Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Giá trị lịch sử văn hóa của sưu tập hiện vật về triều đại nhà trần lưu giữ tại bảo tàng tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.87 KB, 95 trang )

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO

Bộ VĂN HOá, THể THAO Và DU LịCH

TRƯờNG ĐạI HọC VĂN HOá Hà NộI

********

PHạM THị THU Hà

GIá TRị LịCH Sử VĂN HóA CủA
SƯU TậP HIệN VậT Về TRIềU ĐạI NHà TRầN
LƯU GIữ TạI BảO TàNG TỉNH NAM ĐịNH

Chuyờn ngnh: Vn húa hc
Mó s: 60310640

LUN VN THẠC SỸ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Sỹ Toản

Hµ Néi - 2013


2

LỜI CẢM ƠN

Để hồn thiện được luận văn này tơi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ,
hướng dẫn tận tình của TS Nguyễn Sỹ Toản, cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy cơ giáo khoa Sau đại học – Trường Đại học Văn hố Hà Nội


Q trình làm luận văn còn được sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo và các
cán bộ Bảo tàng tỉnh Nam Định, đặc biệt là bác Nguyễn Văn Thư – Giám đốc
Bảo tàng tỉnh Nam Định, chú Hồng Văn Cương – Phó giám đốc Bảo tàng
tỉnh Nam Định đã cho tôi những gợi mở và cung cấp cho tôi những tư liệu
quý báu giúp tơi hồn thành luận văn này, mặc dù q trình nghiên cứu và
viết khơng tránh khỏi những hạn chế thiếu sót, chưa đáp ứng được như mong
muốn của các thầy cô giáo, các nhà khoa học cũng như các quý cơ quan về đề
tài nghiên cứu của mình.
Sau cùng tôi xin được cảm ơn tới tất cả người thân trong gia đình và
bạn bè đã khích lệ, động viên tinh thần, giúp đỡ tơi trong thời gian hồn thành
luận văn.

Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Người thực hiện

Phạm Thị Thu Hà


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
Chương 1: TỔNG QUAN SƯU TẬP HIỆN VẬT VỀ TRIỀU ĐẠI NHÀ
TRẦN LƯU GIỮ TẠI BẢO TÀNG NAM ĐỊNH ..................................... 12
1.1 Khái quát về triều Trần trong lịch sử dân tộc nói chung và Nam
Định nói riêng.......................................................................................... 12
1.2 Tổng quan về sưu tập hiện vật thời Trần tại Bảo tàng Nam Định ..... 15
1.2.1 Vài nét về Bảo tàng Nam Định ..................................................... 15
1.2.2 Tình hình sưu tầm và thu thập hiện vật ......................................... 19
1.2.3 Thống kê hiện vật ......................................................................... 22

1.2.4 Phân loại hiện vật thuộc sưu tập .................................................... 24
1.2.5 Đặc điểm và vai trò của sưu tập hiện vật về triều đại nhà Trần trong
hoạt động của Bảo tàng Nam Định ....................................................... 28
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA SƯU TẬP HIỆN VẬT
VỀ TRIỀU ĐẠI NHÀ TRẦN LƯU GIỮ TẠI BẢO TÀNG NAM ĐỊNH 30
2.1 Giá trị lịch sử ..................................................................................... 30
2.1.1 Nguồn sử liệu góp phần nghiên cứu lịch sử dân tộc nói chung và
triều Trần nói riêng ................................................................................ 30
2.1.2 Nguồn sử liệu góp phần nghiên cứu các làng nghề thủ công truyền
thống ..................................................................................................... 34
2.2 Giá trị văn hóa................................................................................... 37
2.2.1 Giá trị văn hóa vật thể ................................................................... 37
2.2.2 Giá trị văn hóa phi vật thể ............................................................. 43


4

2.2.3 Ứng xử với tự nhiên ...................................................................... 66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO QUẢN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
SƯU TẬP HIỆN VẬT VỀ TRIỀU ĐẠI NHÀ TRẦN LƯU GIỮ TẠI BẢO
TÀNG NAM ĐỊNH .................................................................................... 69
3.1 Thực trạng công tác bảo quản và phát huy giá trị của sưu tập ...... 69
3.1.1 Thực trạng công tác bảo quản ....................................................... 69
3.1.2 Thực trạng công tác phát huy giá trị thuộc sưu tập ........................ 72
3.2 Những giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của sưu tập hiện vật về
triều đại nhà Trần lưu giữ tại Bảo tàng Nam Định ............................... 74
3.2.1 Giải pháp về bảo tồn sưu tập hiện vật về triều đại nhà Trần .......... 74
3.2.2 Giải pháp phát huy giá trị của sưu tập hiện vật về triều đại nhà
Trần ....................................................................................................... 82
KẾT LUẬN ................................................................................................. 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 92
PHỤ LỤC


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nam Định là vùng đất có một vị thế chính trị, văn hố đặc biệt. Nơi đây
là quê hương của vương triều Trần (1225 – 1400) với 14 đời vua có những
đóng góp lớn cho lịch sử hào hùng của dân tộc, là căn cứ địa, là kinh đô thứ
hai sau kinh đô Thăng Long của vương triều Trần, nơi các Thái Thượng
Hoàng của nhà Trần lui về ở, đưa ra những quyết sách cho những vấn đề quan
trọng của đất nước. Vì thế, Nam Định là nơi lưu giữ những di sản văn hoá vật
thể và phi vật thể đặc biệt quan trọng liên quan đến vương triều Trần.
Ngay từ khi vươn lên nắm chính quyền nhà Trần đã cho xây dựng trên
quê hương mình đền, đình, cung điện, chùa tháp như cung Trùng Quang,
Trùng Hoa, tháp Phổ Minh... Xung quanh khu cung điện là các khu dinh thự
của vương hầu, quý tộc. Có thể nói vào thời nhà Trần (từ năm 1225 – 1440),
Nam Định (phủ Thiên Trường) đã trở thành “kinh đô thứ hai” sau kinh đô
Thăng Long. Thêm vào đó trong 3 cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên – Mông, Nam Định từng là căn cứ địa quân sự và trong cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung đã
đưa toàn bộ hoàng tộc về đây sơ tán. Đến năm Nhâm Tuất (1262), nhà Trần
cho mở rộng quy mô xây dựng thành Hành cung Thiên Trường, với thủ phủ là
Tức Mặc. Trong đó, 2 cung điện lớn nhất là cung Trùng Quang (nơi thượng
hoàng về ngự) và cung Trùng Hoa (nơi các vua Trần về chầu). Thiên Trường
xưa, Nam Định nay là vùng đất có truyền thống lịch sử và văn hố lâu đời.
Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt quy hoạch tổng
thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích lịch sử - văn hóa thời Trần

tại tỉnh Nam Định đến năm 2015, với tổng số vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng.
Trong tương lai không xa, nơi đây sẽ trở thành một trung tâm du lịch văn hóa,
đặc biệt là văn hóa thời Trần của Việt Nam.


