1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
VŨ THỊ VIỆT NGA
NGHIÊN CỨU CÔNG TÁC PHÁT
TRIỂN
NGUỒN LỰC THÔNG TIN
TẠI BAN TƯ LIỆU – VIỆN MỸ
THUẬT
Chuyên ngành: Khoa học Thư viện
Mã số: 60 32 20
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ LAN THANH
HÀ NỘI - 2011
2
LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện đề tài, tơi đã nhận được sự hướng
dẫn và giúp đỡ tận tình của Cô giáo hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn
Thị Lan Thanh, các thầy cô giáo Khoa Sau Đại học – Trường Đại
học Văn hóa Hà Nội, các đồng nghiệp đang cơng tác tại Viện Mỹ
thuật – Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
Nhân dịp này, cho phép tơi được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc
của mình tới các thầy cơ kính mến và các bạn đồng nghiệp.
Luận văn chắc chắn còn có hạn chế và khiếm khuyết, nhưng
tơi mong muốn được góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất
lượng nguồn lực thông tin tại Viện Mỹ thuật
3
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
AACR2
Bộ Quy tắc biên mục Anh Mỹ
BBK
Khung phân loại thư viện thư mục
CSDL
Cơ sở dữ liệu
DDC
Khung phân loại thập phân Dewey
IFLA
Hiệp hội thư viện quốc tế
ISBD
Mô tả thư mục theo tiêu chuẩn quốc tế
MARC 21
Khỗ mẫu biên mục đọc máy
NDT
Người dùng tin
UDC
Khung phân loại thập tiến quốc tế
UNESCO
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
4
MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1.NGUỒN LỰC THÔNG TIN VÀ NGƯỜI DÙNG TIN
6
CỦA BAN TƯ LIỆU - VIỆN MỸ THUẬT.
1.1.
Khái quát về Viện Mỹ thuật và Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật
6
1.2.
Nguồn lực thông tin tại Ban Tư liệu
8
1.3.
Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin tại Ban Tư liệu - Viện 18
Mỹ thuật
CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN NGUỒN
26
LỰC THÔNG TIN CỦA BAN TƯ LIỆU - VIỆN MỸ THUẬT
2.1. Chính sách phát triển nguồn lực thơng tin của Ban Tư liệu
26
2.2. Hiện trạng hoạt động bổ sung tài liệu của Ban Tư liệu
28
2.2.1. Nguồn lưu chiểu
29
2.2.2. Nguồn biếu tặng và tài liệu trao đổi
32
2.2.3. Nguồn mua
36
2.3. Hiện trạng cơ cấu nguồn lực thông tin của Ban Tư liệu
39
2.3.1. Loại hình tài liệu
39
2.3.2. Ngơn ngữ tài liệu
51
2.4. Cơng tác tổ chức, quản lý và khai thác nguồn lực thông tin của
53
Ban Tư liệu
5
2.4.1. Công tác tổ chức, quản lý nguồn lực thông tin
53
2.4.2. Khai thác nguồn lực thông tin tại Ban Tư liệu
57
2.5. Nhận xét và đánh giá về hiện trạng công tác phát triển nguồn
59
lực thông tin của Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
64
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC THÔNG TIN
TẠI BAN TƯ LIỆU - VIỆN MỸ THUẬT
3.1. Hồn thiện chính sách phát triển nguồn lực thông tin
64
3.2. Phối hợp bổ sung và chia sẻ nguồn lực thông tin
65
3.2.1. Phối hợp bổ sung và chia sẻ nguồn lực thông tin
65
3.2.2. Phát triển vốn tài liệu ngoại văn
69
3.3. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các dịch vụ khai thác
72
thông tin
3.4. Tăng cường ứng dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong
74
việc phát triển, tổ chức quản lý và khai thác nguồn lực thông tin
3.4.1.Tăng cường ứng dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong việc
phát triển, tổ chức và khai thác nguồn lực thông tin
74
3.4.2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc xây dựng kho dữ liệu mỹ
thuật tạo hình phục vụ công tác đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu
77
3.4.3. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác bảo quản tài
liệu quý hiếm
85
6
3.5. Nâng cao trình độ cán bộ Ban Tư liệu và hướng dẫn đào tạo 87
người dùng tin
3.5.1. Nâng cao trình độ cán bộ Ban Tư liệu
3.5.2. Hướng dẫn và đào tạo người dùng tin
87
88
KẾT LUẬN
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
PHỤ LỤC
95
7
MỞ ĐẦU
1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chúng ta bước vào thế kỷ 21 trong bối cảnh mọi xã hội trên thế giới
đã và đang thay đổi từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh thông tin
và tri thức mà cơ sở của nó là sự dịch chuyển từ nền kinh tế công nông nghiệp
truyền thống sang nền kinh tế tri thức.
Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khóa IX của nước ta đã thông qua Pháp lệnh Thư viện ngày
28.12.2000. Ngay tại điều 1, Pháp lệnh Thư viện đã nêu: "Thư viện có chức
năng, nhiệm vụ giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức
việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri
thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và
giải trí của mọi tầng lớp nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa phục
vụ cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước". [10]
Viện Mỹ thuật đã có bề dày hơn 45 năm, lịch sử xây dựng và phát
triển Viện nằm trong chiều dài lịch sử dân tộc và lịch sử mỹ thuật Việt Nam.
Hiện nay, Viện Mỹ thuật đã xuất bản được nhiều ấn phẩm đồng thời cũng là
những cơng trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân cán bộ Viện trong thời
gian qua. Trong thời gian 45 năm Viện Mỹ thuật liên tục chuyển đổi phiên
hiệu, tách nhập cơ quan chủ quản, cán bộ Viện vì thế cũng có nhiều thay
đổi...chính vì thế cơng tác cập nhật, lưu trữ và hệ thống thông tin tư liệu gặp
8
nhiều khó khăn, khơng đáp ứng được nhu cầu cập nhật thông tin và phục vụ
công tác nghiên cứu trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Với những vấn đề trên, sự cần thiết hệ thống và đánh giá những tư liệu
mà Viện Mỹ thuật đang lưu trữ là một công việc cần thiết, nó sẽ giúp chúng ta
nhận diện tổng thể và khách quan về hệ thống nguồn lực thông tin tư liệu mà
Viện Mỹ thuật đang lưu trữ cũng như đề ra được phương hướng sưu tầm, lưu
trữ và khai thác nguồn lực thông tin tư liệu khoa học và hiệu quả hơn.
Từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề "Nghiên cứu công tác phát triển
nguồn lực thông tin tại Viện Mỹ thuật" làm đề tài luận văn thạc sỹ khoa học
thư viện.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nguồn lực thông tin là yếu tố quan trọng cấu thành nên thư viện, do
đó đã có khá nhiều luận văn chuyên ngành khoa học thư viện quan tâm
nghiên cứu đến vấn đề này như đề tài "Tăng cường nguồn lực thông tin tại
trung tâm thông tin - thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội" của thạc sỹ
Nguyễn Thị Thuận năm 2006, đề tài "Tăng cường nguồn lực thơng tin - địa
chí ở thư viện tỉnh Bắc Giang phục vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của
địa phương" của thạc sỹ Đỗ Thị Thanh Thủy năm 2006, năm 2003 có đề tài
"Tổ chức và khai thác nguồn lực thông tin ở thư viện khoa học tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh" của thạc sỹ Nguyễn Quang Hồng Phúc, hay như đề tài "Tổ
chức và khai thác nguồn lực thông tin tại Trung tâm thông tin - thư viện Đại
học Thái Nguyên" của thạc sỹ Hà Thị Thu Hiếu thực hiện năm 2002. Trong
các luận văn này, có luận văn nghiên cứu về nguồn lực thông tin tại thư viện
chuyên ngành (thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội, thư viện Đại học Thái
Nguyên), có luận văn nghiên cứu về nguồn lực thông tin tại thư viện công
9
cộng (thư viện tỉnh Bắc Giang, thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh), có 2 đề tài đề cập tới khía cạnh tăng cường nguồn lực thơng tin.
Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là một thư viện chuyên ngành, tuy
nhiên nguồn lực thông tin của thư viện mang tính chất tài liệu tổng hợp, đa
ngành, hồn tồn khơng giống với nguồn lực thơng tin tại Viện Mỹ thuật
Nguồn lực thông tin của Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật có nhiều đặc
điểm riêng mà các thư viện khác khơng có (các bản rập, bản khắc hoa văn,
ảnh, film video...chiếm số lượng lớn), hơn nữa chưa có đề tài nào nghiên cứu
về nguồn lực thơng tin tại Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật. Đề tài hồn thành, sẽ
góp phần đưa ra được phương hướng phát triển nguồn lực thông tin tại Ban
Tư liệu - Viện Mỹ thuật.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hiện trạng nguồn lực thông tin tại Ban Tư liệu Viện Mỹ thuật. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hợp lý nhằm phát triển
nguồn lực thông tin tư liệu.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ các khái niệm: Nguồn lực thông tin, Phát triển
nguồn lực thông tin và vai trị của nguồn lực thơng tin tại Ban Tư liệu - Viện
Mỹ thuật.
