Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Tìm hiểu tết cổ truyền mộng niên của tộc người dao tuyển huyện bảo thắng tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.24 MB, 169 trang )

1

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO

Bộ VĂN HOá, THể THAO Và DU LịCH

TRƯờNG ĐạI HọC VĂN HOá Hà NộI

********

NGUYN TH THY LINH

Tri thức dân gian của người Thái trong việc khai thác,
quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
(Nghiên cứu trường hợp ở xà Mường Lựm,
huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La)

Chuyên ngành: Văn hoá học
MÃ số: 60310640

LUậN VĂN THạC Sĩ VĂN HóA học

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lâm Bá Nam

Hà Néi - 2013


2

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai và thực hiện luận văn với đề tài: “Tri thức dân


gian của người Thái trong việc khai thác, quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
(Nghiên cứu trường hợp ở xã Mường Lựm, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La), tôi
đã nhận được sự hướng dẫn chu đáo, chỉ bảo tận tình cũng như sự quan tâm, động
viên, khích lệ của PGS.TS Lâm Bá Nam. Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc
tới sự chỉ dạy, quan tâm đó của thầy.
Tơi cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Trường Đại học Văn hóa Hà
Nội; các thầy cơ giáo Phịng Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Văn hóa Hà Nội;
Thư viện trường và Thư viện Quốc Gia Việt Nam đã tạo mọi điều kiện cho tôi để
tôi thực hiện luận văn này. Đặc biệt trong quá trình khảo sát thực tế, tôi xin chân
thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các cán bộ nhân viên của Sở Văn hóa Thể thao và Du
lịch tỉnh Sơn La; phịng Văn hóa huyện Yên Châu; UBND xã Mường Lựm và toàn
thể đồng bào nơi đây đã giúp đỡ, cung cấp thông tin cũng như tư liệu để tơi hồn
thành luận văn.
Cuối cùng tơi xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, các anh chị và
các nhà khoa học trong ngành đã gần gũi, động viên và giúp đỡ để tôi hồn thành
tốt luận văn của mình.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày ...... tháng......năm 2013
Tác giả

Nguyễn Thị Thùy Linh


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRI THỨC DÂN GIAN, TỘC NGƯỜI VÀ ĐỊA
BÀN NGHIÊN CỨU................................................................................................. 13
1.1. Một số khái niệm về tri thức dân gian và tài nguyên thiên nhiên ............... 13

1.1.1. Khái niệm về tri thức dân gian ................................................................. 13
1.1.2. Khái niệm về nguồn tài nguyên thiên nhiên .............................................. 17
1.1.3. Biến đổi xã hội và biến đổi văn hóa.......................................................... 18
1.2. Tổng quan về người Thái ở Sơn La .............................................................. 20
1.2.1. Lịch sử hình thành tộc người Thái ............................................................ 20
1.2.2. Người Thái ở Sơn La ............................................................................... 20
1.3. Người Thái ở Mường Lựm - Yên Châu - Sơn La......................................... 21
1.3.1. Khái quát chung về huyện Yên Châu........................................................ 21
1.3.2. Vài nét về xã Mường Lựm ....................................................................... 22
1.3.3. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội........................................................ 26
1.3.4. Đặc điểm văn hóa - xã hội ........................................................................ 29
CHƯƠNG 2: TRI THỨC DÂN GIAN TRONG VIỆC KHAI THÁC NGUỒN TÀI
NGUYÊN THIÊN NHIÊN ....................................................................................... 35
2.1. Tri thức dân gian về nguồn tài nguyên đất .................................................. 35
2.1.1. Nhận thức của người Thái về các loại đất ................................................. 35
2.1.2. Tri thức dân gian về khai thác tài nguyên đất ........................................... 37
2.2. Tri thức dân gian về nguồn tài nguyên nước ............................................... 54
2.2.1. Quan niệm của người Thái về nước .......................................................... 54
2.2.2. Phân loại nguồn nước ............................................................................... 54
2.2.3. Tri thức dân gian trong việc khai thác tài nguyên nước ............................ 55
2.3. Tri thức dân gian về nguồn tài nguyên rừng................................................ 64
2.3.1. Khái quát về các loại rừng ........................................................................ 64
2.3.2. Tri thức dân gian trong việc khai thác tài nguyên rừng ............................. 65
2.4. Các khía cạnh liên quan đến khai thác tài nguyên của người Thái ............ 75
2.4.1. Tài nguyên thiên nhiên và việc lựa chọn nơi cư trú .................................. 75
2.4.2. Tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho nhu cầu đời sống con người ............. 76
2.4.3. Tài nguyên thiên nhiên và đời sống văn hóa xã hội tộc người ................... 77
CHƯƠNG 3: TRI THỨC DÂN GIAN TRONG VIỆC QUẢN LÝ NGUỒN TÀI
NGUYÊN THIÊN NHIÊN ....................................................................................... 80
3.1. Tri thức dân gian trong quản lý nguồn tài nguyên đất................................ 80

3.1.1. Hệ thống quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên ........................................ 80
3.1.2. Quản lý đất ruộng..................................................................................... 81


4

3.1.3. Quản lý đất nương rẫy .............................................................................. 84
3.1.4. Quản lý đất thổ cư .................................................................................... 86
3.1.5. Tín ngưỡng liên quan đến đất ................................................................... 88
3.2. Tri thức dân gian trong quản lý nguồn tài nguyên nước ............................. 89
3.2.1. Đối với nước phục vụ sản xuất và chăn nuôi ............................................ 90
3.2.2. Đối với nước ăn uống và sinh hoạt ........................................................... 92
3.2.3. Nguồn nước khai thác và ni trồng thủy sản ........................................... 94
3.2.4. Tín ngưỡng liên quan đến nước ................................................................ 96
3.3. Tri thức dân gian trong quản lý nguồn tài nguyên rừng ............................. 98
3.3.1. Vai trò của dòng họ, trưởng bản trong việc quản lý rừng .......................... 98
3.3.2. Quản lý tài nguyên thực vật...................................................................... 99
3.3.3. Quản lý tài nguyên động vật ................................................................... 102
3.3.4. Tín ngưỡng liên quan đến rừng .............................................................. 104
3.4. Văn hóa ứng xử của người Thái đối với tài nguyên ................................... 107
3.4.1. Văn hóa ứng xử trong mơi trường tự nhiên............................................. 107
3.4.2. Ứng xử trong môi trường xã hội ............................................................. 108
CHƯƠNG 4: SỰ BIẾN ĐỔI VÀ VIỆC BẢO TỒN CÁC TRI THỨC DÂN GIAN
CỦA NGƯỜI THÁI ............................................................................................... 111
4.1. Các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề phát triển kinh
tế - xã hội ............................................................................................................ 111
4.2. Sự biến đổi tri thức dân gian trong xã hội hiện đại ................................... 114
4.2.1. Biến đổi trong khai thác ......................................................................... 114
4.2.2. Biến đổi trong quản lý ............................................................................ 116
4.2.3. Nguyên nhân biến đổi ............................................................................ 119