6

Thời gian qua nhờ sự kết hợp với Viện khảo cổ, Bảo tàng lịch sử Việt
Nam và các cơ quan chuyên môn của Trung ương, Bảo tàng tỉnh Nam Định
đã tiến hành khai quật khảo cổ ở nhiều địa điểm thuộc các di tích thời Trần và
phát hiện nhiều hiện vật có giá trị về lịch sử và văn hố của nhà Trần. Bên
cạnh đó cơng tác sưu tầm và xã hội hoá đã được Bảo tàng Nam Định thực
hiện rất tốt nên đã thu thập được một số lượng khổng lồ những hiện vật về
triều Trần tại Nam Định nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu
nào về sưu tập hiện vật triều Trần dưới góc độ văn hố học.
Dưới góc độ văn hố học, việc nghiên cứu sưu tập hiện vật về triều đại
Trần tại Bảo tàng Nam Định là một hướng tiếp cận mới nhằm tìm hiểu những
giá trị lịch sử văn hóa, đánh giá đúng thực trạng của sưu tập. Hiện nay toàn bộ
những hiện vật về triều đại nhà Trần được Bảo tàng Nam Định tổ chức bảo
quản, xây dựng sưu tập, trong thời gian tới sẽ đưa ra trưng bày cho công
chúng đến học tập, tham quan và thưởng thức.
Tác giả là một người con của quê hương Nam Định, được đào tạo chính
quy về ngành bảo tàng học nên đã chọn đề tài “Giá trị lịch sử, văn hoá của
sưu tập hiện vật về triều đại nhà Trần lưu giữ tại Bảo tàng Nam Định” làm đề
tài luận văn Thạc sĩ Văn hố học của mình, với mong muốn từ kết quả nghiên
cứu sẽ là nguồn tư liệu quan trọng phục vụ công tác bảo tồn và phát huy giá
trị sưu tập tại Bảo tàng Nam Định, trên cơ sở đó tiếp tục xây dựng kế hoạch
sưu tầm, bổ sung hiện vật về triều Trần làm phong phú thêm cho kho cơ sở và
hệ thống trưng bày về triều đại nhà Trần tại Bảo tàng Nam Định, mặt khác kết
quả nghiên cứu sẽ là cơng trình khoa học nhỏ tham gia vào Đại lễ kỉ niệm 750

năm Thiên Trường – Nam Định.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu tổng quan sưu tập hiện vật về triều đại nhà Trần tại Bảo
tàng Nam Định.


7

- Khảo sát nghiên cứu giá trị lịch sử và văn hóa của sưu tập hiện vật về
triều đại nhà Trần lưu giữ tại Bảo tàng Nam Định.
- Đề xuất những giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử văn hoá của
sưu tập hiện vật về triều đại nhà Trần lưu giữ tại Bảo tàng Nam Định.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sưu tập hiện vật về triều đại nhà
Trần lưu giữ tại Bảo tàng Nam Định
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Vì số lượng hiện vật trong sưu tập khá lớn và có nhiều chất liệu khác
nhau nên phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào những hiện vật
tiêu biểu và giá trị lịch sử văn hóa của sưu tập.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhà Trần là một trong những triều đại phong kiến phát triển cực thịnh
nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. “Nền văn hoá thời Trần đã đạt đến
một trình độ cao. Đỉnh cao nhất của nền văn hố đó là khoa học và nghệ thuật
qn sự của nhà chiến lược quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn. Một số ngành
khoa học khác như kĩ thuật quân sự, thiên văn, lịch sử, y học cũng có những
thành tựu đáng kể”[25, tr.218].
Thế kỉ XIII, vó ngựa Ngun – Mơng rong ruổi khắp từ Á sang Âu,
chinh phục biết bao quốc gia hùng mạnh, nhưng khi đến Việt Nam thì 3 lần
xâm lăng, 3 lần bị đại bại. Chiến thắng lịch sử này của dân tộc Việt Nam

không những bảo vệ được cuộc sống độc lập tự do của mình mà cịn góp
phần bảo vệ được nhiều nền văn hố khác ở Đông Nam châu Á khỏi bị giặc
bành trướng, xâm lược Trung Quốc tàn phá.


8

Triều đại nhà Trần đã được nghiên cứu rất nhiều, nhất là trong các sách
về lịch sử. Năm 1981, Viện sử học Việt Nam đã tập hợp các lực lượng trong
và ngoài Viện mở những cuộc trao đổi, toạ đàm đi sâu vào các vấn đề về kinh
tế, văn hoá, xã hội của thời đại Lý - Trần và kết quả bước đầu được trình bày
trong tuyển tập luận văn dưới nhan đề “Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần”. Cơng trình đã trình bày đầy đủ các mặt hình thái kinh tế, thể chế chính
trị và kết cấu đẳng cấp, văn hoá tư tưởng thời Trần.
Năm 1995, Sở Văn hố thơng tin Nam Hà đã tổ chức Hội thảo khoa
học về triều Trần và Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, và cho phát
hành “Kỷ yếu Hội thảo khoa học về triều Trần và Hưng Đạo Đại vương Trần
Quốc Tuấn”. Trong hội thảo có khoảng 15 bài tham luận đề cập đến triều
Trần và những công lao to lớn của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với
dân tộc.
Tháng 9 - 2011, Bộ Văn hoá Thể thao Du lịch và UBND tỉnh Nam
Định tổ chức hội thảo khoa học “Luận cứ khoa học tổ chức kỷ niệm 750 năm
Thiên Trường - Nam Định (1262 – 2012)” với 16 bài tham luận về mảnh đất
Thiên Trường - Nam Định, trong đó có bài nghiên cứu “Hiện vật thời Trần tại
Bảo tàng Nam Định” của CN. Hoàng Văn Cương – Phó giám đốc Bảo tàng
tỉnh Nam Định
Năm 2008, tác giả Trần Đăng Ngọc với cuốn sách “Di tích lịch sử văn
hố tỉnh Nam Định” trong đó có khái qt về khu di tích đền Trần và chùa
Phổ Minh trong tiến trình lịch sử.
Xét riêng về mặt lịch sử triều đại nhà Trần có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu: Tác giả Trần Xn Sinh với cơng trình sách “Thuyết Trần” (Nxb

Hải Phịng, năm 2006) có nội dung đề cập đến nguồn gốc, lịch sử đời và q
trình phát triển dịng họ Trần ở Việt Nam; những nhân vật lịch sử và vai trò


