Tải bản đầy đủ (.pdf) (207 trang)

Giá trị lịch sử văn hóa đền thờ trần khát chân xã vĩnh thịnh huyện vĩnh lộc tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.79 MB, 207 trang )

Bộ giáo dục v đo tạo
Bộ văn hóa thông tin
Trờng đại học văn hóa h nội
..FG..

Nguyễn Thị trúc quỳnh

Giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật
đền thờ trần khát chân
(x vĩnh thịnh huyện vĩnh lộc tỉnh thanh hóa)

Chuyên ngành: Văn hóa học
MÃ số:
60 31 70

luận văn thạc sĩ văn hóa học

Ngời hớng dẫn khoa học
TS. Nguyễn văn tiÕn

hμ néi - 2007


Mục lục

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
5. Phơng pháp nghiên cứu..


6. Đóng góp của luận văn.
7. Bố cục luận văn

1
1
3
5
5
6
6
7

Chơng 1: Tổng quan về x Vĩnh Thịnh v lịch sử
đền Trần Khát Chân.
1.1. Tổng quan về xà Vĩnh Thịnh..
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên...
1.1.2. Dân c.
1.1.3. Kinh tế
1.1.4. Văn hóa xà hội
1.2. Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của đền Trần Khát Chân...
1.2.1. Lịch sử nhân vật đợc thờ...
1.2.2. Lịch sử xây dựng, quá trình tồn tại của đền thờ Trần Khát
Chân và hệ thống đền thờ.
1.2.2.1. Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của đền thờ
Trần Khát Chân.
1.2.2.2. Đền thờ Trần Khát Chân một tín ngỡng dân gian
vùng

8
8

8
12
14
16
20
20
29
29
33

Chơng 2: Giá trị văn hóa vật thể đền thờ Trần
Khát Chân...
2.1. Giá trị kiến trúc..
2.1.1. Không gian cảnh quan kiến trúc.
2.1.2. Bố cục tổng thể mặt bằng kiến trúc
2.1.3. Kết cầu các đơn nguyên kiến trúc......
2.1.4. Trang trí trên kiến trúc
2.2. Các di vật trong di tÝch……………………………………………
2.2.1. Di vËt b»ng giÊy…………………………………………….
2.2.2. Di vËt b»ng ®ång……………………………………………

46
46
46
49
51
63
78
78
79



2.2.3. Di vật bằng đá
2.2.4. Di vật bằng gỗ

79
80

Chơng 3: Giá trị văn hóa phi vật thể đền thờ Trần
Khát Chân... 86
3.1. Phản ánh giá trị lịch sử qua nhân vật đợc thờ 86
3.1.1. Bối cảnh lịch sử cuối triều đại nhà Trần. 86
3.1.2. Những chính sách cải cách của Hồ Qúy Lý... 89
3.2. Lễ hội đền Trần Khát Chân xa ở xà Vĩnh Thịnh.
90
3.2.1. Lịch lễ hội... 90
3.2.2. Không gian cđa lƠ héi………………………………………. 93
3.2.3. Chn bÞ lƠ héi……………………………………………… 94
3.2.4. Các nghi lễ chính của lễ hội... 95
3.2.5. Những trò diễn dân gian trong lễ hội. 103
3.3. Lễ hội đền Trần Khát Chân ở Vĩnh Thịnh trong mối quan hệ
với lễ hội ở nơi khác cùng thờ
106
Chơng 4: Bảo tồn v phát huy giá trị lịch sử văn
hóa nghệ thuật đền thờ Trần Khát Chân..
4.1. Thực trạng di tích và lễ hội đền Trần Khát Chân
4.1.1. Thực trạng di tích
4.1.2. Thực trạng lễ hội.
4.2. Giải pháp bảo tồn di tích và lễ hội đền thờ Trần Khát Chân..
4.2.1. Giải pháp bảo tồn di tích, di vật.

4.2.2. Giải pháp bảo tồn lễ hội đền thờ Trần Khát Chân..
4.3. Phát huy các giá trị di tích và lễ hội đền Trần Khát Chân..
Kết luận...
Danh mục ti liệu tham khảo
Phụ lục

111
111
111
118
120
120
129
130
137
140


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề ti.

1.1. Thợng tớng quân Trần Khát Chân sinh năm Bính Tuất (1366). Theo sử
ghi chép thì Ông là dòng dõi Bảo nghĩa vơng Trần Bình Trọng một anh hùng đời
Trần có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Khi Ông lớn
lên triều đại nhà Trần không còn lớn mạnh nh trớc mà bắt đầu đi vào con đờng
suy thoái. Các vua Trần thời này đều bất tài, chỉ lo ăn chơi, sống trụy lạc, bỏ mặc
mọi công việc triều chính cho kẻ dới lo liệu. Đất nớc đi vào rối loạn, thù trong
giặc ngoài nổi lên, dân tình khổ cực trăm bề. Năm Quang Thái thứ hai (1389) Vua
Chế Bồng Nga đem quân xâm lợc Đại Việt, Hồ Quý Ly cùng các tớng lĩnh khác
đợc vua cử đi cự chiến, song bị thua trận phải rút chạy về Thăng Long. Trớc tình

hình đó, Thợng hoàng đà sai Trần Khát Chân, khi đó giữ chức đô tớng, đem quân
đi chống giặc; Trần Khát Chân đà khảng khái ra đi, trớc khi lên đờng Ngời nói
Nếu không đuổi đợc giặc xâm lăng thì không có ngày về, Vua Nghệ Tông cảm
động đến rơi nớc mắt. Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), Ông đà giết vua
Chiêm là Chế Bồng Nga và đập tan cuộc xâm lấn nớc ta của quân Chiêm với trận
chiến Hải Triều. Sau chiến thắng này Ông đợc phong hầu là Vũ Tiết quan nội hầu,
và đợc ban cho vùng Kẻ Mơ làm thái ấp.
Mùa hạ năm Kỷ MÃo (tháng 4 năm 1399), thế lực Trần triều hầu nh không
còn, mọi quyền hành thực chất đều nằm trong tay Hồ Quý Ly, các quan lại và tôn
thất nhà Trần rất lo sợ Hồ Quý Ly chiếm đoạt ngôi báu. Họ đà ngầm cố kết với
nhau để diệt nhà Hồ và bảo vệ nhà Trần. Sử sách có ghi lại dờng nh Trần Khát
Chân cũng có tham gia vào âm mu này, nhng kế hoạch đà bị thất bại, Trần Khát
Chân và những tớng khác đà bị Hồ Quý Ly bắt và chém trên núi Đốn Sơn (đó là
ngày 24 tháng 4 năm 1399).
1.2. Với công lao nh vậy, Trần Khát Chân đợc coi là một trung thần có
công lớn trong việc đánh đuổi giặc Chiêm bảo vệ ngôi báu và sự an nguy cho xà tắc
trong giai đoạn cuối thế kỷ XIV. Công lao của ông đợc chính sử nhắc tới nhiều,
triều đình ban sắc văn cho 29 xÃ, thôn thuộc tỉnh Thanh Hóa thờ phụng Ông. Các


triều đại phong kiến sau này đà tôn vinh Ông nh một vị Thánh và sắc phong cho
ông là Trần Triều, Trần Kim Ngô Long Hổ Lỡng Vệ thợng tớng quân. Qua
điều tra sơ bộ cho đến nay ở Thanh Hóa đà có 7 đền thờ Trần Khát Chân. Trong ®ã,
hun VÜnh Léc cã 4 ®Ịn thê ë x· VÜnh Thịnh, xà Vĩnh Tiến và xà Vĩnh Thành;
huyện Hoằng Hóa có 1 đền thờ ở xà Hoằng Phợng; huyện Triệu Sơn có 1 đền thờ
ở xà Tân Ninh; thành phố Thanh Hóa có 1 đền thờ ở phờng Hàm Rồng. Ngoài ra,
Ông còn đợc thờ ở làng Hoàng Mai, phờng Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai
(Hà Nội) và đền thờ họ Đỗ gốc Trần, ở tỉnh Nam Định.
1.3. Đền thờ Trần Khát Chân ở xà Vĩnh Thịnh là di tích tởng niệm anh
hùng dân tộc, chứa đựng những giá trị lịch sử văn hóa của các thời đại ngng đọng

trong đó. Đây là công trình kiến trúc nghệ thuật mà giá trị của nó đợc bộc lộ qua
các đơn nguyên kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc. Những giá trị đó đà đợc Nhà
nớc công nhận là di sản quốc gia. ở các đền khác thờ Ngài, ngoài những giá trị
kiến trúc nghệ thuật thì hàng năm còn diễn ra lƠ héi t−ëng niƯm Ngµi. ë di tÝch x·
VÜnh Thµnh (nơi hiện còn mộ của Ngài) hiện tồn tại một sinh hoạt văn hóa tín
ngỡng dân gian cổ truyền mang giá trị văn hóa cao đó là lễ hội dân gian tởng nhớ
công lao của Ngài.
Trong những năm gần đây, lễ hội đền Trần Khát Chân vẫn thờng đợc tổ
chức. Lễ hội này cần phải đợc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống để bảo tồn
và phát huy cho các thế hệ mai sau.
1.4. Về đền thờ Trần Khát Chân ở xà Vĩnh Thịnh đà có một số tác giả, tác
phẩm đề cập đến (chúng ta sẽ điểm qua trong mục tình hình nghiên cứu của đề tài).
Tuy nhiên, cho đến nay cha có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ, hệ thống về
các mặt giá trị lịch sử, văn hóa nghệ thuật cũng nh lễ hội. Bản thân tôi là một
ngời dân xứ Thanh, việc nghiên cứu, tìm hiểu di sản văn hóa địa phơng, góp phần
bảo vệ nét đẹp truyền thống văn hóa dân tộc và tăng thêm vốn hiểu biết cho cá
nhân là việc lµm rÊt cã Ých.