4.3. Giá trị văn hóa của tri thức dân gian ......................................................... 121
4.4. Một số giải pháp để bảo tồn và phát huy các tri thức dân gian................. 125
4.4.1. Bảo tồn và phát huy tri thức dân gian ..................................................... 125
4.4.2. Giải pháp trong khai thác và quản lý tài nguyên thiên nhiên ................... 129
4.4.3. Giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc .......................... 135
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 138
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 143
PHỤ LỤC................................................................................................................ 150


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tri thức dân gian hay còn gọi là tri thức bản địa là những hiểu biết của các
thế hệ con người ở một vùng, một địa phương về những sự vật, hiện tượng hiện hữu
xung quanh (bao gồm tự nhiên và xã hội) cùng những tri thức có được qua q trình
giao lưu, tiếp xúc với bên ngoài. Những tri thức ấy được chắt lọc, lưu truyền dưới
nhiều hình thức qua nhiều thế hệ làm hình thành nên những tập quán quản lý và
khai thác các tài nguyên thiên nhiên cùng các cung cách ứng xử đối với các tài
ngun đó nhằm thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội của con người.
Cuộc sống của tộc người Thái ln gắn bó với rừng, rừng khơng chỉ góp
phần điều hịa khí hậu, cung cấp cho họ nguồn thức ăn (thịt, rau, măng, nấm, củ,
quả các loại) mà nó cịn cho họ đất trồng trọt, nước sinh hoạt, tưới tiêu... Tất cả hợp
lại tạo thành một mơi trường sống và từ lâu đã hình thành một mơi trường văn hố
của tộc người Thái - văn hoá ứng xử với các nguồn tài nguyên thiên nhiên: rừng,
đất đai và nguồn nước. Từ các hoạt động mưu sinh như khai thác những nguồn lợi
tự nhiên (săn bắt, hái lượm), các hoạt động sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi), một số
sản phẩm dùng trong trao đổi, mua bán cho đến các hoạt động văn hố (tín ngưỡng,
lễ hội, văn học - nghệ thuật), tổ chức và quan hệ xã hội, văn hoá vật chất và văn hoá

tinh thần của người Thái đều không tách khỏi mối quan hệ với rừng, đất đai và
nguồn nước.
Sơn La là địa bàn sinh tụ lâu đời của người Thái - đây là một tỉnh miền núi
Tây Bắc Việt Nam, có diện tích 14.050 km2 chiếm 4,29% tổng diện tích Việt Nam,
đứng thứ 3 trong số 64 tỉnh thành phố. Dân số 1.080.641 người. Địa giới tỉnh Sơn
La trong tọa độ 20003’ đến 22002’ vĩ Bắc và từ 103011’ đến 102002’ kinh đơng. Về
địa giới hành chính: phía Bắc Sơn La giáp Lào Cai, n Bái; phía Nam giáp Thanh
Hóa; phía Đơng giáp Phú Thọ, Hịa Bình; phía Tây giáp Điện Biên, Lai Châu và
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào [72, tr.22].


6

Từ sau ngày miền Bắc hồn tồn được giải phóng (1954), cùng với chủ
trương di dân từ miền xuôi lên miền núi khai hoang, phát triển kinh tế dẫn đến sự
gia tăng về dân số; nhu cầu về gỗ làm nhà ở, đất sản xuất... khiến cho diện tích rừng
ngày càng kiệt quệ, nhiều cánh rừng bạt ngàn trước kia, nay chỉ còn là đất trống,
đồi núi trọc (vùng Tây Bắc chỉ còn 2,4 triệu ha), dẫn đến thiên tai hết sức khốc
liệt (lũ quét, hạn hán, lốc xoáy), nhiều địa phương thiếu nước sản xuất và sinh
hoạt nghiêm trọng.
Mặc dù khoa học đã có những đóng góp to lớn vào sự tiến bộ kỹ thuật trong
nhiều năm qua, song ngày nay các nhà khoa học đã ngày càng nhận thấy tầm quan
trọng của tri thức địa phương đối với sự phát triển bền vững ở miền núi. Trong khi
đó, hệ thống tri thức dân gian (tri thức địa phương) đang có chiều hướng bị xói
mịn, bỏ qn. Khơng ít các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đa dạng sinh học, đa
dạng văn hóa và tri thức bản địa ln ln có mối quan hệ qua lại và phụ thuộc lẫn
nhau. Nhận thức đúng vị trí cũng như vai trò tri thức bản địa của mỗi cộng đồng tộc
người cụ thể, vận dụng những tri thức hiện đại sẽ giúp cho sự phát triển bền vững ở
các dân tộc hiện nay.
Việc nghiên cứu các tộc người ở Việt Nam nói chung và tri thức bản địa của

người Thái nói riêng đang là vấn đề đặt ra khơng chỉ nhận thức trong di sản văn hóa
tộc người, mà cịn là địi hỏi cấp bách trong giai đoạn cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng
sản Việt Nam chỉ rõ: “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị
văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết, thuần phong mỹ tục của các dân tộc; tơn
tạo các di tích lịch sử, văn hóa. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm
nền văn hóa của nhân loại” [67, tr.2].
Hơn nữa, việc nghiên cứu văn hóa nói chung và tri thức tộc người nói riêng,
đặc biệt là ứng xử của con người với môi trường tự nhiên là vấn đề đặt ra không chỉ
trong việc nhận thức di sản văn hóa dân tộc, di sản văn hóa tộc người mà còn là đòi
hỏi cấp bách trong việc phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước.


7

Chính vì thế, tìm hiểu, nghiên cứu tri thức dân gian, văn hóa ứng xử của tộc
người với mơi trường tự nhiên, vì mục tiêu bảo vệ và khai thác tốt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên phục vụ cho sự phát triển bền vững ở vùng miền núi, dân tộc
hiện nay có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Nhận thức được điều đó nên tơi đã chọn đề tài
“Tri thức dân gian của người Thái trong việc khai thác, quản lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên (Nghiên cứu trường hợp ở xã Mường Lựm, huyện Yên
Châu, tỉnh Sơn La)” làm luận văn thạc sỹ Văn hóa học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề về dân tộc Thái đã được nhiều nhà nghiên cứu ở những phạm vi và
góc độ khác nhau.
Nghiên cứu về người Thái nói chung và tri thức dân gian
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới đang phải đối mặt với
nhiều vấn đề như ô nhiễm môi trường, mất cân bằng và phá vỡ hệ sinh thái, tài
nguyên thiên nhiên suy thoái… Thảm họa thiên tai như hạn hán, lũ lụt, lũ quét…ở
nhiều nơi nhất là ở miền núi trong những năm vừa qua mà nguyên nhân chính là do

con người ứng xử chưa phù hợp với mơi trường sống của mình. Đứng trước tình
hình đó một trong những giải pháp để cân bằng, ổn định trở lại là nghiên cứu tri
thức dân gian để thấy được vị trí vai trị của nó trong mỗi cộng đồng, dân tộc ở từng
địa phương cụ thể.
Trước hết phải kể đến cơng trình của các tác giả: Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm
Vạn, “Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa
học và xã hội Hà Nội, 1968, trong đó các tác giả đã đề cập tới văn hóa của tộc người
Thái. Viện Dân tộc học, năm 1978, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía
Bắc), Nxb Khoa học và xã hội Hà Nội. Đây là tác phẩm nghiên cứu về điều kiện tự
nhiên, lịch sử tộc người, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, ngơn ngữ của các dân tộc ít
người ở phía Bắc Việt Nam, trong đó cũng đã nói khái quát về dân tộc Thái.
Ngồi ra cịn có thể kể đến tác giả Hồng Nó với bài: “Một số phong tục
chính của người Thái ở Sơn La” được tác giả viết trong cuốn Văn hóa và lịch sử