9

của dịng họ Trần trong q trình giữ nước, dựng nước chống xâm lăng như
Trần Thủ Độ, Trần Thánh Tông, Trần Hưng Đạo...
Tác giả Trịnh Thị Nga với cơng trình sách “Di tích lịch sử đền Trần,
chùa tháp” (Nxb Văn hố dân tộc, năm 2010) có nội dung giới thiệu lịch sử
di tích đền Trần, chùa tháp ở Nam Định; sơ đồ bài trí thờ tại các chùa, đền,
phủ ở Nam Định như hành cung Thiên Trường (đền Thiên Trường, đền Cố
Trạch, chà Phổ Minh, chùa Đệ Tứ...).
Năm 2009, tác giả Nguyễn Thị Phương Chi với cơng trình sách “Kinh
tế xã hội thời Trần” (Nxb Giáo dục). Cơng trình đã giới thiệu kinh tế nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhà Trần qua tình hình ruộng đất, chế
độ phong cấp ruộng đất, sản xuất nông nghiệp, đời sống nhân dân, sự phát
triển các làng nghề, sự hình thành trung tâm buôn bán trong nước và giao lưu
buôn bán với nước ngoài.
Năm 2002, tác giả Nguyễn Thị Phương Chi với cuốn sách “Thái ấp,
điền trang trong thời Trần” (Nxb Khoa học xã hội) với nội dung đề cập đến
những điều kiện, những tiền đề hình thành thái ấp, điền trang thời Trần; diện
mạo thái ấp điền trang thời Trần và nhận định chung.
Tác giả Lê Đình Sĩ và Nguyễn Danh Phiệt với cơng trình sách “Kế
sách giữ nước thời Lý - Trần” (Nxb Chính trị quốc gia, năm 1994) với nội
dung đề cập đến lịch sử, sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thời
Lý - Trần và vai trị của Nhà nước phong kiến. Cơng trình cũng đã nêu lên
được tinh thần yêu nước, anh dũng chiến đấu và giành thắng lợi vĩ đại trong
công cuộc chống giặc giữ nước thời Lý - Trần.
Tác giả Hoàng Dương Chương và Trịnh Thị Nga với cơng trình sách

“Đơng A nhân kiệt” (Nxb Văn hoá dân tộc, năm 2011) với nội dung giới
thiệu vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của các vị hoàng đế, thái sư và các
trang nữ kiệt của vương triều Đông A.


10

Về mặt văn hố, tư tưởng thời Trần, có rất nhiều cơng trình sách như:
“Văn hố Lý - Trần (kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc chùa tháp)” của
Hoàng Văn Khốn (Nxb Văn hố thơng tin, năm 2000) có nội dung đề cập
đến vài nét văn hoá Lý - Trần, sự phát triển của Phật giáo và chùa tháp; những
chùa tháp tiêu biểu, đặc trưng và tiến triển của chùa tháp thời Lý - Trần.
Tác giả Trần Khánh Chương với cơng trình sách “Nghệ thuật gốm Việt
Nam” (Nxb Mỹ thuật, năm 1990). Cơng trình đã nêu lên những vấn đề về
gốm và nghệ thuật gốm ở Việt Nam; những loại gốm tiêu biểu, nổi tiếng
mang đặc trưng chất liệu, kĩ thuật, nghệ thuật làm cho gương mặt gốm Việt
Nam phong phú, đa dạng, mang tính dân tộc.
Tác giả Tống Trung Tín với cơng trình sách “Nghệ thuật điêu khắc Việt
Nam thời Lý và thời Trần (thế kỉ XI – XIV)” (Nxb Khoa học xã hội, năm
1997) với nội dung nghiên cứu về điêu khắc thời Lý và thời Trần, tình hình
phát triển và nghiên cứu chủ thể và mơtíp; các thời kì phát triển và đặc trưng
nghệ thuật, ảnh hưởng của điêu khắc thời Lý và thời Trần trong nền nghệ
thuật điêu khắc phương Đông.
Tác giả Trần Lâm Biền với cơng trình sách “Đồ thờ trong di tích người
Việt” (Nxb Văn hố thơng tin, năm 2003) với nội dung tìm hiểu một số vấn
đề liên quan đến đồ thờ; đồ thờ trong kiến trúc tơn giáo, tín ngưỡng của người
Việt, đồ thờ nhân cách, những đồ thờ phổ biến trong kiến trúc tơn giáo, tín
ngưỡng cổ truyền.
Năm 2011, Tác giả Trần Lâm Biền với cơng trình sách “Trang trí trong
mỹ thuật truyền thống của người Việt” (Nxb Khoa học xã hội) với nội dung

nghiên cứu về các hoa văn trên đồ gốm, đồ đồng, trên các biểu tượng nhà
Phật, biểu tượng gắn với dịch học, trên các linh vật trong mỹ thuật truyền
thống của người Việt qua các giai đoạn tiền sử, sơ sử, giai đoạn tự chủ.


11

Nhìn chung, cho đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về triều
đại nhà Trần nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống,
đầy đủ sâu sắc về giá trị lịch sử, văn hoá của sưu tập hiện vật về triều đại nhà
Trần lưu giữ tại Bảo tàng Nam Định.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng phương pháp luận
Mác- Lênin; chủ trương đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành của nhiều ngành khoa
học như: khảo cổ học, sử học, văn hoá học, bảo tàng học, mỹ thuật học....
- Phương pháp khảo sát, miêu tả, thống kê, phân loại, chụp ảnh và xử lí
thơng tin tư liệu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Tổng quan sưu tập hiện vật về triều đại nhà Trần lưu
giữ tại Bảo tàng Nam Định
Chương 2: Những giá trị tiêu biểu của sưu tập hiện vật về triều đại
nhà Trần lưu giữ tại Bảo tàng Nam Định
Chương 3: Một số giải pháp bảo quản và phát huy giá trị sưu tập
hiện vật về triều đại nhà Trần lưu giữ tại Bảo tàng Nam Định