Đây chính là lý do để tôi chọn Giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật đền
Trần Khát Chân x Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa làm đề tài
luận văn tốt nghiệp Cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.

Trần Khát Chân một anh hùng dân tộc, một vị Thánh trong tiềm thức của
nhân dân. Vì vậy, đà có khá nhiều học giả chú ý nghiên cứu về Ông. Chúng tôi xin
đợc khái quát tình hình nghiên cøu qua mét sè t− liƯu chóng ta cã thĨ phân loại
nh sau :
2.1. Các tài liệu về tiểu sử, sự nghiệp và chiến công của Trần Khát Chân, gồm
có các cuốn: Giai thoại lịch sử Việt Nam tập 1 [64], Danh tớng Việt Nam [62],

Thuyết Trần sử nhà Trần[52], Những danh tớng chống ngoại xâm thời Trần[14],
Các triều đại phong kiến Việt Nam [17], Danh nhân Hà Nội tËp 1 [19], Vâ t−íng
Thanh Hãa qua c¸c thêi kú [61], Danh nhân Thanh Hóa [5]. Những tài liệu trên ghi
chép về công lao và chiến công của Trần Khát Chân trong cuộc chiến với quân
Chiêm Thành và việc Ông mất tại núi Đốn Sơn Vĩnh Thành Vĩnh Lộc Thanh
Hóa. Đồng thời, những t liệu trên cũng đề cập đến Trần Khát Chân dới góc độ lịch
sử, cho biết quê quán, họ hàng, tính cách, nơi đợc phong điền, thái ấp và những
chiến công của Ông.
2.2. Các t liệu viết về đền thờ Trần Khát Chân ở x· VÜnh ThÞnh – hun VÜnh
Léc – tØnh Thanh Hãa nh: Thanh Hóa di tích và danh thắng [7,8] của Bảo tàng tổng
hợp tỉnh Thanh Hóa đà viết về các di tích đền thờ Trần Khát Chân khái quát sơ lợc
giá trị lịch sử - văn hóa của di tích cũng nh ảnh hởng của di tích đối với đời sống dân
c nơi đây. Hồ sơ khoa học di tích đền Trần Khát Chân [27; 28] của Sở Văn hóa thông
tin và Bảo tàng tổng hợp tỉnh Thanh Hóa đề cập về niên đại của di tích, về lịch sử nhân
vật đợc thờ, về kiến trúc và các di vật trong di tích và xác định giá trị lịch sử văn hóa
của đền thờ Trần Khát Chân, nhằm mục đích chủ yếu đề nghị Nhà nớc công nhận di
tích lịch sử văn hóa quốc gia. Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Tú trong Một số kết
quả nghiên cứu khoa học về di tích và công tác bảo tồn di tích số 2 của Viện Bảo tồn
di tích với tiêu đề Đền thờ Trần Khát Chân (Vĩnh Thịnh Vĩnh Léc – Thanh Hãa) ®·


bớc đầu giới thiệu về kiến trúc của đền thờ Trần Khát Chân. Điều cơ bản ở đây là, tác
giả đà xác định phong cách rất đặc trng của công trình và niên đại của nó.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Bảo tàng của Bùi Khắc Duy [21] là
công trình tơng đối hệ thống về nhân vật lịch sử Trần Khát Chân. ở đây tác giả tập
trung giới thiệu tiểu sử sự nghiệp của Trần Khát Chân, giới thiƯu vỊ di tÝch vµ di vËt cỉ
trong di tÝch đồng thời nêu ra các phơng pháp bảo tồn và thực trạng di tích đền thờ
Trần Khát Chân. Bài khóa luận viết từ góc độ bảo tàng học, vì vậy tác giả không đi sâu
khai thác về lễ hội của di tích, đồng thời không mở rộng nghiên cứu so sánh với các di
tích khác cùng thời Trần Khát Chân.

Những nguồn t liệu trên đây cho chúng ta thấy, đà có nhiều học giả tập
trung nghiên cứu về tiểu sử và sự nghiệp của Trần Khát Chân hơn là khai thác
những giá trị lịch sử - văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với di tích. Những t liệu
trên sẽ là những tài liệu bớc đầu giúp cho tác giả tham khảo, kế thừa và tiếp thu để
triển khai đề tài của mình. Mục tiêu chính của đề tài là giá trị kiến trúc nơi thờ tự và
lễ hội dân gian gắn với nơi thờ tự; qua đó, nhằm bảo tồn, khai thác và phát huy các
giá trị của di tích một cách hiệu quả, nhất là trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là
đền thờ Trần Khát Chân ở xà Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

3. Mục đích nghiên cứu.

Với tiêu đề Giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật đền thờ Trần Khát Chân
x Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, luận văn của tôi hớng vào
những mục đích sau đây :
- Tìm hiểu về tiểu sử và sự nghiệp của danh tớng Trần Khát Chân, qua đó
xác định vai trò lịch sử của Trần Khát Chân trong lịch sử dân tộc.
- Xác định niên đại xây dựng và tìm hiểu giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
ở di tích đền thờ Trần Khát Chân xà Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
- Tìm hiểu quá trình thiêng hóa nhân vật và hệ thống đền thờ Trần Khát Chân
ở Thanh Hóa và một số nơi khác.


- Tìm hiểu thực trạng di tích, lễ hội và đề xuất một số giải pháp trong bảo
tồn, khai thác và phát huy di tích lịch sử văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt
là đa di tích lịch sử Trần Khát Chân vào hoạt động phát triển du lịch văn hóa của
tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tợng v phạm vi nghiên cứu.

4.1. Đối tợng nghiên cứu.
+ Đối tợng nghiên cứu chính của đề tài là đền thờ Trần Khát Chân ở xÃ

Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh hóa. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay còn
một số ngôi đền ở các nơi khác cũng thờ Trần Khát Chân. Vì vậy, chúng tôi sẽ xác
định thêm đối tợng nghiên cứu của đề tài gồm: đền thờ ở xà Vĩnh Thành, đền thờ ở
xà Vĩnh Tiến, đình - đền làng Hà Lơng, đền thờ Trần Khát Chân ở huyện Triệu
Sơn, Hoằng Hóa, Thành phố Thanh Hóa và đền thờ Ông ở Hoàng Mai (Hà Nội).
+ Trong không gian tồn tại của đền thờ tại xà Vĩnh Thịnh còn có một
ngôi chïa víi tªn gäi Hoa Long Tù (Chïa Hoa Long). Vì vậy, trong điều kiện
cần thiết ngôi chùa cũng có thể mở rộng nh một đối tợng nghiên cứu của đề
tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Về không gian: Đền thờ Trần Khát Chân ở xà Vĩnh Thịnh, xà Vĩnh Thành,
xà VÜnh TiÕn (hun VÜnh Léc, tØnh Thanh Hãa). T×m hiĨu phạm vi ảnh hởng của
việc thờ cúng Trần Khát Chân thuộc các huyện Triệu Sơn, Hoằng Hóa, thành phố
Thanh Hóa và đình Hoàng Mai (quận Hoàng Mai, thành phố Hà Néi).
- VỊ thêi gian:
+ Di tÝch: nghiªn cøu di tÝch từ khi hình thành cho đến nay.
+ Lễ hội: nghiên cứu lễ hội xa. Vì lý do, cho đến nay lễ hội cha đợc khôi
phục lại, còn trớc năm 1945 nó vẫn diễn ra.
5. Phơng pháp nghiên cứu .

- Sử dụng phơng pháp liên ngành trong văn hóa học nh: lịch sử, dân tộc học,
văn hóa học, khảo cổ học, văn hóa dân gian, bào tàng học, mỹ thuật học.


- Phơng pháp khảo sát điền dà để quan sát, miêu tả, ghi hình, phỏng vấn, thống
kê,nghiên cứu thực trạng đồng thời tiến hành thu thập các tài liệu liên quan đến di
tích.
- Phơng pháp so sánh, phân tích, tổng hợp tìm hiểu các vấn đề đà đợc xác
định trên cơ sở các nguồn t liệu thu thập và các giá trị văn hóa vật thể còn lại ở di
tích và lễ hội.

