Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Biến đổi của nghi lễ hầu đồng hiện nay dưới tác động của nền kinh tế thị trường qua khảo sát trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.31 MB, 109 trang )

1

TRƯờNG ĐạI HọC VĂN HOá Hà NộI
Khoa văn hóa học
--------------------

PHAN DANH HùNG ANH

BIếN Đổi CủA NGHI Lễ HầU ĐồNG hiện nay
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường
(qua khảo sát trên địa bàn hà nội)

Người hướng dẫn khoa học: ths. Nguyễn thị thanh mai

Hà Nội - 2014


2

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp, tơi đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ cũng như những lời động viên. Tôi xin
được gửi lời cảm ơn tới những người đã quan tâm và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài
này.
Lời đầu tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất tới ThS. Nguyễn
Thanh Mai, giảng viên khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Cơ
là người đã định hướng, tận tình chỉ bảo và sát cánh bên tơi trong suốt q trình
lựa chọn, triển khai và thực hiện ý tưởng cho đề tài. Em chân thành cảm ơn cô!
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cơ giáo khoa Văn hóa học đã cho
tơi những đóng góp bổ ích và giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Bên cạnh đó tơi xin được gửi lời cảm ơn gia đình, các anh, chị và các bạn sinh


viên cùng trường, khoa, lớp đã tạo mọi điều kiện để cho đề tài được hoàn chỉnh
hơn.
Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thủ đền, chân đồng, cung văn và
những người cung cấp dịch vụ đã cung cấp thông tin để tôi thực hiện đề tài này.
Một lần nữa, tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2014
Sinh viên
Phan Danh Hùng Anh


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ TỔNG QUAN VỀ
NGHI LỄ HẦU ĐỒNG .............................................................................. 13
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ............................................................ 13

1.1.1. Nền kinh tế thị trường và những ảnh hưởng, tác động tới đời tâm linh
của người Hà Nội .................................................................................. 13
1.1.2. Biến đổi văn hóa .......................................................................... 21
1.2. TỔNG QUAN VỀ NGHI LỄ HẦU ĐỒNG TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
................................................................................................................................... 23

1.2.1. Tín ngưỡng thờ Mẫu .................................................................... 23
1.2.2. Hầu đồng – nghi lễ tiêu biểu trong tín ngưỡng thờ Mẫu ............... 27
Tiểu kết chương 1 ................................................................................ 33
Chương 2: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI NGHI LỄ HẦU ĐỒNG Ở HÀ NỘI
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ...................... 35

2.1. BIẾN ĐỔI TRONG ĐỐI TƯỢNG THỰC HÀNH NGHI LỄ HẦU ĐỒNG .... 35

2.1.1. Đối tượng thực hành nghi lễ hầu đồng thời kỳ trước đây ............. 36
2.1.2. Đối tượng thực hành nghi lễ hầu đồng hiện nay ........................... 39
2.2. BIẾN ĐỔI TRONG TRANG PHỤC ................................................................. 44

2.2.1. Trang phục hầu đồng thời kỳ trước đây........................................ 45
2.2.2. Trang phục hầu đồng hiện nay ..................................................... 47
2.3. BIẾN ĐỔI TRONG ĐỒ LỄ............................................................................... 54

2.3.1. Đồ lễ trước đây ............................................................................ 55
2.3.2. Đồ lễ hiện nay .............................................................................. 57
2.4. BIẾN ĐỔI TRONG ĐỒ MÃ ............................................................................. 62

2.4.1. Đồ mã sử dụng trong nghi lễ hầu đồng trước đây ......................... 62
2.4.2. Đồ mã sử dụng trong nghi lễ hầu đồng hiện nay .......................... 63
2.5. BIẾN ĐỔI TRONG CÁCH THỰC HÀNH NGHI LỄ HẦU ĐỒNG ............... 64


4
2.5.1. Cách thực hành nghi lễ hầu đồng trước đây ................................. 65
2.5.2. Cách thực hành nghi lễ hầu đồng hiện nay ................................... 66
Tiểu kết chương 2 ................................................................................ 67
Chương 3: SỰ NHÌN NHẬN, ĐÁNH GIÁ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ĐỐI VỚI NGHI LỄ HẦU ĐỒNG Ở HÀ NỘI HIỆN NAY ...................... 69
3.1. ĐÁNH GIÁ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI SỰ
BIẾN ĐỔI CỦA NGHI LỄ HẦU ĐỒNG................................................................. 69

3.1.1. Những biến đổi tích cực ............................................................... 69
3.1.2. Những biến đổi tiêu cực ............................................................... 73

3.2. XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CỦA NGHI LỄ HẦU ĐỒNG TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY ...................................................................................... 79
3.3. KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NGHI LỄ HẦU ĐỒNG HIỆN NAY Ở HÀ NỘI ... 81

3.3.1. Đối với cơng tác quản lý văn hóa ................................................. 81
3.3.2. Đối với người thực hành nghi lễ................................................... 83
3.3.3. Đối với ban quản lý các di tích nơi thờ tự .................................... 84
Tiểu kết chương 3 ................................................................................ 85
KẾT LUẬN ................................................................................................. 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 88
PHỤ LỤC.................................................................................................... 94


5

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Thờ Mẫu – một tín ngưỡng dân gian đặc sắc của người Việt có lịch sử hình
thành và phát triển từ rất lâu đời. Đây là tín ngưỡng nhằm mục đích tơn thờ
những người phụ nữ có cơng trong việc sáng tạo, bảo trợ, che chở cho cuộc sống
của con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu đã thực sự trở thành một nhu cầu không thể
thiếu trong đời sống tâm linh của nhiều người dân Việt Nam từ xa xưa cho đến
ngày nay. Trong những nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu ta khơng thể khơng nói
đến nghi lễ hầu đồng.
“Hầu đồng” là nghi lễ độc đáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Một nghi lễ
nhằm tái hiện lại hình ảnh của các vị thần Thánh thông qua thân xác của các ông
đồng, bà đồng để phán truyền, chữa bệnh, ban lộc… cho các tín đồ đạo Mẫu và
bách gia trăm họ. Góp phần cùng với nó là những bản nhạc, lời hát văn; những bộ
trang phục sặc sỡ trong các giá đồng. Chính điều này đã làm nên sự phong phú,

đặc sắc cho tín ngưỡng này. Dưới góc độ văn hóa “hầu đồng” là một loại hình
nghệ thuật diễn xướng dân gian. Nó đã xun suốt trục thời gian lịch sử để lưu
giữ tinh hoa của một tín ngưỡng bản địa. Trước những năm đổi mới, khi nền kinh
tế nước ta mang tính chất tự cung, tự cấp, sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi
lễ hầu đồng chịu sự cấm đoán của nhà nước. Mặc dù bị kết tội là “mê tín dị
đoan” dưới con mắt xã hội lúc bấy giờ nhưng với sức sống mãnh liệt của mình,
hầu đồng vẫn âm ỉ cháy trong lòng nhiều người dân gửi gắm niềm tin nơi cửa
Mẫu.
Ngày nay, trong thời kỳ hội nhập và phát triển, đặc biệt dưới tác động của
nền kinh tế thị trường đã gây nên sự biến đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau
của các hình thức tín ngưỡng, tơn giáo. Nghi lễ hầu đồng cũng khơng nằm ngồi
sự tác động ấy.


