Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tang ma của người hmông ở huyện mèo vạc tỉnh hà giang truyền thống và biến đổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 112 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ
…..…..o0o………

TANG MA CỦA NGƯỜI HMÔNG
Ở HUYỆN MÈO VẠC, TỈNH HÀ GIANG.
TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN

Giảng viên hướng dẫn: GS. HOÀNG NAM
Sinh viên thực hiện

: TRẦN THỊ THƠ

Hà Nội – 2012

1


LỜI CẢM ƠN
Hồn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Tang ma của người Hmông ở
huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang: Truyền thống và biến đổi”, tôi xin tỏ lịng biết
ơn:
GS. Hồng Nam, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo, đóng góp ý kiến
cho tơi trong suốt q trình làm khóa luận tốt nghiệp.
Các thầy cơ trong Khoa Văn Hóa Dân Tộc Thiểu Số trường Đại học Văn
hóa Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong suốt q trình học và làm khóa luận
tốt nghiệp.
Trong thời gian điền dã khảo sát tại địa bàn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của lãnh đạo UBND huyện Mèo Vạc, Cơ Nguyễn Thị Chanh (lãnh đạo
Phịng Văn hóa và Thông tin huyện Mèo Vạc), Cô Nguyễn Thị Thu Lan (Giám


đốc Trung tâm Văn hóa và thể thao huyện Mèo Vạc), ơng Sùng Xúa Páo (thầy
cúng xã Niêm Tịng), anh Sùng Trá Tủa (cán bộ văn hóa xã Pải Lủng), anh Sùng
Xúa Tơn (cán bộ văn hoá xã Sủng Máng, chú Vừ Mí Sủa (cán bộ văn hóa xã
Nậm Ban) của huyện Mèo Vạc đã nhiệt tình giúp đỡ tơi đi thu thập thơng tin, tìm
kiếm tài liệu, khảo sát tình hình thực tế về tang ma của người Mơng ở huyện
Mèo Vạc.
Nhân đây tơi cũng bầy tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới các Chú, các Bác, các
anh, các chị cơng tác tại UBND huyện, Phịng Văn hóa và thơng tin huyện Mèo
Vạc, Trung tâm Văn hóa và thể thao huyện, Thư viện huyện, cùng toàn thể nhân
dân đang sinh sống và làm việc trên địa bàn huyện Mèo Vạc đã nhiệt tình giúp
đỡ tơi về việc đi lại, ăn, ngủ, nghỉ tại huyện trong suốt quá trình đi thực địa tại cơ
sở.
2


Do khả năng có hạn nên khóa luận viết khơng tránh khỏi những thiếu sót.
Tơi mong nhận được nhiều sự ý kiến đóng góp cho khóa luận được hồn thiện
hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả
Trần Thị Thơ

3


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................... 5
1.Lý do chọn đề tài ................................................................ 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................... 6

3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................ 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................... 9
6.Đóng góp của khóa luận ................................................ 10
7. Bố cục của khóa luận .................................................... 10
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, ĐIỀU KIỆN
XÃ HỘI VÀ DÂN TỘC HMÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC,
TỈNH HÀ GIANG ............................................................................. 11
1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................... 11
1.2. Điều kiện xã hội ................................................................... 14
1.3. Khái quát về người Hmông ở huyện Mèo Vạc,
tỉnh Hà Giang .............................................................................. 16
1.3.1. Lịch sử thiên di và quá trình hình thành ........................ 16
1.3.2. Đặc điểm dân tộc – dân cư ............................................... 18
1.3.3. Hoạt động kinh tế ............................................................. 20
1.3.4. Đặc điểm xã hội truyền thống .......................................... 21
1.3.5.Những nét về văn hóa ....................................................... 22
1.3.5.1. Văn hóa vật chât............................................................. 22
1.3.5.2. Văn hóa tinh thần........................................................... 26

4


CHƯƠNG 2: NHỮNG NGHI LỄ TRONG TANG MA TRUYỀN
THỐNG CỦA NGƯỜI HMÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC,
TỈNH HÀ GIANG ............................................................................. 30
2.1. Quan niệm về cái chết và các hình thức về cái chết .......... 30
2.1.1. Quan niệm về cái chết ...................................................... 30
2.1.2. Các hình thức về cái chết.................................................. 31
2.2. Đám ma tươi (Uđat) ............................................................. 32

2.2.1. Trước tang lễ ..................................................................... 33
2.2.2. Trong tang lễ...................................................................... 34
2.2.3. Sau tang lễ ......................................................................... 61
2.3. Đám ma khô (Troz đangx) ................................................. 64
CHƯƠNG 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG TANG MA HIỆN NAY
VÀ ĐỊNH HƯỚNG BẢO TỒN NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HĨA
TRONG TANG MA CỦA NGƯỜI HMƠNG Ở HUYỆN MÈO VẠC,
TỈNH HÀ GIANG ............................................................................ 71
3.1. Một số biến đổi trong nghi lễ tang ma hiện nay ............... 71
3.2. Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi ...................................... 75
3.3. Những giá trị văn hóa trong tang ma ................................ 78
3.4. Một số giải pháp và khuyến nghị ........................................ 83
3.4.1. Một số giải pháp ................................................................ 83
3.4.2. Một số khuyến nghị………………………………………86
KẾT LUẬN .................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................... 98
PHỤ LỤC ................................................................................... 100
DANH SÁCH NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN ................ 110
5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt nam là quốc gia có nền văn hóa rất phong phú, là sự kết hợp của 54
dân tộc anh em – 54 bản sắc văn hóa khác nhau góp phần làm phong phú kho
tàng văn hóa quốc gia, trong đó bao gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
thể.
Phát huy truyền thống vẻ vang lịch sử và văn hóa dân tộc hàng nghìn năm
trước của cha ơng ta nhằm xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Dân tộc Hmông – một trong những 54 dân tộc anh em ở nước ta có nhiều phong

