Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Khai thác giá trị độc đáo của làng nghề tò he xuân la để phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 111 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI
KHOA VĂN HOÁ DU LỊCH
**** 

 ****

Đề tài:

KHAI THÁC GIÁ TRỊ ĐỘC ĐÁO CỦA
LÀNG NGHỀ TÒ HE XUÂN LA ĐỂ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS Đinh Thị Vân Chi
Sinh viên thực hiện :
Nguyễn Thanh Hương
Lớp
: VHDL15C
Niên khóa
: 2007 - 2011

Hà Nội, tháng 5 năm 2011

Nguyễn Thanh Hương

1

Lớp: VHDL 15C



Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CẢM ƠN
Cuốn khố luận tốt nghiệp này đã được hồn thành nhờ nhiều yếu tố,
trong đó có sự nỗ lực, cố gắng của bản thân trong q trình nghiên cứu, tìm
hiểu, sự giúp đỡ của cơ giáo hướng dẫn, sự cổ vũ động viên của gia đình và
bạn bè, sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, ban ngành có liên quan. Tơi
xin chân thành cám ơn những tình cảm q báu đó. Và đặc biệt gửi lời cám
ơn sâu sắc nhất tới cô giáo, Phó hiệu trưởng nhà trường, PGS.TS Đinh Thị
Vân Chi người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành bài khoá luận
này. Xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên
Nguyễn Thanh Hương

Nguyễn Thanh Hương

2

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................... 5
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 7
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8

6. Bố cục .................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 9
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LÀNG NGHỀ .................................................. 9
VÀ NGHỀ LÀM TÒ HE XUÂN LA ........................................................... 9
1.1. Tổng quan về làng nghề Tò he Xuân La .............................................. 9
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. ..........................................9
1.1.2. Lịch sử hình thành làng nghề ..................................................9
1.1.3. Dân cư.................................................................................. 11
1.1.4. Kinh tế ................................................................................. 12
1.1.5. Đời sống văn hoá xã hội ....................................................... 12
1.1.6. Lịch sử nghề nặn Tò he ........................................................ 14
1.2. Nghề nặn Tò he làng Xuân La. .......................................................... 19
1.2.1. Nguyên liệu và cách sơ chế................................................... 19
1.2.2. Dụng cụ thực hiện ................................................................ 22
1.2.3. Người thực hiện.................................................................... 24
1.2.4. Kỹ thuật ............................................................................... 26
1.2.5. Các loại sản phẩm Tò he....................................................... 27
CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 30
LÀNG NGHỀ TÒ HE XUÂN LA.............................................................. 30
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH............................................................. 30
2.1. Làng nghề Tò he Xuân La - những giá trị đậm nét............................. 30
2.1.1. Giá trị cảnh quan. ................................................................. 30
2.1.2. Giá trị văn hoá. ..................................................................... 32

Nguyễn Thanh Hương

3

Lớp: VHDL 15C



Khóa luận tốt nghiệp

2.1.3. Giá trị mỹ thuật và nghệ thuật............................................... 35
2.1.4. Giá trị huyền thoại dân gian.................................................. 37
2.1.5. Giá trị cá biệt độc đáo........................................................... 39
2.1.6. Giá trị kinh tế ....................................................................... 43
2.2. Thực trạng phát triển du lịch tại làng nghề phục vụ du khách ............ 44
2.2.1. Hiện trạng nghề nặn Tò he tại Xuân La................................. 44
2.2.2. Hiện trạng khai thác du lịch tại làng nghề ............................. 50
CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 65
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP .............................. 65
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH................................. 65
TẠI LÀNG NGHỀ TÒ HE XUÂN LA...................................................... 65
3.1. Đánh giá tổng thể về hoạt động du lịch tại làng nghề......................... 65
3.1.1. Ưu điểm ............................................................................... 65
3.1.2. Những vấn đề tồn tại và nguyên nhân ................................... 68
3.2. Các giải pháp nhằm khai thác hiệu quả làng nghề Tò he Xuân La trong
hoạt động kinh doanh du lịch.................................................................... 70
3.2.1. Giải pháp của ngành văn hoá ................................................ 70
3.2.2. Giải pháp của ngành du lịch.................................................. 73
3.2.3. Giải pháp cụ thể đối với cơ sở sản xuất – Làng nghề tò he
Xuân La ......................................................................................... 80
KẾT LUẬN................................................................................................. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 89
PHẦN PHỤ LỤC........................................................................................ 91

Nguyễn Thanh Hương

4


Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay hàng thủ cơng truyền thống có giá trị rất lớn trong đời
sống vật chất cũng như tinh thần con người Việt Nam. Chính vì vậy trong bài
phát biểu của cựu Bộ trưởng Trần Hoàn tại hội nghị “Làng nghề truyền thống
Việt Nam” có nói: “Làng nghề thủ công Việt Nam là linh hồn là tinh hoa của
văn hoá dân tộc”. Quả đúng như vậy, nghề thủ cơng Việt Nam có truyền
thống q báu từ lâu đời. Truyền thống ấy được gắn liền với những làng
nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công truyền
thống với những nét độc đáo tinh xảo và hồn mỹ. Các sản phẩm của nghề thủ
cơng truyền thống đều có một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống văn hoá
vật chất của mỗi người dân bởi vì nó xuất phát từ nhu cầu của người dân. Là
sự kết hợp giữa sự sáng tạo với tài năng và lao động của nghệ nhân. Sự đa
dạng về sản phẩm thủ cơng truyền thống đã góp phần tạo lên sự khởi sắc, đa
dạng cho ngành nghề thủ công Việt Nam, đưa các làng nghề truyền thống trở
thành một nhân tố quan trọng trong bảng mầu văn hoá của dân tộc.
Chính bởi những giá trị lớn nên sản phẩm thủ cơng truyền thống có một
vị thế rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh du lịch. Đây là một trong
những sản phẩm có sức hấp dẫn lớn đối với du khách, vừa mang lại lợi ích
kinh tế vừa là cơng cụ để giới thiệu văn hoá, con người Việt Nam đến với bạn
bè trên thế giới.
Trên đất nước ta suốt từ Bắc tới Nam có biết bao làng nghề truyền
thống. Tên của những làng nghề gắn liền với những nét độc đáo riêng của sản
phẩm. Nhiều làng nghề đã nổi tiếng trong lịch sử vì tài khéo léo, vì những

sản phẩm có bản sắc riêng, kèm theo đó là cảnh quan, phong tục tập quán, lễ
hội cũng rất đặc sắc của làng nghề. Thực tế đó đã từ lâu trở thành một bộ