12

Chương 1
TỔNG QUAN SƯU TẬP HIỆN VẬT VỀ TRIỀU ĐẠI NHÀ TRẦN
LƯU GIỮ TẠI BẢO TÀNG NAM ĐỊNH
1.1 Khái quát về triều Trần trong lịch sử dân tộc nói chung và Nam
Định nói riêng
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, triều đại Trần (1225-1400) là triều
đại huy hoàng nhất với võ công văn trị lẫy lừng đã ghi vào lịch sử dân tộc
những trang vàng chói lọi, làm rạng rỡ văn minh Đại Việt một thời. “Trước
kia tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là Quế Lâm), có người tên là
Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý,
Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá”[18, tr.7], nhân những rối ren loạn
lạc cuối thời Lý – cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII – họ Trần đã dần thâu tóm
quyền lực, lấy ngai vàng, lập triều đại mới hợp thức, hợp thời mà cũng hợp
lòng dân.
Nhà Trần thay nhà Lý mở ra thời kỳ tiếp tục phát triển cao hơn của xã
hội Đại Việt. Chính quyền nhà Trần trong thế kỷ XIII vững vàng, mà năng
động đã tạo ra một nền thống nhất và ổn định cho đất nước cho đến giữa thế
kỷ XIV. Dưới sự lãnh đạo của nhà Trần, quân dân Đại Việt đã 3 lần chiến
thắng quân xâm lược Nguyên Mông, “một đế chế rộng lớn từ bờ Thái Bình
Dương đến bên kia Hắc Hải chưa từng có trong lịch sử thế giới” [26, tr.217].
Thiên Trường – quê hương và là nơi phát tích, khởi nghiệp vương triều
Trần – trong thời gian tồn tại nhà Trần, đã được xây dựng và được coi như
kinh đơ thứ hai, thành trung tâm chính trị, văn hố, trung tâm quyền lực quan
trọng của Đại Việt.
Thời gian đầu Tức Mặc đơn thuần chỉ là quê cha, đất Tổ, chỉ có hành
cung và Tiên miếu để vua về làm lễ hàng năm: “Mùa thu tháng Tám năm Tân



13

Mão (1231), vua ngự đến hành cung Tức Mặc, làm lễ ban hương ở Tiên miếu,
ban yến cho các bô lão trong hương, và cho lụa theo thứ bậc khác
nhau”[18,tr.7]. Như vậy, lúc này ở Tức Mặc đã có hành cung, đã xây Tiên
miếu. Tuy nhiên việc xây dựng lớn ở Tức Mặc chỉ được bắt đầu từ năm 1239.
Sử chép:
“Kỷ Hợi, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 8 [1239]…Mùa xuân,
tháng Giêng, lại cho Phùng Tá Chu chức Nhập nội thái phó. Sai Chu về
hương Tức Mặc xây dựng nhà cửa, cung điện”[18, tr.13].
Nhâm Tuất, [Thiệu Phong] năm thứ 5 [1262]…Mùa xuân Thượng
hoàng ngự đến cung Tức Mặc, ban tiệc lớn. Các hương lão từ 60 tuổi
trở lên, mỗi người được ban tước hai tư, đàn bà được hai tấm lụa. Đổi
hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang. Lại
xây riêng một khu cung khác cho vua nối ngôi ngự khi về chầu, gọi là
cung Trùng Hoa. Lại làm chùa ở phía Tây cung Trùng Quang gọi là
chùa Phổ Minh. Từ đó về sau, các vua đều ngự ở cung này. Do đó, đặt
sắc dịch hai cung để hầu hạ, lại đặt quan lưu thủ để trông coi.[18, tr.33].
Bên cạnh khu trung tâm Trùng Quang, Trùng Hoa, một loạt các cung
điện, dinh thự, thái ấp của vương hầu quý tộc Trần cũng được thiết lập để
phục vụ và bảo vệ cho chế độ Thái Thượng hoàng. Ngày nay các cơng trình
kiến trúc nguy nga đó khơng cịn, nhưng dấu ấn văn hóa Trần vẫn in đậm qua
các tên đất, tên làng, tên địa danh, địa điểm như: các làng Đệ Nhất, Đệ Nhị,
Đệ Tam, Đệ Tứ, Phù Hoa (sau đổi là Phù Nghĩa) (xưa là cung Đệ Nhất, Đệ
Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ, Lan Hoa dành cho hoàng hậu, cung tần, mỹ nữ…); cánh
đồng Nội Cung, Cửa Triều, Kho Nhi (thuộc nội cung xưa); làng Lựu Phố
(vườn Lựu – nơi vua và quan lại đi vãn cảnh), Kim Hưng (nơi giảng văn và
bình thơ); Hoa Nha, Lộc Quý, An Lạc, Thiên Bồi, Độc Lập, Vườn Quan,
Vườn Dinh (thái ấp, điền trang, dinh thự của quan lại, quý tộc Trần).



14

Như vậy, kể từ năm 1262, cùng với việc thăng làng Tức Mặc thành phủ
Thiên Trường, các vua Trần đã cho xây dựng ở cố hương nhiều đền đài, cung
điện. Thiên Trường nhanh chóng trở thành kinh đơ thứ hai sau Thăng Long và
là căn cứ địa quan trọng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông –
Nguyên của Đại Việt ở thế kỷ XIII – XIV.
Vậy tại sao các vua nhà Trần lại xây dựng Tức Mặc trở thành một trung
tâm hành chính, chính trị, quân sự ở khu vực phía Nam đồng bằng châu thổ
Bắc Bộ? Thực ra vấn đề này đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu xem xét và
đưa ra ý kiến.
Thứ nhất, Tức Mặc – Thiên Trường là đất phất tích, là quê hương của
vương triều Trần, với mọi dịng họ khi nắm chính quyền, việc “trở về” với
quê hương là lẽ thường.
Thứ hai, với một tầm nhìn chiến lược, nhà Trần dường như nhận thức
rõ những yếu điểm về mặt phòng thủ của kinh đô Thăng Long, nhất là sau
cuộc kháng chiến chống Ngun Mơng lần thứ nhất (1258). Cần phải có một
địa bàn để rút lui chiến lược khi không giữ được kinh thành Thăng Long. Tức
Mặc - Thiên Trường trở thành đất trú chân của triều đình, quân đội và cả một
bộ phận nhân dân khi rút lui chiến lược khỏi kinh thành.
Hơn nữa đất đai ở vùng Thiên Trường và vùng Nam đồng bằng Bắc Bộ
phì nhiêu, nơng sản, thực phẩm phong phú, dân cư đơng đúc, xóm làng trù mật,
vì vậy nhà Trần đã thành lập các điền trang, thái ấp. Các điền trang, thái ấp được
cai quản bởi các vương hầu, quý tộc, đều là những tướng lĩnh xuất chúng, những
nhà chính trị tài ba như Trần Thủ Độ, Trần Quang Khải…Hệ thống điền trang,
thái ấp này trong kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông vừa là những
cơ sở sản xuất kinh tế, cung cấp hậu cần cho chiến tranh, vừa là những cứ điểm
chiến đấu đầy uy lực cả trong phịng thủ lẫn tấn cơng giặc.