Khảo sát thực trạng nguồn lực thông tin tại Ban Tư liệu - Viện Mỹ
thuật.
Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn lực thông tin cho Ban
Tư liệu - Viện Mỹ thuật.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
10
Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu về nguồn lực thông tin tư liệu tại
Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn, bao gồm các nguồn lực
thông tin, tài liệu Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật có được từ năm 1962 tới nay.
5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu và giải quyết các vấn đề của luận văn, tôi
đã sử dụng phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận
Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, dựa trên cơ sở các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước về văn hóa, thư viện để lý giải tầm quan trọng về nguồn lực thông
tin và phương hướng phát triển của Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp: xử lý, phân tích và tổng hợp tài
liệu, so sánh, khảo sát, thống kê, quan sát và phỏng vấn trực tiếp, điều tra
bằng bảng hỏi.
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN
- Ý nghĩa khoa học
Luận văn khẳng định rõ vai trò của Ban Tư liệu, cũng như nguồn lực
thông tin của Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật trong việc góp phần nâng cao chất
lượng các đề tài nghiên cứu của cán bộ Viện Mỹ thuật, cũng như nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên
và sinh viên Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam (cơ quan chủ quản của Viện
Mỹ thuật)
11
- Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu, các giải pháp và khuyến nghị của luận văn
có thể được xem xét và ứng dụng trong các hoạt động của Ban Tư liệu nhằm
nâng cao chất lượng phục vụ bạn đọc, người dùng tin tại Viện Mỹ thuật.
7. NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận văn
kết cấu trong ba chương
Chương 1. Nguồn lực thông tin và người dùng tin của Viện Mỹ
thuật
Chương 2. Hiện trạng công tác phát triển nguồn lực thông tin của
Viện Mỹ thuật
Chương 3. Những giải pháp nhằm phát triển nguồn lực thông tin
tại Viện Mỹ thuật
12
CHƯƠNG 1
NGUỒN LỰC THÔNG TIN VÀ NGƯỜI DÙNG TIN CỦA
BAN TƯ LIỆU - VIỆN MỸ THUẬT
1.1. Khái quát về Viện Mỹ thuật và Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật
Viện Mỹ thuật là cơ quan nghiên cứu mỹ thuật lớn nhất Việt Nam, với
bề dày gần 50 năm, lịch sử xây dựng và phát triển Viện nằm trong chiều dài
của lịch sử dân tộc và lịch sử mỹ thuật Việt Nam.
Tiền thân của Viện Mỹ thuật là Viện Mỹ thuật mỹ nghệ được thành
lập vào năm 1962 với người Viện trưởng đầu tiên là Họa sỹ Nguyễn Đỗ
Cung. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, với ý thức được rằng Viện Mỹ
thuật mỹ nghệ là cơ quan nghiên cứu đầu ngành về nghệ thuật tạo hình, do đó
hệ thống tư liệu giai đoạn này thường xuyên được bổ sung cập nhật.
Năm 1971, Viện Mỹ thuật mỹ nghệ được sáp nhật vào Viện Nghệ
thuật trực thuộc Bộ Văn hóa với tên gọi là Ban Mỹ thuật. Viện trưởng của
Viện Mỹ thuật giai đoạn này là Giáo sư Hà Xuân Trường.
Vào năm 1979, Ban Mỹ thuật được tách khỏi Viện Nghệ thuật và
được đổi tên thành Viện Nghiên cứu mỹ thuật trực thuộc Bộ Văn hóa.
Năm 1988, một lần nữa Viện Mỹ thuật được nhập thành Viện nghiên
cứu mỹ thuật trực thuộc Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
Viện Nghiên cứu mỹ thuật trực thuộc Viện Văn hóa nghệ thuật Việt
Nam đến năm 1995 thì được tách ra thành Viện Mỹ thuật trực thuộc Trường
Đại học Mỹ thuật Hà Nội (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam) cho
đến nay. Viện trưởng hiện nay của Viện Mỹ thuật là PGS.NGND.Họa sỹ Lê
Anh Vân.
13
Với chặng đường gần 50 năm xây dựng, phát triển và qua 5 lần tách
nhập, thay đổi phiên hiệu, Viện Mỹ thuật vẫn có thể tự hào là cơ quan nghiên
cứu hàng đầu về nghệ thuật tạo hình, Viện đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
ví dụ : Mỹ thuật Lý, Trần, Lê, Mạc, Mỹ thuật Nguyễn ở Huế, Bản rập họa tiết
Mỹ thuật cổ Việt Nam, Hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam,
Mỹ thuật Việt Nam Hiện đại, Bãi đá cổ Sapa dưới con mắt tạo hình...
