Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Giá trị lịch sử văn hóa của sưu tập đồ thờ bằng sơn son thiếp vàng thời nguyễn tại bảo tàng lịch sử việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.15 MB, 120 trang )

93

Bộ giáo dục v đo tạo

bộ văn hóa thể thao v du lịch

trờng đại học văn hóa H Nội

đinh quỳnh hoa

Giá trị lịch sử - văn hoá của su tập đồ thờ
bằng gỗ sơn son thếp vng thời nguyễn
tại bảo tng lịch sử Việt Nam
Chuyên ngành : Văn hóa học
M số
: 60 31 70

luận văn thạc sĩ văn hóa học

Ngời hớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn đình chiến

H NộI - 2009


94

LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành bản luận văn này tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn đến TS. Nguyễn
Đình Chiến đã định hướng khoa học, giúp đỡ, hướng dẫn tơi trong q trình thực hiện luận
văn này.


Đồng thời, tơi cũng xin cảm ơn Ban giám đốc và các bạn đồng nghiệp, cộng tác viên
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tạo điều kiện giúp đỡ tơi hồn thành bản luận văn. Tôi xin cảm ơn
các thầy cô giáo khoa Sau Đại học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã động viên, giúp đỡ tơi
trong q trình học tập ở trường.
Luận văn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các thầy cô giáo và
các bạn đồng nghiệp quan tâm góp ý để bản luận văn được hồn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ

Đinh Quỳnh Hoa


95

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

-A

:

Ảnh

- NĐ

:

Niên đại

- Nxb


:

Nhà xuất bản

- tk

:

Thế kỷ

- Tr

:

Trang

- TS

:

Tiến sĩ

- PT

:

Phụ lục


96


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ SƯU TẬP ĐỒ THỜ BẰNG GỖ SƠN SON THẾP
VÀNG THỜI NGUYỄN TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM

1.1.

Một số khái niệm về các loại đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng

1.2.

Tổng quan về sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn tại
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

6
6
16

Chương 2: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA SƯU TẬP ĐỒ THỜ BẰNG GỖ
SƠN SON THẾP VÀNG THỜI NGUYỄN TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ
VIỆT NAM

34

2.1.


Thống kê, phân loại theo công năng và từng loại hình hiện vật

34

2.2.

Giá trị lịch sử của sưu tập

49

2.3.

Giá trị văn hóa của sưu tập

53

Chương 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO QUẢN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỊCH
SỬ, VĂN HÓA CỦA SƯU TẬP ĐỒ THỜ BẰNG GỖ SƠN SON THẾP
VÀNG THỜI NGUYỄN TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM

3.1.

Thực trạng công tác kiểm kê - bảo quản hiện vật tại Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam

3.2.


68

Thực trạng công tác phát huy giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập đồ thờ
bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

3.4.

61

Thực trạng công tác bảo quản sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng
thời Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

3.3.

61

72

Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác bảo quản và phát huy giá
trị lịch sử, văn hóa của sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời
Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

74

KẾT LUẬN

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


89

PHỤ LỤC

92


97

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Một trong những giá trị văn hóa thời Nguyễn, các cổ vật bằng chất liệu
gỗ, trong đó đặc biệt là đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng. Đây là một đối
tượng khá quan trọng cần phải nghiên cứu vì bản thân chúng chứa đựng nhiều
thông tin quý giá, phản ánh quan điểm thẩm mỹ, kỹ thuật thể hiện và cả ước
mơ của người xưa.
Các cổ vật quý giá này đã và đang được lưu giữ trong các bảo tàng, di
tích, các gia tộc… trên khắp đất nước ta từ Bắc vào Nam, trong đó có một số
lượng đáng kể được gìn giữ, bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Trong hệ thống các Bảo tàng Quốc gia Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam được thành lập sớm nhất trên cơ sở kế thừa cơ sở vật chất của Bảo
tàng LuiFinô (Louis Finot) - một bảo tàng do Trường Viễn Đông Bác cổ của
Pháp xây dựng năm 1926, khánh thành năm 1932.
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam từ khi tiếp quản (năm 1958) cho đến nay
vẫn luôn quan tâm đến công tác nghiên cứu sưu tầm, kiểm kê - bảo quản và
trưng bày hệ thống các di vật từ thời Tiền sử đến triều Nguyễn và giai đọan
Cách mạng tháng Tám thành cơng năm 1945, trong đó có những hiện vật của
thời kỳ lịch sử triều Nguyễn nói chung và sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp
vàng thời Nguyễn nói riêng.

Sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn tại Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam là sưu tập lớn, phong phú và tương đối điển hình về các
loại đồ thờ. Tuy nhiên, đến nay tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng như giới
nghiên cứu trong nước chưa có một cơng trình nghiên cứu về giá trị lịch sử,
văn hóa mang tính khoa học và tồn diện nào về sưu tập này.
Số lượng hiện vật trong sưu tập khá đa dạng và phong phú. Vì vậy, việc


98
nghiên cứu chúng nhằm phác họa, đánh giá một phần nào về những yếu tố
văn hóa, tính kế thừa và sáng tạo của các nghệ nhân, đời sống tôn giáo tín
ngưỡng của người Việt trong truyền thống văn hóa Việt Nam.
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm hiểu những giá trị lịch
sử, văn hóa của sưu tập hiện vật. Kết quả nghiên cứu còn đề ra mục tiêu góp
phần tìm hiểu những kĩ thuật và quy trình chế tác của nghề chạm gỗ, sơn son
thếp vàng ở Việt Nam.
Xuất phát từ nhận thức trên đây đối với di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, việc nghiên cứu toàn diện
về nội dung giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập hiện vật đồ thờ bằng gỗ sơn
son thếp vàng thời Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam dưới góc độ văn
hóa học là một việc làm có ý nghĩa cấp thiết nhằm có được những đóng góp
thiết thực cho cơng tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Bảo tàng Lịch
sử Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, tơi đã chọn đề tài: “Giá trị lịch sử - văn hóa của sưu tập đồ
thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam”
làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chun ngành Văn hóa học.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Hiện nay, ở nước ta các cơng trình nghiên cứu về đồ thờ bằng gỗ sơn
son thếp vàng chưa nhiều, mới chỉ có một số cơng trình nghiên cứu như :

Năm 1995 có Luận án Tiến sĩ Lịch sử : Đồ gỗ thời Nguyễn tàng trữ tại Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam - thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trịnh Thị Hòa đã
được bảo vệ [18]. Luận án này nghiên cứu về những đặc trưng văn hóa của đồ
gỗ thời Nguyễn thơng qua việc thống kê, phân loại, miêu tả những đồ gỗ thời
Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh, kết quả
luận án đã góp phần hồn chỉnh “ hộ chiếu khoa học” cho các hiện vật này.
Năm 1997 nhà phê bình mỹ thuật, họa sĩ Phan Cẩm Thượng đã xuất


99
bản cơng trình mang tên “Điêu khắc cổ Việt Nam ”. Cơng trình này đã góp
phần rất quan trọng vào công tác nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc cổ Việt
Nam và nghiên cứu về nghệ thuật điêu khắc tượng gỗ sơn. Tuy nhiên cơng
trình này chưa đi sâu nghiên cứu về các sưu tập đồ gỗ sơn son thếp vàng.
Giáo sư Trần Lâm Biền với cơng trình nghiên cứu: “Đồ thờ trong di
tích của người Việt” xuất bản năm 2003 [7]. Tài liệu này đã phác họa một mơ
hình (mang tính giả định) giới thiệu một cách hệ thống, tạo điều kiện nhận
biết về đồ thờ của người Việt thông qua đặc điểm về niên đại, mỹ thuật và ý
nghĩa của các loại đồ thờ. Qua đó có cách nhìn về đời sống tơn giáo tín
ngưỡng của người Việt Nam.
Cũng từ năm 2003 đến nay, trong một số thông báo khoa học của Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam có đăng các bài của: Nguyễn Mạnh Hà - Đào Ngọc
Hân về kết quả bảo quản một số hiện vật đồ thờ bằng gỗ sơn thếp vàng tại
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Năm 2004 tại cuộc khai quật mộ táng Đông Sơn tại Động Xá huyện
Kim Động tỉnh Hưng Yên, Tiến sĩ Nguyễn Việt – Giám đốc Trung tâm
nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á đã phát hiện ra một mảnh gỗ sơn nhỏ và tìm
cách bảo quản, lưu giữ di vật này. Đây là một kết quả quan trọng để nghiên
cứu về lịch sử các hiện vật gỗ Việt Nam .
Ngoài ra cịn có bài viết “Ngai, Hương án thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng

thời Nguyễn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam” của Đinh Quỳnh Hoa đã
đăng trong Thông báo khoa học của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam năm 2008 [16].
Có thể nói, cho đến nay công tác nghiên cứu về đồ thờ bằng gỗ sơn son
thếp vàng Việt Nam hầu như chưa nhiều. Mặt khác, lượng thông tin về nghiên
cứu đồ gỗ, gỗ sơn, điêu khắc cổ Việt Nam hay đồ thờ bằng gỗ nói chung cịn ít;
thường chỉ đề cập một vài khía cạnh có liên quan. Nhưng kết quả của các nhà
nghiên cứu trước là những nguồn tư liệu quý giá giúp tác giả có thêm cơ sở để