6. Đóng góp của luận văn

- Tập hợp các nguồn t liệu của các tác giả đi trớc nghiên cứu về tiểu sử, sự
nghiệp của thợng tớng quân Trần Khát Chân và su tầm t liệu, các dấu ấn di tích
vật thể để khẳng định niên đại của đền thờ ở xà Vĩnh Thịnh. Ngoài ra còn giới thiệu
hệ thống các di tích thờ Ông ở tỉnh Thanh Hóa.
- Luận văn là công trình khoa học, nghiên cứu đầy đủ, hệ thống những giá trị
lịch sử văn hóa nghệ thuật của đền thờ Trần Khát Chân ở xà Vĩnh Thịnh. Kết quả
nghiên cứu của luận văn góp thêm vào hệ thống t liệu nghiên cứu về danh tớng
Trần Khát Chân Một anh hùng dân tộc.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, đề xuất một số giải pháp bảo tồn, phát
huy giá trị của di tích đền Trần Khát Chân trong tình hình hiện nay.
7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận văn bố cục
thành bốn chơng :
Chơng 1: Tổng quan về x Vĩnh Thịnh và lịch sử đền Trần Khát Chân.
Chơng 2: Giá trị văn hóa vật thể đền Trần Khát Chân
Chơng 3: Giá trị văn hóa phi vật thể đền Trần Khát Chân.
Chơng 4: Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi vật
thể ở đền thờ Trần Khát Chân.


Chơng 1
Tổng quan về x Vĩnh Thịnh v lịch sử
Đền trần Khát chân
1.1. Tổng quan về x Vĩnh Thịnh

1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
XÃ Vĩnh Thịnh có diện tích tự nhiên là 2.200ha [36, tr.1]. Vĩnh Thịnh hiện nay

là một trong 16 xÃ, thị trấn của huyện Vĩnh Lộc- một huyện bán sơn địa nằm cạnh
dòng sông MÃ, mảnh đất xa từng đợc Hồ Quý Ly chọn làm kinh đô để kinh bang
tế thế. Địa hình huyện Vĩnh Lộc phần lớn là bán sơn địa nhng ít bÃi bồi, phía Bắc
giáp huyện Cẩm Thủy và Thạch Thành, phía Nam giáp huyện Yên Định, phía Tây
giáp huyện Cẩm Thủy và Yên Định, phía Đông giáp huyện Hà Trung. [36, tr.1] Thời
thuộc Hán- Lỡng Tấn- Nam Bắc triều là miền đất thuộc huyện D Phát. Sau đó nhập
huyện D Phát vào huyện T phố cho nên đất Vĩnh Léc cã lóc thc hun T−
Phè[23, tr. 459]. Tr¶i qua các triều đại phong kiến khác nhau, địa giới hành chính
cũng nh tên gọi của huyện có những thay đổi nhất định và tên huyện Vĩnh Lộc bây
giờ đà có từ thời Tây Sơn. Đến năm 1982, sau một số lần nhập, tách với các huyện
lân cận, huyện Vĩnh Lộc ngày nay đợc chính thức thành lập. Đặc điểm về điều kiện
tự nhiên, vị trí địa lý và địa giới hành chính của huyện Vĩnh Lộc nh vậy cũng đà ảnh
hởng không ít đến sự hình thành, tồn tại và phát triển của xà Vĩnh Thịnh.
So với các xà trong huyện, Vĩnh Thịnh nằm ở phía đông nam cuối huyện
trong vùng đất cấm quê hơng của Chúa Trịnh ngày xa và tiếp cận ngoại vi của
đất Tây Đô một thời lịch sử; phía Tây giáp với huyện Thạch Thành, phía Bắc giáp
với xà Hà Lĩnh (huyện Hà Trung), phía Đông giáp với xà Vĩnh Minh và phía Nam
giáp với xà Vĩnh Tân, nơi có di chỉ khảo cổ Đa Bút lâu đời, nơi phát sinh cuộc khởi
nghĩa Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân chống Pháp. Vĩnh Thịnh là cửa ngõ đầu tiên
của huyện gần với đờng giao thông chiến lợc Bắc Nam[36, tr.2].
XÃ Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, xa từng đợc gọi là vùng
đất Kinh Xuyên, Kinh Thủy, Phú Thịnh sau đó đợc gọi là xà Bản Thủy, Thủy Lộc[4,
tr.240]; đây vốn là vùng đất cổ, có c dân sinh sống lâu đời, gắn với nhiều giai tho¹i


lịch sử. Năm Chính Hòa thứ 5 (1684) đất Vĩnh Thịnh có tên là xà Kinh Thủy thuộc
huyện Vĩnh Phúc, sau đổi thành xà Bản Thủy thuộc tổng Phùng Thợng, phủ Thiệu
Thiên; đến niên hiệu Khải Định năm 1925 thuộc phủ Quảng Hóa. Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945, xà Bản Thủy gồm 4 thôn ngày trớc đợc bổ sung thêm 1 thôn
(thôn Thọ Lộc thuộc huyện Hà Trung) thành xà Thủy Lộc, thuộc huyện Hà Trung.

Tiếp đó, vào những năm 50 của thế kỷ XX, theo quyết định của Nhà nớc, thôn Thọ
Lộc lại đợc sát nhập vào huyện Hà Trung, xà Bản Thủy- tức Vĩnh Thịnh, lại gồm 4
thôn và có địa giới hành chính nh ngày nay, gồm: thôn Đoài, thôn Trung, thôn Đông,
thôn Sanh[36].
Làng Đoài, còn gọi là làng Cả, đợc thành lập đầu tiên của xà Vĩnh Thịnh;
nằm ở vùng đất thấp, có đồi núi bao quanh, có đồng chiêm trũng. Thuở xa xa,
Làng đợc lập nên ở ven sờn núi, dọc chân núi có Hón Bầu chảy qua theo hớng
từ Bắc xuống Nam, tạo ra cảnh quan sơn thủy hữu tình. Trớc làng là những cánh
đồng rộng, nớc sâu, đợc tạo ra do con sông MÃ đổ vào, có độ dốc thoai thoải từ
Tây xuống phía Đông, tạo điều kiện cho c dân vừa khai thác tiềm năng trên núi
vừa khai thác tiềm năng dới sông. Hàng ngàn năm trớc đây, qua những bớc
thăng trầm của lịch sử và những biến cố đổi thay của tạo hóa, nhất là khi Hón Bầu
đổi dòng chảy thẳng về núi Ngọc (còn gọi là núi Tiến Sỹ, địa phận làng Đa Bút,
thuộc xà Vĩnh Tân ngày nay), cảnh quan sơn thủy hữu tình không còn nữa, c dân
trong làng đi tìm cho mình nơi sống thích hợp, một bộ phận chuyển đi nơi khác,
một bộ phận chuyển về địa đầu của xà Bản Thủy lập ra Ng võng phờng và đặt
tên là làng Đoài (vì vậy mới có câu: Rú Hến long cốt dấu son. Trở nên cơ nghiệp
xà thôn huy hoàng). Đây là làng đầu tiên, còn gọi là làng Cả, là cái nôi của con
ngời Bản Thủy sau này[53, tr3].
Làng Đông nằm trong địa bàn xà Vĩnh Thịnh, là một vùng bán sơn cớc, có
nhiều hang động và núi rừng bao quanh. Phía trớc làng có núi Cò và hang Bền án ngữ;
phía Đông có núi Cô Sơn, có động hang Tròn, hang Dài mỏ phợng, cảnh chó mèo ngồi;
vòng ngoài đợc bao bọc bởi cánh rừng làng Thọ Lộc nối liền sang bờ Bắc là núi Kẹm;
nhìn lên Tây Bắc có núi Báo, núi Mông Cù, núi Bót và con Hón Bầu chảy nớc về cánh
đồng chiêm. Giữa đồng chiêm trũng một vùng nớc trắng gọi là Lở Mờng, phía Tây Lở