8

người Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc Hà Nội năm 1998, đã nói rất cụ thể
về những phong tục tập quán của người Thái. Bên cạnh đó cịn có các cơng trình
như: “Nghệ thuật trang phục Thái”, Lê Ngọc Thắng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
1990; “Văn hóa Thái Việt Nam”; Báo cáo khoa học trình bày tại hội nghị quốc tế
Thái học lần thứ 4, Chiềng Mai - Thái Lan, (10 - 1996 ), Cầm Trọng. Đề tài khoa
học KX.03.97: “Nghiên cứu văn hóa Bản dân tộc Thái Đen, trên cơ sở đó đề xuất
nội dung, giải pháp xây dựng mơ hình Bản văn hóa”, 1999, UBND tỉnh Sơn La.
“Vài nét về người Thái ở Sơn La”, Vì Trọng Liên, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
2002. Bên cạnh đó cịn có các cuốn “Luật tục Thái ở Việt Nam”, Ngô Đức Thịnh và
Cầm Trọng sưu tầm, dịch, giới thiệu, Nxb Văn hóa dân tộc, 2003. “Văn hóa và lịch
sử các dân tộc trong nhóm ngơn ngữ Thái Việt Nam”, Nxb Văn hóa thơng tin Hà
Nội. “Vài nét về tục lệ cưới xin của người Thái Đen Sơn La”, Tòng Quốc Sum. Năm
2004, Trường Đại học Văn Hóa phát hành cuốn giáo trình “Văn hóa các dân tộc

Tây Bắc Việt Nam” của tác giả Hoàng Lương, cuốn sách đã giới thiệu những nét
văn hóa tiêu biểu của người Thái vùng Tây Bắc, và nhiều bài viết trên các tạp chí:
Dân tộc học, Nghiên cứu lịch sử …
Trước sự khủng hoảng ngày càng trầm trọng của mơi trường, ngày càng có
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm đến mối quan hệ giữa con người
với mơi trường tự nhiên. Trong đó nghiên cứu chun về mơi trường dưới góc độ
dân tộc học và văn hoá học đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan
tâm và tiếp cận với nhiều hướng khác nhau.
Ở Việt Nam có các cơng trình như: Ảnh hưởng của việc phát rừng làm
nương rẫy đối với môi trường sinh thái của các dân tộc miền núi Tây Bắc của
Hồng Cầm, cơng trình dự thi sinh viên nghiên cứu khoa học do Bộ Giáo dục và
Đào tạo tổ chức, Hà Nội, 1994. Tri thức bản địa trong việc bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam của Phạm Quan Hoan,
tài liệu trình bày trong hội thảo Các cộng đồng tộc người trong sự thay đổi của
môi trường sinh thái, Chiang Mai, 1997. Nghi thức, nghi lễ và việc bảo vệ nguồn
tài nguyên thiên nhiên của người Thái của Hồng Cầm (tạp chí Văn hóa dân


9

gian, số 2, 2000). Tín ngưỡng và lễ tục dân gian đối với môi trường sinh thái tự
nhiên của Ninh Viết Giao (tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, 2002).
Các nghiên cứu về tri thức dân gian của người Thái và đồng bào vùng cao
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
về tri thức địa phương, tri thức bản địa, tri thức dân gian, hay sự phát triển bền
vững … Trong số đó, Lê Trọng Cúc có khá nhiều bài viết, sách chuyên sâu về
lĩnh vực này như: Vai trò của tri thức địa phương đối với phát triển bền vững
vùng cao, trong Nông nghiệp trên đất dốc - những thách thức và tiềm năng; Đa
dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; Mối quan hệ giữa kiến thức bản địa, văn
hóa và mơi trường ở miền núi Việt Nam. Phải nói rằng đây là một tập hợp các

nghiên cứu liên quan trực tiếp và gián tiếp đến tri thức bản địa (tri thức địa
phương) trong hệ sinh thái nông nghiệp, trên vùng đất dốc, của đồng bào vùng
cao trong nông nghiệp và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Theo tác
giả, tri thức bản địa được hình thành trong quá trình lịch sử lâu đời, qua kinh
nghiệm ứng xử với mơi trường xã hội, được hình thành dưới nhiều dạng khác
nhau, được truyền từ đời này qua đời khác theo trí nhớ, qua thực tiễn sản xuất và
thực hành xã hội. Tác giả đánh giá rất cao tri thức bản địa, coi đó như là những
giá trị truyền thống phải được kế thừa trong sự phát triển hiện nay.
PGS.TS Hoàng Xn Tý trong cơng trình Kiến trúc bản địa của đồng bào
vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên đã cung cấp hàng
chục bài viết liên quan đến các khái niệm, vai trò của kiến thức bản địa và các
nghiên cứu cụ thể về tri thức địa phương của các dân tộc. Trong đó, tác giả đã
trình bày trong nhiều bài viết về tri thức dân gian cụ thể của một số dân tộc với
những nội dung khác nhau như: Các giải pháp canh tác đất dốc của đồng bào
Thái đen ở Sơn La; Các giống lúa của các dân tộc H’Mông, Thái; Cách phân loại
ruộng nương truyền thống của đồng bào dân tộc Thái ở Sơn La … Nhìn chung
tác giả Hồng Xn Tý đã có những đóng góp quan trọng ở cả phương diện lý
thuyết, phương pháp nghiên cứu cũng như những nghiên cứu thực tiễn trong lĩnh
vực về nghiên cứu về tri thức địa phương.


10

PGS.TS Phạm Quang Hoan cũng là một trong những tác giả có nhiều bài
viết nghiên cứu sâu về tri thức địa phương, tiêu biểu như: Tri thức địa phương
của các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX
những năm đầu thế kỷ XXI; Tri thức địa phương (tri thức truyền thống) của các
dân tộc thiểu số Việt Nam trong đời sống xã hội đương đại, trong Thông báo dân
tộc học năm 2005; Tri thức địa phương về quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
của các dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc …

Gần đây tác giả Vi Văn An cũng nói đến tri thức dân gian của người Thái
trong bài viết “Tri thức dân gian của người Thái trong sử dụng và bảo vệ tài
nguyên nước”, Tạp chí Dân tộc học, số 1. Hay tác giả Vũ Trường Giang trong
luận án tiến sỹ lịch sử của mình với đề tài “Tri thức bản địa của người Thái ở
miền núi Thanh Hóa” đã trình bày rất sâu sắc về tri thức của người Thái trong
nhiều lĩnh vực của đời sống.
Nhìn chung, các cơng trình, tác phẩm đều đã khẳng định giá trị to lớn của tri
thức dân gian, khái quát được những vấn đề cơ bản về tri thức dân gian và tộc người
Thái. Tuy nhiên chưa có tác phẩm nào đề cập đến vấn đề tri thức dân gian của
người Thái ở xã Mường Lựm, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La trong việc khai thác
quản lý nguồn tài nguyên.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu tri thức bản địa, tập quán quản lý và khai thác các tài nguyên rừng,
đất đai, nguồn nước của người Thái ở xã Mường Lựm - huyện Yên Châu - tỉnh Sơn
La cũng như nội dung thông tin và vai trị của nó trong đời sống tộc người, chúng
tôi muốn đề cập đến các giá trị văn hố - xã hội của người Thái, từ đó góp phần tìm
hiểu bản sắc văn hố tộc người này, đưa ra những giải pháp, khuyến nghị nhằm gìn
giữ và phát huy văn hóa của tộc người Thái trong thời kì mở cửa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là người Thái ở xã Mường Lựm, huyện
Yên Châu, tỉnh Sơn La. Trong đó tập trung nghiên cứu ở bản Na Băng và bản
Mường Lựm.


11

 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu tri thức dân gian về tài nguyên thiên nhiên
tại địa bàn cư trú chủ yếu của người Thái ở xã Mường Lựm từ năm 1945 trở lại đây.

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận bản chất, hiện tượng văn hóa của
người Thái nói chung và người Thái ở Sơn La nói riêng trong sự vận động
chung của dân tộc
Vận dụng các quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của các dân tộc theo tinh thần NQ TƯ 5 Khóa 8 về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc”
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu là:
Điền dã dân tộc học mà nội dung của phương pháp này gồm những thao tác
cơ bản như: quan sát, phỏng vấn, phỏng vấn sâu, ghi âm, chụp ảnh
Phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành
Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp: sưu tầm, tổng hợp, so sánh và phân
tích nguồn tư liệu
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc trong văn hóa truyền
thống và hiện đại của tộc người Thái ở Yên Châu - Sơn La thông qua các tri thức
dân gian của tộc người này đối với nguồn tài nguyên.
Cung cấp thêm nguồn tư liệu để nghiên cứu về văn hóa dân tộc Thái
Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của tộc người Thái ở Sơn La


12

7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, bố cục
luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tri thức dân gian, tộc người và địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Tri thức dân gian trong việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên

Chương 3: Tri thức dân gian trong việc quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
Chương 4: Sự biến đổi và việc bảo tồn các tri thức dân gian của người Thái


13

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TRI THỨC DÂN GIAN, TỘC NGƯỜI
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm về tri thức dân gian và tài nguyên thiên nhiên
1.1.1. Khái niệm về tri thức dân gian
Cho đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
và Việt Nam đề cập đến tri thức dân gian (tri thức địa phương) và vai trị của nó đối
với sự phát triển trong xã hội đương đại.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, cụm từ “tri thức địa phương”, “tri
thức dân gian” hay “tri thức truyền thống”, “tri thức bản địa” đã được sử dụng trong
một số công trình nghiên cứu của nhiều tác giả.
Ngơ Đức Thịnh gọi là “tri thức dân gian”, “tri thức địa phương”, “tri thức
bản địa” [55]; Lê Trọng Cúc đồng nhất “tri thức địa phương” với “văn hóa truyền
thống” [13]; Hồng Xn Tý cho rằng cả ba khái niệm “kiến thức bản địa”, ‘kiến
thức truyền thống” hay “kiến thức địa phương” gần đồng nghĩa với nhau [66].
Nguyễn Duy Thiệu gọi là “tri thức bản địa”, “tri thức dân gian”, “tri thức của người
bản địa” [52]; Phạm Quang Hoan gọi là “tri thức địa phương”, “tri thức bản địa”,
“tri thức dân gian” [32; 34]…
Từ những cách gọi khác nhau như trên, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng
như nước ngồi cũng có những quan niệm và cách hiểu khác nhau về nội hàm của
“tri thức dân gian”. PGS.TS Lê Trọng Cúc cho rằng:
“Tri thức địa phương hay còn gọi là tri thức bản địa là hệ thống tri thức
của cộng đồng cư dân bản địa ở các quy mô lãnh thổ khác nhau. Tri thức
địa phương được hình thành trong quá trình lịch sử lâu đời, qua kinh

nghiệm ứng xử với môi trường xã hội, được hình thành dưới nhiều dạng
khác nhau, được truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực
tiễn sản xuất và thực hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn và điều
hòa các quan hệ xã hội, quan hệ con người với thiên nhiên” [13, tr.125].


14

GS.TS Ngô Đức Thịnh quan niệm:
“Tri thức bản địa là toàn bộ những hiểu biết của con người về tự nhiên,
xã hội và bản thân, hình thành và tích lũy trong q trình lịch sử lâu dài
của cộng đồng, thơng qua trải nghiệm trong quá trình sản xuất, quan hệ
xã hội và thích ứng mơi trường. Nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau và truyền từ đời này sang đời khác bằng trí nhớ và thực hành xã
hội. Tri thức bản địa gồm những lĩnh vực sau: tri thức tự nhiên và môi
trường (kể cả vũ trụ); tri thức về bản thân con người (cơ thể học, dưỡng
sinh, trị bệnh); tri thức về sản xuất, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên; tri thức về ứng xử xã hội và quản lý cộng đồng; tri
thức về sáng tạo nghệ thuật” [58, tr.13].
PGS.TS Phạm Quang Hoan:
“Tri thức địa phương được hiểu ở các cấp độ khác nhau. Một là “tri thức địa
phương” (hay tri thức bản địa, “tri thức dân gian”, “tri thức tộc người”) là
toàn bộ những hiểu biết, những kinh nghiệm của một tộc người nhất định
được tích lũy, chọn lọc và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vốn tri
thức đó phản ánh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống cộng đồng để
mỗi tộc người sinh tồn, phát triển và thích nghi trước những biến đổi đã và
đang diễn ra. Nói cách khác, tri thức địa phương là phương thức ứng xử, là
đặc tính thích nghi với những điều kiện sinh thái nhân văn của mỗi tộc
người. Cũng có thể coi đó là bản sắc văn hóa tộc người. Hai là, “tri thức địa
phương” là tri thức của các cộng đồng tộc người cùng cộng cư trên một vùng

sinh thái hay một vùng văn hóa nhất định. Trong trường hợp này, tri thức địa
phương cũng phản ánh xu hướng giao lưu và biến đổi văn hóa hay thích nghi
văn hóa giữa các tộc người” [32, tr.87].
Theo TS. Trần Hồng Hạnh thì: Tri thức dân gian (tri thức địa phương) được
hiểu là các kiến thức bao gồm cả tri thức bản địa và tri thức truyền thống, đã được
cư dân sống tại một địa bàn cụ thể tích lũy, chọn lọc và trao truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, và chịu tác động của kiến thức mới hiện đại. Để thích ứng với mơi