6
Hiện nay, tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu đồng đã được Nhà nước công
nhận là di sản văn hóa quốc gia, ở đó chứa đựng nhiều truyền thống tốt đẹp, nhân
văn, cao cả. Cùng với đó là hệ thống các phủ, đền, điện, chùa… thu hút một
lượng lớn tín đồ đạo Mẫu tìm đến thực hành nghi lễ hầu đồng. Những năm trở lại
đây, hầu đồng đã nhận được cái nhìn cởi mở của người dân cũng như sự công
nhận của nhà nước về nghi lễ độc đáo này. Việt Nam đã làm hồ sơ đệ trình
UNESCO cơng nhận hầu đồng là di sản văn hóa của nhân loại.
Trong xu thế đất nước hội nhập và tác động của nền kinh tế thị trường, hiện
nay bản chất của hầu đồng ít nhiều bị biến dạng. Bên cạnh những giá trị văn hóa
độc đáo ấy, xen vào đó là tính thương mại hóa. Hiện nay, một bộ phận khơng nhỏ
người thực hành nghi lễ này lợi dụng sự “nhẹ dạ cả tin” của người dân khi đến
với Đạo Mẫu để mưu cầu, trục lợi cá nhân gây ảnh hưởng xấu tới giá trị văn hóa
– tâm linh của nghi lễ. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, tôi lựa chọn đề tài “Biến đổi
của nghi lễ hầu đồng hiện nay dưới tác động của nền kinh tế thị trường (qua khảo
sát trên địa bàn Hà Nội)” nhằm góp phần vào việc đánh giá và nhìn nhận một

cách tồn diện hơn về nghi lễ hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
trong thời kỳ hội nhập. Từ đó đề ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm gìn giữ,
bảo tồn và phát huy giá trị đặc sắc của loại hình tín ngưỡng dân gian này.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

2.1. Những cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu
Cho đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, học giả nghiên
cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và nghi lễ hầu đồng nói riêng. Nhiều cuộc
hội thảo, tọa đàm, nói chuyện chuyên đề, trao đổi giữa các chuyên gia, người thực
hành nghi lễ và giới trẻ về tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu đồng được tổ chức
tại Hà Nội và một số vùng lân cận.


7
Trong đó phải nhắc đến GS. TS. Ngơ Đức Thịnh, người đã có hơn 20 năm
kinh nghiệm trong việc nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu với rất nhiều tác
phẩm, cơng trình nghiên cứu: Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam
(Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001); Đạo Mẫu ở Việt Nam (Nxb. Văn hóa
thơng tin, Hà Nội, 2002); Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người
ở Việt Nam và châu Á (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004)… Tiêu biểu trong
số đó có cơng trình nghiên cứu về “Đạo Mẫu Việt Nam” được nhà xuất bản tôn
giáo xuất bản năm 2009. Ơng đã hệ thống hóa việc tơn thờ Đạo Mẫu Việt Nam
trên hai phương diện đồng đại và lịch đại. Về phương diện đồng đại, những người
Việt di cư vào phương Nam đã mang theo đạo Mẫu và giao thoa, tiếp biến với tục
thờ Mẫu thần của người Chăm, người Khơ-me. Từ đó đã tạo nên các dạng thức
địa phương của đạo Mẫu như: Đạo Mẫu ở Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ. Về
phương diện nghiên cứu lịch đại, đạo Mẫu hình thành và phát triển trên cơ sở của
việc thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa của người Việt. Sau đó, nó tiếp thu những
ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa rồi hình thành và phát triển lên đỉnh cao là
đạo thờ Tam phủ, Tứ phủ. Đến thế kỷ XVI – XVII, khi đã hình thành và phát

triển thì Mẫu Tam phủ, Tứ phủ lại có ảnh hưởng ngược trở lại đến tục thờ Nữ
thần và Mẫu thần. Tơn vinh tín ngưỡng dân gian bản địa thành đạo Mẫu của dân
tộc chính là đóng góp lớn nhất của cơng trình nghiên cứu. Đồng thời tác giả cũng
nghiên cứu chi tiết, cụ thể về sự hình thành và phát triển của hệ thống thần linh,
nghi thức, lễ hội đối với tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ. Đặc biệt, GS. TS. Ngơ
Đức Thịnh có cái nhìn rất khách quan đối với tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu
đồng. Việc gắn đạo Mẫu với lên đồng cũng như gắn lên đồng với đạo Mẫu mang
ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn rất cao. Qua cơng trình nghiên cứu, ơng đã
góp phần tìm hiểu rõ hơn về tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu đồng, xóa bớt đi
những mặc cảm, thành kiến của xã hội đối với tín ngưỡng này. Đồng thời ơng


8
cũng chỉ ra những mặt hạn chế cần khắc phục trong việc thực hành nghi lễ hầu
đồng hiện nay.
Ngoài ra, tìm hiểu về tín ngưỡng thờ Mẫu cịn có nhiều tác giả, cơng trình
nghiên cứu, các cuộc hội thảo, bài báo đề cập đến như: Việt Nam phong tục của
Phan Kế Bính (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1990); Tam tịa thánh Mẫu của
Đặng Văn Lung (Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1991); Đạo thánh ở Việt Nam của
tác giả Vũ Ngọc Khánh (Nxb. Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2001); Phủ Dầy và tín
ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh của Bùi Văn Tam khảo cứu và biên soạn (Nxb. Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, 2004); Đồ mã trong tín ngưỡng dân gian Việt của Hoàng Lan
trên diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (số 2, 20)
Luận văn thạc sĩ của một số tác giả tại Viện Nghiên cứu Văn hóa cũng đề
cập tới vài khía cạnh của tín ngưỡng thờ Mẫu như: Giang Nguyệt Ánh tìm hiểu về
“Đồ mã trong điện Mẫu ở Hà Nội”; Nguyễn Ngọc Mai đi sâu nghiên cứu “Trang
phục trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hà Nội”
Trong các cơng trình nghiên cứu khoa học các mơn cơ bản của Đại học
Văn hóa Hà Nội, sinh viên Phùng Vương Khánh Yến, khoa Quản lý Văn hóa với
cơng trình nghiên cứu “Đồ lễ trong điện Mẫu ở Hà Nội”