Cùng với lịch sử và phát triển gần 50 năm của Viện Mỹ thuật, Ban Tư
liệu cũng trải qua những giai đoạn hết sức khó khăn. Từ một phịng thư viện
với một cán bộ kiêm nhiệm, năm 2003, Ban Tư liệu có 8 cán bộ và năm 2008,
cán bộ của Ban là 12 người. Trong năm 2011 này, với sự đồng ý của Lãnh
đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam,
Viện Mỹ thuật đã bắt tay vào cải tạo và xây mới. Từ một phòng thư viện được
thành lập vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, Ban Tư liệu sẽ được nâng
cấp thành Trung tâm dữ liệu mỹ thuật tạo hình với những phần mềm mới nhất
phục vụ việc lưu trữ và khai thác tối đa các tài liệu mỹ thuật tạo hình q
hiếm.
Ban Tư liệu có một hệ thống tài liệu nghiên cứu rất phong phú, phục
vụ tốt cho công việc giảng dạy và nghiên cứu.Trong kho lưu trữ của Ban Tư
liệu có các loại tư liệu sau:
- Hệ thống thư viện gồm sách, báo, tạp chí trong và ngồi ngành, nhưng
phần lớn sách báo có nội dung viết về nghệ thuật tạo hình.
- Hệ thống tư liệu nghiên cứu về mỹ thuật cổ đại, mỹ thuật hiện đại và
mỹ thuật ứng dụng, các tài liệu báo cáo khoa học, tài liệu điền dã di tích, tài
liệu dịch...
- Hệ thống bản rập và bản vẽ các di tích mỹ thuật cổ Việt Nam.
14
- Hệ thống ảnh tư liệu hiện vật, tranh, tượng của các chuyên ngành
1.2. Nguồn lực thông tin tại Ban Tư liệu
1.2.1. Khái niệm "nguồn lực thông tin"và “phát triển nguồn lực
thông tin”
Ở dạng chung nhất, nguồn lực thông tin được hiểu như là tổ hợp các
thông tin nhận được và tích lũy được trong q trình phát triển khoa học và
hoạt động thực tiễn của con người, để sử dụng nhiều lần trong sản xuất và
quản lý xã hội. Nguồn lực thơng tin phản ánh các q trình và hiện tượng tự
nhiên được ghi nhận lại trong kết quả của các cơng trình nghiên cứu khoa học
và trong các dạng tài liệu khác của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Nguồn lực thông tin bao gồm các dữ liệu thể hiện dưới dạng văn bản,
hình ảnh hoặc âm thanh được ghi lại trên phương tiện theo quy ước và không
theo quy ước, các sưu tập, những kiến thức của con người, những kiến thức
của tổ chức và ngành công nghiệp thông tin [15]
Nguồn lực thông tin được coi là phần tích cực của tiềm lực thơng tin
được tổ chức, kiểm sốt sao cho người dùng tin có thể truy nhập, tìm kiếm,
khai thác, sử dụng được và phục vụ cho các lợi ích khác nhau của xã hội.
Nguồn lực thơng tin có 5 đặc trưng sau:
- Tính vật lý: Nguồn lực thông tin là những phần thông tin tri thức
được ghi lại, cố định lại thông qua một hệ thống dấu hiệu và được lưu giữ
trên các vật mang tin (như giấy, đĩa, băng từ...)
- Tính cấu trúc: Nguồn lực thơng tin phải có tính cấu trúc thể hiện ở
chỗ các thơng tin phải được trình bày, diễn đạt, nhận dạng (nhận dạng về hình
thức và nhận dạng về nội dung) theo các quy cách và tiêu chuẩn nhất định
giúp con người có thể bảo quản an tồn và dễ dàng truy nhập thông tin.
15
- Tính truy cập: Nguồn lực thơng tin phải được tổ chức kiểm sốt sao
cho người dùng tin có thể tìm ra chúng thơng qua các điểm truy cập khác
nhau, ví dụ người dùng tin quan tâm đến nội dung thơng tin thì các chủ đề sẽ
là thành phần truy cập chủ yếu trong các hệ quản trị thông tin.
- Tính chia sẻ: Tính chia sẻ của nguồn lực thơng tin thể hiện ở khả năng
trao đổi nhiều chiều giữa các hệ thống thông tin với nhau, muốn vậy giữa các
hệ thống thơng tin phải có sự tương thích. Tiền đề công nghệ để trao đổi
nhiều chiều này là sự tồn tại của các mạng. Việc cung cấp thông tin, dữ liệu,
tài liệu không chỉ hạn chế trong khuôn khổ những gì cơ quan thơng tin, thư
viện đó có mà phải thực hiện nguyên lý chia sẻ nguồn lực thông tin dựa trên
mạng trao đổi thơng tin năng động, có hiệu quả.