Nguyễn Thanh Hương

5

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

phận khơng thể thiếu được của văn hoá dân gian làm phong phú thêm truyền
thống văn hoá của dân tộc.
Trong hành trình du lịch văn hố đi tìm các giá trị văn hố tinh thần của
vùng đất cổ phía Đơng của thủ đơ Hà Nội du khách sẽ bắt gặp một làng nghề
mà từ lâu danh tiếng đã lưu truyền trong sử sách và trong đồng dao Việt Nam
đó chính là làng nghề tị he Xn La:
“Tị he cụ bán mấy đồng
Con mua một chiếc cho chồng con chơi
Chồng con đánh hỏng thì thơi
Con mua chiếc khác con chơi một mình”
Tị he là sản phẩm trị chơi dân gian độc đáo, nó vừa mang bản sắc, vừa
mang tính khoa học. Tị he có tầm quan trọng trong cuộc sống học tập vui
chơi rèn luyện tính thẩm mỹ giải trí của trẻ em. Những người tạo ra nó mặc
dù chưa đủ mức nâng sản phẩm của mình lên hàng mỹ nghệ “vì sản phẩm
khơng để được lâu” nhưng các sản phẩm này đã để lại cho người xem những
tình cảm thấm đượm. Ngơn ngữ khối trong các sản phẩm tị he giàu tính biểu
cảm, tính nhịp điệu, mang nét gợi nhớ. Tị he thực sự là món ăn tinh thần rất
gần gũi với người dân Việt Nam. Chính vì vậy có thể khẳng định tị he đáp

ứng được nhu cầu của du khách khi họ muốn lưu giữ một sản phẩm nào đó
khi đến Hà Nội – khi đến Việt Nam. Nhưng thực tế, hầu hết các doanh nghiệp
du lịch thường chưa chú ý đến làng nghề này. Bên cạnh đó dưới các tác động
của yếu tố kinh tế và nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng dẫn tới làng nghề
tị he có xu hướng mai một. Chính vì vậy, để lưu giữ bảo tồn và phát triển
làng nghề thủ cơng truyền thống Tị he Xn La, đưa sản phẩm làng nghề trở
thành đối tượng tiêu dùng của khách du lịch là một việc làm cần thiết. Với lý
do đó, là một sinh viên năm cuối khoa Văn hoá du lịch trường Đại học Văn
hoá Hà Nội nên tôi chọn đề tài “Khai thác giá trị độc đáo của làng nghề Tò
he Xuân La để phát triển du lịch” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của

Nguyễn Thanh Hương

6

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

mình. Do hạn chế về kiến thức và trình độ lý luận nên bài viết khơng tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của
các thầy cơ giáo, các nhà nghiên cứu và các bạn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là làng nghề nặn Tò he Xuân La, đặc điểm tính
chất giá trị của làng nghề và những giá trị của nó trong đời sống văn hoá kinh
tế, đặc biệt là kinh tế du lịch đối với sự phát triển của làng.
Phạm vi nghiên cứu trong bài khoá luận này tập trung chủ yếu vào làng
Xuân La xã Phượng Dực huyện Phú Xuyên Hà Nội (có mở rộng nghiên cứu
trên phạm vi xã Phượng Dực và một số nơi tiêu thụ tò he trên cả nước, chủ

yếu là thủ đơ Hà Nội).
3. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua bài khố luận này thì mục đích nghiên cứu tập trung vào:
Trước hết, nghiên cứu để tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội,
truyền thống lịch sử văn hoá và phong tục tập quán của người dân làng Xuân
La từ đó thấy được những giá trị văn hoá độc đáo, những nét tiêu biểu đặc sắc
của làng nghề mà sản phẩm tò he mang lại đối với người dân địa phương nói
riêng và người dân Việt Nam nói chung. Thơng qua đó thấy được giá trị to
lớn của nó trong việc phát triển du lịch.
Nghiên cứu thực trạng nghề nặn tò he và sự phát triển du lịch trên cơ sở
đó đề ra những giải pháp nhằm duy trì và phát triển nghề nặn tị he và đưa nó
phát triển trong hoạt động du lịch.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Viết về các làng nghề thủ cơng truyền thống và các hình thức trị chơi
dân gian hiện nay đã có rất nhiều sách, báo, tạp chí và những bài nghiên cứu
khoa học. Bên cạnh đó cịn có một số học giả nổi tiếng như Tác giả Bùi Văn
Vượng “Văn hố Việt Nam tìm tịi và suy nghĩ”…và còn rất nhiều học giả

Nguyễn Thanh Hương

7

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

khác trong đó có đề cập rất nhiều đến làng nghề thủ công truyền thống Việt
Nam như: gốm Bát Tràng, dệt lụa Hà Đơng,…Trong khi đó làng nghề Tò he
Xuân La mới chỉ được nhắc đến trên báo, tạp chí, với tính chất giới thiệu và đề

cập tới một số khía cạnh nhất định của làng nghề. Tuy nhiên chưa có tác giả
nào đề cập cụ thể đến làng nghề Tò he Xuân La như một số làng nghề kể trên
và việc đưa du lịch vào làng nghề là hồn tồn khơng có. Do đó việc nghiên
cứu một cách khoa học, đầy đủ vấn đề này là một đề tài mới mẻ hấp dẫn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện bài khố luận này tơi đã thực hiện những phương pháp sau:
- Phương pháp tổng hợp tài liệu:
Tìm và thu thập những bài báo, tạp chí, phóng sự có nội dung liên quan
đến đề tài làng nghề Tò he và tham khảo một số bài viết, các đề tài nghiên
cứu về nghề và làng nghề thủ công truyền thống của một số học giả để phục
vụ cho bài viết của mình.
- Phương pháp khảo sát thực địa
Khảo sát thực tế nghề nặn Tò he Xuân La một số mặt: lịch sử, kinh tế,
văn hoá,…
- Phương pháp phỏng vấn: tiến hành gặp gỡ một số nghệ nhân, người
dân làm nghề. Tìm hiểu một cách đầy đủ, đánh giá một cách khoa học về thực
trạng, tiềm năng, và giá trị đích thực của Tị he để từ đó đề ra giải pháp gìn
giữ một làng nghề trong hoạt động kinh doanh du lịch.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Giới thiệu chung về làng nghề và nghề làm Tò he Xuân La
Chương 2: Làng nghề Tò he Xuân La với sự phát triển du lịch
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh du lịch tại làng nghề Tò he Xuân La