Mờng mọc lên một ngọn núi mà nhìn xa giống nh một con rùa khổng lồ, nên ông cha
đà đặt tên là núi Quy Sơn. Con sông đợc đào qua cầu Nhấp Nhở tiêu nớc ra sông MÃ,
cũng là đờng vào ra của các loài tôm, cá. Trèo lên án ngựa Cô Sơn nhìn ra tứ phía thì

thật là vô cùng ngoạn mục, vẻ đẹp một vùng quê sơn thủy hữu tình[54, tr2].
Làng Trung, nằm ở trung tâm của xà Vĩnh Thịnh, tên gọi của nó vừa gợi tả nét
độc đáo, vừa thể hiện cho đức tính cao thợng, khiêm nhờng, đoàn kết, dũng cảm,
nhân ái, thủy chung của con ngời nơi đây. Diện tích của làng tuy không lớn (gần 4
km2) nhng địa hình đa dạng, phức tạp; phía Bắc là rừng núi tơng đối cao (núi Bầu,
núi Kẹm), thấp dần xuống đồng mùa xen vụ (đồng Bầu, đồng Bớn) và vùng chiêm
trũng bao quanh (Lang Láng, Lở Mờng), tiếp đến là vùng thổ c cồn đất, cao dốc từ
Bắc xuống Nam và liền đó là vùng lúa mùa 2 vụ rất thuận lợi cho trồng cây, cấy
lúa.[56, tr4] Nằm ở miền trung du, với nhiều vẻ đẹp hùng vĩ và huyền thoại, làng
Trung cũng chứa đựng nhiều di tích, kỷ vật lâu đời với những công trình, địa danh đầy
ấn tợng nh: Đức Bà Hón Bầu, Lở Mờng, Lang Láng dài rộng uốn khúc quanh co
nh con rồng bạc tuôn nớc không bao giờ khô cạn, gợi lên nguồn gốc sức mạnh tiềm
năng và những đổi thay.
Làng Sanh, hay còn gọi là làng San san sẻ. Ngời dân Bản Thủy, mà đầu tiên
là Ng võng phờng, là c dân nhiều dòng họ với nghề nghiệp đánh cá, mò cua, bắt
ốc, sau đó trồng lúa lập nên làng xÃ[55, tr1]. Ban đầu mới có làng Đoài (phía Bắc), sau
đó làng Trung, rồi làng Đông (phía Đông), đến khi dân số phát triển, thành lập làng
mới sang phía bên kia long mạch làng, từ đó mới có tên gọi là làng San. Dựa theo
văn tế tiên hiền hàng năm của họ Trần gia tiên tổ, vào ngày 15 tháng 1 hằng năm và
sự di chuyển của chùa Hoa Long từ phía Bắc sang phía Nam (năm 1682), thì làng Sanh
bây giờ đợc tách ra từ thế kỷ XVI.
Sự hình thành, phát triển của mỗi làng có đặc thù riêng do nhiều yếu tố kết
hợp lại mà thành. Tuy nhiên, cũng với con ngời đó, thổ nhỡng đó, lại có cùng
long mạch, nằm sát cạnh nhau trong một khu vực sơn thuỷ hữu tình, đà làm cho
các làng ngày càng không còn ranh giới; sự giao thoa và phát triển, tính cộng đồng
đà làm cho các làng dần hoà vào nhau, tạo thành xà Vĩnh Thịnh với đầy đủ tính
chất, đặc điểm và con ngời các làng nơi đây.


Về địa thế, qua truyền thuyết nhiều đời mà ngời trong làng kể lại thì Bản Thủy

là một vùng đồng trũng nớc mênh mông, xung quanh là đồi núi, cây xanh và lèn đá
tai mèo. Duy chỉ có phía Tây Nam cách bờ sông MÃ chừng 1,5 km là vùng đất liền
bằng thổ, có bình độ cao từ Tây thấp dần về hớng Đông, là nơi lập c của ngời Bản
Thủy xa; ở giữa là một con kênh bắt nguồn tõ nói B¸o (x· VÜnh Hïng, hun VÜnh
Léc) n khóc chảy qua nh dấu tích con rồng lợn mà ngời dân gọi là long mạch.
XÃ Vĩnh Thịnh nay dốc từ Đông Bắc thấp dần xuống Tây Nam, địa hình hiểm trở Sơn
cao thủy thâm và chia làm 2 vùng rõ rệt: Vùng núi trung du và Vùng đồng bằng
chiêm trũng[36, tr1].
Nằm ở miền bán sơn địa, với nhiều vẻ đẹp hùng vĩ và huyền thoại, Vĩnh Thịnh
có nhiều địa danh ấn tợng nh: Đức bà Hón Bầu, Lở Mờng, Lang Láng dài, rộng,
uốn khúc quanh co nh con rồng bạc tuôn nớc không bao giờ khô cạn, gợi lên nguồn
sức mạnh tiềm năng và những biến đổi thay dòng. Đá Chẹt Voi, núi đá thiên tạo, đồ sộ,
hùng vĩ, với mái hàm ếch, trống chiêng, mỏ đá ghi dấu của một thời hoang sơ, cổ đại.
Đồng Kẹm, rú Bàu, cồn Trúc, với những di tích và truyền thuyết làng Phú Thịnh, cùng
những trầm tích, cổ vật nh: nền đình bát đĩa, chụm vai và tiền đồng,nổi danh đợc
nhiều ngời biết đến, đánh dấu dự chuyển giao và kế thừa đầy sức sống của các bậc
tiền bối cha ông.
1.1.2. Dân c.
Dân số của xà đến năm 2006 là 8.670 ngời; đều là dân tộc Kinh. Xà có 1 họ
đạo[6,tr 3].
Về thành phần dân c, những ngời dân của xà Bản Thủy xa kia là Ng võng
phờng, đó là c dân của nhiều dòng họ xuất thân từ nghề nghiệp đánh cá, mò cua,
bắt ốc, sau đó trồng lúa đà tạo lập nên làng xà ngày nay [55, tr1 ].
Xa xa, ngời dân làng Đoài cũng nh c dân Bản Thủy ngày nay là con
cháu của những dòng tộc đà từng sinh cơ lập nghiệp lâu đời và lập nên những làng
nh: Kẻ Lừ, làng Mòi, Kẻ Kẹm trên núi Lừ, núi Bầu, núi Kẹm. Do những điều kiện
thuận lợi về tự nhiên, thổ nhỡng, nh đà nói ở trên, nên từ rất sớm đời sống c dân
ở đây đều phát triển cả về kinh tế, văn hóa. Trong số các làng, có làng Kẻ Kẹm, đời



sống kinh tế, văn hóa phát triển mạnh nhất, trình độ dân trí nâng cao không ngừng.
Một làng vừa giàu có, vừa phú quý, trong làng có nhiều ngời đỗ đạt cao (theo
truyền thuyết có 18 ông nghè). Từ đó, làng Kẻ Kẹm gọi là làng Phú Thịnh (tiền
thân của xà Vĩnh Thịnh ngày nay), thể hiện sự phú quý, hng thịnh của c dân.
Để chứng minh cho truyền thuyết này, ngày nay tại làng Mòi vẫn còn Đền thờ 4 vị
quan: T Không, T Khấu, T MÃ và T Đồ; trên địa phận làng Đông, dới chân
núi Hang Quân, còn đền thờ 2 vị tiến sỹ là Nguyễn Phóng, Nguyễn Ngự và sự tích
cây đa quận công (ông nghè thứ 18). Trải qua những thăng trầm của lịch sử, cảnh
quan sơn thủy hữu tình không còn nữa, dân các làng bắt đầu đi tìm những nơi
khác thuận lợi hơn để sinh cơ lập nghiệp và bộ phận chuyển về địa đầu xà Bản Thuỷ
lập nên Ng võng phờng tiền thân của làng Đoài ngày nay[53, tr3].
Ban đầu dân ở theo từng xuộng (ngõ) và ở cả về phía đông con rọc, phía tây
con rọc không có ngời ở vì đó là vùng đất cấm, vì có miếu thờ Thành Hoàng và
sau này là đền thờ phủ chúa Trịnh Thị Ngọc Nguyên. Đây là một quần c thuộc
nhiều dòng tộc, sống xen kẽ, thơng yêu nhau, đoàn kết gắn bó xây dựng xóm làng,
quê hơng. Trải những giai đoạn lịch sử, ngời dân ở đây không còn thuần nữa,
có sự di chuyển đi nơi khác và ở nơi khác đến, pha trộn lẫn nhau, c dân ngày
một đông đúc hơn. Tuy vậy, họ vẫn mang trong mình những nét văn hoá, sinh hoạt
đặc thù từ xa xa.
Đặc biệt, khi giao tiếp với nhau ngời dân của xà Vĩnh Thịnh vẫn còn duy trì
một thứ ngôn ngữ thánh thót, êm dịu, nhẹ nhàng nh tiếng chim ca của ngời kinh,
pha trộn thổ âm thổ ngữ của ngời Mờng. Hiện vẫn cha có kết luận chính thức từ
các công trình nghiên cứu, nhng theo một số nhà nghiên cứu đà từng đến đây
thông qua nghiên cứu các di chỉ làng Còng (xà Vĩnh Hng), làng Đa Bút (xà Vĩnh
Tân), Rú Hến (xà Vĩnh Thịnh), thì c dân ở đây là chủ nhân của nền văn hoá Hoà
Bình Bắc Sơn đang tiến về đồng bằng khoảng 50 ngàn năm trớc đây. Chính điều
đó, đà tạo ra sự giao lu giữa ngời Kinh và ngời dân tộc, cùng với điều kiện tự
nhiên, thổ nhỡng, tạo ra sự giao thoa trong nét văn hoá- ngôn ngữ. Nếu lần đầu
đến Vĩnh Thịnh, nghe những ngời dân bản địa giao tiếp với nhau, chúng ta sẽ rất
khó mà hiểu đợc, nó vừa giống tiếng dân tộc thiểu số, nhng lại mang nhiều âm