- Tính giá trị: Giá trị của thơng tin càng cao khi càng có nhiều người sử
dụng. Nguồn lực thông tin nếu được sử dụng một cách hợp lý sẽ có tác động
thúc đẩy mạnh mẽ các q trình hoạt động xã hội, kích thích sự sáng tạo của
con người.
Thông tin là một dạng tài nguyên được tạo lập dưới nhiều dạng thức
trong các hoạt động quản lý, nghiên cứu khoa học, chuyển giao cơng nghệ.
Do đó để phát triển nguồn lực thơng tin phải "tích cực tạo nguồn, tổ chức việc
thu thập, chọn lọc lưu trữ các dạng nguồn tin trong nước và ngoài nước liên
quan tới các khung đề mục ưu tiên và phù hợp với trình độ, thích hợp với điều
kiện của đất nước. Đẩy mạnh q trình tạo lập và làm giàu vốn tài ngun
thơng tin quốc gia. Tổ chức kiểm soát, quản lý hướng dẫn việc sử dụng tài
nguyên thông tin đạt hiệu quả cao. Xây dựng các kho tư liệu tra cứu quan
trọng định hướng theo ngành, các cơ sở dữ liệu tư liệu đặc chủng theo các
dạng nguồn tin, các cơ sở dữ kiện và hỗn hợp về các đối tượng kỹ thuật, công
16
nghệ và sản phẩm quan trọng, về các nguồn lực và tài nguyên của đất nước..."
[3]
Nguồn lực thông tin là nền tảng cho mọi hoạt động thơng tin thư viện.
Nó là cơ sở để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin, để hợp tác và chia sẻ
nguồn lực thông tin giữa các cơ quan thông tin - thư viện. Đây là vấn đề rất
quan trọng trong bối cảnh xã hội hiện nay khi mà công nghệ thông tin ngày
càng phát triển, chi phối toàn bộ các hoạt động của xã hội.
1.2.2. Quá trình hình thành nguồn lực thông tin tại Ban Tư liệu
1.2.3.1.Tư liệu Viện Mỹ thuật có từ năm 1962 - 1971
Vào những năm 1960 của thế kỷ trước, khi Viện Mỹ thuật Mỹ nghệ
được thành lập, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung người Viện trưởng đầu tiên đã huy
động lực lượng cán bộ tham gia công tác sưu tầm tư liệu, với mục tiêu để
chuẩn bị xây dựng Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Giai đoạn này, do hoàn cảnh
chiến tranh, tư liệu về mỹ thuật Việt Nam chưa được sưu tầm đầy đủ còn
thiếu khá nhiều nhưng hệ thống tư liệu đã gợi lên những nét cơ bản về nền mỹ
thuật Việt Nam. Các loại hình tư liệu thu thập được trong giai đoạn này gồm
ảnh đen trắng, tư liệu nghiên cứu điền dã, báo cáo khoa học, tư liệu bản rập,
tư liệu bản vẽ kiến trúc. Cán bộ nghiên cứu giai đoạn này nhờ cọ sát với thực
tế mà trình độ chun mơn được nâng cao, vì thế mà tư liệu cũng có chất
lượng
17
Bảng 1: Thành phần tư liệu giai đoạn 1962 - 1971
Năm
Tổng tài liệu của Sách, báo tạp chí
Tư liệu
1962
10
2
8
1963
8
4
4
1964
12
5
7
1965
10
6
4
1966
17
10
7
1967
15
8
7
1968
24
8
16
1969
33
12
21
1970
30
15
15
1971
35
8
27
Tổng số tài liệu
194
78
116
1.2.3.2.Tư liệu Viện Mỹ thuật có từ năm 1971 - 1995
Năm 1971, Viện Mỹ thuật Mỹ nghệ được tách ra thành hai đơn vị là
Viện Mỹ thuật và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Số lượng tư liệu kể trên được
chia làm 2. Viện Mỹ thuật vẫn tiếp tục công việc sưu tầm nhưng ở mức độ
khiêm tốn hơn bởi kinh phí hạn hẹp cho nên khơng cho phép chụp nhiều ảnh
tư liệu, đến năm 1978 mới bắt đầu có cán bộ chụp ảnh chuyên trách, nhưng lại
gặp phải những bất cập:
- Tư liệu ảnh: Số lượng tăng nhưng chất lượng lại giảm sút như khổ
ảnh nhỏ, bị mờ, hình ảnh hiện vật khơng được chú ý gạn lọc khn hình, film
18
và ảnh bảo quản chưa đúng quy trình nên nhanh chóng bị hư hại, thiếu tính hệ
thống. Tóm lại tư liệu ảnh giai đoạn này hiệu quả kém khi sử dụng.