Nguyễn Thanh Hương

8

Lớp: VHDL 15C



Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LÀNG NGHỀ
VÀ NGHỀ LÀM TÒ HE XUÂN LA
1.1. Tổng quan về làng nghề Tị he Xn La
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.
Xã Phượng Dực thuộc huyện Phú Xuyên, Hà Nội nằm cách trung tâm Hà
Nội 30km về phía Tây theo đường giao thông quốc lộ 1A (Hà Nội - Sài Gịn).
Xã có tổng diện tích là 65.376 ha, dân số tính đến năm 2010 là 10.126
người, chia làm ba khu dân cư gồm: Thôn Phượng Vũ, thôn Đồng Tiến và
thôn Xuân La.
Trong ba thôn của xã Phượng Dực thì Xn La là thơn lớn hơn cả nổi
bật với hệ thống ngành nghề truyền thống đa dạng như: cào bông, chạm đục,
điêu khắc gỗ, may màn và đặc biệt là nghề nặn Tò he rất độc đáo mà hiện nay
cịn duy nhất ở Xn La là hình thành một làng nghề.
Xuân La, một thôn nhỏ thuộc khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng cái nôi của nền văn minh lúa nước, cội nguồn của những tinh hoa văn hố dân
tộc mà cha ơng đã lưu truyền cịn lại cho đến ngày nay. Vị trí đó đã tạo cho
vùng đất này có được sự thuận lợi về điều kiện khí hậu mang nét đặc trưng
của khí hậu nhiệt đới, chia làm bốn mùa rõ rệt, tạo nên cơ cấu mùa vụ đa
dạng. Do vậy sản phẩm nông nghiệp hết sức phong phú khơng chỉ cung cấp
cho chính cuộc sống người dân nơi đây mà còn cung cấp cho cả thị trường
bên ngồi. Đời sống của nhân dân vì thế cũng được nâng cao lên rất nhiều.
1.1.2. Lịch sử hình thành làng nghề
Thôn Xuân La xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội xưa kia có
tên gọi là làng Chạ Xuân. Huyện Phú Xuyên có 4 xã là: Phượng Dực, Hồng
Minh, Chí Trung và Phú Túc nhưng xã Phượng Dực nổi tiếng là vùng đất văn
Nguyễn Thanh Hương


9

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

hiến. Trước đây ít ra là từ đời nhà Lê cách đây trên 250 năm, Phượng Dực vẫn
thuộc Thường Tín cho mãi đến năm 1953 mới cắt về huyện Phú Xuyên. Đây
là miền đồng bằng chiêm trũng, dân Phượng Dực xưa chỉ làm ruộng một vụ vụ chiêm. Lúc đầu làng có tên là làng Chạ (Kẻ Chạ) rồi vì lý do định cư vào
giữa mùa xuân nên đổi thành Chạ Xuân và sau khi khai khẩn làm ăn ở vùng
đồng ruộng bao la nên làng Xuân La ra đời.
Cũng theo truyền thuyết xưa thì làng ngự trên một gị đất cao hình
“Linh Quy nằm phục”. Theo ý kiến của cụ Đặng Đình Hiếu nguyên cán bộ
ngành văn hố tỉnh Hà Tây là người đã có nhiều thời gian tìm hiểu và nghiên
cứu lịch sử làng Xuân La cho biết: “Linh Quy nằm phục” là một trong bốn địa
danh tứ linh của huyện Phú Xuyên.
Trên địa bàn làng có ba ao lớn: ao Cả, ao Trung, ao Giao. Tương tryền là
nơi trú ngụ của thuỷ quân, cụ Lĩnh Đồn. Ở đó đã từng chứa những chiếc thuyền
rồng lớn có thể bay lướt qua những mặt đường có chiều rộng hơn một mét.
Xưa kia làng có ba chiếc giếng nằm ở đầu làng, giữa làng và cuối làng.
Xưa giếng làng là nơi cung cấp nguồn nước sinh hoạt rất quan trọng. Tương
truyền khi động thổ đào giếng các cụ bô lão phải tiến hành làm lễ xin âm
dương, đào ba nhát mai đặt bát úp xuống chỗ đó để xem mầu nước, chất nước
rồi mới cho khơi.
Nhưng hiện nay cả ba chiếc giếng này cùng với ba chiếc ao làng đều bị
lấp cả. Người dân chuyển sang sử dụng nước giếng khoan để sinh hoạt.
Vào những năm đầu của thập kỷ 80 chính nơi đây nhân dân lao động
trong làng đã phát hiện cùng với sự giúp đỡ của Viện khảo cổ học đã tiến

hành khai quật 7 ngôi mộ thuyền cổ và một số cổ vật khác cịn ngun vẹn
trong đó có một chiếc trống đồng Hêgơ loại 1. Các ngơi mộ và cổ vật đó đã
được Viện khảo cổ học Việt Nam xác định là có niên đại trên 2000 năm văn
hiến khai sinh lập địa trên mảnh đất này.

Nguyễn Thanh Hương

10

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

Quả thực, Xuân La là mảnh đất có lịch sử hình thành và phát triển khá
lâu đời trải qua bao thăng trầm, biến động của không gian và thời gian, con
người nơi đây vẫn kiên cường bám trụ giữ đất, giữ làng, giữ những truyền
thống, những tinh hoa của dân tộc để hoà nhịp với hơi thở của thời đại, bước
những bước tiến vững mạnh hơn.
1.1.3. Dân cư
So với hai thơn Phượng Vũ và Đồng Tiến thì thơng Xn La có diện
tích cũng như dân số đơng hơn cả. Trên 3800 người với hơn 1000 nóc nhà.
Nơi đây khơng có đồng bào dân tộc sinh sống, cơ bản lại đồng nhất về tôn
giáo nhờ vậy mà việc đưa ra những chính sách quản lý cũng dễ dàng hơn. Độ
tuổi dân số ở mức trung bình. Độ tuổi cao nhất từ 95 - 97 tuổi. Dân cư sống
tập trung thành từng cụm lớn nên có sự gắn kết rất chặt chẽ với nhau đã thể
hiện được tình đồn kết chung sức chung lòng, xây dựng quê hương của
người dân nơi đây.
Xuân La cũng là nơi sinh sống của nhiều dòng họ như: Đặng, Vũ, Lê,
Chu, Nguyễn, Đào, Phạm, Vương và họ Kiều. Trong số đó có hai dịng họ

được coi là lớn và lâu đời nhất là họ Đặng và họ Nguyễn và cả hai dòng họ
này đều có nhà thờ tổ lâu đời nhất trong thơn. Thơng qua hình thức này họ
muốn giáo dục con cháu của mình ln nhớ đến cơng ơn của tổ tiên ơng bà
mà phấn đấu học tập lao động.
Hiện nay được sự quan tâm của Nhà nước, chính quyền nhân dân địa
phương, đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân, ngày càng được
nâng cao, đường làng ngõ xóm xây dựng ngày càng khang trang hơn trước,
các chính sách về y tế chăm lo đời sống sức khoẻ, giáo dục, phúc lợi xã hội
thiết thực và kịp thời nên người dân nơi đây hết sức phấn khởi để xây dựng và
phát triển quê hương mình ngày một giàu đẹp hơn.