tục, tập quán riêng góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hóa của nước nhà.
Tang ma của đồng bào dân tộc Hmơng – là tập tục cịn mang đậm giá trị nhân
văn, có nét văn hóa đặc sắc, nó liên quan đến nghi lễ vòng đời cả một con người,
và mối quan hệ khăng khít giữa từng thành viên trong gia đình, dịng họ, làng
xóm láng giềng. Nghi lễ tang ma là một trong những nghi thức mang đậm giá trị
văn hóa của người Hmơng, trong đó thể hiện được những tập tục cổ truyền,
những giá trị văn hóa nhân văn, giá trị văn hóa tộc người, giá trị bản sắc văn hóa
tộc người.
Trong cuộc sống hiện nay nhiều giá trị văn hóa trong tang ma của người
Hmơng đang bị tác động mai một, biến đổi đi nhiều giá trị truyền thống quý báu.
Hội nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) tháng 7 năm 1998, Đảng ra Nghị quyết
chuyên đề về "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", khẳng
định vai trị của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước,
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
6


đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" với mục đích “Làm cho văn hóa thấm sâu vào
tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể
và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo
ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp". Trong nhiệm vụ bảo tồn, phát
huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số có nêu việc giữ gìn bản sắc văn
hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số: “…Đầu tư và tổ chức điều tra, sưu
tầm nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hóa, nghệ thuật của các dân tộc thiểu
sơ…”. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ Cơng
nghiệ hóa – hiện đại hóa đất nước, “Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
mang bản sắc văn hóa dân tộc” theo định hướng của Đảng. Việc tìm hiểu và
đánh giá đặc trưng văn hóa của dân tộc Hmơng là một việc hết sức quan
trọng.[9]
Tang ma của người Hmông trắng ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang – cho

đến nay chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về những nghi
lễ của đám ma tươi, đám ma khô và những biến đổi trong tang lễ hiện nay của
người Hmông trắng ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
Chính vì vậy, tơi đã chọn đề tài: “Tang ma của người Hmông ở huyện
Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang: truyền thống và biến đổi” với mong muốn góp phần
phát hiện và nhận diện những biến đổi trong các nghi lễ của tang ma hiện nay
của người người Hmông ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu
số nói chung và văn hóa dân tộc Mơng nói riêng, phải kể đến như:
Cư Hịa Vần – Hồng Nam: Dân tộc Mơng ở Việt Nam, Nxb văn hóa dân
tộc, 1994. Cuốn sách về dân tộc Mông ở Việt Nam, hai tác giả Cư Hòa Vần và

7


Hồng Nam cũng nói khá chi tiết về dân tộc Mông ở Việt Nam, hai tác giả cũng
đề cập đến vấn đề trong tang ma của người Mông ở Hà Giang nhưng cũng chỉ là
giới thiệu khái quát về tang ma của người Mơng chứ chưa đi sâu tìm hiểu từng
nghi lễ, từng phong tục trong ma tươi, ma khô của đồng bào Mông trắng ở huyện
Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
Sở Văn hóa – thơng tin tỉnh Hà Giang, ơng Hùng Đình Q (chủ biên):
Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang, 1994. Trong cuốn sách này Sở Văn
hóa thông tin tỉnh Hà Giang cũng đề cập đến những vấn đề trong tang ma truyền
thống, nhưng không chi tiết và đầy đủ mà chỉ giới thiệu khái quát về những nghi
lễ trong tang ma của người Hmông ở tỉnh Hà Giang.
Trần Hữu Sơn: Văn hóa Hmơng. Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, Hà Nội,
1996. Trong cuốn sách này tác giả đi sâu nói về văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần của người Hmơng ở Lào Cai, qua đó nêu những yếu tố mới trong đời sống
văn hóa tinh thần của người Hmơng ở Lào Cai.

Giàng Seo Gà: Tang Ca của người Mông Sa Pa. Nhà xuất bản văn hóa dân
tộc, Hà Nội, 2004. Trong cuốn tang ca này tác giả chủ yếu đi sâu tìm hiểu về
những áng tang ca, những bài tang ca dùng trong các nghi lễ cúng người chết của
đồng bào dân tộc Hmơng trắng ở Sa Pa.
Vũ Ngọc Kỳ: Văn hóa người Hmơng ở Hà Giang trong q trình cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc Gia, 2004
Sùng Thị Mai (2011): Tang ma của người Hmông trắng ở xã Sà Phìn,
huyện Đồng Văn, Tỉnh Hà Giang, luận văn thạc sĩ văn hóa học, trường Đại học
Văn hóa Hà Nội. Trong cuốn “tang ma của người Hmông trắng ở xã Sà Phìn,
huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang” tác giả đã nêu khá chi tiết, đầy đủ về các nghi
lễ, tập tục trong ma tươi, ma khô, cúng cho linh hồn người đã mất, nhưng hầu

8


như ngành Hmông trắng ở khắp tỉnh Hà Giang đều làm ma tươi và ma khô cho
người đã mất hầu như giống nhau, nếu có khác thì chỉ khác một vài chi tiết nhỏ.
Các cơng trình khoa học trên đã nêu khái quát sơ lược về dân tộc Hmông
ở Việt Nam. Qua tìm hiểu tơi nhận thấy những bài viết về nghi lễ vòng đời
người, cụ thể là tang lễ của người Hmông trắng ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang
và những biến đổi trong tang ma chưa được tìm hiểu một cách chuyên sâu, tỉ mỉ
mà chỉ được đề cập một cách khái quát, đưa ra một cái nhìn chung chung cho tất
cả đồng bào dân tộc người Hmông ở Việt Nam.
Tuy nhiên có cuốn “Tang ma của người Hmơng trắng ở xã Sà Phìn, huyện
Đồng Văn, tỉnh Hà Giang” của Chị Sùng Thị Mai là viết khá đầy đủ về tang ma
của người Hmông trắng ở xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Nhưng
chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào viết về đám tang của người Hmông
trắng ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang một cách cụ thể, chi tiết và tỉ mỉ.
Những nghiên cứu mà tôi đã nêu trên là một trong những tư liệu quý báu
để tôi tham khảo và định hướng xây dựng khóa luận.