15

Hành cung Thiên Trường là trung tâm chính trị của Đại Việt bên cạnh
kinh đô Thăng Long. Thiên Trường là nơi ở, làm việc của Thượng hồng, dù
khơng trực tiếp điều hành triều đình ở Thăng Long, nhưng từ hành cung Thiên
Trường, mọi quyết sách của triều đình đều có sự tham gia, góp ý của Thượng
hồng, và hơn thế cịn là người chịu trách nhiệm trước triều đình và hoàng tộc
việc rèn cặp vị vua trẻ. Thiên Trường do vậy thực sự đã đóng vai trị là kinh đơ
thứ hai của Đại Việt thời Trần, góp phần đưa đất nước đạt được những thành tựu
lớn trong kỷ nguyên văn minh Đại Việt và ghi nên những trang vàng trong lịch
sử vẻ vang của dân tộc.
Xin được lấy một nhận xét rất tổng quát của cuốn Đại cương lịch sử
Việt Nam để khái quát lại vị trí của hành cung Thiên Trường trong chiến lược
xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt dưới sự trị vì của vương triều Trần:
Tức Mặc là khu kinh tế, xã hội đặc biệt. Tầng lớp thống trị ở đây
phải sống dựa vào nông thôn cả nước. Các thành phần với nhiều
nghề nghiệp khác nhau: sư tăng, học trị, thợ thủ cơng, thương nhân
đều sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp và nông tôn. Thể chế chính
trị phường, hương ở đây là những đơn vị hành chính của chính
quyền phong kiến. Những hoạt động qn sự, chính trị, văn hóa,
giáo dục, kinh tế của Thăng Long và Tức Mặc – Thiên Trường đã
góp phần thúc đẩy xã hội Đại Việt phát triển [26, tr.215] .
1.2 Tổng quan về sưu tập hiện vật thời Trần tại Bảo tàng Nam Định
1.2.1 Vài nét về Bảo tàng Nam Định
Sau kháng chiến chống Pháp, hồ bình lập lại trên miền Bắc năm 1954,
tỉnh Nam Định cũng như các tỉnh khác lúc đó đã thành lập Ty Văn hố. Ban
đầu nghiệp vụ Bảo tàng cùng với Thư viện, Triển lãm là các bộ phận nằm



16

trong Phịng Văn hố đại chúng trực thuộc Ty Văn hoá, đến năm 1958 được
tách ra đứng độc lập gọi là Phòng Bảo tàng.
Tháng 4 năm 1965, hai tỉnh Nam Định và Hà Nam sát nhập thành một
đơn vị hành chính mới là tỉnh Nam Hà. Lực lượng cán bộ ngành Bảo tàng của
tỉnh được bổ sung. Thời gian này (8/1964), giặc Mỹ leo thang đánh phá miền
Bắc, Bảo tàng được sơ tán về xã Cộng Hoà ( huyện Vụ Bản), năm 1965
chuyển địa điểm sơ tán lên xã Nhân Nghĩa (Lý Nhân ). Năm 1968, Bảo tàng
từ Nhân Nghĩa trở về thành phố, nhưng chỉ bộ phận nhỏ (lãnh đạo) làm việc
cùng với văn phịng Ty văn hố ở 19 Nguyễn Du (Sở Văn hoá, Thể thao và
Du lịch hiện nay), còn tất cả các bộ phận nghiệp vụ và kho lưu giữ hiện vật thì
đặt tại Chùa Tháp – xã Lộc Vượng, ngoại thành Nam Định.
Năm 1972 chuyển lên thôn Bảo Long (Mỹ Hà – Mỹ Lộc) để đề phòng
cuộc rải thảm bom máy bay B52 của đế quốc Mỹ. Tháng 12 năm 1975, hai
tỉnh Nam Hà và Ninh Bình hợp nhất thành tỉnh mới với tên gọi là Hà Nam
Ninh. Tháng 6 năm 1980, UBND tỉnh Hà Nam Ninh ra quyết định nâng cấp
Phòng Bảo tàng lên thành Bảo tàng Hà Nam Ninh vẫn trực thuộc Sở Văn hố
– Thơng tin. Đây là điểm mốc trong sự phát triển của Bảo tàng tỉnh, thừa nhận
một sự cố gắng cống hiến của cán bộ công nhân viên Bảo tàng trong những năm
qua. Đồng thời cũng là sự quan tâm, mong muốn của nhân dân, của lãnh đạo
tỉnh, ngành huớng tới sự đi lên, làm tốt hơn nữa công tác bảo tồn, bảo tàng.
Năm 1988, Bảo tàng tỉnh đuợc chia làm hai đơn vị sự nghiệp thuộc Sở
Văn hoá Thơng tin, đó là Bảo tàng tỉnh và Ban quản lí Di tích lịch sử và danh
thắng. Trong thời gian hoạt động độc lập này, Bảo tàng đã có những thành tựu
đáng kể trong lĩnh vực nghiên cứu, sưu tầm, và bảo quản hiện vật.
Năm 1989, hai đơn vị Bảo tàng và Ban quản lí di tích hợp nhất làm một
lấy tên gọi là Bảo tàng Hà Nam Ninh. Bộ máy quản lí được trẻ hố, đội ngũ
cán bộ, cơng nhân viên được sàng lọc, tuyển chọn. Hoạt động nghiệp vụ sôi



17

nổi, thuận lợi. Năm 1990, Bảo tàng được phân cho khu nhà K (Số 3 – Hoàng
Hoa Thám, vốn là nhà của một viên quản đốc nhà máy dệt thời Pháp) làm trụ
sở chính.
Tháng 12 năm 1991, Quốc hội khố VIII – kì họp thứ nhất đã quyết
định chia tỉnh Hà Nam Ninh ra làm hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Đây là
một sự kiện xã hội làm thay đổi tồn diện đối với chính quyền và nhân dân
hai tỉnh mới. Bảo tàng Nam Hà lúc này chỉ còn 14 người (sau bổ sung lên 18
người), cán bộ nghiệp vụ chỉ 5 – 6 người còn lại là kế tốn, hành chính, bảo
vệ…Nhưng chính thời kỳ này lại là giai đoạn sôi động trong công tác và đạt
nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Tháng 11 năm 1996, Quốc hội khoá IX – kì họp thứ 10 đã phê chuẩn:
Tỉnh Nam Hà chia thành hai tỉnh Hà Nam và Nam Định. Lại một lần nữa
phân chia tổ chức con người và di sản văn hóa và tài sản (chủ yếu là kho hiện
vật). Nhưng lần này số cán bộ người Hà Nam và hiện vật thuộc địa bàn Hà
Nam ít, nên ít ảnh hưởng tới các điều kiện và mơ hình hoạt động của Bảo tàng
Nam Định.
Trong mấy năm từ 1998 tới 2000, việc bảo vệ, trùng tu, tôn tạo và phát
huy tác dụng di tích lịch sử - văn hố trên phạm vi cả nước có những vấn đề
nổi cộm, cần phải xem xét lại trong cơng tác quản lí. Nhằm khắc phục những
tình trạng bức xúc nêu trên và cũng cần chun mơn hố để đạt hiệu quả cao
cho hoạt động ở cả hai mảng Bảo tồn và Bảo tàng, tháng 10 năm 2000,
UBND tỉnh Nam Định quyết định thành lập Ban quản lí di tích lịch sử danh
thắng trực thuộc Sở Văn hố Thơng tin, là một đơn vị sự nghiệp không nằm
trong cơ cấu Bảo tàng. Lại một lần nữa khó khăn có tính đặc thù thách thức
những người hoạt động ở lĩnh vực Bảo tàng Nam Định. Tới lúc này khi phải
đứng độc lập những người làm Bảo tàng buộc phải tìm lại đường đi và nhiệm