Nguyễn Thanh Hương

11

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

1.1.4. Kinh tế
Xuân La cũng như bao làng quê khác của Việt Nam, một làng quê đi lên
từ nền văn minh lúa nước sơng Hồng có lịch sử từ hàng ngàn năm trước do vậy
nó mang trong lòng những đặc trưng của nền kinh tế cổ truyền. Nghề chính là
trồng lúa với những cây hoa màu để cung cấp lương thực, thực phẩm cho chính
đời sống người dân nơi đây. Ngồi nghề chính trồng lúa nước làng Xn La cịn
có làm nghề phụ và cũng khá phát triển với những nghề phụ như:cào bông, may
màn, chạm khắc gỗ,…Và đặc biệt làng có nghề truyền thống mang đậm nét màu
văn hố dân gian đó là nghề nặn “Chim cò” hay còn gọi là nghề nặn tò he. Tò he
đã được Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch đánh giá cao là một nghề cổ truyền

độc đáo trong nước mà nay chỉ cịn duy có ở Xn La.
Nằm ở vùng đồng bằng chiêm trũng, kinh tế chủ yếu là nơng nghiệp
nên đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn, giao thơng thì hạn chế, trình độ
văn hố chưa cao nhưng nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước từ năm 1992
với chính sách khơi phục làng nghề truyền thống nền kinh tế của Xuân La
thực sự khởi sắc và ngày càng một phát triển hơn.Các nghề phụ xưa thì nay
cũng đã trở thành nghề lao động mang lại thu nhập chính cho người dân nơi
đây. Và theo chỉ thị của xã Phượng Dực thì thơn sẽ cố gắng phấn đấu đạt 55%
cho các hoạt động tiểu thủ cơng nghiệp dịch vụ và thương mại, giảm xuống
cịn 45% hoạt động trong nông nghiệp. Nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh
thần cho người dân địa phương. Tính chung đến năm 2010 tồn xã thu nhập
bình qn tính chung toàn xã là 10.700.000đ/người/năm. Đây quả thực là con
số đáng mừng đối với vùng đất thơn q cịn nhiều khó khăn này. Hy vọng
rằng Xuân La sẽ vẫn tiếp tục bước những bước tiến mới trong thời đại mới.
1.1.5. Đời sống văn hố xã hội
Thơn Xn La được hình thành với bốn xóm dân cư: Xóm cả, xóm
Thượng, xóm Trung và xóm Hạ. Làng được xum họp bởi nhiều dòng họ như:
Nguyễn Thanh Hương

12

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

Đặng, Nguyễn, Vũ, Chu, Đào,…Đặc trưng của làng có nền nếp gia phong tơn
sư trọng đạo và tình thương nhân ái. Từ xưa đến nay làng có truyền thống
đánh giặc cứu làng giữ nước, trong các hoạt động kháng chiến cứu nước làng
đã có lớp lớp thanh niên lên đường nhập ngũ đánh giặc góp phần vào sự

nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc thân u. Cơng tác chính sách hậu
phương ln được quan tâm giúp đỡ, trong sản xuất luôn áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật nên giữ vững được hai vụ lúa có năng suất cao. Ngành
nghề dịch vụ ln được phát triển, trình độ dân trí được nâng cao, đời sống
kinh tế xã hội trong nhân dân ngày một cải thiện, nhân dân địa phương đã xây
dựng được đường làng ngõ xóm khang trang, đường liên thơn liên xã được
giao lưu thuận để không ngừng phát triển trên mọi lĩnh vực.
Xuân La quả thực là một vùng đất giàu bản sắc văn hố bởi nơi đây vẫn
cịn những dấu tích của nền văn hố lâu đời qua hình ảnh của mái đình bến
nước cây đa, của ngơi chùa cổ kính của miếu thờ linh thiêng và đặc biệt là
những ngày hội làng náo nức đơng vui thì nền văn hố đó lại bộc lộ một cách
sâu sắc hơn.
Một số cơng trình kiến trúc của làng như đình Xuân La, Miếu thờ,
Chùa Linh Quy,…Hội làng Xuân La được tổ chức từ ngày 15 đến 18 tháng
giêng âm lịch hàng năm.
Ngoài sự phong phú về đời sống văn hoá, mảnh đất Xuân La cịn đa
dạng bởi sựu đóng góp của các ngành nghề thủ cơng truyền thống đã tạo ra
những nét văn hố truyền thống đậm chất dân tộc. Đặc biệt người dân Xn
La cịn chính là người tạo ra những làn điệu, câu hát dân ca góp phần tơ đẹp
cho truyền thống văn hoá con người lao động nơi đây. Những làn điệu lời ca
ấy đã nuôi dưỡng bao thế hệ người con nơi đây sinh ra và lớn lên trên mảnh
đất nghèo vật chất mà giàu văn hoá này. Với lịch sử hình thành vốn xuất phát
từ những người dân lao động thủ công quen với việc sử dụng đôi bàn tay và

Nguyễn Thanh Hương

13

Lớp: VHDL 15C



Khóa luận tốt nghiệp

khối óc để sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo tinh tế phục vụ cho đời do
vậy việc học hành ở đây cũng chưa có gì nổi bật chỉ vài năm trở lại đây, do
thay đổi quan niệm tư duy đã quan tâm chú ý hơn do vậy mà việc học hành đã
có sự khởi sắc, tỉ lệ đỗ đại học từ 7% đến 9%. Đây là một tỉ lệ chưa cao
nhưng cũng rất đáng khích lệ.
Để phát huy truyền thống cách mạng, nếp sống văn hoá của làng và dựa
trên cơ sở pháp luật của nhà nước đã ban hành. Nguyện vọng chung của nhân
dân là giữ gìn được truyền thống văn hố của làng, xây dựng quê hương ngày
một giàu đẹp hơn. Vì vậy người dân Xuân La đã tự nguyện xây dựng bản quy
ước của làng, đồng tâm nhất trí phấn đấu đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội,
xây dựng nếp sống văn hoá mới; phát huy truyền thống yêu quê hương; tôn
trọng kỷ cương pháp luật; bảo vệ an ninh trật tự an tồn xã hội. Thực hiện
xanh sạch đẹp xóm làng, giữ gìn thuần phong mỹ tục đồn kết xóm làng.
1.1.6. Lịch sử nghề nặn Tò he
Xưa kia Tò he là sản phẩm mang nhiều ý nghĩa: ăn, chơi, cúng, lễ…Cái
tên “Tò he” cũng tồn tại trong dân gian từ khá lâu và người làm nghề có ở
nhiều nơi nhưng nổi tiếng nhất vẫn là làng Xuân La (Phượng Dực - Phú
Xuyên - Hà Tây). Theo lời các cụ già trong làng kể lại thì nghề nặn Tị he có
lịch sử đến hơn 300 năm tuổi. Nhưng cho đến nay thì vẫn chưa có thơng tin gì
chính xác về nghề Tị he này có từ bao giờ? Và suốt hơn 300 năm qua duy chỉ
có người làng Xuân La mới biết làm và tinh thục cách làm Tò he. Nghề
truyền nghề, đời nối đời người đàn ông Xuân La thường gắn với việc nặn Tò
he từ lúc biết nặn đến hết cuộc đời.
Nghề nặn Tò he khởi đầu từ đất sét, rơm rạ. Cố nghệ nhân Đặng Văn
Tố, người có cơng lớn trong việc giữ gìn lưu truyền nghề này kể lại: “Ngày
xưa, làng Xuân La nghèo lắm. Đến tết trung thu, trẻ con khơng có q để
chơi. Ơng cha ta mới nghĩ ra cách lấy đất sét nặn những con giống, lấy rơm rạ