100
tìm hiểu, nghiên cứu, luận giải những những vấn đề trong nội dung của đề tài.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NGHIÊN CỨU

- Đối tượng nghiên cứu
Các sưu tập về đồ thờ nói chung của nước ta rất đa dạng và phong phú,
do vậy đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là đồ thờ bằng gỗ sơn son
thếp vàng thời Nguyễn đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Ngồi ra,
luận văn cịn nghiên cứu tham khảo nhằm đối chiếu so sánh trên một số hiện
vật đồ thờ cùng niên đại bằng các chất liệu khác hiện đang được lưu giữ tại
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, với Bảo tàng Nam Định, di tích đình Lệ Mật và
chùa Láng để đánh giá sưu tập theo một hệ thống chung trong những tác
phẩm đồ thờ thời Nguyễn. Thêm vào đó là có sự so sánh với những loại hình
hiện vật tương tự của thời Lê, để nhằm tập trung làm rõ thêm những giá trị
lịch sử, văn hóa, nghệ thuật trang trí của sưu tập này.
- Phạm vi nghiên cứu
Sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn đang lưu giữ tại
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đề tài tập trung nghiên cứu và hệ thống hóa tồn bộ hiện vật trong sưu

tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn có tại Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam, nhằm cung cấp thơng tin chính xác, khoa học, đầy đủ cho việc
nghiên cứu, trưng bày, bảo quản sưu tập này; mở đầu cho công tác nghiên cứu
tổng thể hiện vật gỗ sơn son thếp vàng Việt Nam .
Đi sâu nghiên cứu theo từng loại đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng để
đánh giá các giá trị lịch sử, văn hoá, kỹ thuật và quy trình chế tác.
Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của sưu tập đồ
thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam..
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau đó là:


101
Áp dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và phương
pháp nghiên cứu sử liệu học.
Áp dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành Văn hóa học, Bảo tàng học,
Mỹ thuật học để tìm hiểu những giá trị văn hóa, lịch sử, nghệ thuật của sưu tập.
Áp dụng phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại, hệ thống hóa và
miêu tả những đặc điểm của từng loại hình hiện vật.
6. KẾT QUẢ VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP NGHIÊN CỨU

Kết quả đạt được của luận văn góp phần nghiên cứu tổng thể về sưu tập
đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,
trên cơ sở thống kê, phân loại, khảo tả đầy đủ về loại hình và hoa văn trang trí
của sưu tập nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, so sánh, đối chiếu của bảo tàng.
Từ việc nghiên cứu, đối chiếu, so sánh, luận văn bước đầu xác định những
giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật của sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng
thời Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam; phác thảo kỹ thuật và qui trình chế tác
các loại hiện vật trong bộ sưu tập. Nghiên cứu còn nhằm đem lại những hiểu biết

sâu sắc hơn về đặc điểm của đồ thờ bằng gỗ thời Nguyễn; thấy được sự sáng tạo từ
những yếu tố truyền thống làm nên đặc điểm riêng cho đồ thờ bằng gỗ, góp phần
nhỏ vào việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam nói chung và thời Nguyễn nói riêng.
Qua việc nghiên cứu thực trạng của sưu tập, đề xuất phương án bảo quản
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của bảo tàng và phát huy giá trị của loại hình
hiện vật này trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam trong tương lai.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được chia làm 3 chương.
Chương 1: Khái quát về sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời
Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Chương 2: Giá trị lịch sử - văn hoá của sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son
thếp vàng thời Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp bảo quản và phát huy giá trị lịch sử - văn


102
hoá của sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời
Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.


103

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ SƯU TẬP ĐỒ THỜ
BẰNG GỖ SƠN SON THẾP VÀNG THỜI NGUYỄN
TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ CÁC LOẠI ĐỒ THỜ BẰNG GỖ SƠN SON
THẾP VÀNG