18

vụ của mình cùng các giải pháp khó khăn để tồn tại. Một loạt hoạt động của bảo
tàng mang tính cơ bản nghiệp vụ được thực hiện từ đó, và tiếp tục được duy trì,
ngày càng trở nên chun mơn hố để có bộ mặt Bảo tàng như hiện nay.
Là một thiết chế văn hoá quan trọng, cũng như các bảo tàng khác trên
tồn quốc, Bảo tàng Nam Định khơng chỉ có vai trị giữ gìn, bảo tồn bản sắc
văn hố địa phương thơng qua cơng tác sưu tầm, kiểm kê, bảo quản và trưng
bày hiện vật, mà còn phục vụ nghiên cứu khoa học về di sản văn hoá, giao lưu
với các tỉnh thành trong toàn quốc và trên thế giới.
Năm 2005, được sự quan tâm của tỉnh, dự án đầu tư xây dựng Bảo tàng
tỉnh được phê duyệt. Bảo tàng nằm ở trung tâm thành phố Nam Định, trong
khơng gian liên hồn các cơng trình văn hố, lịch sử, tôn giáo truyền thống
như Cột cờ, chùa Vọng Cung, vườn hoa, Đài tưởng niệm Anh hùng Liệt
sỹ…Cũng tại vị trí này, năm 1963 khi Hồ Chủ tịch về dự Đại hội Đảng bộ
tỉnh Nam Định, người đã đến xem triển lãm những thành tựu kinh tế - xã hội
của tỉnh và ghi sổ vàng truyền thống: “Tiếp tục truyền thống cách mạng vẻ
vang, xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Cơng trình được xây dựng trên
diện tích mặt bằng gần 12.000m2, quy mô đầu tư xây dựng 5.200m2. Cơng
trình chính nhà Bảo tàng được thiết kế mang phong cách truyền thống gồm 3
tầng, tầng 1 là kho hiện vật và nơi làm việc của cán bộ Bảo tàng, tầng 2 và
tầng 3 dùng để trưng bày. Ngoài ra Bảo tàng cịn có khu trưng bày ngồi trời
kết hợp cây xanh, thảm cỏ tạo thành một tổng thể liên hoàn đáp ứng yêu cầu
hoạt động của một thiết chế văn hoá đặc thù, một điểm nhấn trong kiến trúc
Thành Nam hơm nay.
Sau gần 7 năm xây dựng, cơng trình Bảo tàng tỉnh Nam Định chính
thức được hồn thành và khai mạc trưng bày nội thất phần lịch sử xã hội tỉnh
Nam Định vào ngày 30 - 9 - 2012, đúng vào dịp Lễ kỷ niệm 750 Thiên



19

Trường – Nam Định. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, Bảo tàng tỉnh
Nam Định thống nhất một địa điểm hoạt động với vị trí thuận lợi, cơ sở hạ
tầng kỹ thuật phù hợp, đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, được đào tạo chuyên
môn sâu. Bảo tàng Nam Định đang có đủ điều kiện thuận lợi tổ chức thực
hiện các chức năng của một bảo tàng cấp tỉnh, thành phố được xếp hạng II
trong hệ thống Bảo tàng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tham quan
học tập của cơng chúng và đóng góp quan trọng vào sự nghiệp văn hoá – xã
hội của địa phương.
1.2.2 Tình hình sưu tầm và thu thập hiện vật
Sưu tầm tài liệu hiện vật là khâu cơng tác có vị trí đặc biệt quan trọng
trong tồn bộ hoạt động của bảo tàng, nó gắn liền với các khâu cơng tác khác
tạo thành một thể thống nhất hoàn chỉnh đảm bảo cho bảo tàng ra đời, tồn tại
và phát triển. Mọi hoạt động của bảo tàng đều xoay quanh tài liệu, hiện vật và
cơng tác sưu tầm của bảo tàng chính là lựa chọn, thu thập những tài liệu, hiện
vật theo phương pháp khoa học, phù hợp với loại hình của bảo tàng, là cơ sở
hoạt động cho tồn bộ cơng tác bảo tàng. Tài liệu, hiện vật của một bảo tàng
có phong phú, giàu có hay khơng, có đáp ứng được công tác nghiên cứu,
trưng bày, tuyên truyền của bảo tàng hay không phụ thuộc trực tiếp vào công
tác sưu tầm.
Hiện tại Bảo tàng Nam Định đang lưu giữ gần 20.000 tài liệu, hiện vật
bao gồm các thể loại khác nhau, trong đó có nhiều bộ sưu tập hiện vật quý
hiếm. Các hiện vật tại bảo tàng bao gồm 4.355 hiện vật thể khối, 2.144 tài liệu
hiện vật có chữ viết, 345 hiện vật tham khảo, 10.930 hiện vật phim ảnh và
hàng nghìn đầu sách, báo, tư liệu phản ảnh toàn diện các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội của tỉnh mà qua hơn 50 năm hình thành, phát triển bảo tàng, các thế hệ
cán bộ, nhân viên bảo tàng đã dày công nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, xây