Nguyễn Thanh Hương

14

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

nung rồi lấy gạch non phết màu phơi khơ mang cho trẻ em chơi. Sau đó một
thời gian người ta chuyển sang dùng bột gạo để nặn tị he, trẻ chơi xong là có
thể ăn con giống. Thời trước, khi mà đời sống của người dân Xuân La cịn
nghèo, đồ chơi cho trẻ em chưa có nhiều, người lớn thường hay mua tò he cho
trẻ em vừa để làm đồ chơi vừa để làm một thứ quà bánh sau những phiên chợ
quê. Người làm tò he cũng thường làm trước từ nhà gánh đến chợ bán nhưng
vì đông trẻ em chúng tranh cướp hết thành ra sau đó người ta khơng làm sẵn
từ nhà nữa mà đến địa điểm bán mới làm vừa tránh bị mất mát vừa có thể làm
theo yêu cầu của khách”.
Ban đầu người ta gọi tò he là đồ chơi chim cò bởi chúng có hình dạng
của các con vật quen thuộc với đời sống của người nông dân như: Công, gà,
cá, lợn, trâu…nhưng về sau sản phẩm này thường gắn với một chiếc kèn ống
sậy đầu kèn có dính kẹo mạch nha, nguyên liệu làm bằng bột gạo hấp chín,
màu sắc tươi rói và có nhiều chủng loại. Kèn có thể phát ra một thứ âm thanh
hấp dẫn, khi thổi lên có tiếng kêu ngắt qng: Tị…te…tị…te. Và vì thế
người ta gọi nó là “Tị te”. Sau đó nói cho thuận miệng chệch thành “Tị he”
Một loại sản phẩm khác khơng thuộc loại chim cò mà là các mâm bồng
như: Nải chuối, đĩa xơi, chân giị, quả cau, quả hồng, quả oản… để phục vụ
cho các bà các cô đi chùa ngày rằm mùng một. Sản phẩm này tương đối giống
đồ thực, chúng có màu sắc đẹp đem pha thêm chút đường phèn là có thể ăn

được nên cả trẻ con và người lớn đều thích nên thường gọi là bánh Việt, bánh
Vòng hay còn gọi là “Con bánh”.
Nghề nặn Tò he có nguồn gốc lâu đời nhưng do tư liệu chép để trong
đình chùa cùng các sắc phong gia phả đã bị giặc Pháp đốt cháy nên hiện nay
chưa tìm ra được ông tổ nghề. Khi tiếp xúc với những nghệ nhân cao niên
trong làng và cán bộ địa phương Xuân La là những con cháu bao đời của các
dòng họ lớn ở đây, tôi đã được nghe những truyền thuyết khác nhau phỏng
đốn về cụ tổ nghề nặn Tị he.
Nguyễn Thanh Hương

15

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

* Truyền thuyết 1:
Tương truyền có một người vì tinh ý lại khéo tay đã học lỏm được nghề
nặn Tò he này từ một người Trung Quốc có tên là Tắc Từ. Người này đã
mang nghề về làng đã chỉ dạy cho con cháu trong làng để kiếm kế sinh nhai.
Như vậy với ý kiến về truyền thuyết này thì khơng những đã chỉ ra
được cụ tổ nghề là ai mà còn chỉ ra được nguồn gốc của nghề là từ Trung
Quốc sang. Mặc dù vậy đây chỉ là một ý kiến dựa trên truyền thuyết kể lại
chưa có gì chứng minh một cách chính xác và khoa học. Do vậy nó là ý kiến
mang tính chất tham khảo.
* Truyền thuyết 2:
Người đầu tiên làm những con Tò he là cụ Nguyễn Văn Đại. Cụ cũng
là người thông minh, tinh ý và khéo tay. Cụ biết nặn những con vật rất đẹp từ
chất liệu bằng đất, bột gạo và vì cụ thương bà con dân làng mình nghèo khó

quanh năm cấy hái mị cua bắt ốc mà không đủ ăn nên cụ đã truyền nghề cho
cả làng. Duy chỉ khơng truyền cho con gái vì sợ mất nghề.
Đứng từ góc độ địa phương và lịch sử thì hiện nay cụ Nguyễn Văn Đại
được coi là cụ tổ nghề nặn tò he. Tuy nhiên ý kiến này cũng chưa thuyết phục
vì chưa có bằng chứng để chứng minh chính xác nên vẫn vấp phải một số ý
kiến phản bác của các dòng họ khác. Hiện nay con cháu cùng chính quyền địa
phương đang tích cực tìm gia phả để chứng minh.
* Truyền thuyết 3:
Những giả thuyết suy đoán ông tổ nghề là người trong dòng họ Đặng
nhưng chưa rõ là ai. Vì: Thuỷ tổ dịng họ Đặng ở Xuân La được coi là người
lập ấp khai canh. Phần mộ của cụ được an táng ở đất “vai rùa” của làng (Đây
được coi là nơi chỉ dành cho những người uy quyền, có khả năng đóng góp
cho việc làng nước thì khi chết mới được chơn ở đây). Đồng thời đó là người
có chức tước trong làng lại có học hành khả năng cầm kỳ thi hoạ do đó có thể

Nguyễn Thanh Hương

16

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

tiếp thu nghề một cách nhanh chóng rồi mang về làng dạy cho người khác với
mục đích ban đầu chưa phải là vì kinh tế.
Cũng theo những giới thiệu trên cùng với những gì đang tồn tại trong
đời sống cộng đồng ở làng hơm nay thì hậu duệ của cụ tổ nghề đã tới đời thứ 8
thứ 9. Như vậy chứng tỏ tị he đã có từ rất sớm, hơn nữa trong làng có rất nhiều
dịng họ: Đặng, Nguyễn, Vũ, Chu, Lê…mà họ nào cũng biết nặn Tị he. Vì thế

chức danh ơng tổ nghề được phong cho dòng họ nào cũng xứng đáng cả.
Trải qua những năm tháng của chiến tranh, khi giặc Pháp triệt phá làng
quê để trả thù những người cách mạng trong làng, thì một số người trong làng
đã đem theo con cái dời làng đi tị nạn ở các nơi khác. Điều này cũng là một
trong những căn nguyên để tò he có mặt ở nhiều nơi như: Hải Phịng, Thái
Bình, Thái Ngun…nhưng ở những nơi này Tị he khơng thực sự phát triển
để trở thành làng nghề như ở Xuân La hiện nay.
Đến nay việc xác định nguồn gốc của nghề và ơng tổ nghề nặn Tị he ở
Xn La quả thực là một điều hết sức khó khăn khi mà hầu hết những ý kiến
đưa ra đều khơng có bằng chứng thuyết phục. Những băn khoăn xoay quanh
việc nghề nặn Tị he có nguồn gốc từ đâu? Là sản phẩm từ đơi bàn tay khéo
léo và óc sáng tạo của cha ơng chúng ta hay nó được du nhập từ Trung Quốc
sang? (vì Trung Quốc cũng có sản phẩm Tị he giống với ta) là những câu hỏi
vẫn chưa có lời giải đáp chính xác và khoa học. Có những ý kiến trái ngược
xoay quanh vấn đề này nhưng có thể quy về 2 hướng sau:
+ Một số người cho rằng: Đất nước ta trải qua một thời gian dài suốt
1000 năm Bắc thuộc. Mọi thứ đều có thể xảy ra rất có thể chúng ta đã tiếp thu
và tiếp biến nền văn hoá Trung Hoa bản địa thành nền văn hố với bản sắc
riêng có của chúng ta. Do vậy có rất nhiều khả năng Tị he cũng là một sự tiếp
thu và tiếp biến từ văn hoá của Trung Hoa.