15

trường mới, cả về mặt tự nhiên, kinh tế - xã hội và chính trị, người dân đã tích lũy
những kiến thức vốn có từ lâu đời cùng với việc áp dụng các kiến thức hiện đại vào
cuộc sống thường ngày của họ. Dần dần thông qua sự kết hợp này, các kiến thức
mới cũng được người dân địa phương hóa cho phù hợp với điều kiện mơi trường
sống của người dân và trở thành kinh nghiệm của họ. Do đó, tri thức địa phương
người nơng dân ln ở trạng thái động, thay đổi thông qua sự sáng tạo và đổi
mới của người dân địa phương cũng như trong mối liên hệ với các hệ thống tri
thức khác [28, tr.28].
Trên thế giới, có liên quan đến khái niệm tri thức dân gian là khái niệm tri
thức bản địa. Thuật ngữ “tri thức bản địa” lần đầu xuất hiện trong một cơng trình
nghiên cứu của Robert Chambers phát hành năm 1979. Tiếp theo đó là
Brokensha và D.M.Warren sử dụng vào năm 1980 và tiếp tục phát triển cho đến
ngày nay [66, tr.12].
Một số tác giả nước ngoài như TS Jonh Amble hiểu là: Tri thức dân gian có
thể được phân biệt làm hai loại chính. Một loại có thể được gọi là “tri thức kỹ
thuật”. Một loại khác liên quan đén các tên gọi như: “Luật lệ địa phương” hoặc là
“phong tục” hay “tục lệ”… Sự nghiên cứu của nhiều vùng châu Á cho thấy rằng
những người nông dân, người chăn thả gia súc hoặc các nhóm thợ săn ở vùng cao
có vốn tri thức kỹ thuật của địa phương rất to lớn, rất cần cho việc xây dựng các

chương trình quản lý, phát triển vùng đồi núi. Vốn hiểu biết đó là sự kết hợp hài hịa
các điều kiện của địa phương. Những nghiên cứu, đặc biệt là từ các lĩnh vực dân tộc
- thực vật học đã cho thấy những người làm nơng nghiệp ở vùng cao thường có sự
hiểu biết chi tiết về chế độ ẩm trong vùng, về tiềm năng của đất đai, về kỹ thuật
trồng trọt, về chọn giống, về các loại động vật và thực vật…
Theo Louise Grenier: Kiến thức dân gian (tri thức địa phương) là kiến thức của
bất kỳ một cộng đồng nào đó, nó được tồn tại và phát triển trong những hoàn cảnh cụ
thể của các tộc người. Tri thức dân gian được tất cả các thành viên ở mọi lứa tuổi và
giới khác nhau trong một cộng đồng tạo dựng lên. Nó biểu hiện sự tích lũy của các thế


16

hệ giàu kinh nghiệm qua các quan sát tinh tế và các thử nghiệm công phu, được thể
hiện trong các câu chuyện, bài ca, văn học dân gian, trong canh tác nông nghiệp, chăn
nuôi, hệ thống phân loại, luật tục, tín ngưỡng, nghi lễ…[67, tr. 9].
Cịn Charles F.Keyes thì hiểu như sau: Hệ thống tri thức truyền thống
được coi là các tư tưởng thực nghiệm. Tư tưởng thực nghiệm là cách con người
phát triển các ý tưởng, khái niệm và thái độ để thực hiện các hoạt động thường
ngày. Tư tưởng thực nghiệm thúc đẩy các nhu cầu cấp thiết của cuộc sống như
sản xuất lương thực, thực phẩm, tổ chức khơng gian cư trú, duy trì các mối quan
hệ xã hội...[32, tr.85].
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, ngay cả trong giới nghiên cứu
cũng có những quan niệm không giống nhau về nội hàm của cụm từ “tri thức dân
gian”, về cách phân loại cũng như vị trí của nó. Tri thức dân gian có thể được hiểu ở
các cấp độ khác nhau. Một là, “tri thức dân gian” (hay “tri thức bản địa”, “tri thức
địa phương”, “tri thức truyền thống”, “tri thức tộc người”) là toàn bộ những hiểu
biết, những kinh nghiệm của một tộc người nhất định được tích lũy, chọn lọc, làm
giàu và trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác trong q trình tồn tại, phát triển
của tộc người đó. Nói một cách khác, tri thức dân gian là phương thức ứng xử, là

đặc tính thích nghi với những điều kiện sinh thái nhân văn của mỗi tộc người. Tri
thức dân gian phản ánh bản sắc văn hóa tộc người. Hai là, “tri thức dân gian” là tri
thức của các cộng đồng tộc người cùng cộng cư trong một vùng sinh thái hay một
vùng văn hóa nhất định. Trong trường hợp này, tri thức dân gian cũng phản ánh xu
hướng giao lưu và biến đổi văn hóa hay thích nghi văn hóa của mỗi tộc người và
giữa các tộc người.
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu tri thức dân gian là những hiểu biết của các thế
hệ con người ở một vùng, một địa phương về những sự vật, hiện tượng hiện hữu
xung quanh (bao gồm tự nhiên và xã hội) cùng những tri thức có được qua q trình
giao lưu, tiếp xúc với bên ngoài. Những tri thức ấy được chắt lọc, lưu truyền dưới
nhiều hình thức qua nhiều thế hệ làm hình thành nên những tập quán quản lý và


17

khai thác các tài nguyên thiên nhiên cùng các cung cách ứng xử đối với các tài
ngun đó nhằm thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội của con người.
Từ nội hàm các khái niệm đã kể trên, tri thức dân gian có những đặc điểm sau:
Được hình thành, bảo tồn và trao truyền trong mỗi cộng đồng ở mỗi vùng địa
lý - sinh thái và văn hóa nhất định;
Là kiến thức được đúc kết qua thực nghiệm về tất cả các lĩnh vực của cuộc
sống xã hội;
Làm cơ sở cho sự sinh tồn của mỗi cộng đồng;
Không được ghi lại bằng văn bản một cách hệ thống, do đó nó có tính truyền
miệng và tính địa phương;
Có tính động, đổi mới thơng qua sự sáng tạo để thích nghi cũng như đúc rút
kinh nghiệm của người dân địa phương.
Như vậy, kết quả những nghiên cứu trên đem lại cho chúng ta nhận thức: tri
thức dân gian (tri thức địa phương) là kho tài nguyên văn hóa dân gian vơ giá của
nhân loại, được hình thành trên cơ sở tư duy kinh nghiệm; mang tính trao truyền,

tính tộc người và tính địa phương rõ nét. Kho tàng văn hóa đó vẫn có giá trị nhất
định trong đời sống hiện nay và cần được bảo vệ, phát huy nhằm phục vụ cho sự
phát triển và phát triển bền vững.
1.1.2. Khái niệm về nguồn tài nguyên thiên nhiên
1.1.2.1. Khái niệm về tài nguyên
Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất sử dụng có ích cho con người và thế
giới sinh vật. Đó là một phần mơi trường cần thiết cho sự sống như đất đai, khí hậu,
nguồn nước, thực vật, động vật, rừng, khống sản…Những loại vật chất có trong
mơi trường nhưng khơng có ích, thậm chí cịn gây tác hại cho sự sống thì khơng
được gọi là tài nguyên.
Tài nguyên theo nghĩa rộng là tất cả các dạng vật chất, năng lượng và thơng
tin mà con người có thể khai thác, sử dụng để phục vụ cuộc sống và sự phát triển