tiết của ngời kinh; kể cả những đứa trẻ sinh ra ở đây hiện nay vẫn tiếp tục có đợc
thứ ngôn ngữ đó. Và điều đặc biệt là, ngay những xà bên cạnh Vĩnh Thịnh cũng
không có đặc điểm này.
Ngời dân xà Bản Thuỷ xa và Vĩnh Thịnh ngày nay, mặc dù còn phải vất vả
trong cuộc mu sinh, nhng rÊt träng sù häc. Trong c¸c khoa thi cđa triỊu đình
phong kiến, ngoài câu chuyện lu truyền, nổi tiếng về làng Phú Thịnh xa xa có 18
ông Nghè, còn có nhiều ngời thi cử đỗ đạt ở chức sắc cao, điển hình là tiến sỹ
Nguyễn Cao Tiêu, làm tới chức Thị lang bộ hộ dới triều vua Khải Định. Vào thời
Tự Đức, có cử văn Hoàng Văn Giới, cử võ Hoàng Văn Khiết. Đến những năm
trớc Cách mạng Tháng Tám và trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế
quốc, ngời dân trong làng luôn một lòng yêu nớc, đi theo cách mạng. Mảnh đất
này từng là nơi đợc cụ Nghè Tống Duy Tân (cháu ngoại của dòng họ Trịnh) chọn
làm nơi dấy binh khởi nghĩa[36, tr3].
1.1.3. Kinh tế
Đà bao đời nay ngời dân xà Vĩnh Thịnh sống bằng nghề đốn củi, đốt than,
trồng cây lâm nghiệp, làm ruộng và phát triển một số nghề thủ công. Mặc dù rất
siêng năng, cần cù, chịu khó trong lao động, sản xuất, nhng vốn là c dân nông
nghiệp, lại nằm trong vùng canh tác có đồng chiêm trũng, nên cuộc sống của
ngời dân nơi dây vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Cuộc sống và vạn vật vẫn sinh sôi,
phát triển, nhng không có sự đột phá; chúng ta vẫn thấy phảng phất nhiều tính
chất ng võng phờng trong lao động, sản xuất của c dân xà Vĩnh Thịnh. Điều
đó, một mặt có thể không phù hợp với điều kiện phát triển của xà hội ngày nay,
nhng mặt khác nó lại có tác dụng trong việc giữ gìn những giá trị văn hoá lịch sử
truyền thống đến ngày hôm nay. Con ngời luôn phải đấu tranh với thiên nhiên để
cùng với thiên nhiên tồn tại, nên dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, ngời dân vẫn cần cù
lao động, sáng tạo ra nhiều sản phẩm vật chất và tinh thần phục vụ cho cuộc sống
và xây dựng quê hơng đất nớc. Vì thế khi nhắc đến vùng đất này, ngời ta
thờng nhớ đến những sản vật mà không đâu có đợc, nó đà đi vào tục ngữ ca dao:

ốc cồn Âm (ngon nổi tiÕng)


Hầm mà vọ (cọp nhiều và dữ đáng quý nhng cũng rất đáng sợ)
Lọ đồng Bàu (lúa tốt, đất nông phì nhiêu)
Cau hàng xà (nhiều và trồng có quy hoạch tợng trng cho tục ăn trầu)
MÃ ông Sen (rừng rậm nhiều gỗ lắn than củi).
Kèn Bố Tú (nghệ nhân lừng danh biểu tợng cho lễ tế ma chay).
Khoai xá thuốc lá đồng Nhày (vùng đặc sản cây lơng thực và cây lâm nghiệp).
Trong sản xuất trớc đây, ruộng đất phân phối không đều, phần lớn tập trung
vào nhà giàu, nhng đại bộ phận nhân dân đều sống bằng nghề làm ruộng, chăn nuôi
gia súc, gia cầm, có đan xen nghề thủ công đan lát,...Một số hộ không có, hoặc ít
ruộng phải nhận ruộng công, ruộng quan hoặc thuê mớn ruộng để canh tác, đánh bắt
thuỷ sản, đốt than. Khi có nhu cầu, địa phơng còn tổ chức công trờng thủ công ở cồn
Lò Vôi để sản xuất vật liệu, xây dựng đền chùa, đình miếu thờ cúng, tế lễ, hội họp và
đóng góp cho xÃ. Vì vậy từ chỗ nhà tranh, vách đất, nhiều hộ gia đình đà xây dựng
đợc nhà gỗ, lợp ngói khang trang.
Cuộc sống phát triển, nhu cầu giao lu trao đổi những sản vật làm ra từ lao
động của ngời dân cũng phát triển theo. Các hộ dân, trớc hết là dân ở làng Đoài,
đà biết khai thác và sản xuất những sản phẩm độc đáo và nổi tiếng nh: khoai xá,
cam đờng, thuốc lá, thuốc lào, các loại thuỷ sản khác,...một phần đợc tiêu dùng,
một phần đợc đa ra trao đổi tại chợ Hôm, đây là chợ đầu tiên của xÃ, sau này có
thêm chợ Chùa, tiền thân của chợ Vĩnh Thịnh ngày nay. Do địa thế của xà nằm ở
cửa ngõ phía Tây Nam gần với trục giao thông Bắc Nam, c dân ở Bản Thuỷ có
điều kiện giao lu, trao đổi với các xÃ, các vùng trong tỉnh và cả nớc. Một bộ phận
đà vợt qua luỹ tre làng đi đến các vùng khác để lao động, buôn bán, sinh cơ lập
nghiệp, mở mang ngành nghề, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện sống cho bản thân
và gia đình.
Trong những năm đất nớc bị đô hộ bởi thực dân, phong kiến, đời sống của
ngời dân nơi đây vô cùng cơ cực, lầm than, bị bóc lột đến tận xơng tuỷ. Năm

1892, hởng ứng Chiếu Cần Vơng, nhà chí sỹ yêu nớc Tống Duy T©n dÊy binh


khởi nghĩa chống thực dân Pháp và Triều đình nhà Nguyễn, nhiều ngời dân ra nhập
nghĩa quân, dựng lên những hào luỹ để chống giặc, đời sống của nhân, vì thế không
khỏi bị ảnh hởng. Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống thực
dân, phong kiến và đế quốc dới sự lÃnh đạo của Đảng, Vĩnh Thịnh vừa là nơi cung
cấp sức ngời, sức của cho tiền tuyến, vừa là địa điểm chôn vùi quân xâm lợc.
Bớc vào thời kỳ đổi mới, cùng với cả tỉnh, cả huyện, nhân dân xà Vĩnh Thịnh đÃ
vợt qua nhiều khó khăn, thử thách, phát huy truyền thống yêu nớc và cách mạng của
quê hơng, tập trung phát triển kinh tế, văn hoá - xà hội, cải thiện đời sống của nhân
dân. Tốc độ tăng trởng kinh tế của xà bình quân trong 5 năm 2001 2006 là 11%. Cơ
cấu kinh tÕ cđa x· cã chun biÕn tÝch cùc, bªn cạnh việc thâm canh, tăng năng suất cây
trồng, phát triển kinh tế lâm nghiệp, đảm bảo lơng thực tại chỗ cho nhân dân, ngời
dân trong xà đà đa vào trồng cây thuốc lá, cây ớt để xuất khẩu. Cuộc sống của ngời
dân đợc cải thiện, thu nhập bình quân đầu ngời của xà hiện nay là 6,4 triệu
đồng/ngời/năm[6]. Ngày nay, về Vĩnh Thịnh, đời sống kinh tế của ngời dân, mặc dù
so với nhiều nơi còn những khó khăn, nhng so với chính mình trớc đây, ngời dân
trong xà đà khá lên rất nhiều. Các công trình hạ tầng cơ sở nh: điện, đờng, trờng,
trạm, công sở xà đà đợc đầu t, cải tạo, nâng cấp và làm mới, diện mạo nông thôn có
nhiều khởi sắc.
1.1.4. Văn hóa xà hội.
Là mảnh đất đợc hình thành từ Ng võng phờng ban đầu, qua nhiều biến
cố, chúng ta thấy đâu đó thấp thoáng sự gắn kết cộng đồng dân c nơi đây với đời
sống sông nớc; và điều đó cũng không nằm ngoài quy luật tồn tại và phát triển của
làng quê Việt Nam, vốn là c dân sông nớc. Vì vậy, các dấu ấn và hoạt động văn hóaxà hội của Vĩnh Thịnh cũng có những điểm chung tơng đồng với các làng quê khác ở
nông thôn nớc ta, đồng thời nó lại có những nét đặc thù riêng ở mảnh đất đà và đang
tôn thờ Thợng tớng Trần Khát Chân này.
Theo các cụ trong làng kể lại, trớc đây, vào ngày 15 tháng giêng (âm lịch)
hằng năm, đầy đủ các dòng tộc trong làng, trong xà đều tập trung về đình làng mình