1.1.1. Đồ thờ
Đồ thờ là những vật tượng trưng mang tính tơn giáo, được người dân
sùng kính và đặt tại những nơi thiêng liêng để thờ cúng.
Thơng qua đồ thờ dân chúng biểu hiện lịng thành kính và ước mong
của mình tới các đấng thần linh. Đồ thờ không thể thiếu đối với những nơi
thờ tự. Nó phụ thuộc vào từng tơn giáo và vị trí sắp đặt của chùa, đình hoặc
đền thờ, điện thờ. Đồ thờ rất phong phú, đa dạng mỗi thời lại có sự khác
nhau, nhưng đáng chú ý hơn cả là đồ thờ của người Kinh. Trải qua khoảng
thời gian rất dài của lịch sử, sự mất mát về đồ thờ là khơng thể tránh khỏi,
càng xa về các thời kì trước thì đồ thờ càng bị mất mát nhiều. Chính vì lẽ
đó việc nhìn nhận bản chất tín ngưỡng của từng thời kì là rất khó khăn. Tuy
vậy, bằng việc nghiên cứu thực tế kết hợp với những cuộc điền dã, tác giả
tạm phân loại đồ thờ theo loại hình và theo thời gian tồn tại của chúng cùng
với những yếu tố khác.
Hiện nay, tại các ngôi chùa, đền thờ, điện thờ hoặc đình, miếu thường
có rất nhiều đồ thờ như: nhang án, cửa võng, hoành phi, câu đối, đặc biệt là
tượng thờ. Trong số đó, chùa được coi như một Phật đường, những người thờ
phụng dường như khơng có một chuẩn mực duy nhất nào trong việc lựa chọn
và sắp xếp đồ thờ. Tùy theo từng vị trí và hồn cảnh khác nhau người ta lựa
chọn nơi đặt đồ thờ không giống nhau.


104
Theo cuốn sách “ Đồ thờ trong di tích của người Việt ”của giáo sư Trần
Lâm Biền thì những đồ thờ phổ biến trong kiến trúc tôn giáo, tin ngưỡng cổ
truyền Việt Nam, bao gồm:
1.1.1.1. Bàn thờ
Đây là nơi người ta đặt bát hương và một số đồ thờ khác, nó là biểu
tượng của thế giới bên trên. Bàn thờ được thể hiện thông qua những kiểu dạng

khác nhau như nhang án, sập thờ, kỷ thờ…
* Nhang án : Chủ yếu được làm từ hai loại chất liệu: đá và gỗ.
- Nhang án đá: Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một vài mảnh nhang án
đá của chùa Phật Tích thời Lý. Trên mảnh nhang án này được trang trí bằng các
hoa văn hình rồng, các góc chạm khắc hình chim thần Garuđa. Hình tượng này thể
hiện sự giao lưu văn hóa với phương Nam, ảnh hưởng từ nghệ thuật Chăm Pa.
Sang thời Trần (thế kỷ XIII - XIV) nghệ thuật vô cùng phát triển, kế
thừa và phát huy thành tựu của thời Lý. Trong thời gian này Nho giáo và Phật
giáo phát triển mạnh mẽ, đồng thời kéo theo đó là sự ảnh hưởng của nghệ
thuật Trung Quốc ảnh hưởng sâu sắc hơn. Những họa tiết trang trí mang ý
nghĩa biểu đạt mới xuất hiện, đặc biệt là họa tiết rồng
Ảnh hưởng này tạo cho nhang án 2 dáng vẻ chính: dạng phổ biến nhất
đó là nhang án hình chữ nhật và cịn có dạng nhang án hai tầng, được chạm
trổ rất tinh xảo trên cả hai tầng. Tầng trên có đặc điểm như nhang án thơng
thường, tầng dưới rộng hơn. Hoa văn trang trí có tới 8 hoạ tiết Garuđa thể
hiện trên nhang án.
Dạng thứ 2 là nhang án đá hình hoa sen (ở Chùa Thầy) có bố cục chia làm ba
phần: phần đài sen, phần thân và phần chân. Những nhang án này là sản phẩm văn
hoá mang đặc trưng dân tộc sau khi tiếp thu những nét đẹp của văn hoá Ấn - Hoa.
- Nhang án gỗ (cịn gọi là Hương án): là một hình thức phổ biến nhất
nhưng lại là vật liệu dễ bị huỷ hoại. Nhang án được đặt ở chính điện thường


105
lớn nhất, gồm các dạng cơ bản sau: dạng có tai - kiểu chân quỳ dạ cá, dạng
hình hộp cao vừa phải và dạng hình hộp chữ nhật dài. Nhang án bằng gỗ thêm
vào đó là kỹ thuật sơn son thếp vàng tạo cho chúng một vẻ lộng lẫy, cao quý.
Nhang án gỗ gồm các dạng có tai loe và dạng hình hộp chữ nhật dài.
Những đồ thờ chính trên nhang án bao gồm: ngai thờ, bát hương, chân
đèn, ống hương, chân nến.