18

của mình. Tài nguyên được phân thành nhiều loại khác nhau. Thông thường người
ta phân biệt hai loại tài nguyên: tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các nhân tố tự
nhiên; tài nguyên nhân tạo gắn liền với các nhân tố con người và xã hội [22, tr17].
1.1.2.2. Khái niệm về tài nguyên thiên nhiên
Toàn bộ giá trị vật chất sẵn có trong tự nhiên (nguyên liệu, vật liệu do tự nhiên
tạo ra mà lồi người có thể khai thác, sử dụng trong sản xuất và đời sống) là những
điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội loài người. Tất cả những dạng vật chất khi
chưa được hiểu biết, khai thác, sử dụng thì chưa được gọi là tài nguyên thiên nhiên mà
chỉ là điều kiện tự nhiên hay môi trường tự nhiên, cho nên tài nguyên thiên nhiên mang
tính chất xã hội, được “xã hội hóa”. Như thế, nguồn tài nguyên thiên nhiên luôn được
mở rộng với sự phát triển của xã hội. Tài nguyên thiên nhiên có thể thu được từ mơi
trường tự nhiên, được sử dụng trực tiếp (như khơng khí để thở, các lồi thực vật mọc tự
nhiên…) hay gián tiếp thơng qua các quá trình khai thác và chế biến (như các loại
khoáng sản, cây lấy gỗ, đất đai…) để sản xuất ra những vật phẩm nhằm thỏa mãn nhu

cầu vật chất và tinh thần của xã hội loài người.
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất được hình thành và tồn tại
trong tự nhiên mà con người có thể khai thác, sử dụng phục vụ cho nhu cầu đời
sống và phát triển của mình [22, tr18].
1.1.3. Biến đổi xã hội và biến đổi văn hóa
1.1.3.1. Biến đổi xã hội
Cũng giống như tự nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Sự ổn định của
xã hội chỉ là sự ổn định của bề ngồi, cịn thực tế nó khơng ngừng thay đổi bên
trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào, cho dù nó có bảo
thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng ln biến đổi. Biến đổi là một thuộc tính,
đồng thời cũng là phương thức tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới
khách quan. Tuy nhiên, sự biến đổi của các sự vật và hiện tượng không hề giống
nhau và ngay trong một sự vật hiện tượng thì sự biến đổi cũng khác nhau ở mỗi nơi,
mỗi lúc. Có thể hiểu theo Từ điển Bách khoa Việt Nam như sau:


19

“Biến đổi xã hội là khái niệm chỉ những thay đổi chuyển biến trong các
điều kiện, phương thức sinh hoạt hoặc trong cơ cấu của một nhóm, một
tổ chức xã hội, một tập thể thậm chí trong tồn bộ xã hội. Biến đổi xã hội
có những cấp độ khác nhau, có thể xảy ra trong từng mặt riêng biệt của
đời sống xã hội, dẫn tới những thay đổi dần (biến đổi theo lối tiến hóa).
Nó cũng có thể xảy ra trên tất cả các mặt của xã hội, làm cho xã hội thay
đổi dần đến một giai đoạn nào đó thì có bước nhảy vọt, biến động sâu xa,
chuyển thái về chất từ một trạng thái này sang một trạng thái khác (biến
đổi đột biến, cách mạng). Ở thế kỷ XX, lý luận về biến đổi xã hội đã
được nghiên cứu mở rộng hơn trước rất nhiều, nhiều trường phái xuất
hiện. Hiện nay chưa có một lý luận thống nhất về biến đổi xã hội nhưng
các nhà xã hội học đều nhận thức rằng biến đổi xã hội không tách rời

những điều kiện bình thường của xã hội ở khắp mọi nơi” (Từ điển bách
khoa Việt Nam, trang 221).
Theo cá nhân tác giả cách hiểu thống nhất là sự biến đổi được định nghĩa vắn
tắt như một sự thay đổi so với một tình trạng xã hội hoặc một nếp sống có trước.
1.1.3.2. Biến đổi văn hóa

Các giá trị văn hóa được hình thành trên nền tảng vững chắc của điều kiện
tự nhiên, sinh thái, lịch sử, xã hội, sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới.
Vì thế, nhìn chung nó có tính bền vững rất cao và thể hiện đậm nét bản sắc dân
tộc. Tuy vậy, cùng với sự biến đổi tự thân, các giá trị văn hóa cịn biến đổi do tác
động trực tiếp và gián tiếp của môi trường, của nền cảnh đã sản sinh, ni dưỡng
nó. Khơng có một nền văn hóa nào đứng n một chỗ, khơng có một nền văn hóa
nào có thể giữ nguyên trạng thái của nó từ buổi ban đầu cho đến bây giờ dù người ta
có cố bảo tồn duy trì nó mãi. Kết quả của những cơng trình nghiên cứu về văn hóa
của các nhà văn hố nhân loại học (cultural anthropology) cho thấy khơng có một
nền văn hóa nào hồn tồn giữ được ngun vẹn những đặc tính của nó qua thời
gian. Bất cứ nền văn hóa nào, dù ở trong những xã hội đóng kín khơng có những


20

tiếp xúc với bên ngồi đi nữa, vẫn ít nhiều thay đổi theo thời gian. Nhịp điệu biến
đổi có thể từ rất nhanh, đến nhanh, hay chậm và rất chậm, tùy theo hoàn cảnh, tùy
theo trường hợp cụ thể của từng địa phương, từng dân tộc.
1.2. Tổng quan về người Thái ở Sơn La
1.2.1. Lịch sử hình thành tộc người Thái
Người Thái tên tự gọi là “Tay” hoặc “Thay” còn có những tên gọi khác theo
các nhóm địa phương như: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tay Dọ. Người Thái
ở Tây Bắc vẫn chiếm số đông nhất (Lai Châu, Sơn La, Hịa Bình, Thanh Hóa, Nghệ
An), có nhiều ngành Thái khác nhau: Thái Đen (Tay Đăm), Thái Trắng (Tay Khao).