3.

Mục tiêu nghiên cứu

Đi sâu tìm hiểu các nghi lễ trong tang ma truyền thống, từ đó làm rõ
những giá trị văn hóa trong tang ma để nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống của tộc người Hmông trắng ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
Thực trạng và những biến đổi trong tang ma của người Hmông trắng ở
huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những nghi lễ về tang ma truyền
thống và hiện tại, gồm những nghi lễ: Nghi lễ Tắm rửa mặc quần áo cho người
chết; nghi thức đưa áo quan vào nhà; các nghi lễ khi khâm liệm; lễ phúng viếng

9


anh em, họ hàng, làng xóm; lễ đuổi ma hán; lễ cúng cơm; các nghi lễ khi đưa áo
quan ra khỏi nhà; lễ đưa người chết ra ngoài bãi đất rộng; lễ cúng ba sáng; nghi
lễ làm ma khô của người Hmông trắng ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang nhìn
tang ma từ góc độ văn hóa.
Thực trạng và những biến đổi trong tang ma của người Hmông trắng ở
huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian: tập trung nghiên cứu tang ma truyền thống và biến đổi từ sau
năm 1997 đến nay.
Không gian: Diễn ra trong phạm vi huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang

5.

Phương pháp nghiên cứu

Trong q trình thực hiện khóa luận tơi đã dựa vào những quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở lý luận và phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, dựa trên
quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa đối với các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam
Để có được những nguồn tư liệu, tài liệu phục vụ cho việc làm khóa luận
tơi đã sử dụng những phương pháp như điền dã dân tộc học, miêu tả, quan sát,
ghi chép, phỏng vấn, sưu tầm tài liệu và tiến hành phân tích tài liệu.
6.

Đóng góp của khóa luận

Khóa luận được viết dựa trên cơ sở điền dã thực địa, tìm hiểu cụ thể đám
tang của người Hmông ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Mô tả chi tiết, tỉ mỉ về
cách thức tổ chức đám tang; văn hóa ứng xử giữa mọi thành viên trong gia đình,
anh em, họ hàng, làng xóm, bạn bè gần xa; các nghi lễ, nghi thức trong đám
tang; những phong tục tập qn truyền thống của người Hmơng. Qua đó tôi hy

10


vọng khóa luận này sẽ phần nào đóng góp thêm nguồn tư liệu về tang ma truyền
thống và những biến đổi trong tang ma của người Hmông trắng ở huyện Mèo
Vạc, tỉnh Hà Giang. Thông qua tang ma truyền thống của người Hmông trắng ở
huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang có thể giúp chúng ta hiểu thêm truyền thống văn
hóa của tộc người Hmông ở nơi đây.

Đề xuất những ý kiến nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống mang tính tích cực, đồng thời nhằm hạn chế những mặt tiêu
cực để loại bỏ những hủ tục lạc hậu, những khâu tổ chức rườm rà trong quá
trình xây dựng nếp sống văn minh trong việc tang ma ở Hà Giang nói chung,
vùng người Hmơng ở huyện Mèo Vạc nói riêng. Đặc biệt là việc quản lý, sưu
tầm, giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong điều
kiện hiện nay. Là nghiên cứu mang tính nhân văn, giáo dục thế hệ sau về lòng
hiếu thảo, đạo con cháu và bài học ứng xử trong mối quan hệ gia đình, họ hàng,
tình làng nghĩa xóm.
7.

Bố cục của khóa luận

Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh sách người cung cấp thông tin cho đề
tài khóa luận, tài liệu tham khảo thì bố cục của khóa luận được chia làm 3
chương:
Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và dân tộc
Hmông ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang
Chương 2: Những nghi lễ trong tang ma truyền thống của người Hmông ở
huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang
Chương 3: Những biến đổi trong tang ma hiện nay và định hướng bảo tồn
những giá trị văn hóa trong tang ma của người Hmông ở huyện Mèo Vạc, tỉnh
Hà Giang

11


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI VÀ DÂN
TỘC HMÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC, TỈNH HÀ GIANG

1.1. Điều kiện tự nhiên
Về Vị trí địa lý:
Mèo Vạc là một huyện thuộc cao nguyên Đồng Văn – huyện Mèo Vạc
nằm về phía đơng bắc của tỉnh Hà Giang, cách thị xã Hà Giang 164km, cách thủ
đô Hà Nội gần 500km. Huyện Mèo Vạc nằm ở tọa độ địa lý: 22°10’ đến 23 °30’
vĩ độ Bắc, 104°20’ đến 105°34’ kinh độ Đơng.
Vị trí tiếp giáp của huyện Mèo Vạc như sau:
Phía đơng Mèo Vạc giáp Trung Quốc và huyện Bảo Lạc (Cao Bằng),
Phía nam giáp huyện Yên Minh và huyện Bảo Lâm (Cao Bằng),
Phía tây giáp huyện Đồng Văn,
Phía bắc giáp huyện Đồng Văn và Trung Quốc.
Trên địa bàn huyện có quốc lộ 2A chạy qua.
Với vị trí tiếp giáp như thế này thuận lợi cho việc giao lưu giữa các huyện
với nhau. Mèo Vạc là huyện vùng cao, cuộc sống của người dân cịn gặp nhiều
khó khăn, lại cách xa trung tâm thị xã Hà Giang chừng 164km nên việc đi lại,
giao lưu, trao đổi hàng hóa, cập nhập thơng tin gặp nhiều khó khăn, cịn hạn chế.
[16]
Về Địa hình:
Huyện Mèo Vạc có đường biên giới quốc gia tiếp giáp với tỉnh Quảng Tây
và tỉnh Vân Nam Trung Quốc.
Mèo Vạc nằm trên vùng cao núi đá, đặc trưng cho địa hình caxtơ, độ cao
trung bình từ 1000 – 1600m, gồm nhiều khu vực núi đá vơi, có độ dốc khá lớn,
12