- Bát hương: là một vật thờ được thể hiện dưới nhiều dạng khác, bằng
các loại vật liệu khác nhau. Tuy nhiên bát hương chủ yếu được làm từ gốm
sứ, một số ít bằng đá, đồng. Dáng của bát hương ngày một được quan tâm chú
ý khiến chúng được trở thành những tác phẩm nghệ thuật đích thực. Bát
hương đồng xuất hiện vào khoảng thời gian từ thế kỷ XIX về sau với hình
thức chủ yếu là hình trụ trịn trang trí hình rồng chầu mặt trời.
- Chân đèn: Chỉ cịn tồn tại những hiện vật có niên đại muộn từ nửa
cuối thế kỷ XVI. Đặc điểm của đèn gần như chiếc lọ lộc bình, được trang trí
khá kỹ. Đề tài trang trí chủ yếu là những cánh sen, trong lòng cánh vẽ hoa cúc
và hệ thống vân xoắn cân đối, phần bụng đèn vẽ mây cuộn rồng. Chẳng hạn
chân đèn thờ ở chùa Sổ, huyện Thanh Oai (Hà Nội) có niên đại 1632.
Thế kỷ XIX - XX, thời Nguyễn đã có sự phát triển mới, trên bàn thờ,
ngai thờ khơng chỉ có bộ tam sự (một đỉnh và hai đèn) mà đơi khi có cả bộ
ngũ sự (thêm hai lọ hoa) cũng bằng chất liệu đồng, tạo cho ngai thờ sự phong
phú, đa dạng hơn.
- Ngai thờ: Đây là vật thờ hết sức quan trọng nó khơng chỉ tạo tư thế uy
nghi cho nơi thờ tự mà còn tạo một giá trị nghệ thuật rất lớn. Trên ngai
thường đặt tượng thần, thánh, bằng gỗ hoặc bằng đá. Ngai thờ thời Nguyễn
cuối thế kỷ XIX,đầu thế kỷ XX được tìm thấy nhiều nhất. Đây là loại hình thể
hiện cho tín ngưỡng thờ thần của người Việt [7].
1.1.1.2. Tượng thờ
Là một phần chính khơng thể thiếu trong các nơi thờ tự. Tượng thờ rất


106
đa dạng và phong phú. Trên cơ sở những hiện vật cịn lại trong một số ngơi
chùa và một số cơng trình của các nhà nghiên cứu trong nước có thể phân loại
thành 07 nhóm tượng gồm có:
- Tượng Phật
- Tượng Kim cương

- Tượng Hộ pháp
- Tượng người chim
- Tượng tổ
- Tượng quan hầu
- Tượng thú [24], [26], [28].
1.1.1.3. Sập thờ
Sập là loại đồ thờ có muộn hơn so với các loại khác. Hiện vật vào loại cổ
nhất đựơc tìm thấy ở đình Phú Thượng quận Tây Hồ thuộc thế kỷ XVII. Nghệ
thuật trang trí của loại hình này đã mở ra một chuẩn mực mới cho phong cách
đương thời.
Sập thờ có hai loại: sập đá và sập gỗ. Sập được coi là vật dụng của thần,
mang ý nghĩa đề cao tương hợp với tư tưởng tín thần của người đương thời.
1.1.1.4. Khám thờ
Khám thờ xuất hiện rất ít trong các đình chùa. Những khám thờ xuất
hiện sớm nhất vào thế kỷ XVI là khám thờ chùa Thầy, chùa Bà Tấm và ở Văn
Miếu. Khám thờ chủ yếu được đặt ở điện thờ Mẫu, là vật linh thiêng làm tăng
thêm vẻ uy nghi cho điện thờ.
Khám ở thế kỷ XVII vẫn được chạm trổ kỹ tuy nhiên bố cục của chúng
giảm bớt sự ảnh hưởng của kiến trúc mà tăng thêm hình dáng của một am thờ.
Dưới thời Nguyễn khám thờ có nhiều loại, chạm trổ rất cơng phu, với
mặt trước khơng chỉ có một y mơn và một bộ cửa mà đôi khi tạo tầng tầng lớp
lớp như ken nhau. Khám thờ được đặt ở hậu cung nơi thờ mẫu, bày tỏ lòng