Các tư liệu về người Thái đã ghi lại: Từ lâu đời quê hương người Thái nằm trong
một vùng rộng lớn thuộc khu vực Xíp - xong - păn - na (mười hai cánh đồng) ở Vân
Nam - Trung Quốc, khu Mường Ơm, Mường Ai (thuộc các châu Tùng Lăng, Hồng
Nham), khu mường Bỏ té (thuộc miền Tây Nam Vân Nam, Thượng Lào giáp Điện
Biên) và Mường Thanh (Điện Biên). Vào khoảng thế kỉ IX - X, một bộ phận của
người Thái Trắng đã thiên di từ Mường Thanh và miền Tây Nam Vân Nam vào đất
Lào. Họ là một trong những thành phần chính, là cơ sở cho tù trưởng Pha Ngừm
sáng lập nhà nước Lạn Xạng (Vạn Tượng, Triệu Voi) với kinh đô là Mường Luông
Pha Lăng (Luông pra băng) vào năm 1353 [29, tr. 26 - 27].
Văn hóa của người Thái ở Tây Bắc cho đến nay là nền văn hóa cịn lưu giữ được
những truyền thống cổ xưa, ít bị pha trộn với nền văn hóa xung quanh, chiếm phần đa
dân số của cả vùng cho nên người Thái ở đây đóng vai trị chủ yếu nhất trong vùng.
1.2.2. Người Thái ở Sơn La
Sơn La có đường biên giới Việt - Lào dài hơn 250km và đường giáp ranh với
các tỉnh bạn dài 628km. Sơn La có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh - quốc
phịng, kinh tế - xã hội và văn hóa ở miền Tây Bắc của đất nước, là vùng rừng núi
cao có địa hình chia cắt mạnh, có nhiều sơng suối, vừa là tuyến giao thông, vừa là
tiềm năng thủy điện to lớn. Khí hậu vùng này có sự phân hóa mạnh. Nhìn chung,
Sơn La là tỉnh có khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi, có mùa đơng lạnh khơ, mùa
hè nóng ẩm mưa nhiều. Đặc điểm cơ bản của khí hậu Sơn La là mùa lạnh trùng với


21

mùa khơ, mùa nóng với mùa mưa, nhiệt độ trung bình của năm là 18oC, nhiệt độ
chênh lệch giữa ban ngày với ban đêm lớn.
Tổ chức hành chính của tỉnh Sơn La gồm: Thành phố Sơn La và 10 huyện:
Thuận Châu, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu, Phù Yên, Bắc Yên, Mường La,
Quỳnh Nhai, Sông Mã và Sốp Cộp. Sơn La là tỉnh có nhiều dân tộc cùng sinh
sống, nếu tính dân tộc có hàng trăm người trở lên thì Sơn La có 12 dân tộc đó là:

Kinh, Mường, Thái, Tày, H’mông, Dao, La Ha, Khơ Mú, Xinh Mun, Hoa và
Kháng. Trong đó người Thái có số dân đơng nhất, họ chung sống với nhau thành
những bản làng đông đúc. Xã hội người Thái được tổ chức theo mơ hình thiết chế
bản - mường; có mường lớn, mường nhỏ, trong đó bao giờ cũng có một mường
trung tâm quy tụ các mường khác gọi là “mường luông”; các mường nhỏ gọi là
“mường vảy”. Mỗi mường thường có chủ mường: án nha (mường lớn), phìa
(mường nhỏ) và tạo lộng/ quén (mường lộng) đứng đầu, điều hành, quản lý toàn
bộ các hoạt động của mường; phạm vi có đất đai, vùng thiên nhiên và có luật lệ
riêng. Mỗi bản đều có tên gọi riêng theo truyền thuyết hay quan niệm của từng địa
phương. Mỗi bản thường có từ 40 đến 50 hộ, bản lớn có tới trên 100 hộ. Do người
Thái có tập quán ở nhà sàn và cũng thích nghi với cách sinh hoạt này, mỗi nhà đều
có khoảng đất rộng và ít khi có bờ rào ngăn cách giữa nhà này với nhà khác. Mỗi
bản đều có ranh giới rất cụ thể, có khu rừng, ruộng nước, ruộng nương, bãi chăn
gia súc, rừng cấm, rừng ma, rừng nguồn nước… Người Thái là một trong những
cư dân bản địa rất lâu đời ở đây nên họ đã lựa chọn cho mình những vị trí đẹp và
thuận lợi cho đời sống và từ đó lập bản, lập mường. Đó là những nơi có đồi núi
thấp, gần sơng suối, có địa thế rộng rãi, bằng phẳng, thuận tiện cho việc canh tác,
đi lại… Bên cạnh bộ máy hành chính, mỗi bản, mỗi mường đều có hệ thống chức
dịch và được hưởng những quyền lợi và các nghĩa vụ kèm theo.
1.3. Người Thái ở Mường Lựm - Yên Châu - Sơn La
1.3.1. Khái quát chung về huyện Yên Châu
Yên Châu là một huyện miền núi, biên giới của tỉnh Sơn La, trung tâm huyện
lỵ cách thị xã Sơn La 64 km về hướng đông, cách Thủ đô Hà Nội 240 km theo
hướng Tây Bắc, có toạ độ địa lý như sau: 1040 10’ - 1040 40’ kinh độ đông, 210


22

07’ - 210 14’ vĩ độ bắc; Phía đơng giáp huyện Mộc Châu; Phía tây giáp huyện Mai
Sơn; Phía bắc giáp huyện Bắc Yên; Phía nam giáp nước CHDCND Lào với 47 km

đường biên giới [16].
Huyện Yên Châu nhìn chung có địa hình khá phức tạp, bị chia cắt bởi các
dãy núi đá vơi cao.
n Châu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều. Do
các yếu tố về vị trí địa lý, địa hình, độ cao đã phân chia huyện thành 2 vùng khí hậu
khác nhau.
- Vùng lịng chảo (dọc quốc lộ 6): Khí hậu khơ nóng, chịu ảnh hưởng của gió
mùa tây nam. Có chế độ nhiệt, số ngày nắng cao thuận lợi cho phát triển cây lương
thực, cây công nghiệp hàng năm, cây ăn quả nhiệt đới.
- Vùng cao, biên giới: Khí hậu mát mẻ, độ ẩm cao mang tính chất á nhiệt đới,
thích nghi cho các loại cây trồng á nhiệt đới, chăn ni đại gia súc.
- Khí hậu phân chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 - tháng 10; mùa
khô từ tháng 11 - tháng 4 năm sau, mùa khơ thường có rét đậm kéo dài, thường xảy
ra sương muối ở vùng cao biên giới.
Huyện có nhiều loại đất phong phú, phù hợp với trồng cây nông nghiệp, đặc
biệt là cây ngơ và lúa nước, lúa nương. Ngồi ra cịn có thể trồng cây lâm nghiệp vì
diện tích rừng cịn khá lớn. Trong vườn của các gia đình còn trồng được các loại
cây ăn quả như mơ, mận, nhãn,...và đặc biệt là xoài.
1.3.2. Vài nét về xã Mường Lựm
Mường Lựm là một xã vùng cao thuộc huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Cách
trung tâm thị trấn gần 40km, dân số năm 2011 khoảng 2805 người, mật độ đạt 56
người/km². Xã Mường Lựm có diện tích 5044 ha, gồm 12 bản. Có vị trí giáp ranh
như sau:
- Phía Bắc giáp xã Chiềng Sại huyện Bắc n.
- Phía Đơng giáp xã Tân Lập huyện Mộc Châu.


23

- Phía Nam giáp xã Tú Nang và xã Chiềng Hắc huyện Mộc Châu.