Đầu xuân 2012, tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam đã có cuộc trưng bày “Tín
ngưỡng thờ Mẫu: Tâm – Đẹp – Vui”. Ngày 21 tháng 2 năm 2012, Trung tâm
Nghiên cứu và Bảo tồn Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam đã tổ chức cuộc hội thảo
“Gặp mặt cung văn đầu xuân Nhâm Thìn 2012” tại đền Lưu Phái, Ngũ Hiệp,
Thanh Trì, Hà Nội. Đây là những hoạt động cố gắng giúp công chúng phân biệt
được giá trị cốt lõi của tín ngưỡng dân gian độc đáo với những biến tướng mang
tính chất mê tín dị đoan.
Tác giả Hồng Tuấn Phổ đã kỳ cơng nghiên cứu: “Chúa Liễu Hạnh”. Bằng
trí tưởng tượng phong phú của mình, ơng đã tái hiện lại hình ảnh bà chúa Liễu với


9
những nét sinh động, khẳng định vị trí chủ chốt của chúa Liễu trong tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu trên của các tác giả về tín ngưỡng thờ
Mẫu dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau đã cho thấy được sự phong phú, đa
dạng và vai trị, vị trí của tín ngưỡng này trong đời sống của người Việt.
2.2. Những công trình nghiên cứu về nghi lễ hầu đồng
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu cịn có rất
nhiều tác giả, cơng trình nghiên cứu, bài báo, tạp chí… tìm hiểu sâu về nghi lễ
hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ dưới nhiều khía cạnh, góc độ
khác nhau như:
“Lên đồng, hành trình của thần linh và thân phận” của GS, TS. Ngô Đức
Thịnh trên trang Đạo Mẫu Việt Nam (2008)
“Hầu đồng trong quản lý văn hóa thời kỳ hội nhập” của sinh viên Phùng
Vương Khánh Yến, Trường Đại học văn hóa Hà Nội, 2012
“Những bậc thầy hầu bóng ở Việt Nam” của Tủ sách văn hóa Việt (Nxb.
Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2014)
Luận văn thạc sĩ ở Viện nghiên cứu Văn hóa “Múa lên đồng trong tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Hà Nội” của Trần Ly Ly

Trang website của trường Đại học Văn hóa Hà Nội có bài “Hầu đồng dưới
góc nhìn văn hóa” của hai tác giả Ngọc Linh và Vân Anh
Báo pháp luật Việt Nam viết về “Hầu đồng dưới góc nhìn hiện thực” của
Bùi Trọng Hiền
Trang Đạo Mẫu Việt Nam đề cập “Về hai hình thức hầu đồng trong tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Nam Bộ” do PGS, TS. Nguyễn Chí Bền và
ThS. Hồ Tường viết


10
Báo văn hóa thể thao và du lịch Bắc Giang với “Nghi lễ hầu bóng trong
đạo Mẫu” của Ngơ Văn Trụ
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, các tác phẩm, những bài báo, tạp
chí trên mới chỉ tiếp cận tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu đồng ở góc độ mơ tả
mà chưa đi sâu phân tích bản chất cũng như sự phát triển, biến tướng của nó trong
sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Đề tài nghiên cứu “Biến đổi của nghi lễ
hầu đồng hiện nay dưới tác động của nền kinh tế thị trường (qua khảo sát trên
địa bàn Hà Nội)” tập trung đi sâu nghiên cứu sự tác động của nền kinh tế thị
trường đối với nghi lễ hầu đồng, góp phần làm phong phú nguồn tư liệu văn hóa,
đặc sắc, đa dạng trong dịng chảy tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1. Mục đích nghiên cứu
Khi xuất hiện ý tưởng và đến với đề tài này, tôi muốn hướng đến những
mục đích:
- Tìm hiểu thực trạng biến đổi của nghi lễ hầu đồng dưới tác động của nền
kinh tế thị trường qua khảo sát trên địa bàn Hà Nội.
- Qua việc tìm hiểu thực trạng biến đổi của nghi lễ hầu đồng hiện nay để
đưa ra những đánh giá về sự biến đổi ấy.
- Trên cơ sở đánh giá sự biến đổi của nghi lễ hầu đồng, nhìn nhận xu hướng

và đưa ra khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của tín ngưỡng thờ Mẫu
nói chung và nghi lễ hầu đồng nói riêng.
Khám phá, tìm hiểu sâu sắc hơn về nghi lễ “hầu đồng” trong tín ngưỡng
thờ Mẫu thời kỳ trước kia cũng như hiện nay. Đề tài sẽ làm sáng tỏ phần nào sự
tác động của kinh tế thị trường đến nghi lễ hầu đồng, qua đó phản ánh một phần
nhu cầu tín ngưỡng trong đời sống tâm linh nhiều người dân Việt Nam. Bên cạnh


11
đó, tơi muốn góp phần thay đổi sự nhìn nhận và cách ứng xử phù hợp đối với
nghi thức hầu đồng của mỗi người, của xã hội trong thời kỳ hội nhập.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này tôi phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Xác định và tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Tiến hành khảo sát, điền dã để tìm hiểu sự biến đổi của nghi lễ hầu đồng
ở Hà Nội.
- Trên cơ sở thực trạng đó đưa ra những nhìn nhận, đánh giá về sự biến đổi
của nghi lễ hầu đồng hiện nay ở Hà Nội.
- Đồng thời dự báo xu hướng biến đổi của nghi lễ hầu đồng và đưa ra giải
pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị đặc sắc của nghi lễ hầu đồng.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hiện nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã tác động trực tiếp đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, hầu đồng cũng khơng nằm ngồi sự tác động
đó. Đề tài đi sâu nghiên cứu “Biến đổi của nghi lễ hầu đồng hiện nay dưới sự tác
động của nền kinh tế thị trường và những vấn đề xung quanh”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu thực nghiệm, phỏng vấn chuyên sâu tại một số đền,
điện, phủ trên địa bàn Hà Nội. Đây là trung tâm chính trị, kinh tế - văn hóa lớn

nhất cả nước. Hà Nội cũng là một trong ba trung tâm thờ Mẫu lớn nhất Miền Bắc.
Nghiên cứu ở Hà Nội giúp chúng ta làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu về sự tác động
của kinh tế thị trường đối với nghi lễ hầu đồng.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