thung lũng và sơng suối bị chia cắt nhiều. Có đỉnh Mã Pì Lèng cao hơn 1500m
và sơng Nho Quế chảy qua. [16]
Mèo Vạc có những dải núi đá tai mèo sắc nhọn, những khe núi sâu và hẹp,
nhiều vách núi dựng đứng. Huyện Mèo Vạc là nơi có đỉnh Mã Pì Lèng được
mệnh danh là đệ nhất hùng quan phía cực Bắc. [16]

Địa hình hiểm trở, chia cắt mạnh, có độ dốc lớn, chủ yếu là núi đá. Do vậy
việc sản xuất gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt trong việc tổ chức đưa người đã mất
ra ngoài ruộng để phơi xác và đem đi chôn là rất vất vả, những con đường ngoằn
ngèo, độ dốc lớn, nhiều sườn đồi gây khó khăn cho việc đi lại.
Về Khí hậu:
Là huyện miền núi cao nên khí hậu ở Mèo Vạc ảnh hưởng nhiều bởi yếu
tố vị trí địa lý (22°10’ đến 23 °30’ vĩ độ Bắc, 104°20’ đến 105°34’ kinh độ
Đông) cho nên khí hậu mang tính chất ơn đới, tương đối khắc nghiệt. Một năm
chia làm hai mùa rõ rệt: mùa lạnh (mùa khô) từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau,
mùa mưa (mùa nóng) từ tháng 4 đến tháng 9. Vào mùa khơ thường có sương mù
rõ rệt, sương muối, thời tiết khơ hanh. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng
21,6° - 23,9°.[16]
Khí hậu mang tính chất ơn đới không thuận lợi cho cây trồng phát triển,
nhưng mưa phân bố trong năm khá đều, mùa mưa có lượng mưa lớn phục vụ cho
việc tưới tiêu, sản xuất mùa vụ của bà con. Vào mùa hanh khô, lượng mưa xuống
thấp lại có sương muối, sương mù đã ảnh hưởng khơng tốt đến sản xuất nông
lâm nghiệp và đời sống của nhân dân trong vùng.
Về giao thơng:
Trên địa bàn huyện có quốc lộ 2A chạy qua, cho nên việc đi lại của nhân
dân, đảm bảo cho việc lưu thông, trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa từ các tỉnh

13


khác về Mèo Vạc tương đối thuận tiện. nhưng việc đi lại của bà con trong các xã
ra đến trung tâm huyện cịn gặp rất nhiều khó khăn. Có những xã đường rất khó
đi có khi muốn đi chợ phiên trung tâm huyện Mèo Vạc phải đi trước vài ngày
mới tới nơi.
Về tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên đất: Thổ nhưỡng ở huyện Mèo Vạc khá phong phú với nhóm

đất xám chiếm hơn 70% đất tự nhiên. Đây là loại đất thích hợp trồng những cây
ăn quả, cây cơng nghiệp, cây dược liệu
Lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền đá vơi bị phân hóa mạnh, phần lớn
lớp phủ thổ nhưỡng ở đây là loại đất đỏ xám hoặc vàng sẫm. [16]
Mèo Vạc chủ yếu là đất đá vôi, với tổng diện tích tồn huyện (thống kê
năm 2011): 576.668 km2, tổng diện tích đất tự nhiên: 56309.43 ha.
Trong đó: diện tích đất nơng nghiệp: 44536.04 ha, diện tích đất lâm
nghiệp: 25602.72 ha, đất phi nông nghiệp: 1796.74 ha, đất chưa sử dụng:
9976.65 ha. [2]
Thảm động – thực vật: phong phú với các loại gỗ quý như lim, táu. Các cây
dược liệu quý như tam thất, quế. Thảm thực vật ở huyện Mèo Vạc phong phú
nên được người dân trong huyện tận dụng vào rừng chặt gỗ về để làm ván. Do
việc chặt phá nhiều nên hiện nay những thảm động thực vật này khơng cịn
nhiều, do con người chặt phá rừng làm mất đi giá trị sinh thái của huyện vùng
cao núi đá tai mèo.
Về Thủy văn:
Có nhiều sơng suối, đặc biệt có sơng Nho Quế chảy qua. Sơng ở Mèo Vạc
có độ sâu không đều, độ dốc lớn, nhiều ghềnh thác, tạo điều kiện phát triển thủy
điện vừa và nhỏ (có nhà máy thủy điện Nho Quế 1 và Nho Quế 3).