107
thành kính của mình.
1.1.1.5. Bài vị
Bài vị thường được đặt trên ngai hoặc trong khám. Bố cục của bài vị
được chia làm ba phần. Phần trên cùng, phần thân và phần đế của bài .Ở các
thế kỷ sau phần trên của bài vị đã chuyển thành hình trịn, cuối thời Nguyễn

cổ của bài vị được làm thon nhỏ lại vừa tạo sự rõ ràng, thanh mảnh mà không
kém phần uy nghiêm.
1.1.1.6. Một số đồ thờ khác
Phướn, đồ bát bửu, lọng, thiền trượng... và các vật linh liên quan đến
việc thờ phụng [7].
1.1.2. Sơn son, thếp vàng
Sơn son thếp vàng là một kỹ thuật trang trí bao phủ bên ngồi của các
đồ vật chạm trổ bằng gỗ và được coi là biện pháp bảo quản đồ vật rất hữu
dụng, sử dụng phổ biến tại Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân khiến người Việt Nam nói riêng và người Châu
Á nói chung ưa sử dụng giải pháp này trên đồ thờ và trong vật dụng sinh hoạt.
Một trong những lý do đó thuộc về đặc điểm địa lý và khí hậu. Việt Nam là
một quốc gia ở Đơng Nam Á, với tồn bộ mặt phía Đơng đất nước giáp với
biển. Ba phần tư diện tích là đồi núi, gắn với núi là rừng và có nhiều con sơng
lớn chảy từ đất liền ra biển và thuộc vùng khí hậu nhiệt đới bắc bán cầu. Nhiệt
độ trung bình rất cao từ 22oc đến 27oc. Số ngày mưa hàng năm lên tới 100
ngày với lượng mưa trung bình là 1.500mm đến 2.000mm, độ ẩm khơng khí
hơn 80%. Khí hậu thay đổi theo mùa: mưa nhiều về mùa hè và thường ít mưa
hơn về mùa đơng. Mỗi năm hứng chịu khoảng 10 cơn bão và thường xuyên bị
các hiện tượng thiên tai như lũ lụt, hạn hán.... đe dọa.
Đặc điểm khí hậu đó đã gây tổn thất cho kiến trúc và điêu khắc; đặc
biệt đối với chất liệu làm bằng gỗ, giấy. Bên cạnh đó là sự xâm hại của mối


108
mọt càng tăng nguy cơ hỏng hóc cho đồ vật.
Từ thời nhà Trần nước ta đã coi trọng việc đắp đê ngăn lũ. Tuy nhiên
trong suốt các triều đại phong kiến đã xảy ra nhiều lần vỡ đê. Thời Nguyễn,
khu vực Văn Giang (tỉnh Hưng Yên ngày nay) đã bị ngập lụt trong 18 năm
liền, huỷ hoại rất nhiều công trình kiến trúc và những đồ thờ trong đó. Đặc

điểm khí hậu đó là ngun nhân chính thúc đẩy người Việt tiếp thu kỹ thuật
sơn và sau đó kỹ thuật sơn son thếp vàng ra đời.
Bên cạnh tác dụng chính là bảo vệ đồ thờ trước sự tác động của khí
hậu; cịn có một lý do nữa khiến kỹ thuật sơn; đặc biệt là sơn son thếp vàng
được ưa chuộng là sơn son thếp vàng cịn có tác dụng làm đẹp cho đồ thờ;
làm tăng thêm sự lộng lẫy, uy nghi cho nơi thờ tự [21].
1.1.3. Đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng
Hầu hết đồ thờ bằng gỗ đều có thể được sơn son thếp vàng. Đồ thờ
bằng gỗ sơn son thếp vàng là sự kết hợp giữa nghệ thuật, kỹ thuật điêu khắc
gỗ với nghệ thuật, kỹ thật sơn son thếp vàng. Trong thực tế khảo sát tại các
nơi thờ tự của người Việt, các đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng bao gồm: hệ
thống tượng với đặc điểm áo, quần được sơn son thếp vàng; Hệ thống nhang,
án thờ, kỷ thờ thường được thếp vàng phần họa tiết hoa văn trang trí; Hệ
thống các bức đại tự, cuốn thư, câu đối cũng thường được thếp vàng phần họa
tiết hoa văn trang trí và phần chữ; hệ thống sập thờ thường được thếp vàng
phần họa tiết hoa văn trang trí, phần mặt sập được sơn son (đỏ) hoặc màu đen;
Hệ thống bài vị thường được thếp vàng toàn bộ mặt trước, sơn son mặt sau;
Hệ thống Bát bửu hoặc Lộ Bộ thường được thếp vàng phần bát bửu và sơn
son phần cán gỗ; Các đồ thờ khác như quạt, bát hương... thường chỉ được sơn
son hoặc sơn đen mà không được thếp vàng.
Đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng phục vụ tín ngưỡng của người Việt


109
và được sử dụng chủ yếu trong các cơ sở tôn giáo bản địa như điện thờ các
bậc Thánh, điện thờ Mẫu; đình thờ Thành hồng; thờ trong các gia đình và
trong chùa thờ Phật. Tùy thuộc vào qui mơ và tín ngưỡng của từng cơ sở mà
sử dụng những loại đồ thờ nào. Tuy nhiên có thể tổng kết thành một mơ hình
chung về đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng trong chùa gồm: hệ thống tượng,
hệ thống hoành phi câu đối, bài vị, án thờ và sập thờ.