12
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu văn hóa học, điều tra xã hội học để
tìm hiểu thực trạng của việc thực hành nghi lễ hầu đồng dưới tác động của nền
kinh tế thị trường. Cụ thể với những phương pháp và thao tác sau:
- Phương pháp thông kê, phân tích tài liệu văn bản: Dựa trên những văn
bản tài liệu tìm được đề cập đến vấn đề nghiên cứu. Trong phương pháp này tơi
có sử dụng hai thao tác chính là: Thao tác thu thập, tổng hợp thơng tin qua tài
liệu, văn bản, thao tác phân tích – so sánh, thao tác tra cứu tài liệu, dữ liệu từ
Internet.
- Phỏng vấn sâu: Phương pháp này giúp chúng ta thấy được vấn đề đang
nghiên cứu dưới nhiều góc độ, quan điểm, khía cạnh khác nhau của các đối tượng
được lựa chọn phỏng vấn, cung cấp tin trực tiếp.
- Phương pháp quan sát, tham dự: Với phương pháp này, người nghiên
cứu được trực tiếp trải nghiệm thông qua tham dự các vấn hầu, các cuộc hội thảo,
tọa đàm để từ đó có thể quan sát trực tiếp các vấn đề cần nghiên cứu.
6. BỐ CỤC ĐỀ TÀI

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được
triển khai qua ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và tổng quan về nghi lễ hầu đồng
Chương 2: Thực trạng biến đổi nghi lễ hầu đồng ở Hà Nội dưới tác động
của nền kinh tế thị trường
Chương 3: Sự nhìn nhận, đánh giá và một số vấn đề đặt ra đối với nghi lễ
hầu đồng ở Hà Nội hiện nay



13

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ TỔNG QUAN
VỀ NGHI LỄ HẦU ĐỒNG
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1.1. Nền kinh tế thị trường và những ảnh hưởng, tác động tới đời
tâm linh của người Hà Nội
Trước những năm đổi mới 1986, đất nước ta vẫn còn trong thời kỳ bao
cấp thông qua chế độ tem phiếu, kinh tế mang tính tự cung tự cấp nên cuộc
sống của người dân lúc bấy giờ cịn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó là chủ trương
xây dựng đời sống văn hóa mới, bài trừ mê tín dị đoan nên nhiều loại hình tín
ngưỡng, tơn giáo chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, thậm chí có hoạt
động tín ngưỡng bị cấm đốn, xử phạt nếu cố tình vi phạm. Vì vậy mà tín
ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu đồng đã vơ tình bị kết tội mê tín dị đoan, bị cả
xã hội lên án và nhìn với con mắt khác. Tuy nhiên, với niềm tin tín ngưỡng của
các tín đồ Đạo Mẫu nên vẫn có những vấn hầu chui được tổ chức.
Sau đổi mới, nước ta tiến hành mở cửa, hội nhập trên tất cả mọi phương
diện, kinh tế đất nước chuyển sang thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trường đã có
những ảnh hưởng ban đầu đến đời sống của người dân. Lúc đó hầu đồng vẫn bị coi
là một hiện tượng mê tín dị đoan và chịu sự cấm đoán. Chỉ sau khi Nhà nước ban
hành chính sách tơn trọng tự do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi tầng lớp nhân dân thì
những năm gần đây tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu đồng mới được Nhà nước
cơng nhận là một tín ngưỡng dân gian của người Việt. Trong quá trình phát triển
của mình, tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu đồng cũng chịu những ảnh hưởng,
tác động của nền kinh tế thị trường.
1.1.1.1. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam



14
Kinh tế thị trường (theo đúng yêu cầu của khái niệm) mới chỉ có tiền đề ở
Việt Nam từ những năm đổi mới. Quá trình thâm nhập, ảnh hưởng để khẳng định
sự chi phối của nó đến đời sống xã hội Việt Nam nói chung, vùng Hà Nội và các
đơ thị nói riêng chỉ có thể dễ dàng nhận thấy sau một thời gian tương đối ổn định.
Cho đến nay, có nhiều quan điểm của các học giả, chuyên gia kinh tế về
kinh tế thị trường. Trong cuốn “Văn hóa ngoại thành Hà Nội” do PGS. TS. Trần
Đức Ngôn chủ biên cùng các giảng viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội có nêu:
“Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao với khả
năng mang lại cơ hội tối đa để con người phát huy tính năng động nhằm thu lợi
nhuận.” [12, tr. 173]
Theo PGS. TS. Lê Ngọc Tịng – Phó vụ trưởng Vụ quản lý khoa học, Học
viện Chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: “Kinh tế thị trường là nền kinh
tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Ở đó, đa số sản phẩm tiêu dùng phải sử
dụng, đều được thực hiện thông qua mua bán và trao đổi.” (Phỏng vấn ngày 20/
03/ 2014)
Ở Việt Nam hiện chưa có định nghĩa, khái niệm cụ thể nào về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ là sự giải thích chung chung: Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh
tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
Nhìn lại lịch sử phát triển kinh tế ở Việt Nam chúng ta dễ dàng nhận thấy
sự vận động, chuyển biến kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
hàng hóa và nền kinh tế thị trường. Việt Nam là một quốc gia trải qua một thời kỳ
dài chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc và các cuộc chiến tranh xâm lược