- Tư liệu bản rập hoa văn mỹ thuật cổ trong giai đoạn này lại phát huy
hiệu quả đối với người làm công tác nghiên cứu, bản rập được sưu tầm khá
cơng phu, bảo quản tốt có hệ thống, dễ dàng cho người làm công tác tra cứu.
- Tư liệu nghiên cứu (tư liệu báo cáo điền dã, tư liệu dịch, báo cáo
khoa học). Phần tư liệu này có nhiều bản báo cáo điền dã về những di tích và
hiện vật mỹ thuật cổ được ghi chép công phu, mang tính thời điểm (vì nhiều
di tích hiện nay đã thay đổi hoặc đã mất). Nhiều báo cáo khoa học và tư liệu
dịch có chất lượng khá tốt.
Bảng 2: Thành phần tư liệu giai đoạn 1972 - 1995
Năm
Tổng số tài liệu
Sách, báo tạp
Tư liệu
1972
45
10
35
1973
62
14
48
1974
47
8
39
1975
82
22
60
1976
89
27
62
1977
98
21
77
1978
110
29
81
1979
120
35
85
1980
130
41
89
1981
136
44
92
1982
153
54
99
19
1983
207
57
150
1984
179
63
116
1985
363
65
298
1986
321
49
272
1987
371
56
315
1988
322
82
240
1989
392
85
307
1990
574
93
481
1991
580
101
479
1992
505
95
410
1993
619
97
522
1994
862
106
756
1995
954
112
842
Tổng số tài liệu
7.321
1.366
5.955
1.2.3.3. Tư liệu Viện Mỹ thuật có từ năm 1995 đến nay
Đến năm 1995, Viện Mỹ thuật được tiếp nhận Dự án điều tra di tích
Mỹ thuật cổ Việt Nam do Chính phủ Phần Lan tài trợ. Dự án này giúp Viện
Mỹ thuật tiếp thu công nghệ sưu tầm và bảo quản tư liệu mà các nước Châu
Âu vẫn làm như máy đo đại kinh vĩ điện tử để đo đạc địa hình và hình khối
kiến trúc, hệ thống thiết bị chụp ảnh, hệ thống máy tính lưu trữ dữ liệu, cách
thức lưu trữ tranh ảnh, tư liệu, lập phiếu tư liệu... Mục tiêu của dự án nhằm
lưu trữ hệ thống tư liệu mỹ thuật theo công nghệ mới mà cụ thể là mỹ thuật cổ
Việt Nam.
20
Trong thời gian thực hiện dự án, Viện Mỹ thuật cùng chuyên gia Phần
Lan tiến hành làm thí điểm 10 di tích mỹ thuật cổ để rút kinh nghiệm. Năm
1998 dự án đã kết thúc. 10 di tích mỹ thuật cổ được nghiên cứu trong dự án
này đều là các di tích mỹ thuật cổ lớn như di tích Chùa Mía, Chùa Bối Khê,
chùa Kim Liên... Kết quả thu được sau dự án là một bộ sưu tập lớn các bản vẽ
kiến trúc, bản rập, bản khắc họa tiết hoa văn mỹ thuật cổ, các bức ảnh tư
liệu... các di tích này. Các tư liệu này được sắp xếp là lưu trữ một cách khoa
học, thành một khu riêng biệt, thuận lợi cho việc tra tìm và khai thác của
người dùng tin.
Bảng 3: Thành phần tư liệu giai đoạn 1996 - nay
Năm
Tổng số tài liệu
Sách, báo tạp
Tư liệu
1996
1118
137
981
1997
1122
148
974
1998
1119
121
998
1999
1185
138
1047
2000
1350
200
1150
2001
1331
231
1100
2002
1708
335
1373
2003
1959
469
1490
2004
1940
720
1220
2005
2295
846
1449
2006
2163
883
1280
2007
2721
1002
1719
2008
2964
1372
1592
21
2009
3202
1341
1861
2010
3624
1522
2102
Tổng số tài liệu
29.810
9.474
20.336
1.2.3. Vai trị của nguồn lực thơng tin tại Viện Mỹ thuật
Ngay từ khi giành được chính quyền năm 1945, Đảng và Nhà nước ta
đã rất quan tâm đến văn hóa, giáo dục, trong đó khơng qn nhắc đến vai trò
quan trọng của thư viện đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc
biệt nhấn mạnh đến công tác bổ sung, tạo lập nguồn tài liệu
Chúng ta có thể điểm lại một số văn bản pháp quy của Đảng và Nhà
nước về công tác thơng tin - thư viện:
- Ngày 16/9/1970 Hội đồng Chính phủ ra quyết định 178 CP về
"Công tác thư viện", trong đó chỉ rõ: "Ngành văn hóa, các ngành và các địa
phương có thư viện cần coi trọng bảo đảm không ngừng bổ sung sách báo cho
các thư viện" [17]. Đây là một văn bản quan trọng có tính pháp quy cho công
việc xây dựng và tạo lập nguồn tin cho các thư viện trong những năm 70 - 80.