14


Chế độ mưa khá phong phú, bình quân hàng năm vào khoảng 2.300 –
2.400 mm. Lượng mưa trung bình khoảng 7,5/10, tập trung cao nhất là cuối mùa
đông lên tới 8 – 9/10 và tương đối ít nắng: cả năm có 1.427 giờ nắng, tháng
nhiều nhất chỉ đạt 181 giờ, tháng ít nhất 74 giờ. [16]
Với hệ thống thủy văn như vậy nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp của bà
con trên địa bàn huyện
1.2. Điều kiện xã hội

Ngày 15/12/1962 Hội đồng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 211 –
QĐCP tách Đồng Văn thành 3 huyện: Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn.
Ngày 21/10/1982 Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng chính phủ) ban
hành quyết định 179/ HĐPT, tách 3 xã Niêm Sơn, Nậm Ban, Tất Ngà của Yên
Minh để sát nhập vào Mèo Vạc.
Trước năm 1975 Mèo Vạc là huyện của tỉnh Hà Giang, từ năm 1976 –
1991 là huyện của tỉnh Hà Tuyên, sau năm 1991 trở lại là huyện của tỉnh Hà
Giang. [16]
Hiện nay huyện Mèo Vạc có 18 đơn vị hành chính với 1 thị trấn Mèo Vạc
và 17 xã ( Pả Vi, Sủng Máng, Cán Chu Phìn, Giàng Chu Phì, Khâu Vai, Lũng
Chinh, Nậm Ban, Niêm Sơn, Tả Lủng, Pải Lủng, Sơn Vĩ, Sủng Trà, Tát Ngà,
Thượng Phùng, Xín Cái, Niêm Tịng). [2]
Trong đó ngoại trừ xã Pả Vi, 16 xã cịn lại của huyện Mèo Vạc đều thuộc
diện 135 giai đoạn 2.
Ở huyện Mèo Vạc tập trung chủ yếu người Hmông trắng sinh sống. Theo
thống kê năm 2011 của UBND huyện Mèo Vạc, tồn huyện có 72 554 người,
trong đó người Hmơng trắng chiếm 56 496 người.

15


Trước đây, Mèo Vạc cũng là vùng dân cư thưa thớt, nhưng những năm
gần đây (từ 1960 đến nay) dân số của Mèo Vạc tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên
mật độ dân số ở Mèo Vạc không đồng đều. Huyện Mèo Vạc bao gồm 17 dân tộc
thiểu số sinh sống trên địa bàn tồn huyện. Trong đó đơng nhất là đồng bào
Hmông với

56 496 người (chiếm 76,54%), người Giáy: 4832 người (chiếm

7,37%), người Dao: 3966 người (chiếm 6,05%), người Tày: 2105 người (chiếm

3,21%), người Kinh: 1485 người (chiếm 2,26%), người Lơ Lơ: 1164 người
(chiếm 1,77%), cịn lại là các dân tộc Nùng, Hoa, Cơ Lao, Pu Péo, Pà Thẻn, Pố
Y, Phù Lá, Thái, Mường, Sán Dìu, Sán chay (Cao Lan).[2]
Giáo Dục:
Do được Đảng và nhà nước quan tâm thì hiện nay huyện Mèo Vạc đã phổ
cập giáo dục hết trung học cơ sở, nhưng chương trình phổ cập hết trung học phổ
thông chỉ áp dụng được với những trường học nằm trên địa bàn trung tâm huyện,
đối với những xã vùng xâu, vùng xa thì chương trình này khơng thể áp dụng
được. Do điều kiện vẫn cịn khó khăn nên huyện chưa đảm bảo được đầy đủ cơ
sở vật chất khang trang cho tất cả các trường ở vùng sâu vùng xa. Chính vì thế
mà chỉ ở trung tâm huyện con em mới được đên trường đầy dủ, còn ở những xã
chách trung tâm huyện cịn gặp rất nhiều khó khăn, nghèo đói cho nên khơng
được bố mẹ cho đi học.
Cả huyện có ba trường trung học phổ thơng: trường công lập, trường dân
lập, trường bổ túc. Ba trường này đều được xây dựng ngay trung tâm huyện. Vì
vậy có những xã cách xa trung tâm huyện mà có con em muốn đi học vào trường
cấp trung học phổ thông ở trung tâm huyện thì việc đi lại của các em sẽ gặp rất
nhiều khó khăn.

16


Y tế:
Vấn đề sức khỏe của người dân rất được quan tâm, tồn huyện Mèo Vạc
có 1 trung tâm y tế nằm cạnh sân vận động huyện và hàng năm thì đều có rất
nhiều lượt khám chũa bệnh miễn phí cho bà con dân bản và thường xuyên có
những chiến dịch tiêm phòng cho trẻ em (chống viêm gan B, biếu cổ, phịng
Dại,..). nhưng điều đáng nói ở đây là ở các xã vùng sâu vùng xa do gặp nhiều
khó khăn về kinh phí cho nên khơng thể xây dựng được trạm y tế xã để bà con
đến khám chữa bệnh. Khi người dân bị ốm đau, bệnh tật phải vất vả đi ra tận

trung tâm huyện mới có thể khám chữa bệnh được
Văn hóa:
Ngồi Phịng Văn hóa huyện và Trung tâm Văn hóa của huyện ra thì mỗi
xã đều có nhà văn hóa riêng. Nhà văn hóa của xã có chức năng và nhiệm vụ rất
quan trọng. Nơi bàn bạc các việc trong xã và họp phổ biến nhũng chính sách của
Đảng tới người dân, bầu cử… chức năng rất quan trọng là sinh hoạt văn hóa, tín
ngưỡng, đặc biệt múa khèn là văn hóa sinh họat tinh thần không thể thiếu trong
cộng đồng người Hmông mà hiện nay nó đang được khơi phục và bảo tồn lại.
Người Mơng do là cư dân di cư đến vùng đất này sinh sống sớm nhất so
với các dân tộc khác, cho nên họ có mặt tỏng các tổ chức chính quyền xã.
1.3. Khái quát về người Hmông ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang
1.3.1 Lịch sử thiên di và quá trình hình thành
Người Mơng ở Việt Nam có nguồn gốc từ người Hmông gốc bản địa ở
Trung Quốc, họ di cư sang Việt Nam thành 3 đợt:
Đợt 1: Những năm 80 của thế kỷ XVII
Đợt 2: Cuối thế kỷ XVIII
Đợt 3: Giữa thế kỉ XIX