15
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Việt Nam khơng có điều kiện xây dựng
kinh tế mà ln trong hồn cảnh chiến tranh liên miên. Kháng chiến chống Mỹ
giành thắng lợi, hai miền thống nhất, đất nước ta đứng trước vơ vàn khó khăn,
thách thức, vừa khắc phục hậu quả chiến tranh vừa xây dựng kinh tế với xuất phát
điểm là sản xuất nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu với tính chất tự cung, tự cấp
khơng đủ cung cấp lương thực cho cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh “con trâu đi
trước, cái cày theo sau”, đặc biệt là phương thức “hợp tác hóa, tập thể hóa” đã tạo
nên sự trì trệ lớn. Việc phân phối lao động theo khẩu hiệu “làm theo năng lực
hưởng theo nhu cầu” dẫn đến sự ỷ lại của người lao động mà không quan tâm đến
năng suất lao động. Bên cạnh nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu là các ngành
nghề hoạt động yếu kém, thiếu thốn về cơ sở vật chất, về nền tảng khoa học do đó
khơng tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Tư tưởng chủ quan, say sưa thắng lợi,
nơn nóng muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn dẫn đến
việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, đầu tư cộng với khuyết điểm của mơ hình kế hoạch
hóa tập trung quan liêu, bao cấp làm cho nền kinh tế đất nước rơi vào khủng
hoảng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Nền kinh tế bao cấp ấy chủ yếu là
nhận hàng viện trợ từ nước ngoài và phân phát cho người dân thông qua chế độ
tem phiếu, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, vận hành thông qua hợp tác xã… đã
khiến cho người Việt Nam lúc bấy giờ trở nên thụ động, khơng phát triển được vì
tư tưởng “cha chung khơng ai khóc”, đã có Nhà nước bao cấp cả rồi. Mặt khác
các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường bị phủ nhận, hoạt động trao đổi hàng hóa
lúc bấy giờ bị cho là vi phạm luật Nhà nước xã hội chủ nghĩa, từ cọng rau, con gà
cũng không được mua bán tự do mà phải được phân phối thơng qua hợp tác xã.
Trước tình hình đó, Đảng ta nhận thấy khơng cịn sự lựa chọn nào khác là
phải đổi mới đất nước thì mới có thể phát triển bền vững, cuộc sống của người
dân mới được cải thiện. Năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới đất nước trên



16
mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa... trong đó, cải cách kinh tế là vấn đề
được quan tâm. Tại Đại hội VI (1986) Đảng và Nhà nước ta nhận định: “Đổi mới
toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, đây mới chỉ là thời kỳ đầu của kinh tế thị trường ở
Việt Nam, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn, hoạt động mua bán,
trao đổi hàng hóa vẫn chịu sự quản lý và điều hành của Nhà nước. Lúc này, bên
cạnh doanh nghiệp nhà nước, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần… bắt đầu xuất hiện, hàng hóa nhiều hơn thời kỳ trước đây. Việc trao đổi
hàng hóa bước đầu dựa trên quy luật giá cả, quy luật cung – cầu trên thị trường.
Nhờ đó mà đất nước thốt khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế bước
đầu có sự chuyển biến cơ bản trong phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân
được cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống. Giai đoạn đầu của nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp Nhà nước được tự chủ trong sản xuất và trao đổi, mua –
bán sản phẩm của mình theo nhu cầu của thị trường. Nơng dân được giao đất,
giao ruộng sử dụng lâu dài. Các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể được khuyến
khích phát triển, nền kinh tế mở cửa, mở rộng hợp tác quốc tế. Một số sản phẩm
trước đây chưa là hàng hóa đã trở thành hàng hóa như: sức lao động của con
người, vốn và một số sản phẩm tinh thần khác. Tuy nhiên, do là thời kỳ đầu thực
hiện đổi mới đất nước và triển khai mơ hình kinh tế thị trường nên vẫn gặp phải
những khó khăn, hạn chế cần khắc phục để phù hợp với tình hình thực tiễn của
đất nước lúc bấy giờ.
Chủ trương đổi mới đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiếp tục được đề cập tới và triển khai thực hiện
trong các kỳ Đại hội IX, X, XI của Đảng với nhiều nội dung đổi mới và mục tiêu


17

quan trọng. Với chủ trương đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và hoạt
động kinh doanh, buôn bán có điều kiện phát triển, cạnh tranh lành mạnh, cơng
bằng. Mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa và hợp tác quan hệ quốc tế, biến nền
kinh tế nước ta trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực… Các
ngân hàng thương mại ra đời, Việt Nam có nhiều chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài vào thị trường trong nước. Nhà nước ban hành nhiều bộ luật liên quan đến
hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp, công ty và cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực. Không chỉ cung cấp sản phẩm hàng hóa cho thị
trường nội địa, các doanh nghiệp Việt Nam hướng tới thị trường quốc tế với
nhiều mặt hàng đem lại lợi nhuận cao. Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức kinh
tế trên thế giới và khu vực: ASEAN, WTO… và ký nhiều hiệp định song phương,
đa phương về phát triển kinh tế thị trường với nhiều nước. Nhờ đó, nền kinh tế
nước ta hội nhập nhanh hơn, sâu hơn với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện thúc
đẩy trao đổi hàng hóa giữa các nước, giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam khẳng
định mình, vươn ra thị trường thế giới…
Khơng tránh khỏi quy luật của kinh tế thị trường, Việt Nam cũng rơi vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế, có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng và
cuộc sống của người dân. Thị trường lúc này bị thu hẹp lại do sức cạnh tranh của
nền kinh tế còn kém trong khi các nước khác có nền kinh tế rất vững chắc. Vốn
sử dụng khơng hiệu quả, đầu tư khơng có lãi, nhiều lĩnh vực thất thoát lớn, gây
hậu quả nghiêm trọng, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế chậm lại kèm theo lạm phát, tham
nhũng. Hiện nay, Việt Nam đang cố gắng khắc phục tình trạng ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế, tiếp tục phát triển, ổn định kinh tế đất nước.
Qua sự dịch chuyển kinh tế ở Việt Nam cho thấy vai trò quan trọng của nền
kinh tế thị trường đối với đất nước nói chung và người dân nói riêng. Kinh tế thị
trường đã thực sự phát huy hiệu quả, cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, nhờ đó