để tế lễ tổ tiên lễ tế Tiên hiền. Trong phạm vi phe, giáp, dân đinh, tỊ tùu tËp trung
d−íi sù chØ dÉn cđa quan viªn chức sắc làng họp bàn và quyết định công việc theo


hơng ớc của làng nh: từ việc con nít vô (vào) làng, ngời lớn vô (vào)
phe,.Dới xà là làng và dới làng là phe giáp, sau nữa đến dòng họ, gia đình[54,
tr4].
Tổ chức của làng tuy còn giản đơn, nhng đà sớm có lệ làng, kỷ cơng, nếp
sống phong tục để mọi ngời tự giác tuân thủ thi hành. Tùy theo tình hình tổ chức
và thời gian cụ thể, có lúc đứng đầu làng là lý trởng hoặc phó lý, thứ đến là các
thôn hơng (hơng bạ, hơng bản, hơng kiểm, hơng dịch,); đều do dân bầu
trực tiếp hoặc đại diện đầu trầu và hởng thù lao bằng ruộng quan điền. Là ngời
đại diện cho dân, khi thực thi nhiệm vụ quan trọng trong làng, ngoài xÃ, lý hơng
phải mời họp dân đinh tại đình làng để bàn định.
Dới làng là các phe giáp. Mỗi làng thờng có nhiều phe, chẳng hạn nh làng
Trung có ba phe: Thợng, Hữu, Thuận; làng Đông có các phe: An, Thịnh, Trung,
Chính, Quý; Ngoài chức năng quản lý, phe còn động viên, giáo dục và xây dựng
tình cảm thân ái, tơng trợ giữa các thành viên trong phe, và nhất là lo tang lễ chôn
cất ngời quá cổ, tổ chức tế lễ[56, tr5].
Tiếp đến là các dòng họ. Dòng họ không có chức năng quản lý nhà nớc nh
phe giáp nhng có tính cố kết, giáo dục rất lớn. Hiện cha có thống kê chính thức
số họ trong xÃ, nhng ở từng làng đà có thống kê sơ bộ; chẳng hạn làng Đoài có 14
dòng họ, làng Đông có 21 dòng họ,Đặc biệt, các dòng họ đà tham gia tích cực
vào công tác khuyến học, khuyến tài; thi đua lẫn nhau xem họ nào có nhiều ngời
học hành đỗ đạt.
XÃ Vĩnh Thịnh xa vốn nghèo, nhng ngời dân ở đây rất quan tâm chăm lo đến
sự học hành của con cháu. Nhiều nhà giàu có trong xà đà hợp tác mở trờng t, mời thầy
về dạy học cho con cháu mình cùng con cháu các gia đình trong làng, xÃ; xà còn có lệ
miền đóng góp phu sai, tạp dịch cho học sinh, sĩ tử, môn đồ, để khuyến khích động viên
học hành đỗ đạt. Trong các khoa thi cử của triều đình phong kiến, đến bây giờ ở địa

phơng còn lu truyền về làng Phú Thịnh xa có 18 ông Nghè (nh đà nói trên phần
Dân c); tiến sỹ Nguyễn Cao Tiêu đợc làm việc cận kề bên Vua Khải Định tới chức
Thị lang bộ hộ; ông Nguyễn Đình Chấn, là một danh y nổi tiếng đợc vua mời về cung
để chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh và đợc phong chức Hàn lâm ®·i chiÕu. Vµo thêi Tù


Đức có 2 cửu phẩm Trần Văn Vẩy, Trần Văn Giai, thất phẩm Trần Công Nga, bát phẩm
Nguyễn Văn Vinh, thất phẩm Nguyễn Văn Lai,Từ xa xa có nhiều ngời học rộng,
biết nhiều nhng chẳng ra thi cử, làm quan mà có tâm đức với tình nghĩa xóm làng, ở lại
quê hơng dạy dỗ con cháu trong làng nh: cụ H−¬ng S−, cơ Tõ L·m, Tõ Lun,
Ngun ChÝ CÊn,…HiƯn nay, tại làng Đông, dới chân núi Hang Quân còn đền thờ hai
vị tiến sỹ là Nguyễn Phóng và Nguyễn Ngự.[54, tr6] Chẳng thế mà ở đây còn lu truyền:
Lọc nớc nuôi ngời ngoài sáu chục cha long nanh tể tớng
Của đồng đÃi khách trong bốn mùa đà có ốc công khanh
Điều đó cũng đủ thấy sự vất vả của cuộc mu sinh để chăm lo cho sự học
hành của c dân vùng bán sơn địa này.
Những sinh hoạt văn hóa lễ hội của ngời dân nơi đây, ngoài tín ngỡng thờ tổ
tiên, ông bà cha mẹ, chủ yếu đều hớng về vị thánh mà họ tôn kính là Trần Khát Chân.
Là địa phơng nằm trong vùng đất Vĩnh Lộc in đậm dấu ấn văn hóa của dân tộc, ngời
dân xà Vĩnh Thịnh cũng chịu ảnh hởng sâu đậm của nét văn hóa nơi đây. Hiện ở xÃ,
ngoài đền thờ Trần Khát Chân, còn có các công trình di tích lịch sử văn hóa nh: di
tích mộ bà Chúa (Trịnh Thị Ngọc Nguyên), miếu Phủ Lăng, bia Văn chỉ và Chùa Hoa
Long Tự. Mặc dù đời sống còn nghèo, nhng các công trình đó đều đợc nhân dân
đóng góp, xây dựng với một niềm tin mÃnh liệt, muốn giữ lại và cầu phúc cho những
con ngời đà hy sinh vì Tổ quốc, đồng thời muốn gửi gắm vào thế giới tâm linh một
cái gì đó đề cầu cho ma thuận, gió hòa, mùa màng tơi tốt, phù hộ cho cuộc sống còn
nhiều vất vả của họ.
Bên cạnh tín ngỡng thờ tổ tiên, thờ thần, thờ phật, ở đây còn có thờ Đạo
Khổng. ở làng Trung, có Văn chỉ thờ đức Khổng Tử và các danh nhân địa phơng
nh: Trịnh Kiên, Trịnh Truyền, Nguyễn Trờng Cấp, Hoàng Phúc và sau đó làng còn

xây Võ chỉ thờ Quan Vũ và các võ quan trong làng.
Chùa, nghè đợc xây dựng và trùng tu bằng những nguyên vật liệu đặc biệt nh:
gạch vồ, ngói mắt, hồ vôi mật, tự sản xuất đợc cùng với gỗ đu đơng, lim sến khai
thác từ rừng của địa phơng. Chùa nghè ở đây, theo ngời dân kể lại, có kiến trúc độc
đáo, hình tợng đờng nét chạm trổ tinh vi. Diện mạo bên ngoài nhiều mối liên kết,


uốn cong, đầy vẻ cổ kính và đậm nét dân tộc. Bên trong thoáng rộng, thất sự đồ thờ
bày trang hoàng, lộng lẫy, uy nghi
Các lễ hội ở đây đều đợc thực hiện chu đáo với tấm lòng thành kính của nhân
dân. Theo các cụ kể lại, sau Tết cổ truyền dân tộc, vào ngày tế lễ Tiên hiền- tức ngày
rằm tháng giêng, ở tất cả các làng trong xÃ, từ tráng đinh đến quan viên, chức sắc, áo
mũ chỉnh tề cùng dân làng ra đình làm tế lễ. Đêm đến, khi nghe trống chầu giục giÃ,
già, trẻ, gái, trai, vội và tấp nập đua nhau ra đình xem hát hội, hát chèo[56, tr5].
Trớc 2 lễ hội trên, hằng năm vào rằm tháng chạp, các dòng họ đều tổ chức
viếng mộ và bồi đắp mồ mả tổ tiên để tỏ lòng thành kính, tri ân đến tổ tiên.
ở xà còn có lễ phật Đản đợc tổ chức vào ngày 8 tháng 4 ở Hoa Long Tự và
lễ kỵ ngày mất của Trần Khát Chân vào ngày 24 tháng 4 tại Đền thờ.
Nằm ở vị trí thuận lợi trong giao lu với các vùng, miền trong cả nớc, cùng
tồn tại với tín ngỡng thờ cúng tổ tiên, thờ thần, một bộ phận ngời dân ở xà Vĩnh
Thịnh theo đạo Công giáo. XÃ có một họ đạo với 106 hộ, 514 nhân khẩu. Đồng bào
giáo dân giữ gìn mối quan hệ lơng giáo, sống đoàn kết, tốt đời đẹp đạo; không
có hiện tợng bài bác, kỳ thị hoặc chống đối nhau.
Nh vậy, chỉ trong không gian một xÃ, với phạm vi hẹp, chúng ta có thể thấy
dấu ấn văn hóa và các hoạt động văn hóa in dấu rất sâu đậm, vừa trải dài ra không
gian, vừa phát triển theo thời gian. Không gian văn hóa đó chứa đựng trong mình
đầy đủ các đặc điểm của văn hóa truyền thống Việt Nam, đồng thời, cũng mang đặc
điểm riêng có của địa phơng mà không nơi nào có thể có đợc. Với cái nhìn biện
chứng, chỉ có khai thác những nét văn hóa truyền thống chúng ta mới có thể cắt
nghĩa, giải thích các hoạt động lễ hội tại địa phơng, từ đó có cái nhìn tổng thể,

đánh giá khái quát, góp phần đa ra những kiến giải hữu ích trong việc bảo tồn và
phát huy những giá trị lịch sử- văn hóa đền Trần Khát Chân trong giai đoạn mới.
1.2. Lịch sử xây dựng v quá trình tồn tại đền trần khát chân.