Nguyễn Thanh Hương

17

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp


+ Các nhà nghiên cứu cho rằng Tị he là của cha ơng chúng ta tự nghĩ
ra chứ không phải từ Trung Quốc mang sang. Mặc dù sản phẩm của chúng ta
không đẹp, không chau chuốt tẩn mẩn như của họ nhưng sản phẩm của chúng
ta mang đậm nét truyền thống bản sắc riêng của con người Việt Nam. Nếu
như sản phẩm của Trung Quốc thường thiên về hình ảnh đời sống con người,
của giới thượng lưu như các hình ảnh về: Vua chúa, các mỹ nhân - rất tinh tế
và đầy tính thẩm mỹ thì sản phẩm Tò he của chúng ta lại khởi đầu bằng
những con vật dân dã nơi thôn quê như con gà con lợn, con chim (mà thường
gọi là đồ chơi chim cị). Nó mang vẻ đẹp của sự ngộ nghĩnh, thơ ngây.
Một điều khác nữa thuộc về kỹ thuật làm tò he giữa Trung Quốc và
Việt Nam là: Tò he Việt Nam được hồn tồn thủ cơng khơng theo một khn
mẫu nào. Người nghệ nhân hồn tồn sử dụng đơi bàn tay, óc quan sát tinh tế
để tạo nên những sản phẩm của mình. Trong khi đó Tị he Trung Quốc tuy
đẹp và tinh xảo nhưng để làm được nó khơng thể đơn thuần dùng đơi bàn tay
là có thể làm được. Những chi tiết rất nhỏ nhưng lại đòi hỏi phải sắc nét chính
xác. Muốn làm được vậy thì nhất thiết phải sử dụng đến khuôn để làm. Và để
làm được những sản phẩm này thì rất mất thời gian và cơng sức.
Như vậy, thì ý kiến nào cũng đều dựa trên những lý giải riêng của bản
thân nó. Mặc dù vậy chúng ta phải biết nhìn nhận một cách khách quan và
tiếp tục đi tìm những bằng chứng để chứng minh một cách thuyết phục về
nguồn gốc của nghề truyền thống độc đáo này. Nhưng dù cho nó có nguồn
gốc là sự sáng tạo của cha ông chúng ta hay là sự vay mượn từ Trung Quốc về
hoặc là sự trùng hợp ngẫu nhiên hiếm có thì chúng ta vẫn tự hào vì trên đất
nước của chúng ta hình ảnh những con Tò he sặc sỡ sắc màu vẫn đang làm
đẹp, làm giàu cho bản sắc văn hoá của xứ sở này. Nó là nét độc đáo để giới
thiệu và quảng bá với bạn bè về nền văn hoá giàu đẹp của đất nước ta.

Nguyễn Thanh Hương

18


Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

Kể từ khi xuất hiện, tồn tại cho tới nay đã mấy trăm năm. Tị he khơng
phải là không gặp những trắc trở như những làng nghề thủ công truyền
thống khác. Những năm trước thời kỳ đổi mới nghề nặn Tị he cịn bị cấm vì
cho rằng đã gây lãng phí. Khi đó ở Xn La mỗi ngày một người nặn Tị he
của làng dùng ít nhất 1kg gạo nếp, có khoảng trên 200 người đi nặn Tò he.
Vậy nên tò he bị cấm, chỉ còn một số ít vẫn đi nặn vì cuộc sống và cũng như
một cách để duy trì nghề truyền thống đợi thời cơ. Thế rồi mãi cho tới năm
1992 khi mà chính sách khôi phục và phát triển làng nghề thủ công truyền
thống của Nhà nước ta được ban hành, làng Xuân La lại có cơ hội để khơi
phục nghề thống độc đáo của mình thế nhưng số phận của nó cũng như bao
làng nghề truyền thống dân gian của Việt Nam khác phải chịu chung một số
phận lận đận.
1.2. Nghề nặn Tò he làng Xuân La.
1.2.1. Nguyên liệu và cách sơ chế.
Để nặn được những con Tò he nhỏ bé ngộ nghĩnh với những màu sắc
rất sặc sỡ chỉ cần những nguyên liệu rất đơn giản gần gũi với cuộc sống của
chính người dân thơn q. Đó chính là những sản phẩm nơng nghiệp do chính
bàn tay họ làm ra.
Cơng việc sơ chế nguyên liệu trải qua 2 giai đoạn chính là:
- Làm bột nặn
- Nhuộm màu cho bột nặn (đấu màu)
* Giai đoạn 1: Làm bột nặn
Nguyên liệu chính là bột. Bột được làm từ gạo nếp trộn với gạo tẻ đem
nghiền nhỏ theo tỉ lệ 3/1 và cũng tuỳ vào điều kiện thời tiết mà độ dẻo của bột

có sự thay đổi.
Mùa đông: do thời tiết hanh khô phải tăng độ dẻo của bột lên một
lượng vừa đủ (tăng số phần của gạo nếp) để tránh bị nhanh khô bột. Khi nặn
bột sẽ cứng và bở rất khó nặn.

Nguyễn Thanh Hương

19

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

Mùa hè: thời tiết ẩm hơn nên phải rút độ dẻo của bột một lượng vừa đủ
(giảm số phần của gạo nếp) để tránh cho bột khỏi bị nhão. Khi nặn bột sẽ rất
dính tay rất khó nặn.
 Tiêu chuẩn bột gạo.
Gạo nếp được chọn để làm bột nặn phải là thứ gạo nếp dẻo mà trắng,
tròn mà thơm. Gạo được nhặt sạch sạn, thóc, sau đó đem nghiền mịn đến độ
vê trên tay mà khơng có cảm giác dính, đó là tiêu chuẩn bột gạo tốt nhất.
 Các bước làm bột nặn.
- Bước 1: Nhào bột sống
Đem bột nhào với nước lã cho đến khi bột nhuyễn quyện dính vào
nhau, vê thành từng miếng bằng nắm tay. Miếng bột không được dày quá,
cũng không được mỏng quá, nếu dày quá luộc bột sẽ lâu chín và có thể ở giữa
chưa chín được thì bên ngồi miếng bột bị ngâm nước lâu sẽ bị nát ra, còn
nếu mỏng quá bị thấm nhiều nước bột sẽ rất dễ nhão. Như vậy sẽ ảnh hưởng
không tốt đến chất lượng của bột nặn.
- Bước 2: Luộc bột