18
mà Việt Nam từng bước phát triển, vươn lên trở thành một nước đang phát triển

như hiện nay. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay vẫn còn
chưa thực sự đồng bộ, chất lượng quản lý chưa cao, chưa thực sự khai thác và
phát triển được hết tiềm năng vốn có của thị trường, con người Việt Nam. Trong
q trình chuyển đổi kinh tế đã có những ảnh hưởng, tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội trong đó có sự tác động tới đời sống văn hóa tín ngưỡng, tơn giáo.
Sự biến đổi trong tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu đồng là biểu hiện rõ nét.
1.1.1.2. Những ảnh hưởng, tác động của nền kinh tế thị trường tới đời sống
tâm linh người Hà Nội
Tâm linh là một bộ phận của đời sống văn hóa, tinh thần khơng thể thiếu
với người Việt nhằm giáo dục con cháu, cố kết cộng đồng, gìn giữ bản sắc truyền
thống. Khi nói đến tâm linh là người ta nghĩ tới cái gì đó huyền bí, linh thiêng. Là
niềm tin thiêng liêng của con người vào thế giới vũ trụ, sự giao cảm giữa con
người của thực tại và thế giới thần linh siêu hình trong vũ trụ thông qua những
ước nguyện mà con người gửi gắm vào sức mạnh, quyền uy của các vị thần. Từ
xa xưa, trong các hoạt động văn hóa truyền thống của dân tộc, người Việt Nam
đều có tổ chức hoạt động tâm linh do Trung ương làng xã tổ chức theo những lễ
nghi trang trọng, uy linh với sự tham gia một cách thành kính, tự nguyện của
nhân dân. Thơng qua các hoạt động tâm linh đó, con người ta tự tu tâm, tích đức
để trở nên tốt đẹp hơn, đồn kết và hướng thiện hơn; bớt đi cái ác, cái xấu trong
lòng. Đồng thời giáo dục các thế hệ con cháu cố kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc
truyền thống. Vì lẽ đó mà hoạt động tâm linh trở thành một nhu cầu văn hóa lành
mạnh, đầy tính nhân văn của con người Việt Nam. Như PGS. TS Nguyễn Đăng
Điệp – Viện trưởng Viện Văn học nhận định trong cuôc Hội thảo Khoa học với
chủ đề Văn học và Văn hóa tâm linh:


19
“Thế giới tâm linh là một thế giới có nhiều bí ẩn mà khoa học đến nay
chưa thể giải thích hết được. Nhưng về cơ bản, có thể khẳng định, đó là thế giới
gắn liền với niềm tin và những giá trị cao cả, thiêng liêng. Hướng đến tâm linh,

con người kỳ vọng hướng tới những giá trị chân – thiện – mỹ.” [31]
Trong cuốn Văn hóa ngoại thành Hà Nội do Trần Đức Ngôn chủ biên cùng
giảng viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội đề cập:
“Cũng xuất phát từ lý do kinh tế, cơ chế thị trường với tính cạnh tranh
khốc liệt đã đẩy nhanh tình trạng phân hóa giàu nghèo ở nơng thơn cũng như
thành thị một cách sâu sắc. Tại Hà Nội, sự phân hóa giàu - nghèo giữa những
người có thu nhập cao với người khó khăn do khơng có việc làm hoặc việc làm
thu nhập thấp khá rõ, mức chênh lệch khoảng 8 – 10 lần, thậm chí đến vài chục
lần. Điều này đã tác động khơng nhỏ đến sinh hoạt tơn giáo tín ngưỡng, lối sống
của cư dân nội - ngoại thành.” [12, tr. 174] Sự phát triển của kinh tế thị trường
cũng có những tác động trực tiếp đến đời sống tâm linh của người Hà Nội ở cả
hai phương diện tích cực và tiêu cực.
Về phương diện tích cực: kinh tế thị trường tạo điều kiện cho hàng hóa lưu
thơng, khơng cịn bị ngăn sơng cấm chợ, hoạt động mua – bán, trao đổi hàng hóa
trở nên sơi động, thị trường được mở rộng. Từ đó góp phần tăng thu nhập cho
người dân, con người từ chỗ lo kiếm sống đã có của ăn, của để. Vì vậy, gánh nặng
cuộc sống giảm đi, họ khơng cịn phải q bận tâm đến vấn đề mưu sinh. Lúc
này, con người có điều kiện để quan tâm nhiều hơn đến đời sống tinh thần, đời
sống tâm linh. Không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của người Việt từ xưa
cho đến nay, đời sống tâm linh trở thành một bộ phận quan trọng đối với mỗi
người, hướng con người về cội nguồn dân tộc. Kinh tế thị trường phát triển góp
phần làm cho đời sống tâm linh của người Hà Nội sôi động, phong phú hơn; lễ
vật dâng cúng của con người cũng đa dạng hơn.


20
Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường khiến cho sự phân hóa giàu –
nghèo ngày một gia tăng, giữa nông thôn với đô thị, giữa nội – ngoại thành Hà
Nội. Điều này cũng có ảnh hưởng đến thực hành và ứng xử tâm linh của người
dân. Nếu như ở nông thôn vùng ngoại thành Hà Nội, thu nhập thấp hơn thành thị,

đời sống vẫn cịn khó khăn hơn nên hoạt động tâm linh của họ cũng thuần phác,
việc thực hành các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo cũng đơn giản hơn. Họ đi lễ
vào các ngày rằm, mồng một hay các tiết trong năm. Đồ lễ dâng lên đơn giản chỉ
là hoa quả, hộp bánh của nhà hoặc mua ngồi chợ hay cũng có thể là đĩa xơi, khẩu
thịt... cùng thẻ hương, lá trầu, tiền giọt dầu với lịng “thành tâm” của mình.
Cịn ở nội thành Hà Nội, đời sống tâm linh trở nên sôi động hơn, phong
phú hơn một phần do dân số đơng nhưng phần cịn lại cũng vì có điều kiện kinh tế
hơn. Thêm vào đó, cuộc sống hiện đại, sự len lỏi của nền kinh tế thị trường vào
mọi ngóc ngách dẫn đến con người phải đối mặt với nhiều mối đe dọa: bệnh tật,
đói nghèo, tai nạn giao thơng, tệ nạn xã hội... khiến cho con người lại càng muốn
đi tìm một giá đỡ tinh thần, sự che chở của thần linh. Trung tâm Hà Nội là nơi tập
trung đông dân số, điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, hoạt động kinh
doanh dễ dàng hơn các vùng ngoại thành nhưng nơi đây cũng xảy ra biết bao tệ
nạn xã hội, con người luôn cảm thấy bất an trước hiện thực cuộc sống. Bất cứ thời
đại nào cũng vậy, khi niềm tin thế tục suy giảm thì niềm tin thần linh sẽ trỗi dậy.
Vì thế mới có cảnh đầu năm ở các chùa đông nghịt người đi lễ bái cầu bình an và
dâng sao giải hạn. Như chùa Phúc Khánh, năm nào làm lễ giải hạn cũng đông đúc
khiến cho giao thơng bị tắc nghẽn, người ta ngồi kín cả trên cầu vượt, ngã tư sở
rồi “khấn” vọng từ xa. Ngoài ra người dân khu vực nội thành Hà Nội đi lễ vào bất
cứ lúc nào họ muốn chứ không cố định cứ phải ngày nào, đồ lễ cũng cầu kỳ hơn
với mâm lễ to, sang trọng. Đến phủ Tây Hồ vào bất cứ ngày nào trong tuần chúng
ta đều thấy lượng người đi cúng rất đơng từ ngồi cổng đến các điện thờ. Hơn
nữa, ở Hà Nội số lượng người kinh doanh, làm ăn buôn bán khá đông nên họ