17


Đợt đầu người Mông vào Việt Nam cách đây khoảng 14 -15 đời khoảng
80 gia đình người Hmơng họ Và, họ Giàng từ Quý Châu đến Đồng Văn.
Đợt thiên di lớn thứ hai đến Việt Nam cách đây khoảng 9 – 10 đời, đợt
thiên di này theo hai đường đến Đồng Văn khoảng 110 gia đình, gồm các họ:
Vàng, Lý.
Đợt thiên di lớn thứ ba của người Hmông đến Việt Nam là đợt thiên di
lớn nhất, đông nhất.
Người Trung Quốc gọi người Hmông là Miêu Tử hay gọi Miêu Dân. Xét
chữ Miêu Trung Quốc: trên là thảo, dưới là điền, từ đó suy đốn rằng chỉ tộc

người này sống bằng nghề làm ruộng. [11]
Theo tài liệu nghiên cứu của Việt Nam thì người Hmơng ở Việt Nam có 4
nhóm chính: Hmơng trắng, Hmơng Hoa, Hmơng đen, Hmơng hán. Các nhóm
Hmơng này thường phân bố ở các tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên
Bái, Tuyên Quang, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An.
Người Hmông di cư đến Việt Nam đã gần 300 năm như thế có thể nói dân
tộc Hmơng có lượng người cư trú ở Việt Nam đông hơn các dân tộc Khác như:
Pu Péo, Lô Lô, Pà Thẻn…và tiếng Hmông được sử dụng nhiều hơn. Đến huyện
Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang ta sẽ bắt gặp 90% dân số là người Hmông trắng đang
sinh sống và cư trú trên mảnh đất cao nguyên đá tai mèo.[14]
Người Hmông ở Hà Giang nằm trong 3 đợt thiên di lớn của người Hmông
từ Trung Quốc sang Việt Nam, người Hmông ở Hà Giang cũng như người
Hmông ở các nơi khác đều truyền cho nhau về quê hương của mình: “Quý Châu
là quê hương yêu dấu của đồng bào Mèo ta. Vì người Mèo ta đói rách, vì dân
Mèo ta khơng có chữ thua kiện người Hán nên phải mất nương, vì người Mèo ta
khơng có chữ nên phải rời q”

18


Người Hmơng có nguồn gốc ở vùng Q Châu, Hồ Nam, Tứ Xuyên
(Trung Quốc) nhưng khi đến Việt Nam sinh sống, họ đã coi Việt Nam là quê
hương thứ hai của mình. Từ huyện Đồng Văn người Mơng đã di cư đến sinh
sống tại các huyện khác như: Mèo Vạc, Vị Xun, n Minh, Quản Bạ, Xín
Mần,…và người Hmơng đã nhận Mèo Vạc là quê hương của mình. Sở dĩ người
Hmông di cư đến Việt Nam để tránh sự săn lùng của kẻ ác, một phần khác do du
canh du cư đi tìm vùng đất mới, đi tìm vùng đất có khí hậu mát mẻ, hơn vùng
Q Châu. Đến các vùng núi cao của tỉnh Hà Giang (Việt Nam), họ nghĩ nơi
đây sẽ là nơi đất lành nên họ đã chọn Hà Giang là nơi sinh sống, lập nghiệp.
1.3.2. Đặc điểm dân tộc – dân cư

Hmông là tộc danh tự gọi của người Hmông ở nước ta. Cũng như ở Hà
Giang, trước kia chúng ta gọi người Hmông là Mèo (theo âm Hán) nay tộc danh
Hmơng đã trở thành chính thức, thay thế tộc danh Mèo. [14]
Theo thống kê tháng 11 năm 2011 của UBND huyện Mèo Vạc, tồn huyện
có 72 554 người sinh sống. [2]
Người Hmông ở Hà Giang chủ yếu gồm có hai ngành: Hmơng Hoa và
Hmơng trắng.
Ở huyện Mèo Vạc tập trung chủ yếu người Hmông trắng sinh sống. Theo
thống kê năm 2011 của UBND huyện Mèo Vạc, tồn huyện có 56 496 người
Hmơng sinh sống. Trước đây, Mèo Vạc cũng là vùng dân cư thưa thớt nhưng từ
1960 đến nay dân số của Mèo Vạc tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên mật độ dân số ở
Mèo Vạc không đồng đều.
Mèo Vạc bao gồm 17 dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn tồn huyện.
Trong đó gồm những dân tộc: Dân tộc Hmông, Giáy, Dao, Tày, Kinh, Lô Lô,

19


Nùng, Hoa, Cơ Lao, Pu Péo, Pà Thẻn, Pố Y, Phù Lá, Thái, Mường, Sán Dìu, Sán
chay (Cao Lan).
Dù sống xen kẽ với một số dân tộc khác, chủ yếu là người Dao, Pu Péo,
Nùng, Lô Lô, Pố Y…Nhưng người Hmơng, cũng như bất kì một tộc người nào
khác – xu hướng “đồng tộc” ln mạnh và ln có sức hút. Họ vẫn sống tập
trung trong những vùng rõ rệt, thường là vùng núi thung lũng cao, địa thế hiểm
trở, giao thơng đi lại, sinh hoạt hàng ngày cịn gặp rất nhiều khó khăn. Có lẽ, đây
là một đặc điểm tộc người, một tập quán, một thói quen dân tộc, một sự ẩn mình
trước những đè nén, áp bức bất cơng cịn sót lại tới ngày hơm nay.
Vì người Hmơng sống ở trên những trườn núi cao, nên việc canh tác
nương rẫy là cơ bản, thỉnh thoảng có nơi canh tác lúa nương. Nương rẫy cao, có
độ dốc lớn, nên chủ yếu trồng ở các ruộng bậc thang quanh sườn đồi, sườn núi,