1.2.1. Lịch sử nhân vật đợc thờ.


Tín ngỡng thờ thần là tín ngỡng bản địa của ngời Việt sẵn có từ trớc,
ngời Việt thờ là biểu thị lòng Sợ và Kính của ngời nông dân trong một xà hội
nông nghiệp đối với cái Kính trọng, Thiêng liêng nhằm mục đích cầu mong đời
sống no ấm, yên ổn[40, tr14]. Ngời dân ta tin rằng: đất có Thổ Công, sông có Hà
Bá, cảnh thổ nào phải có thành hoàng ấy, vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho
dân, vì dân thế mỗi ngày việc sự thần một tịnh [12 tr 74]. Chính vì điều này làng
nào cũng có một vị thần để thờ, vị thần này là chủ tế cho làng và thỏa mÃn mọi vấn
đề tâm linh cho làng.
Sang đến thế kỷ XV, khi nhà nớc phong kiến toàn thịnh, triều đình đà thể
hiện sự thống nhất về uy quyền đến tận làng xà nên đà phong cho các thần làng
theo các cấp bậc nhất định. Triều đình phong kiến căn cứ vào các vị thần đợc thờ ở
các làng, theo đề nghị của các quan sở tại để phong cho thần. Điều này đà làm cho
nguồn gốc của các thần làng khá phức tạp. Có thể đó là những thần phò vua bảo vệ
vơng triều, giúp dân làm ăn đợc phát đạt và qua khỏi các tai họa. Hay có thể là
những thần, mà nhiều nhà nghiên cứu quen gọi là nhân thần, tức là vị thần vốn là
các nhân vật lịch sử có thật nh: Lý Thờng Kiệt, Trần Hng Đạo có công lao
phò vua gióp n−íc. ChÝnh v× vËy viƯc t×m ra ngn gốc các vị thần đợc thờ đòi hỏi
phải có một sự phân tích chu đáo.
Để tìm hiều về vị thần đợc thờ tại Đền, chúng tôi căn cứ vào chính sử đợc
ghi chép trong các cuốn sử biên niên và thần tích về Ngài hiện còn lu giữ tại Đền;
bởi vị thần đợc thờ nơi đây là một con ngời có thật một vị tớng triều Trần đÃ
có công giúp dân, giúp nớc.
Trần Khát Chân sinh năm 1370 và mất năm 1399, là con ông Trần Hữu Nhân và

bà Đặng Thị Ngọc Thục, quê ở làng Nột, xà Kim §éng, phđ KiÕn X−¬ng, trÊn Nam
S¬n (nay thc hun KiÕn Xơng, tỉnh Thái Bình). Về gốc tích, có rất nhiều về giả
thuyết quê hơng của Ngài. Thế nhng chính sử nớc ta nh Đại Việt sử ký toàn th,
Đại Nam nhất thống chí, Việt Nam sử lợc, Việt sử thông giám cơng mục đều ghi
Trần Khát Chân quê ở huyện Vĩnh Ninh (Vĩnh Lộc), trấn Thanh Đô (Thanh Hóa); gia
thế ba đời đều làm quan triều Trần đến chức thợng tớng quân, Ngài là dòng dõi của
Bảo nghĩa vơng Trần Bình Trọng. Một vị tớng triều Trần bất tử với c©u nãi: “Ninh vi


Nam quỉ bất vi Bắc vơng ( Ta thà làm quỷ nớc Nam chứ không làm vơng đất
Bắc). Và sử cũ cũng chép Trần Bình Trọng là dòng dõi của vua Lê Đại Hành, mới
đợc ban quốc tính họ Trần từ đời cha. Tuy nhiên, theo bản thần tích tại đền thờ Trần
Khát Chân ở quận Hoàng Mai (Hà Nội) thì Ông quê ở xà Nhuế Dơng, huyện Kim
Động, tỉnh Hng Yên.
Vấn đề quê hơng của ông cần phải tìm hiểu thêm, có thể trải qua nhiều đời
họ đà dịch chuyển chỗ ở, ngoài ra, còn cha kể đến quê cha, quê mẹ, quê vợ cả, vợ
thứNhng có một điều ta có thể chắc chắn rằng từ Lê Đại Hành đến Lê Phụ Tần,
Trần Bình Trọng rồi đến Trần Khát Chân, là một sự tiếp nối truyền thống thợng
võ, trung nghĩa, mu lợc của một dòng tộc, một gia tộc.
Trần Khát Chân đợc sử sách nhắc đến đầu tiên với cơng vị là Đô tớng triều
Trần Thuận Tông, khi ông đợc vua sai đi đánh giặc Chiêm Thành vua mới chỉ 12
tuổi, chính quyền vẫn do Thợng hoàng Nghệ Tông nắm giữ. Nhng thực chất quyền
hành lại ở trong tay Hồ Quý Ly. Tháng 10 năm đó, vua Chiêm Thành là Chế Bồng
Nga đem quân đánh ra Bắc, lấn đến Thanh Hóa, Hồ Quý Ly đem quân đi kháng cự
và mắc mu quân Chiêm nên đại bại. Quý Lý thua to, bỏ chạy về Thăng Long. Quân
Chiêm tiến ra Bắc, khoảng giữa tháng 11 tới đóng trên sông Hoàng Giang (Nam
Định). Cả kinh thnh Thăng Long xôn xao, ai nấy chuẩn bị đi lánh nạn. Thợng
hoàng rất lo sợ mới sai Trần Khát Chân, khi đó đang giữ chức đô tớng, đem quân đi
chống giặc. Trần Khát Chân vâng mệnh khảng khái nhỏ nớc mắt lạy tạ ra đi.
Thợng hoàng cũng khóc lấy nớc mắt tiễn đa[37, tr 282]. Ông cầm quân xuôi

theo sông Hồng, tới Hoàng Giang xem địa thế khúc sông này không có thế bày trận,
nên lui về và đóng ở ngà ba sông Luộc. Lúc ấy, tôn thất Trần Nguyên Diệu, em của
phế đế Nghiễm bị Nghệ Tông, theo gợi ý của Hồ Quý Ly, giết năm trớc (năm
1388), muốn báo thù mới đem cả gia quyến đầu hàng quân Chiêm. Tháng giêng năm
Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga cùng Nguyên Diệu đem hơn 100 chiến thuyền tiến
lên sông Luộc để quan sát tình thế của quan quân nhà Trần (còn đại quân Chiêm sẽ
tiến theo sau). Khi đó, một bề tôi của Chế Bồng Nga là Ba Lậu Khê, có tội bị Bồng
Nga trách phạt, lo sợ bị giết liền chạy trốn sang hàng bên quân Trần và hắn đà chỉ
thuyền của Chế Bồng Nga- sơn màu xanh cho Trần Khát Chân biết. Khát Chân lËp


tức ra lệnh cho tất cả hỏa pháo tập trung bắn vào thuyền đó. Bồng Nga bị trúng đạn
và chết ngay. Nguyên Diệu nhân lúc ấy muốn thoát chết, liền cắt đầu Chế Bồng Nga
chạy về với quân ta. Nhng Đại đội phó Thợng đô quân Long Tiệp là Phạm Ngũ
Lặc và đầu ngũ Dơng Ngang đà giết Nguyên Diệu, đoạt đầu Chế Bồng Nga đem
nộp cho Khát Trân. Trần Khát Chân sai Lê Khát Khiêm đem bỏ đầu giặc vào hòm và
đi thuyền suốt ngày đêm đến bến Bình Than, là chỗ Thợng Hoàng đang lánh nạn, để
báo tin thắng. Bấy giờ giọt đồng hồ đà điểm canh ba, Thợng hoàng đang ngủ say, bị
đánh thức tởng là giặc kéo đến, rất hoảng sợ. Đến khi nghe tin thắng trận, mới cả
mừng, liền cho triệu tập các quan tới để xem cho kỹ. Các quan mặc triều phục, hô
muôn năm. Nhìn thủ cấp của vua Chiêm, Thợng Hoàng phấn khëi nãi : “Ta víi
ChÕ Bång Nga chèng nhau ®∙ lâu, nay mới thấy mặt, khác gì Hán cao tổ thấy đầu
Hạng Võ. Từ nay thiên hạ sẽ đợc yên [39, tr 283]. Đó là ngày 23 tháng giêng.
Chiến công này có tác dụng đập tan một đạo quân xâm lợc khá mạnh, đồng thời đÃ
giải thoát cho Thăng Long khỏi tai họa bị tàn phá. Quân Chiêm mất vua, phải rút về
nớc không dám gây sự nữa. Sang tháng hai, Trần Khát Chân đợc phong hầu (Vũ
tiết quan nội hầu), đợc kiến ấp (tức đợc thởng cho một vùng làm thái ấp riêng) đó
là vùng Kẻ Mơ, nay thuộc phờng Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, thành phố Hà
Nội.
Thế hệ sau, khi bàn về chiến công của vị tớng này đà có rất nhiều ý kiến,