21
thường đến các cơ sở tín ngưỡng tơn giáo làm lễ với mục đích để xin “lộc” bn
bán, làm ăn. Bên cạnh đó là bộ phận cơng chức Nhà nước, cơ quan, doanh nghiệp
đi lễ để cầu công danh sự nghiệp được thăng tiến...
Xã hội càng phát triển, đời sống vật chất được nâng cao, đời sống tinh thần

phong phú thì đời sống tâm linh cũng nở rộ. Trước đây, hoạt động tâm linh đối
với người dân Hà Nội là một nét đẹp trong văn hóa, ứng xử tâm linh của con
người với đấng thần linh được đặc biệt coi trọng. Việc giáo dục con cháu trong
nhà trong cách ứng xử tâm linh cũng được quan tâm. Người ta đến với cái tâm
trong sáng, hướng thiện chứ khơng vì mục đích vụ lợi. Hiện nay, do cuộc sống
thúc bách, con người trở lên sùng tín hơn, tạo điều kiện cho mê tín dị đoan hoạt
động, gây hoang mang trong đời sống một bộ phận dân cư. Một ngày, người ta có
thể đi nhiều đền, chùa để xin lộc, thậm chí có nhiều trường hợp “chỉ ăn rồi đi lễ”.
Chính sự sôi động trong đời sống tâm linh của người Hà Nội đã góp phần
làm cho các dịch vụ ăn theo phát triển. Một trong những hạn chế mà nó mang lại
là hiện tượng chặt chém du khách tại các nơi thờ tự, dịch vụ khấn thuê, nạn trộm
cắp, móc túi... Hiện tượng đốt vàng mã gây lãng phí và ơ nhiễm môi trường trở
thành vấn đề nhức nhối tại các cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo. Chính do mặt trái của
cơ chế thị trường đã dẫn đến nhận thức sai lệch về văn hóa tâm linh và các hoạt
động tâm linh.
1.1.2. Biến đổi văn hóa
Biến đổi là một tất yếu mang tính quy luật của cuộc sống. Đó là sự thay đổi
giữa tình trạng hiện tại của một sự vật, hiện tượng nào đó so với tình trạng trong
q khứ; kết quả của sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng, con người và xã
hội.
Biến đổi là một thuộc tính, đồng thời cũng là phương thức tồn tại của mọi
sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan. Tuy nhiên, sự biến đổi của các sự


22
vật, hiện tượng không hề giống nhau và ngay trong bản thân một sự vật, hiện
tượng thì sự biến đổi cũng khác nhau ở mỗi không gian và thời gian cụ thể.
Biến đổi văn hóa được đề cập đến trong các khoa học xã hội như một chủ
đề trọng tâm của thế kỷ XX và XXI. Các lý thuyết về biến đổi văn hóa được hình
thành chủ yếu dựa trên các lý thuyết về biến đổi xã hội được các học giả phương

Tây xây dựng trong ngành nhân học và xã hội học. Ở đó, biến đổi xã hội là một
q trình qua đó các khn mẫu của các hành vi xã hội, quan hệ xã hội, thiết chế
xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian. Với quan
điểm này, văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, cũng tự không ngừng biến
đổi. Sự ổn định chỉ là sự bề ngồi, cịn thực tế nó khơng ngừng thay đổi bản thân
nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ
truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi; sự biến đổi trong xã hội hiện đại
ngày càng rõ hơn, nhanh hơn. Mọi cái đều biến đổi và xã hội cũng giống như các
hiện thực khách quan khác, không ngừng vận động và thay đổi, với một thực
trạng đứng yên trong sự vận động liên tục. Trên nền tảng lý thuyết mang tính khái
qt hóa cao cùng với các nghiên cứu về từng hiện tượng văn hóa cụ thể đã có
những triển khai xây dựng các khung lý thuyết làm cơ sở cho nghiên cứu thực
địa.
Trên cơ sở đó, ta có thể hiểu biến đổi văn hóa là q trình qua đó những hệ
thống các giá trị, chân lý, chuẩn mực và mục tiêu mà con người cùng thống nhất
với nhau thay đổi theo thời gian.
Biến đổi văn hóa cũng có thể hiểu theo nghĩa để chỉ sự thay đổi so sánh với
một tình trạng văn hóa hoặc một nền văn hóa có trước dưới tác động của những
nhân tố chính trị - kinh tế - xã hội.
Biến đổi là một quy luật tất yếu của xã hội để phù hợp với tình hình thực
tiễn nhất định. Văn hóa do con người sáng tạo ra và đáp ứng nhu cầu của con
người trong cuộc sống hàng ngày. Chính vì vậy, khi có sự biến đổi, xã hội phát


23
triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng cao thì bản thân nền văn hóa ấy cũng
sẽ biến đổi. Trong quá trình phát triển cùng với những tác động của kinh tế, chính
trị, con người đã sáng tạo, cải biên và đưa thêm nhiều giá trị văn hóa mới, yếu tố
mới thay thế hoặc lồng ghép với cái cũ khơng cịn phù hợp với thực tiễn xã hội.
Dưới tác động của kinh tế thị trường, nghi lễ hầu đồng hiện nay có rất

nhiều biến đổi so với trước đây trên phương diện thực hành với các biểu hiện cụ
thể như: cách thức thực hành, đối tượng thực hành, đồ lễ, đồ mã...
1.2. TỔNG QUAN VỀ NGHI LỄ HẦU ĐỒNG TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ
MẪU

