũng không thể đảm đương chức vụ quá hai nhiệm kỳ.
24


Trừ vị Tổng thống đầu tiên (Washington) là không thuộc đảng nào, còn lại tất cả
các Tổng thống Mỹ từ năm 1951 trở về trước đều là những đại diện tiêu biểu của hai
chính đảng lớn ở nước Mỹ là đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa. Các cuộc bầu cử Tổng
thống là tâm điểm nỗ lực của các đảng toàn quốc; xét cho cùng, đảng nào giành được
ghế Tổng thống sẽ giành quyền chi phối việc bổ nhiệm các chức vụ hành chính liên
bang.
Tiếp tục theo trình tự từ trước đến giờ thì cứ 4 năm, vào những năm chẵn, sẽ có
bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống (như các năm : 1992,1996, 2000, 2004, 2008,
2012..).
2.2. Bầu cử Tổng thống Mỹ thời kỳ 1951-2012
2.2.1. Những quy định mới bổ sung từ năm 1951 về bầu cử Tổng thống Mỹ
* Điều bổ sung thứ XXII
Đề xuất vào ngày 24 tháng 3 năm 1947 và phê chuẩn vào ngày 27 tháng 2 năm
1951 đã đưa ra những quy định về giới hạn nhiệm kỳ của Tổng thống Mỹ. Cụ thể:
- Khoản 1: Không người nào được bầu giữ chức vụ Tổng thống quá hai nhiệm kỳ
và không người nào đã đảm đương chức vụ Tổng thống hoặc là Quyền Tổng thống
quá hai năm trong nhiệm kỳ mà người khác đã đắc cử Tổng thống lại sẽ được bầu vào
chức vụ Tổng thống hơn một nhiệm kỳ. Nhưng điều khoản này không áp dụng đối với
những người đang giữ chức Tổng thống khi điều khoản này được Quốc hội đề nghị và
sẽ khơng ngăn cản bất cứ ai có thể giữ chức Tổng thống hoặc Quyền Tổng thống trong

thời gian điều khoản này có hiệu lực đúng vào nhiệm kỳ của họ, vì vậy họ sẽ tiếp tục
cương vị Tổng thống hoặc quyền Tổng thống trong thời gian nhiệm kỳ còn lại.
- Khoản 2: Điều này sẽ vô hiệu trừ khi nó được cơ quan luật pháp của ít nhất ba
phần tư tổng số ban phê chuẩn như một điều bổ sung vào Hiến pháp, trong vòng bảy
năm kể từ ngày Quốc hội chuyển nó tới các bang.
* Điều bổ sung thứ XXIII
Đề xuất vào ngày 16 tháng 6 năm 1960 và phê chuẩn vào ngày 29 tháng 3 năm
1961 đưa ra những quy định về quyền bầu cử của công dân thủ đô và lãnh thổ đặc
biệt. Cụ thể:
- Khoản 1: Những địa hạt cấu thành nên các khu vực bầu cử chính quyền của
Hoa Kỳ sẽ được tổ chức theo thể thức mà Quốc hội quy định như sau: Số đại cử tri bầu
ra Tổng thống và Phó Tổng thống mà những địa hạt có được bằng tổng số thượng nghị
sĩ và hạ nghị sĩ trong Quốc hội, nếu đó là một bang, nhưng nếu số đại cử tri khơng
nhiều hơn so với ở bang ít dân nhất, thì họ sẽ được phép vào số đại cử tri do các bang
bổ nhiệm, nhưng xuất pháp từ mục đích của cuộc bầu cử Tổng thống và Phó Tổng
thống, thì họ sẽ được coi là các đại cử tri do một bang bổ nhiệm, và họ sẽ họp với nhau
25


×