diện tích canh tác vì thế rất hạn hẹp. Tuy nhiên, do có trình độ ln canh, xen
canh cao, mặc dù canh tác vẫn còn lác đác nhưng nhìn chung, ngồi cây lương
thực chủ lực là ngơ và cây lúa, người Hmơng cịn trồng nhiều loại cây lương
thực khác như khoai, đậu đỗ, dong giềng, đậu tương, tam giác mạch. Bên cạnh
đó người Hmơng cũng chăm chút một số cây dược liệu, cây thuốc phiện, cây ăn
quả, cây lanh dùng để dệt vải.
1.3.3. Hoạt động kinh tế
Người Hmông trắng ở huyện Mèo Vạc sinh sống ở vùng dẻo cao hiểm trở,
khô cằn, đây là cư dân chủ yếu làm nghề nương rẫy. Sở dĩ người Hmông chọn
những nơi dẻo cao, hẻo lánh để cư trú, là bởi nhiều lý do, trong đó có lý do: Sau
những chuyến thiên di, lang thang, gặp được vùng đất chưa có người cai quản,
đến là định cư tạm bợ. Cũng có một giả thuyết khác là những nơi bình địa hay
lưng chừng đều có người làm chủ cả rồi nên họ đành kiếm chỗ dẻo cao hiểm trở

20


để trú ngụ ở đó. Người Hmơng ở Mèo Vạc chủ yếu sống trong khung cảnh vùng
cao heo hút và từ rất lâu rồi, được xem như là đại diện cho một sắc thái, một nếp
sống rẻo cao, cao nguyên mới có sự mộc mạc, với tình cảm cộng đồng lớn, với
tập tục ngàn đời trong đời sống kinh tế xã hội và đời sống tinh thần, tâm linh,
phần lớn cịn khép kín. [14]
Cây trồng và lương thực chính của người Hmơng là cây ngơ, ngồi ra có
xen canh cây lương thực phụ là cây: lúa, khoai sắn, đỗ đậu, dong giềng, tam giác
mạch, cây bí ngơ, rau cải mèo,…Trước kia, người Hmông chỉ làm một vụ ngô
(độc canh), nay ln canh, tăng vụ. Có nơi, giống ngơ mới cho năng suất cao
khoảng 2,5 – 3 tấn/ha, thu hoạch vào tháng 7, 8 hàng năm.
Sản phẩm chăn nuôi của người Hmơng gồm: bị, dê, ngựa, lợn, gà,
ong…Các sản phẩm này mới dừng lại ở mức tự cấp, tự túc, nhà dân nào khá giả,
ni nhiều thì mới trao đổi hàng hóa hoặc mang ra chợ bán. Phần lớn các con vật

lớn có giá trị như con: bị, ngựa được ni để làm sức kéo, làm phương tiện đi lại
của bà con và quan trọng hơn là con bò còn được dùng làm ma khô. Đặc biêt con
dê là loại con thích chạy nhảy, phù hợp thích nghi với khung cảnh núi đá hiểm
trở, nên được người dân ở huyện Mèo Vạc ni rất nhiều, dùng làm thức ăn, bên
cạnh đó nhà nghèo khi làm ma khơng có tiền mua bị thì phải dùng con dê để
cúng người chết. Ngồi ra các đàn ong ở huyện Mèo Vạc cũng phát triển khá
nhanh, đặc biệt chất lượng mật ong rừng được khách thập phương đánh giá khá
cao với thương hiệu đặc sản mật ong rừng Mèo Vạc. Các mặt hàng sản xuất thủ
công như dệt, đan, thêu, làm đồ da, đồ gỗ, trang sức bằng bạc, rèn súng kíp, làm
đồ dùng bằng sắt, nông cụ…tuy chỉ là những việc làm lúc nghỉ ngơi, rỗi rãi,
nhưng cũng đã đạt trình độ kỹ thuật khá cao.

21


1.3.4. Đặc điểm xã hội truyền thống
Người Hmông tự phát sống cụm vào thành làng, bản theo dịng họ. Làng
Hmơng (hay cịn gọi là Giao) thường có từ vài đến vài chục nóc nhà, ở một địa
điểm, hay nhiều địa điểm ở gần nhau, có chung một dịng họ, có chung thổ thần,
có chung những phong tục tập quán, quy ước, hương ước của làng bản người
Hmông. Nếu Giao là người cùng một họ thì đứng đầu một dịng họ cũng tức là
người đứng đầu làng bản đó của người Hmơng. Nếu Giao gồm nhiều họ thì
trưởng dịng họ đơng người sẽ đứng đầu, hoặc luân phiên nhau đứng đầu Giao.
Đó là quan hệ nhằm thực hiện những quy ước về canh tác, chăn nuôi, giúp đỡ lẫn
nhau trong công việc và nghĩa vụ, đặc biệt khi gia đình nào có tang thì vai trị
của trưởng dịng họ là rất quan trọng.
Quan hệ đồng tộc, cùng dòng họ, những người cùng một tổ tiên dù ở xa
hay gần, đều chịu sự chi phối của một tổ chức chung: đó là tổ chức dòng họ,
được coi là bộ máy tự quản rất hữu hiệu và quan trọng trong xã hội truyền thống
của tộc người Hmơng. Bộ máy này gồm có trưởng họ (uô thơừ), bà cô (phâux)

và người cầm quyền ma, quyền khách (cho đáng khuô), là những người theo dõi,
đề xướng, giải quyết những công việc liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần
và tâm linh của các thành viên trong dịng họ cũng như những cơng việc có liên
quan đến cộng đồng xã hội.
Trưởng họ là người cầm quyền, là người chỉ huy, lo giải quyết các công
việc bình thường, trực tiếp hàng ngày, giải quyết những việc có liên quan đến
đời sống tinh thần, tâm linh linh thiêng nhất của dịng họ. Bà cơ là người có thể
quyết định thay thế một tập quán dù đã lâu đời, nhưng nếu xét khơng thấy cịn
phù hợp với họ hàng nữa thì mời bà cơ đến làm lễ quyết định thay đổi. Đặc biệt
là trong tang ma bà cô là người gói cơm cho người chết trên đường về với tổ