Bắt nguồn từ tục thờ nữ thần của người Việt cùng với sự tiếp thu của Đạo
giáo Trung Hoa, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Mẫu Tứ phủ được hình thành và
trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, nó đã ăn sâu vào tiềm thức và giữ một
vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Đặc biệt, hầu đồng - một
nghi lễ độc đáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu tích hợp rất nhiều giá trị văn hóa, tâm
linh và nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau đã thu hút sự quan tâm, chú ý của
nhiều người. Hầu đồng trở thành một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa tâm linh của
người Việt.
1.2.1. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Xuất phát từ quan niệm “vạn vật hữu linh” (mọi vật đều có linh hồn), vì
thế con người ngay từ thời nguyên thủy đã biết tơn sùng cây đa, cây gạo, hịn đá,
bếp lửa… những vật vô tri vô giác trở thành “vật thiêng” phù hộ và đem lại điều
may mắn cho cuộc sống của con người. Dần dần, theo thời gian cùng với sự phát
triển của q trình nhận thức, con người bằng trí tưởng tượng đã sáng tạo ra
những vị thần cho riêng mình như những nhiên thần (Sơn Tinh, Thủy Tinh…),
thiên thần (Chử Đồng Tử, Thánh Gióng ...) và đặc biệt là sự tôn sùng những
người thật (nhân thần) là những nhân vật lịch sử có đóng góp lớn cho cộng đồng,


24
được cộng đồng tôn vinh, thờ phụng. Trong hệ thống thần linh của người Việt,
người phụ nữ cũng đặc biệt được đề cao và coi trọng.
Với đặc trưng nền kinh tế nông nghiệp lúa nước cùng với chế độ Mẫu hệ,
Mẫu quyền đã từng tồn tại ở nước ta trong một thời gian dài, vai trò của người
phụ nữ chiếm vị trí khá lớn trên mọi phương diện khơng chỉ từ sự nghiệp sáng tạo

vũ trụ đến sự nghiệp giữ nước hay trong đời sống sản xuất và trong gia đình,
người phụ nữ được đề cao với vai trị là “tay hịm chìa khóa”, có trách nhiệm
ni dạy con cái: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, có ảnh hưởng lớn tới tương lai
của con cháu bởi “Phúc đức tại Mẫu”.
Với vị trí, vai trị như vậy, người phụ nữ Việt Nam đã được dân gian tôn
vinh là Nữ thần và được thờ phụng trên mọi miền đất nước. Việc tôn thờ Nữ thần
là một hiện tượng phổ biến trong tín ngưỡng dân gian của người Việt và các tộc
người trên lãnh thổ Việt Nam. Truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm con” luôn
được người dân Việt Nam tin và tự hào từ thủa sơ khai cho đến ngày nay. Hàng
ngàn năm văn hiến, chúng ta vẫn luôn tôn thờ mẹ Âu Cơ – bà mẹ xứ sở sớm nhất
của người Việt. Qua hệ thống các chùa chiền, đền đài, miếu, phủ… chúng ta dễ
dàng bắt gặp hình ảnh các nữ thần mặt trăng, mặt trời, mẹ Lúa, bà Chúa Xứ, bà
Đen, Tứ Pháp… Theo thời gian cùng những ảnh hưởng to lớn, Nữ thần được tôn
vinh thành Mẫu thần (Thánh Mẫu) với niềm thành kính. Từ đó, người Việt “trang
bị” thêm vào đời sống tâm linh một tín ngưỡng tiêu biểu và độc đáo: tín ngưỡng
thờ Mẫu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu được hoàn thiện vào thế kỷ XVI dưới ảnh hưởng của
hoàn cảnh lịch sử, xã hội và đặc biệt là sự ra đời của Thánh Mẫu Liễu Hạnh – về
sau được tôn vinh và trở thành thần chủ của đạo Mẫu Việt Nam.
Về cội nguồn và bản chất thì việc thờ Nữ thần và Mẫu thần đều thuộc tín
ngưỡng thờ thần của người Việt Nam. Từ việc thờ Nữ thần, Mẫu thần đến Mẫu


25
Tam phủ, Tứ phủ là một bước ngoặt phát triển về nhiều mặt. Nó khơng chỉ ảnh
hưởng bởi nhân tố nội sinh mà còn ảnh hưởng bởi yếu tố ngoại sinh, trước hết
phải kể tới ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa. Với sự ảnh hưởng ấy, tín ngưỡng
thờ Mẫu đã tiếp thu ảnh hưởng về quan niệm vũ trụ. Cho rằng vũ trụ được chia
thành nhiều vùng, miền khác nhau, tương ứng với mỗi vùng miền sẽ có những vị
thần cai quản. Từ đó hình thành hệ thống Tam phủ gồm: Mẫu Thượng Thiên (cai

quản vùng trời), Mẫu Thoải (cai quản vùng sông nước), Mẫu Địa (cai quản vùng
đất đai). Sau này có thêm Mẫu Thượng Ngàn (cai quản vùng rừng núi), gọi là Tứ
phủ. Tiếp thu ảnh hưởng bởi các quan niệm về tự nhiên, đồng nhất con người với
tự nhiên, về quan niệm Tam phủ, Tứ phủ, một số vị Thánh của Đạo giáo thâm
nhập vào điện thờ Tứ phủ: Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc
Đẩu. Đó cịn là các truyện thần tiên huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy
để trừ tà ma. Cùng với đó là hệ thống các vị Thánh được phân chia thành các phủ,
các hàng bậc từ trên xuống dưới: hàng Chúa, hàng Quan Lớn, hàng Chầu, hàng
ông Hồng, hàng Cơ, hàng Cậu... nhưng đều quy về thần chủ cao nhất là Thánh
Mẫu Liễu Hạnh. Sự kết hợp khéo léo, đa dạng các thần linh trong trí tưởng tượng
của con người hoặc gắn kết những anh hùng dân tộc có cơng dựng nước, chống
giặc ngoại xâm đã góp phần tạo nên một tín ngưỡng đặc sắc này. Chính những
ảnh hưởng này, một mặt giúp đạo Mẫu “lên khuôn”, hệ thống hóa và bước đầu
mang tính phổ qt ngun lý Mẫu, Mẹ; mặt khác cũng làm tăng thêm tính ma
thuật, phù thủy vốn trong dân gian đã từng tiềm ẩn. Trên cơ sở tín ngưỡng Mẫu
thần dân gian, với những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc đã hình thành và
định hình đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ hay còn gọi là “Đạo Mẫu”. Mẫu Liễu Hạnh
được cho là một trong “Tứ bất tử” được tôn thờ là Thánh Mẫu linh thiêng và
đứng vào hàng cao nhất, được xem là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên.
Đến thế kỷ XVI, trên cơ sở tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ cùng với sự ra đời
của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một tín ngưỡng bản địa sơ khai được hồn thiện – đó


×