trong đó họ cho rằng chiến công của Trần Khát Chân là một sự may mắn. Nhng
căn cứ vào những ghi chép cho dù hết sức vắn tắt của lịch sử về chiến tích của Ông,
rồi qua thái độ "khảng khái ra đi" khi đợc vua cử đi thì chúng ta phải công nhận
Trần Khát Chân là một vị tớng mu trí và dũng cảm, thực sự là ngời yêu nớc
thơng dân. Chiến công của Ngài vẫn mÃi đợc lịch sử ghi nhận nh một chiến tích
lẫy lừng của dân tộc, và nhân dân vẫn nhớ đến ông nh một ngời tờng lĩnh giỏi
và xuất chúng của họ, Ngời đà có công đem lại sự bình yên cho đất nớc.
+ Hội thề Đốn Sơn
Đến năm 1394, Thợng hoàng Nghệ Tông băng hà, vua Thuận Tông đà 17
tuổi nhng quyền hành vẫn ở trong tay Hồ Quý Ly. Từ đây Quý Ly ngày càng thao
túng. Năm 1379, Quý Lý bắt đầu lập kinh đô mới ë Thanh Hãa. (Ngµy nay Thµnh


đó vẫn còn, nhân dân quen gọi là Thành Tây Giai hay Đông Môn của huyện Vĩnh
Lộc). Tơng truyền, Trần khát Chân vì là ngời vùng này nên cũng đợc giao cùng
Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh đi vào đó chỉ đạo việc dựng thành, đào hào, xây tôn
miếuDù không muốn tham gia vào công việc này, những vì trung thành với
vơng triều Trần, Trần Khát Chân phải tham gia vào việc xây thành. Trần Khát
Chân và Thái sử Đỗ Tỉnh đợc giao cho xây dựng con đợc đi vào thành ®ã lµ con
®−êng Hoa Nhai. Chun kĨ r»ng: Hå Q Ly bắt Khát Chân chỉ huy việc làm con
đờng này, đá thì phải tới các núi trong vùng nh Thọ Vực, núi Hồ Công mà lấy,
phu phục dịch thì trung dụng dân ba tổng Cao Mật, Bình Bút, Nam Cai và phải hòan
thành trong thời hạn 15 ngày. Thật là gay go! Chỉ mỗi việc đắp đất làm nền đờng
cũng phải mất bao nhiêu ngày rồi, chứ nói gì đến chuyện xẻ đá thành phiến, di
chuyển và xếp đặt! ý Quý Ly là định hại Khát Chân chăng ? Nên mới quy định một
thời gian ngắn nh vậy. Trần Khát Chân tuy không a Quý Ly, nhng xây thành lại
là lệnh vua, mà Khát Chân lại là một bề tôi trung thành. Ông đành phải thực hiện.
Ông vốn có phép thuật nên đà tự mình lo việc này mà không phiền đến dân. Sau khi
nhận lệnh, chỉ có một lần dân thấy ông sai lính hậu cần đi dăng một sợi dây từ
chính giữa cửa Nam đến chính giữa chân núi Đốn Sơn. Còn thì suốt từ ngày này

qua ngày khác chỉ thấy ông dạo quanh vùng hỏi mua rất nhiều giấy mà không thấy
Ông huy động dân chúng làm lụng gì. Đến ngày thứ mời bốn cũng vẫn thế, Hồ
Quý Ly chắc mẩm là hại đợc Ông. Biết đâu tối hôm đó, Ông cho gọi toán lính hầu
cần, bảo gánh giấy đem đi trải ra hai bên sợi dây đà giăng hôm nọ. Toán lính làm
theo nhng vẫn không hiểu sao cả. Sáng mai, lạ cha, một con đờng đá hiện ra
mồn một trớc mắt mọi ngời, thẳng một vạch từ cửa Nam đến chân núi Đốn Sơn,
toàn là đá vuông vắn phẳng lì nh giấy xếp. Thì ra, Trần Khát Chân có phép biến
giấy thành đá! Hồ Quý Ly đà không hại đợc Ông mà dân ba tổng lại không phải
khó nhọc. Chính vì vậy, khi Ông mất, dân vùng này đà lập đền thờ Ông và đợc gọi
là đền Tam Tổng (nay thuộc xà Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc); tức là cả ba tổng cùng
góp phần hng công và thờ phụng.
Câu chuyện cổ là nh vậy. Gạt bỏ phần huyền thoại đi, có lẽ cái lõi hiện thực
là nh thế này: Trần Khát Chân ngoài tài quân sự còn có tài về kiến trúc; Ông là


ngời thực sự thơng dân và lo cho dân, là một bề tôi trung thành của Trần triều. Do
đó, Ông rất không tán thành việc xây dựng kinh thành mới, tốn sức ngời sức của,
ảnh hởng cả đến Trần Triều. Có lẽ mâu thuẫn giữa Ông và Hồ Quý Ly ®· béc lé tõ
®ã, ®iỊu nµy dÉn tíi vơ m−u sát ở hội thề Đốn Sơn xảy ra sau đấy hai năm, năm
1399.
Số là xây dựng xong kinh đô mới thì Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông dời
kinh thành Thăng Long, đem cả triều đình vào đóng tại Tây Đô (vào tháng 10 năm
1397). Năm sau, Hồ Quý Lý lại bắt Thuận Tông truyền ngôi cho thái tử An, mới lên ba
tuổi. Tháng 4 năm 1399, Quý Ly bức vua phải xuất gia thờ Đạo giáo, ra ở quán Ngọc
Thanh, thôn Đạm Thủy (thuộc huyện Đông Triều, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) và mật
sai ngời giết luôn Thuận Tông (tháng 04 năm MÃo 1399). Những sự việc này làm
cho những quan lại Trần triều chính thống trung thành với Trần triều càng thêm bất
mÃn. Thêm vào đó, những cải cách (phát hành giấy bạc, hạn nô, hạn ®iỊn…) cđa Hå
Quy Lý vµo thêi ®iĨm n−íc nhµ nh− vậy khiến cho thiệt hại nhiều về kinh tế. Trớc
tình hình đó, những trung thần của Trần triều đà liên kết với nhau và tìm cách hạ bệ Hồ

Quý Ly, trong đó có Trần Khát Chân. Họ chờ đợi và cơ hội đà đến. Sau khi giết Thuận
Tông, Quý Ly tổ chức hội thề trên núi Đốn Sơn vào tháng 5. Đây là hội thề có từ thời
nhà Lý nay nhà Trần vẫn theo tục lệ làm theo. ở hội thề này, trăm quan thề trung
thành với vua. Nhân cơ hội này một số đại thần trong đó có Trần Khát Chân, Thái Bảo
(hàm vua phong thờng ở cạnh vua) Trần HÃng, Hành Khiển (chức quan đứng đầu cơ
quan bộ) Hà Đức Lân, các quan Lơng Nguyên Bửu, Phạm Ông Thiện, đà cùng
nhau mật bàn nhân hội thề này sẽ sai thích khách là Phạm Ngu Tất và Phạm Tổ Thu,
là con tớng quốc Phạm Khả Vĩnh, hai đại thần đơng chức trong triều ám sát Hồ Quý
Ly. Với danh nghĩa là Thái S nhiếp chính (ngời đứng đầu triều đình), Hồ Quý Ly đÃ
thay vua còn nhỏ làm ngời chủ trì lễ hội. Sự kiện này đợc chính sử chép nh sau:
Hồ Quý Ly khi ngồi trên lầu nhà Khát Chân để xem, theo lệ xa thiên tử ngự đền
miếu, đến, chùa. Lúc đó Phạm Tố Thu là cháu gọi Khả Vĩnh bằng chú bác và thích
khách Phạm Ngu Tất cầm gơm lên lầu. Khát Chân trừng mắt ngăn lại, rồi thôi. Quý
Lý thấy, chột dạ đứng dậy, vệ sĩ ủng hộ xuống lầu. Ngu Tất vứt gơm xuống đất mà
nói cả lũ chết thôi. Việc tiết lộ, bọn Tôn Thất HÃng, Trụ quốc Nhật Đôn, Thợng


×