Trong các điện thờ cũng tương tự như vậy. Đồ thờ bằng gỗ sơn son
thếp vàng được bày đặt và sử dụng trong điện thờ. Đền thờ cũng gồm có
tượng (chủ yếu là tượng Thánh và tượng các quan, với số lượng tượng ít hơn
trong chùa), hồnh phi, câu đối, án thờ, ngai thờ... Tại các đình số lượng
tượng thờ lại càng ít hơn và thiên về xu hướng tượng chân dung mà không
theo chuẩn mực tượng thánh thờ tại các chùa [7], [21].
1.1.4. Những vấn đề liên quan đến đồ thờ ở Việt Nam
* Đến bất cứ một làng quê nào của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ,
chúng ta đều thấy có ít nhất là một cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo; có thể là đình,
chùa, đền, điện thờ hoặc miếu. Thậm chí có những làng q có mặt đủ tất cả
các loại hình cơ sở tơn giáo như đã liệt kê. Hệ thống các cơ sở tín ngưỡng, tơn
giáo là chỗ dựa tinh thần cho tồn thể dân làng, đôi khi là cả một vùng rộng
lớn. Trong dịng chảy đầy biến động của lịch sử, những hình thái ý thức tư
tuởng đã kết tinh thành những giá trị truyền thống của người dân Việt nam.
Một trong truyền thống đó là tục đi lễ ở các cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo. Người
ta quan niệm có thờ (cũng được hiểu là có lễ) thì có thiêng. Khi con người đã
thắp hương và tâm niệm trước Tổ tiên, Thánh, Phật thì ắt là sẽ linh nghiệm.
Trong hệ thống đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng tại Việt Nam, hệ
thống đồ thờ trong các chùa giữ một vị trí quan trọng bởi số lượng và phần
lớn còn giữ được tính ngun gốc nên rất có giá trị trong nghiên cứu.
* Trước khi Phật giáo du nhập vào nước ta khoảng đầu công nguyên,


110
trong các bộ lạc đã tồn tại rất nhiều tín ngưỡng. Trong số đó các bộ lạc người
Lạc Việt sống ở miền rừng núi sinh sống chủ yếu dựa vào hái lượm và săn bắt
mà người mẹ đóng vai trị là người kiếm ăn chính và là người duy trì nịi
giống, vì vậy người mẹ giữ vai trị quan trọng nhất, họ đã được thiêng hóa,
nâng lên thành tín ngưỡng bản địa. Đây chính là cội nguồn của tục thờ Mẫu.
Bên cạnh tục thờ Mẫu còn song song tồn tại tục thờ thần như thần núi, thần

sông, thần cây, thần đất... một qui luật của đời sống phụ thuộc vào thiên nhiên
của lồi người mong muốn trời đất thuận hịa, mùa màng tươi tốt.
* Sự du nhập của đạo Phật là một tác động lớn đối với văn hóa Việt
Nam. Trong mười thế kỷ đầu công nguyên, Phật giáo Việt Nam có thể phân
định thành 2 thời kì :
- Thời kì thứ nhất: Khoảng thế kỉ thứ II đến thế kỉ thứ V với sự hình
thành trung tâm Luy Lâu dưới ảnh hưởng trực tiếp của Phật giáo nguyên thuỷ
Ấn Độ và có ảnh hưởng sâu sắc với tín ngưỡng bản địa.
- Thời kì thứ hai: Khoảng thế kỉ thứ VI đến thế kỉ thứ X: đặc điểm của
thời kì này là Phật giáo phát triển rộng khắp, ảnh hưởng trực tiếp của Phật giáo
Ấn Độ vẫn tiếp tục, nhưng ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc ngày càng
mạnh hơn. Nhiều phát hiện khảo cổ cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các
yếu tố văn hoá Việt - Ấn - Hoa trong nghệ thuật Phật giáo đương thời.
Tiếp thu ảnh hưởng của hai nền văn hóa ấy kết hợp với tôn giáo bản
địa, người Việt đã tạo nên một hệ tư tưởng đặc trưng cho mình. Đó là hệ tư
tưởng tam giáo đồng nguyên. Hệ tư tưởng đó dường như vẫn tồn tại mạnh mẽ
cho đến ngày nay [7].
1.1.5. Vị trí đặt đồ thờ
Trong cuốn “Đồ thờ trong các di tích của người Việt” của Giáo sư
Trần Lâm Biền đã viết thì ngay vào thế kỷ thứ II đã có tài liệu nói đến vị trí
sắp đặt của những đồ thờ trong các điện thờ. Đến ngày nay vị trí sắp xếp