Đun nước cho sôi lên rồi thả những miếng bột đó vào luộc cho chín.
Khi nước sơi thì phải đun nhỏ lửa chừng 7 đến 10 phút để lấy độ dẻo cho bột
nặn nhưng cũng không nên để quá lâu nếu không bột sẽ bị nhão.
- Bước 3: Thấu bột
Sau khi bột luộc đã chín, vớt những miếng bột đó ra thấu nhanh tay cho
bột quyện và dẻo. Chú ý phải thật đều và nhanh tay để bột không bị nhão.
Đây là công đoạn làm khẩn trương vì bột đang nóng và cũng cần phải có kinh
nghiệm để tránh bị lõi bột (hay cịn gọi là bị “mắt cá”) là coi như đã bị hỏng
và khơng dùng được nữa. Sau đó mới nắm thành từng vắt tròn to nhỏ khác
nhau để đấu màu (nhuộm màu cho bột nặn).

Nguyễn Thanh Hương

20

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

 Tiêu chuẩn của bột nặn.
Tiêu chuẩn tốt của bột nặn là nó phải đạt được độ dẻo dai, khơng cứng
cũng khơng nhão. Người ta có thể vê nó thành những sợi nhỏ như que tăm,
dài khoảng 5 - 7 cm mà không bị đứt và hơi có tính đàn hồi.
Để chống bột bị lên da ở mặt ngoài thỉnh thoảng ta phải đảo bột. Bột
dùng ngày nào hết ngày ấy tránh lưu cữu nhiều ngày nếu không bột sẽ lên
men mất đi độ dẻo cũng như độ mượt mà cho sản phẩm. Hiện nay người ta có
thể pha chế thêm bột hố chất để chống nấm mốc như ơ xít đồng hay phèn
chua, bột đá để làm tăng tuổi thọ cho sản phẩm.
Có một số nghệ nhân vẫn dùng kỹ thuật tạo tác tò he để thử nghiệm

trên một số chất liệu mới như: giấy đỏ trộn vôi hay bột đao. Các chất liệu mới
này so với bột màu nặn Tị he truyền thống có phần bền chắc hơn nhưng
ngược lại sản phẩm lại kém phần sinh động mất đi cái hồn ở trong đó.
* Giai đoạn 2: Nhuộm màu cho bột nặn (đấu màu).
Nguyên liệu để tạo màu xưa kia cũng khơng có gì đặc biệt. Đó là
những thứ cây cỏ củ quả vốn rất quen thuộc với đời sống của người dân
làng Xuân La:
Màu vàng lấy từ củ nghệ hoặc hoa hoè…
Màu đỏ lấy từ quả gấc, hoa hiên, quả dành dành, gạch non, thân cây gỗ
vàng, đá chu sa…
Màu xanh lấy từ lá chàm tươi, lá giềng…
Màu đen lấy từ cây nhọ nhồi, tro của lá tre hay rơm rạ, mực tàu…
Ngày xưa vốn là như vậy hiện nay thì đơn giản hơn rất nhiều. Thay vì giã bột
cho nhỏ người ta có thể dùng máy xay cho nhuyễn, thay vì nhiều cơng đoạn
làm bột rườm rà như: đồ bột cho chín, đổ ra thấu nhanh tay rồi đem đi nhào
màu rồi lại cẩn thận cho vào nồi hấp cách thuỷ một lần nữa mới hồn thành
cơng đoạn làm bột nặn. Hiện nay thì rút ngắn đi người ta chỉ luộc bột cho

Nguyễn Thanh Hương

21

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

chín, đem ra thấu nhanh tay rồi nhuộm màu cho bột là có thể đem đi nặn sản
phẩm. Cịn về màu thay vì dùng những màu có nguồn gốc tự nhiên thì nay
người ta dùng các loại màu cơng nghiệp cho tiện. Màu sắc vì vậy mà phong

phú lên rất nhiều.
Từ 5 màu cơ bản: vàng, xanh, đỏ, trắng, đen ta có thể phối thành nhiều
màu khác nhau để tạo nên đa dạng hoá các chủng loại màu sắc.
Khi pha màu do lượng mắt người pha tự cảm nhận như thế nào là vừa là
đủ sẽ cho ra những màu khác nhau theo ý mình muốn. Những gam màu tương
phản nhưng lại được sử dụng rất hài hồ tạo nên những con Tị he đẹp mắt.
Các sản phẩm được nặn nhiều màu ngồi yếu tố trang trí cho vui mắt
hấp dẫn khách hàng nhất là những em nhỏ thì màu sắc của nó cịn mang tính
tượng trưng theo quan niệm tơn giáo tín ngưỡng của nhân dân.
1.2.2. Dụng cụ thực hiện
Ngồi chất liệu chính là bột nặn sau khi đã được nhuộm màu thì trong
quá trình tạo tác sản phẩm người làm Tò he còn sử dụng một số vật liệu như:
vòng nứa (nếu làm bánh vòng); que tre (nếu làm chim cò hoặc chiến sĩ) và
một số dụng cụ rất đơn giản nhưng cũng rất cần thiết gồm: 1 con dao sắc nhỏ,
1 chiếc lược nhỏ (một đầu được vót nhọn), 1 miếng sáp ong (hoặc bánh xà
phòng), một chiếc tráp gỗ và một chiếc ghế gỗ nhỏ để ngồi nặn.
*Vòng nứa, que tre.
Vòng nứa que tre dùng để làm đài hoặc cốt cho sản phẩm. Vòng nứa,
que tre được pha từ cây nứa tước bỏ cật. Sau đó tiếp tục tước mỏng với độ
dày 1mm và bẻ gập lại thành vịng như bao diêm.
Có 2 loại vịng: vịng trịn và vịng vng khép kín. Mỗi loại vòng được
xếp bởi hai tầng chồng lên nhau vòng to làm đài vòng nhỏ làm cốt. Hai vòng
được gắn với nhau bởi chất liệu bột nặn. Kích cỡ các vòng to hoặc nhỏ phụ
thuộc vào ý đồ của tác giả khi có ý định làm sản phẩm lớn hay bé. Thơng
thường thì đường kính mỗi cạnh chỉ độ 5 - 7cm.