Quyết định đó nêu lên những phương hướng đúng đắn nhằm phát triển sự
nghiệp thư viện ở nước ta.
- Ngày 27/7/1990 Chỉ thị 63 CT/TV của Ban bí thư về "Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí, xuất bản" đã khẳng định "Sách
báo là cơng cụ rất quan trọng trên mặt trận tư tưởng, góp phần đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" [17]. Rõ
ràng chỉ thị đã nêu bật vai trị khơng thể thiếu được của sách, báo trong đời
sống xã hội của nhân dân. Qua đó, chúng ta càng phải quan tâm và đầu tư
nhiều hơn nữa cho vốn tài liệu ở các thư viện.
22
- Trong Pháp lệnh thư viện ra ngày 28/12/2000 có nêu rõ ở Điều 4 của
Chương 1 "Những quy định chung" là "Nhà nước đầu tư ngân sách để phát
triển thư viện, vốn tài liệu thư viện, mở rộng sự liên thông giữa các thư viện
trong nước và hợp tác trao đổi tài liệu với thư viện nước ngoài" [10] . Pháp
lệnh thư viện ra đời làm cơ sở pháp lý cho các hoạt động của thư viện, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động bổ sung, trao đổi tài liệu được dễ dàng và
nhanh chóng hơn.
- Gần đây nhất, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương
Khóa IX trình Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: "...xã hội, văn hóa là
những lĩnh vực thể hiện rõ nhất bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa",..."chúng ta chủ trương tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất
lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng
bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, tạo ra chất lượng mới của cuộc sống, xây dựng và
hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa" [17]
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta ln xác định chiến lược phát triển sự
nghiệp thư viện nói chung và việc đầu tư thích đáng cho xây dựng và phát
triển nguồn lực thơng tin của thư viện nói riêng.
Nguồn lực thơng tin là cơ sở để vận hành tồn bộ hoạt động của thư
viện, nếu khơng có nguồn lực thơng tin thì thư viện khơng thể hoạt động
được. Nói cách khác nguồn lực thông tin như một nguyên liệu của một ngành
sản xuất, ngun liệu có tốt thì sản phẩm mới đáp ứng được u cầu. Chính vì
vậy, nguồn lực thơng tin giữ vị trí then chốt, quyết định sự tồn tại của hoạt
động thơng tin thư viện nói chung và hoạt động thông tin thư viện tại Ban Tư
liệu - Viện Mỹ thuật nói riêng. Nguồn lực thơng tin là tài sản quý giá, là tiềm
năng, là sức mạnh, là niềm tự hào của mỗi cơ quan thông tin thư viện. Nguồn
23
lực thơng tin càng phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu tin càng lớn và do
vậy càng có sức lôi cuốn đối với người dùng tin, đồng thời nó cũng có một
sức hút khá lớn trong thị trường tin học hóa tư liệu, nhằm tạo ra giá trị của
thông tin. Nhà thông tin học người Mỹ Moore đã tổng kết: "Thơng tin chỉ có
giá trị khi bản thân nó có giá trị và nó được sử dụng" [6]
Nguồn lực thông tin đang được Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật quản trị
ln đóng vai trị rất quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu tin của người
dùng tin trong ngành mỹ thuật nói riêng, và các ngành nghệ thuật khác nói
chung.
Tới Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật, người dùng có thể tìm thấy những
tài liệu về lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của đất nước trong hơn nửa thế kỷ qua,
đặc biệt là chuyên ngành mỹ thuật rất q giá với nhiều ngơn ngữ khác nhau,
góp phần quan trọng trong sự nghiệp giáo dục mỹ thuật và làm phong phú
hơn đời sống văn hóa, tinh thần của cán bộ, giảng viên và sinh viên Trường
Đại học Mỹ thuật nói riêng, và người dùng tin bên ngồi nói chung.
Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu xã hội có nhiều thay đổi, nhiều vấn
đề về thẩm mỹ cũng thay đổi. Nghệ thuật có nhiệm vụ định hướng thẩm mỹ
cho công chúng, mà một trong những cách định hướng thẩm mỹ hiệu quả
nhất, đến được với nhiều người nhất là định hướng qua thông tin, mà cụ thể là
qua sách báo, tài liệu. Muốn như vậy, bên cạnh việc tăng cường nguồn lực
thơng tin về văn hóa nghệ thuật nói chung, và mỹ thuật nói riêng, Ban Tư liệu
- Viện Mỹ thuật cần đa dạng hóa hơn nữa các loại hình sản phẩm thơng tin
thư viện để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của người dùng tin
trong và ngồi ngành mỹ thuật.
Tóm lại, nguồn lực thơng tin là tiền đề cho sự hình thành và phát triển
của Ban Tư liệu, là cơ sở cho mọi hoạt động của Ban. Việc xây dựng và phát
24
triển nguồn lực thông tin của Ban trong giai đoạn hiện nay càng trở nên cấp
bách và quan trọng hơn bao giờ hết. Để giải quyết thật tốt vấn đề này, cần
nghiên cứu phân tích những mặt đã làm được và chưa làm được trong công
tác phát triển nguồn lực thơng tin của Ban, trên cơ sở đó đề ra phương hướng,
biện pháp giải quyết để nguồn lực thông tin của Ban ngày càng phát triển đáp
ứng được nhu cầu đa dạng của người dùng tin.
1.3. Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin tại Ban Tư liệu - Viện
Mỹ thuật
Nghiên cứu người dùng tin là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của bất kỳ cơ quan thông tin thư viện nào với mục tiêu là không ngừng nâng
cao khả năng thỏa mãn nhu cầu thông tin của họ. Người dùng tin và nhu cầu
tin của họ đã trở thành một cơ sở thiết yếu định hướng cho hoạt động của các
cơ quan thông tin thư viện
Nghiên cứu nhu cầu tin là nhận dạng nhu cầu về thông tin và tài liệu
của người dùng tin, trên cơ sở đó tìm ra những biện pháp cụ thể và phù hợp
để cung cấp thơng tin hoặc tài liệu thích hợp cho họ.
Để có được những đánh giá khách quan, tương đối chính xác nhu cầu
tin của người dùng tin tại Ban Tư liệu, luận văn sử dụng các phương pháp
sau:
- Phát phiếu điều tra với số lượng 250 phiếu (thu về 235 phiếu, đạt
94%), nội dung của phiếu điều tra nhằm tìm hiểu những vấn đề sau:
+ Người sử dụng tài liệu chủ yếu là đối tượng nào?
+ Xác định được người dùng tin thường quan tâm đến nội dung, loại
hình tài liệu nào?
+ Mức độ thỏa mãn nhu cầu tin của người dùng tin tại Ban Tư liệu?
25
- Quan sát: Phương pháp này được tiến hành trong q trình phục vụ
bạn đọc tại phịng đọc sách, phịng đọc báo tạp chí và phịng đọc tư liệu
- Ngồi ra còn dùng phương pháp trao đổi trực tiếp để lấy ý kiến đóng
góp xây dựng của người dùng tin
Mỗi phương pháp trên đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Song
nếu kết hợp các phương pháp đó lại với nhau có thể thu được những số liệu
tương đối khách quan.
Những kết quả phân tích, thống kê, so sánh này sẽ làm cơ sở nhằm
đưa ra các giải pháp tăng cường nguồn lực thông tin để đáp ứng nhu cầu tin
của người dùng tin tại Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật.
Người dùng tin tại Ban Tư liệu - Viện Mỹ thuật bao gồm những đối
tượng là giảng viên và sinh viên Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, nghiên
cứu viên Viện Mỹ thuật, các cán bộ, giảng viên và sinh viên các trường nghệ
thuật và những ai quan tâm, muốn tìm hiểu về chuyên ngành mỹ thuật tạo
hình.
Người dùng tin ở Ban Tư liệu có thể chia thành 3 nhóm chính như
sau:
Nhóm thứ nhất là cán bộ làm cơng tác quản lý gồm ban giám hiệu,
trưởng các phòng ban, trưởng - phó khoa. Nhóm này tuy số lượng khơng
nhiều nhưng đặc biệt quan trọng. Do đặc điểm công việc của họ nên nhóm
người này cần những tài liệu về chính sách giáo dục đào tạo, những chỉ thị,
chủ trương đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, của ngành văn hóa
nghệ thuật. Thực tế, cán bộ quản lý cịn tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa
học nên nhu cầu về thông tin của họ rất phong phú, đa dạng, nhưng họ lại có
rất ít thời gian đến thư viện. Chính vì vậy, nhóm người dùng tin này cần