dựng. Tiêu biểu là bộ sưu tập điêu khắc đá tháp Chương Sơn, sưu tập đất


20

nung thời Lý, sưu tập tiền đồng cổ, sưu tập hiện vật múa rối nước, sưu tập
nông cụ truyền thống của cư dân Nam đồng bằng sông Hồng…
Sưu tập hiện vật về triều đại nhà Trần hiện có tại Bảo tàng Nam Định là
một trong những sưu tập hiện vật có số lượng lớn, nội dung phong phú, đa
dạng chất liệu cũng như kiểu dáng. Sưu tập này được sưu tầm từ những nguồn
khác nhau như sau:
Ngay từ những thập niên 70 của thế kỷ XX, Bảo tàng Nam Định đã tiến
hành nhiều cuộc khai quật khảo cổ học cụm di tích Trần – Nam Định và đã
phát hiện được nhiều hiện vật có giá trị. Đặc biệt trong 3 năm: 2006, 2007,
2008, Bảo tàng Nam Định đã phối hợp với Viện khảo cổ học, Sở Văn hóa Thể
thao Du lịch tỉnh Nam Định, Ban quản lý các cơng trình trọng điểm Nam
Định tiến hành thám sát, khai quật thăm dị nhiều vị trí trong khu di tích Tức
Mặc – Thiên Trường (Nam Định).
Các vị trí được thám sát gần Hậu Bồi, Vạn Khoảnh, Đệ Tam Tây, Lựu
Phố, đình Liễu Nhai, đình Kênh, đình Cả, đình Tây Đệ Nhị, Cao Đài, khu
cánh đồng nằm giữa đền Trần và chùa Phổ Minh, Đồng Gừng, Đồng Của
Triều, các vị trí khai quật thăm dò chủ yếu ở khu vực đền Trần và khu gị cao
nằm ở phía Tây liền khoảnh với khu vực đền Trần. Tất cả các hố đào đều làm
phát lộ những di tích, di vật có niên đại thuộc nhiều thời kỳ khác nhau. Tuy
nhiên các di tích có giá trị nhất và tập trung nhất là thuộc khu vực đền Trần
(bao gồm các khu vực trong và khu gị cao ngồi đền Trần, được phát lộ trong
năm 2006 và 2008 – 2009).
Tại cụm di tích đền Trần (đền Thiên Trường, đền Cố Trạch, đền Trùng
Hoa) đã tiến hành 5 lần khai quật vào tháng 12/1975, tháng 3-4/1979, tháng
5/2003, tháng 11-12/2006, tháng 12/2008 đến 02/2009. Qua kết quả khai quật

đã xác định được cương vực của hệ thống cung điện Trùng Quang và Trùng


21

Hoa, đặc biệt là cung Trùng Hoa; đây là di tích kiến trúc có niên đại chuẩn
thời Trần khơng bị cắt phá, quy hoạch rõ ràng mà chưa một nơi nào phát hiện
được. Đặc biệt trong những lần khai quật đã phát hiện được các loại gạch như
gạch hoa cúc, gạch chữ nhật, gạch “Vĩnh Ninh Trường”; phát hiện được nhiều
đồ dùng sinh hoạt thời Trần như bát, đĩa men ngọc, men nâu; trơn bát có chữ
“Thiên Trường phủ chế”….
Tại khu vực trong và ngoài chùa Phổ Minh đã tiến hành 4 lần khai quật
vào năm 1970, tháng 2/1993, tháng 11/1995, tháng 12/2005, phát hiện được
các loại gạch, ngói gắn lá đề; phát hiện được bát, đĩa men ngọc, men nâu; phát
hiện được các loại tượng uyên ương, cổ rồng, hồ lô, lư hương đất nung
Sau 2 lần khai quật tại chùa Đệ Tứ vào tháng 3/1976 và tháng 9/2006,
Bảo tàng tỉnh Nam Định đã phát hiện được các loại gạch, ngói gắn lá đề chạm
rồng, gạch “Vĩnh Ninh Trường”, các loại đầu rồng, đầu phượng, tượng uyên
ương, gốm men ngọc, ống nhổ bằng đồng
Ngoài ra Bảo tàng tỉnh Nam Định còn tiến hành các cuộc khai quật
khảo cổ tại các địa điểm khác như: cánh đồng Cửa Triều (phường Lộc
Vượng), bãi Hạ Lan (phường Lộc Vượng), khu vực ao cạnh lăng Trần Hưng
Đạo (thôn Bảo Lộc, Mỹ Phúc, Mỹ Lộc), đình và miễu Cao Đài (Mỹ Thành,
Mỹ Lộc), Cồn Chè – Cồn Thịnh (xã Mỹ Thịnh, Mỹ Lộc). Qua những cuộc
khai quật này đã phát hiện được nhiều các loại gạch, ngói, gốm men ngọc,
men nâu…được thẩm định là thuộc thời Trần.
Ngồi cơng tác khai quật khảo cổ để thu thập hiện vật thì hiện vật cịn
được đưa về bảo tàng thơng qua cơng tác xã hội hố. Hiện nay tại Nam Định
có một số cá nhân và hội, tổ chức chuyên sưu tầm, nghiên cứu về cổ vật như
Hội cổ vật Thiên Trường, hàng năm Bảo tàng Nam Định cũng mở những cuộc

triển lãm với sự tham gia của các tổ chức, cá nhân đam mê về cổ vật, thông


22

qua những cuộc triển lãm này, một số tổ chức, cá nhân đã hiến tặng hiện vật
cho bảo tàng bởi vì có lẽ khơng ở nơi nào hiện vật có thể được bảo quản một
cách khoa học và phát huy giá trị tốt như ở bảo tàng. Năm 1980, ông Vũ Văn
Át (Nam Cường – Nam Ninh) đã hiến tặng cho bảo tàng một chiếc thạp bằng
gốm; thạp thuộc dòng gốm hoa nâu. Năm 2004, ông Trần Văn Hinh – Hội Cổ
vật Thiên Trường tặng Bảo tàng Nam Định chiếc chum thuộc đồ sành, có niên
đại thời Trần.
Những hiện vật này chính là những tư liệu vơ cùng q giá góp phần
giúp chúng ta nghiên cứu về lịch sử dân tộc nói chung và triều Trần nói riêng.
1.2.3 Thống kê hiện vật
Các hoạt động của bảo tàng đều lấy hiện vật gốc có giá trị lịch sử - văn
hố – khoa học làm đối tượng sưu tầm, trưng bày, nghiên cứu, giáo dục, tuyên
truyền…Nếu các hiện vật gốc được liên kết lại lập thành các bộ sưu tập trên
cơ sở một hoặc nhiều thuộc tính chung nào đó thì giá trị phản ánh sẽ phong
phú hơn, đầy đủ, chính xác hơn. Chính trên cơ sỏ các sưu tập hiện vật đó,
phần trưng bày của bảo tàng ln là sự nghiên cứu để khai thác tới mức tối ưu
lượng thông tin của các sưu tập hiện vật, mặt khác tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung, hồn thiện, hình thành các sưu tập mới, giới thiệu các sưu tập với cơng
chúng, giữ gìn bảo quản lâu dài các sưu tập, đó chính là sự vận động của các
hoạt động bảo tàng. Bất cứ bảo tàng nào cũng có từ một đến nhiều sưu tập.
Các sưu tập là niềm tự hào, là một cơ sở quan trọng để định giá trị và kết quả
lao động của mỗi bảo tàng. Vì vậy, việc xây dựng các sưu tập hiện vật cần
được coi là nhiệm vụ quan trọng của hoạt động bảo tàng với mục đích khám
phá tiềm năng, thông tin khoa học và lịch sử văn hoá của hiện vật tạo cơ sở
cho bảo tàng thực hiện chức năng nghiên cứu và giáo dục của mình.