Nguyễn Thanh Hương

22


Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

Với que tre thường pha và chẻ thành các que nhỏ độ dày 2 - 3cm, vót
trịn, chặt ngắn khoảng 15 – 20cm. Dùng để làm cốt cho các sản phẩm như
chim cị hoặc chiến sĩ, bơng hoa…
*Sáp ong (hoặc bánh xà phòng).
Trước khi tiến hành thao tác nặn tò he, người làm Tò he phải xoa sáp
ong hoặc bánh xà phịng vào tay vì sáp ong và xà phịng làm cho bột nặn
khơng bị dính vào tay người làm. Nếu không xoa sáp ong trước khi cầm bột
bột sẽ dính vào tay và như thế thì không thể nặn được. Xét về bản chất của
chất liệu tạo tác là phải mềm dẻo để có độ bám nhưng khi tiến hành thực hiện
lại khơng được dính tay. Do vậy sáp ong có tác dụng chống bột dính vào tay
rất thuận tiện cho những thao tác nặn sản phẩm nhanh, dứt khốt, sắc nét và
có độ bóng.
* Lược.
Chiếc lược có tác dụng tạo ra những chi tiết nhỏ trên sản phẩm làm
cho sản phẩm trở lên chân thực và sinh động hơn. Khi ấn lược theo phương
nằm ngang những chiếc răng lược sẽ tạo nên những đường kẻ song song
với nhau. Do vậy lược dùng để tạo những chi tiết nhỏ và đều nhau mà tay
không thể làm được như: làm nếp tóc, ngón tay ngón chân, nếp quần áo. Kẻ
đường gân cho lá…
Đi lược thường được vót nhọn để có thể thực hiện những chi tiết nhỏ
hơn như trên khuân mặt để tạo hai lỗ mũi, làm vành tai…
* Dao nhỏ.
Dùng để chẻ và vót những vịng nứa, que tre để làm đài, làm cốt cho
sản phẩm.
*Tráp gỗ.

Tráp gỗ người thợ dùng nó để đựng tất cả những vật liệu, dụng cụ khi
đi hành nghề như: bột nặn, que tre, dao, lược, sáp ong thậm chí chu đáo hơn là

Nguyễn Thanh Hương

23

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

cả chiếc ghế xếp nhỏ nữa. Trên thành tráp có thể gắn thêm miếng xốp ở dưới
nắp tráp hoặc ngoài phần nắp của tráp người ta chừa lại một chút để đục
những chiếc lỗ nhỏ mà có thể ngắm được những con Tị he đứng trên đó như
là một cách để bày hàng. Chiếc tráp này khá gọn nhẹ và rất tiện lợi. Hơn nữa
ở đáy tráp ta có thể làm thêm chiếc chân xếp để có thể kéo ra làm chân đứng
hoặc dễ dàng gấp lại khi di chuyển. Ngồi ra ta cịn có thể làm cả quai đeo
cho nó nữa.
* Ghế ngồi.
Đi song song với chiếc tráp gỗ là chiếc ghế xếp nhỏ. Mỗi khi đến một
địa điểm thuận lợi người làm tị he có thể dừng lại, giở đồ nghề ra là có thể
tiến hành ngay được. Nhờ có chiếc ghế ngồi thoải mái, người nặn sẽ thuận lợi
hơn và đỡ bị mỏi mệt trong quá trình làm việc của mình.
Trên đây là những dụng cụ hết sức đơn giản nhưng cũng hết sức cần
thiết. Chỉ với những thứ ấy thôi người thợ nặn tị he Xn La có thể có mặt ở
khắp mọi nơi những lễ hội, những chốn kẻ chợ tấp nập đông vui để vừa làm
vừa bán sản phẩm. Với đôi bàn tay khéo léo và tài hoa óc sáng tạo, tư duy
quan sát và khiếu thẩm mỹ tinh tế, người thợ nặn tò he đã tạo cho đời một thứ
đồ chơi dân gian thật độc đáo, thật ngộ nghĩnh và vui mắt biết bao, nó khơng

những đã hấp dẫn được trẻ nhỏ và đến cả người lớn cũng bị cuốn hút theo.
1.2.3. Người thực hiện
Đến với Xuân La xứ Đoài nơi sản sinh ra những con Tò he rực rỡ sắc
màu mang trong mình nét văn hố độc đáo của một vùng q truyền thống
Việt Nam, ta khơng có gì phải ngạc nhiên khi bắt gặp những em bé mới lên 5
lên 7 đã biết ngồi nặn tò he. Gần như cả làng Xuân La ai cũng biết nặn tò he
cả. Từ những lão cao niên đến lớp thanh niên, thiếu nữ hay những em bé nhỏ
đều nặn được tò he. Bởi có lẽ từ khi sinh ra và lớn lên họ đã được sống trong
môi trường của sắc màu Tị he. Họ u và đam mê lắm cái cơng việc nặn nên

Nguyễn Thanh Hương

24

Lớp: VHDL 15C


Khóa luận tốt nghiệp

cái thứ đồ chơi dân gian có tên gọi Tị he này. Đó quả thực là một niềm vui rất
lớn trong việc chung sức gìn giữ nét văn hố đặc sắc của q hương.
Tị he khơng giống như các sản phẩm thủ công truyền thống khác,
không phải là thứ được sản xuất hàng loạt rồi bày bán trong các cửa hàng. Tò
he là thứ đồ chơi được mua trực tiếp tại chỗ làm. Với đặc thù đó người nặn tò
he Xuân La phải rong ruổi trên bao đường đất xứ người. Từ các phiên chợ
quê, các ngõ xóm phố phường tới các khơng gian lễ hội tấp nập du khách
chen chân để mang lại niềm vui cho bao con mắt trẻ thơ, mang lại cả những
hoài niệm thủa thiếu thời cho những người đã dày sương dạn gió. Vì thế
người đi nặn Tị he ở Xn La chủ yếu là người đàn ơng bởi họ có sức khoẻ
để có thể đi hành nghề ở những địa điểm xa nhà. Những chuyến đi có thể

ngắn chỉ là trong ngày rồi vài ba ngày cũng có thể là rất dài hàng tuần, háng
tháng thậm chí là hàng năm.
Căn cứ vào tình hình hiện nay thì hình thức hành nghề của những người
thợ nặn Tị he ở Xn La có thể chia làm hai loại cơ bản đó là những người thợ
đi làm khơng mang tính thời vụ và những người thợ đi làm mang tính thời vụ.
Nhưng dù cho Tị he có là nghề chính hay chỉ là nghề phụ đi chăng nữa
thì người thợ nặn Tị he Xn La hành nghề khơng hồn tồn dựa vào nghề
mà vẫn có sự kết hợp với những cơng việc khác để đảm bảo cuộc sống. Để
làm tị he thì ngun liệu chính để tạo nên lại được lấy từ chính sản phẩm của
nơng nghiệp, nếu như người nặn Tị he phải bỏ tiền ra để mua những sản
phẩm nông nghiệp này để nặn tị he thì người làm tị he lãi còn được chẳng là
bao. Do vậy bản thân họ sẽ là người cung cấp nguyên liệu và cũng là người
tiến hành sản xuất. Chính vì điều này mà hiện nay hầu như người làm Tị he
cũng thường chính là người nông nghiệp.
Ngày xưa khi phương tiện đi lại hầu như chưa có, người dân Xn La
cịn bồng bế con cái, nồi xoong… phiêu bạt để kiếm sống chỉ đến khi vụ mùa

Nguyễn Thanh Hương

25

Lớp: VHDL 15C


×