22


tiên, cầm ngọn đuốc để soi sáng đường cho người chết, là người quyết định nên
để xác trong quan tài hay cáng gỗ.
Tộc người Hmơng thuộc dịng họ cư trú ở đâu, thì luật tục dịng họ được
phổ biến tới đó, mỗi một dịng họ đều có luật tục riêng. Do đó, có thể nói rằng, ở
người Hmơng có sự ràng buộc và liên kết của dòng họ, những người cùng tổ
tiên. Với người Hmơng đơi khi luật tục cịn nghiêm ngặt hơn so với pháp luật
của Đảng và Nhà nước đặt ra. Nếu trong dịng tộc có ai bị vi phạm luật tục như:
trộm cắp, đánh nhau, nghiện thuốc phiện thì sẽ bị xử lý theo luật tục của dịng
họ.
Cùng với sự tồn tại của dịng họ thì làng của người Hmơng cịn là cộng
đồng những người láng giềng, là Giao của những người cùng chung sống trên
một địa vực, dù có huyết thống hay khơng. Tuy nhiên xét cho cùng, đây chỉ là
cái vỏ bên ngồi, cịn cái chi phối sự vận hành bên trong làng vẫn là quan hệ
dịng họ. Mọi gia đình đều tn thủ nghiêm ngặt luật tục và quyết định của tổ
chức dòng họ.[14].
Gia đình người Hmơng là gia đình phụ hệ, người đàn ông có quyền quyết

định tất cả mọi việc trong gia đình, khi người cha đi vắng, người con trai trưởng
sẽ thay mặt cha quyết định mọi việc thay bố.
1.3.5. Những nét về văn hóa
1.3.5.1. Văn hóa vật chât
Làng:
Hầu hết người Hmông ở Mèo Vạc sống chủ yếu trên những trườn núi cao,
Người Hmông nơi đây quần tụ trong từng bản, mỗi bản có vài chục nóc nhà và
họ thường sống tách biệt hơn.

23


Mỗi làng đều có địa vực riêng của làng đó, khi trong làng có người chết
thì chỉ được chơn người chết trong làng của mình, chứ tuyệt đối khơng được
mang chôn sang đất của làng khác.
Nhà ở:
Nhà ở của người Hmơng ở Mèo Vạc chủ yếu làm bằng đất trình tường, có
ba gian, gian giữa đặt làm bàn thờ (thờ các vị thần thánh, tổ tiên). Cửa chính mở
ở gian giữa nhà, cửa phụ mở ở một góc phía tường sau nhà.. Nhà thường ba gian
khơng có trái, bộ khung bằng gỗ, vì kèo kết cấu đơn giản, chủ yếu là ba cột có
một xà ngang kép hoặc hai xà ngang một trên một dưới.
Tổ chức mặt bằng sinh hoạt giữa các gian khá thống nhất: Gian chính giữa
giáp vách hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ (bàn thờ của người Hmông không
giống của người Kinh, bàn thờ của người HMông chỉ đơn giản gồm một miếng
giấy bản có dính tiết gà, vài chiếc lơng cổ con gà, hai cái ống tre có đựng vài que
hương), gian này cịn là nơi dành cho sinh hoạt gia đình và ăn uống hành ngày.
Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam. Ở
đây thường có bếp dùng để đun nước uống. Cịn gian đầu hồi bên kia dành cho
sinh hoạt của phụ nữ đồng thời cũng là nơi đặt bếp nấu hay đồ mèn mén, nấu
cám lợn. Bếp của người Hmông thuộc dạng bếp kín – một sản phẩm của phương

bắc. [16]
Khi có người nhà chết, thì thi hài được quàn ở gian giữa của nhà, trước
bàn thờ tổ tiên.
Trang phục:
Quần áo của người Hmông ở Mèo Vạc chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt,
đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kĩ thuật đa dạng.

24


Trang phục của nam giới: Nam giới thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc
dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam thường có hai loại 5 thân (xẻ
nách bên phải dài q mơng cịn loại bốn thân thì xẻ ngực, hai túi trên, hai túi
dưới) và loại 4 thân (loại bốn thân thường khơng trang trí những đường vằn
ngang trên ống tay). Quần của nam giới là loại chân què, ống rất rộng so với các
tộc người khác trong từng khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm thì đội mũ
xung quanh có đính những hình trịn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vịng
bạc cổ, có khi khơng mang.
Trang phục của nữ giới: Trang phục truyền thống của phụ nữ Hmông rất
độc đáo, một bộ nữ bao gồm váy, áo cánh, áo xẻ ngực, có yếm lửng, thắt lưng,
khăn quấn đầu, xà cạp. Váy thường là hình nón cụt, xếp nếp xịe rộng, cũng có
khi là váy ống, khi mặc xếp ở hai bên hông.
Áo của phụ nữ Hmông: áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không
khâu hoặc cho vào trong váy. Ống tay áo thường trang trí hoa văn những đường
vằn ngang từ nách đến khuỷu tay, đường viền cổ và nẹp hai thân được trang trí
viền vải khác màu, thường là màu đỏ và hoa văn trên nền chàm.
Váy phụ nữ Hmơng là loại váy có nhiều nếp gấp, rộng, khi xịe ra có hình
trịn. Váy là một tiêu chuẩn để nhiều người dựa vào đó phân biệt với các nhóm
Hmơng khác. Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy in hoa, vẽ sáp ong kết hợp
với thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở

đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp đề. Tạp đề mang trước bụng phủ
xuống chân, phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên,
miếng vải hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận của
người Hmơng.
Chân phụ nữ Hmơng có đeo xà cạp.

25


×