Sưu tập hiện vật về triều đại nhà Trần là một sưu tập quan trọng trong
rất nhiều sưu tập hiện có tại bảo tàng Nam Định. Sưu tập hiện vật này khá đa


23

dạng về chất liệu, phong phú về loại hình, có giá trị lịch sử, văn hoá, giá trị
nhân văn và ý nghĩa chính trị sâu sắc, là nguồn sử liệu xác thực minh chứng
cho một triều đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát tại kho cơ sở và hệ thống trưng bày
thường xuyên của Bảo tàng tỉnh Nam Định thì tổng số hiện vật thuộc sưu tập
là 1100 hiện vật các loại khác nhau.
* Hiện vật lưu giữ trong kho cơ sở: với diện tích khoảng gần 500m2 , hệ
thống kho là một cơng trình khép kín. Tất cả các hiện vật thời Trần hiện đang
lưu giữ, bảo quản trong kho cơ sở của Bảo tàng tỉnh Nam Định là 949 hiện
vật với nhiều loại hình, chất liệu khác nhau, số hiện vật đó đều đã qua các
khâu xử lý về mặt nghiệp vụ đảm bảo cơ sở khoa học và pháp lý: từ khâu làm
hồ sơ khoa học (ghi chép, vào sổ kiểm kê, đánh số, lên hộ chiếu khoa học…)
đến khâu bảo quản đều được thực hiện một cách nghiêm túc. Việc quản lý
các hiện vật được tiến hành theo quy định chung của Nhà nước, của Ngành,
và đúng nguyên tắc bảo tàng.
Kho cơ sở đang lưu giữ, bảo quản 949 hiện vật, bao gồm các hiện vật
thuộc nhiều loại hình, chất liệu, cho chúng ta thấy được một bức tranh khá
toàn diện về Nam Định dưới thời Trần.
* Hiện vật trên hệ thống trưng bày: hiện vật được trưng bày một cách
chọn lọc, có điểm nhấn, đạt được hiệu quả cao trong cơng tác giáo dục, tun
truyền. Vì vậy hiện vật trong sưu tập được bảo tàng chú trọng trong công tác
nghiên cứu khoa học, trưng bày và giới thiệu với đông đảo quần chúng nhân
dân thông qua hệ thống trưng bày
Theo số liệu thống kê khảo sát của chúng tơi thì có 151 hiện vật trong

sưu tập hiện vật về triều Trần được trưng bày trên hệ thống trưng bày thường


24

xuyên của bảo tàng. Tuy số lượng trưng bày khá khiêm tốn so với tổng số
hiện vật có trong sưu tập, nhưng do kho cơ sở của bảo tàng có rất nhiều hiện
vật, khơng gian trưng bày cịn hạn chế, nên phải cân đối việc trưng bày giữa
các sưu tập, nhưng những hiện vật thời Trần được đưa ra trưng bày đều là
những hiện vật gốc, cịn ngun vẹn, có giá trị cao về lịch sử, văn hoá…như
bộ cánh cửa chùa Phổ Minh với hình ảnh rồng chầu lá đề, biểu tượng cho sự
hoà hợp giữa vương quyền và thần quyền, các loại vật liệu xây dựng và vật
liệu trang trí kiến trúc như : gạch, ngói, tượng un ương, đầu rồng, đầu
phượng….hay các loại đồ gốm.
1.2.4 Phân loại hiện vật thuộc sưu tập
Sưu tập hiện vật về triều đại nhà Trần là một trong những sưu tập có số
lượng lớn, nội dung phong phú, đa dạng chất liệu cũng như kiểu dáng và đang
không ngừng được bổ sung thông qua công tác sưu tầm tiếp nhận và hiến tặng
của nhiều cá nhân, đơn vị.
Số lượng và sự đa dạng về nội dung của các hiện vật trong sưu tập này
đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc phân loại nhằm mục đích phục vụ hiệu quả tối
đa cho việc quản lý, khai thác, nghiên cứu và trưng bày, không ngừng bổ sung
cho sưu tập. Vì vậy, xây dựng các tiêu chí phân loại cho sưu tập là cơng việc
rất quan trọng. Các tiêu chí khơng chỉ bao qt được tồn bộ nội dung sưu tập
mà cịn phản ánh được từng nội dung đặc trưng. Hơn thế nữa, khi đặt trong
một tổng thể, các tiêu chí cịn phải tạo nên các mối quan hệ một cách thuận
tiện nhất hiệu quả cho công tác quản lý, nghiên cứu và khai thác, phát huy giá
trị của sưu tập hiện vật của Bảo tàng.
Dựa trên các tiêu chí phân loại hiện vật của bảo tàng, các hiện vật thuộc
sưu tập hiện vật này có thể phân loại như sau:



25

* Phân loại hiện vật theo chất liệu
Bảo tàng Nam Định đang lưu giữ hơn 1000 hiện vật thuộc niên đại
Trần thế kỉ XIII- XIV. Dựa vào chất liệu có thể chia những hiện vật này thành
3 loại: đất nung, đồ gốm và một số cấu kiện gỗ.
Bảng số 1.1: Phân loại sưu tập theo chất liệu
STT

01

Chất liệu hiện vật

Đồ gốm

02

Số lượng hiện vật

Đất nung

330

Đồ gốm men

656

Đồ sành


110

Đồ gỗ

4

Tổng số

1100

* Phân loại hiện vật theo mục đích sử dụng
Dựa vào cơng năng sử dụng có thể chia những hiện vật này thành 2
nhóm: vật liệu kiến trúc, đồ dùng sinh hoạt
- Nhóm vật liệu kiến trúc được hiểu là những sản phẩm hay cấu kiện
dùng để tạo dựng và trang trí các cơng trình kiến trúc thuộc triều đại nhà
Trần, gồm có 2 loại, đó là:
+ Vật liệu xây dựng: bao gồm 2 loại gạch và ngói. Trong gạch, ngói lại
chia làm nhiều loại hình khác nhau.
Gạch: có 9 loại gồm: gạch bìa, gạch hình thoi, gạch hoa vng trang trí
hoa văn, gạch vng trơn, gạch có mộng, gạch gắn mơ hình tháp, gạch hình
thước thợ, gạch chạm rồng, gạch có minh văn.


×