- Phía Tây giáp xã Chiềng Hặc huyện Yên Châu.
Từ trung tâm xã đến Quốc lộ 6 khoảng 15 km, giao thơng đi lại rất khó khăn
nhất là vào mùa mưa gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc giao lưu, trao đổi, vận
chuyển hàng hoá của nhân dân.
Xã Mường Lựm có địa hình cao và dốc, chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao và
thung lũng dốc tụ. Độ cao trung bình 1.050m so với mặt nước biển, điểm cao nhất
1.300m, điểm thấp nhất 800m. Địa hình núi cao là hai dãy núi: Dãy phía Bắc bắt
nguồn từ xã Chiềng Hặc huyện Yên Châu qua địa phận xã tới xã Tân Lập huyện
Mộc Châu; Dãy phía nam từ xã Chiềng Hặc, Tú Nang qua địa phận xã tới Chiềng
Hắc huyện Mộc Châu. Nằm xen kẽ giữa các núi cao là những thung lũng dốc tụ, tập
trung hai bên suối Huổi Luông tạo nên những vùng đất tương đối bằng, thích hợp
trồng lúa nước và hoa màu [3].
Trên địa bàn xã cũng có rất nhiều những cánh rừng khá nguyên sinh như Pà
Lán, Pà hông cori, Pà Com láu, Pà Đán kháu, Nom khỏu, và những thửa ruộng màu
mỡ đem lại năng suất cao: Na Co, Na Ngưú, Na Phái Luống, Na Co muồng, Na
Tiến khến…
Mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền núi phía Bắc được chia
thành hai mùa rõ rệt, mùa nóng ẩm (mùa mưa) từ tháng 4 đến tháng 9 mưa tập trung
vào các tháng 6,7, 8 mùa khô lạnh (mùa khô) từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Tuy
nhiên xã Mường Lựm nằm ở vùng có độ cao lớn, nên nhiệt độ trung bình của xã
thấp hơn so với vùng huyện lỵ Yên Châu từ 3 - 50C .
Nhiệt độ trung bình năm 21oC, nhiệt độ cao nhất từ 25 - 300C tập trung từ
tháng 6 đến tháng 8, nhiệt độ thấp nhất từ 6 - 100C vào tháng 1, 2; độ ẩm trung bình
78%. Xã Mường Lựm có lượng mưa khá dồi dào, số ngày mưa trung bình 150
ngày/năm, đặc biệt thường xuất hiện sương mù, sương muối và gió Tây Nam khơ,
nóng vào tháng 3, 4 gây khơng ít tác hại cho sản xuất, gieo trồng [3].


24


Trên địa bàn xã hiện có suối Huổi Lng, suối Na Hua và các khe rạch khác
chảy từ các thung lũng, chân núi ra suối và đồng ruộng như suối Chung Xả, suối Na
Hín, Suối Nà Púng, suối Na Co Ngịa… Các mó nước như Thẳm Thọc, Xính Xan…
Ngồi ra cịn có đập Hồ Nồng Lổm, Hồ Thủy Lợi; Phai lớn như phai Cô Hương, Nà
Púng, Nà Băng…Song do địa hình dốc nên lưu lượng nước và tốc độ dịng chảy
biến động theo hai mùa khác nhau. Mùa mưa lưu lượng nước và tốc độ dòng chảy
lớn, nhiều khi còn gây ra lũ quét. Mùa khô lượng nước giảm, đôi khi bị cạn kiệt,
khô hạn kéo dài gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, sinh hoạt của nhân dân.
1.3.2.1. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên
 Tài nguyên đất
Theo kết quả tổng hợp từ bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Sơn La tỷ lệ: 1/100.000, trên
địa bàn xã Mường Lựm có các nhóm đất chính sau:
Nhóm đất đỏ nâu có diện tích khoảng 3.348 ha chiếm 66% diện tích tự
nhiên, đất có tầng dày và độ phì cao, tỷ lệ mùn lớn thích hợp cho các loại cây cơng
nghiệp như chè và các loại cây ăn quả.
Nhóm đất vàng đỏ (Ký hiệu FS) có diện tích khoảng 793 ha, chiếm 15% diện
tích tự nhiên, tầng đất dày trung bình độ phì kém, thường bạc màu ít thích hợp cho
sản xuất nơng nghiệp.
Nhóm đất vàng nhạt (Ký hiệu Fq) có diện tích khoảng 606 ha, chiếm 12%
diện tích tự nhiên. Loại đất này thích hợp cho việc trồng các loại cây ngắn ngày và
khoanh nuôi bảo vệ rừng [3].
 Tài nguyên nước
Nước mặt: Là nguồn nước chính phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân
dân. Trên địa bàn xã ngoài hai suối Na Hua và Huổi Lng cịn có các khe rạch
chảy từ các khe núi và 15,43 ha diện tích các ao hồ và mặt nước chuyên dùng.
Nguồn nước được lưu giữ ở hệ thống các suối và ao, hồ chứa này có ý nghĩa quan


25


trọng không chỉ với chế độ thuỷ văn và môi trường sinh thái mà cịn phục vụ sản
xuất nơng nghiêp, nuôi trồng thuỷ sản và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của con
người. Nhưng do địa hình dốc, chia cắt mạnh và độ che phủ của thảm thực vật thấp
nên khả năng giữ nước rất hạn chế. Mặt khác nguồn nước mặt phân bố không đồng
đều, nhiều khu vực không có nguồn nước dự trữ, sản xuất phụ thuộc vào nước mưa,
do vậy ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.
Nước ngầm: Hiện nay nguồn nước ngầm chưa ở địa bàn xã chưa được điều tra,
phân tích đánh giá cụ thể. Song thực tế cho thấy Mường Lựm cũng như các xã thuộc
khu vực miền núi khả năng khai thác nguồn nước ngầm là rất khó khăn và tốn kém.
 Tài ngun rừng
Diện tích đất lâm nghiệp hiện có của xã là 3.342,31 ha. Trong đó đất có rừng
tự nhiên 3.279,42 ha, đất có rừng trồng 5,86 ha, cịn lại là đất khoanh ni phục hồi
rừng 57,03 ha. Diện tích các loại rừng này đang được quản lý bảo vệ và khôi phục
dần để nâng cao chất lượng rừng và độ che phủ rừng. Song các vùng rừng này lại
phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở những nơi hiểm trở [3].
Hệ động vật rừng như các loài Gấu, Lợn rừng, Sóc... đang cạn kiệt dần do
tình trạng chặt phá rừng làm nương rẫy, săn bắn thú rừng bừa bãi của nhân dân từ
những năm trước đây.
 Tài nguyên nhân văn
Xã Mường Lựm có 2 dân tộc (Dân tộc Thái, H’Mơng) đồn kết, gắn bó
chung sống từ rất lâu đời trong lịch sử, song mỗi dân tộc có những nét đặc trưng
riêng trong đời sống văn hố, hồ nhập làm phong phú, đa dạng bản sắc văn hoá
của cộng đồng các dân tộc. Đến nay các nét văn hoá truyền thống vẫn được lưu
giữ, bảo tồn và được thể hiện trong các lễ hội hàng năm như: Múa xoè, ném cịn,
kéo co, bắn nỏ…
1.3.2.2. Cảnh quan mơi trường
Cảnh quan xã Mường Lựm mang vẻ đẹp đặc trưng riêng của vùng núi Tây
Bắc, xen kẽ liên tiếp dãy núi trùng điệp là những thung lũng và các phiêng bãi khá
bằng phẳng tạo nên một cảnh quan thiên nhiên rất sinh động.



×