111
tượng thờ trong một ngơi chùa tuy có thay đổi nhưng có thể tổng kết lại
qua sơ đồ như sau:
BAN THỜ TRONG CHÙA

1.TAM THẾ PHẬT
2. DI ĐÀ TAM TÔN

3. HOA NGHIÊM TAM THÁNH
4. DI LẶC TAM TƠN
5. CỬU LONG THÍCH CA SƠ SINH- PHẠM THIÊN, ĐẾ THÍCH
6. NGỌC HỒNG- NAM TÀO, BẮC ĐẨU
7. QUAN ÂM NAM HẢI
8. QUAN ÂM TỌA SƠN
9. THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG
10. ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
11. THỔ ĐỊA
12. KIM CƯƠNG (HOẶC BÁT BỘ KIM CƯƠNG)
13. BAN THỜ ĐỨC ƠNG
14. BAN THỜ THÁNH TĂNG
15. BAN THỜ CHÍNH
A. Bát hương
B. Nến
C. Độc bình


112
D. Mâm bồng ngũ quả
E. Lọ hoa
16. TỔ TRUYỀN ĐĂNG ( THẬP BÁT LA HÁN)

BAN THỜ TRONG ĐÌNH

1. NGAI THỜ VÀ BÀI VỊ
2. HÒM SẮC
3. ĐÀI HOẶC TAM SƠN
4. BÁT HƯƠNG
5. NẾN

6. BÀN THỜ CHÍNH
A. Hương
B. Nến
C. Đỉnh hoặc bàn tròn thái cực
D. Lọ hoa
E. Mâm bồng
7. LỌNG
8. HẠC


113
9. CHẤP KÍCH
10. BÁT BỬU

[7, tr.189-190].

1.2. TỔNG QUAN VỀ SƯU TẬP ĐỒ THỜ BẰNG GỖ SƠN SON THẾP
VÀNG THỜI NGUYỄN TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM

1.2.1. Khái quát về sưu tập gỗ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Trong đời sống người Việt, gỗ là một nguyên liệu hết sức gần gũi, được
sử dụng làm đồ gia dụng, vật liệu và trang trí kiến trúc. Gỗ cịn được dùng làm
quan tài đưa con người về thế giới bên kia… Trải qua hàng ngàn năm, những
sản phẩm bằng chất liệu gỗ còn lại rất hiếm hoi. Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam còn lưu giữ một số sưu tập điển hình như gỗ chạm trang trí trong
những cơng trình kiến trúc dân gian; gỗ sơn son thếp vàng và gỗ khảm trai.
Sưu tập gỗ chạm: Loại hình chạm khắc gỗ còn lại đến ngày nay chủ
yếu là các tác phẩm trang trí kiến trúc trong các cơng trình tơn giáo như cánh
cửa chạm rồng chùa Phổ Minh (Nam Định); bức chạm trang trí kiến trúc gỗ
chùa Thái Lạc (Hưng Yên) thời Trần, thế kỷ XIII - XIV, miêu tả cảnh tiên

cưỡi phượng thổi sáo, kéo nhị; mảng chạm rồng chầu lá đề – một mơ típ trang
trí phổ biến thời kỳ Phật giáo thịnh hành. Vào những thế kỷ XV- XVIII, tín
ngưỡng dân gian rất phát triển, những ngơi chùa, ngơi đình cổ kính được
trùng tu, xây dựng, hình ảnh tiên cưỡi rồng, cưỡi hạc hay hình linh vật thường
được miêu tả bằng kỹ thuật chạm lộng, chạm thủng trên những cánh cửa, bức
cốn, vì kèo… Những hình ảnh sinh hoạt bình dị, dân dã trong cuộc sống đời
thường cũng đã được miêu tả hết sức sinh động như: cảnh người đi cày, bắt
cá, đánh ghen, chèo thuyền, đấu vật, đánh đu, chơi hội …
Sưu tập gỗ sơn son thếp vàng: Đồ gỗ sơn son thếp vàng thường được
dùng trong trang trí kiến trúc tơn giáo và dân gian phát triển mạnh vào thế kỷ
XVI - XIX. Ngoài những vật liệu xây dựng được chạm khắc và sơn son thếp
vàng như: cánh cửa, đầu dư chạm hình rồng, thanh xà chạm tiên cưỡi rồng …
hiện nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam còn lưu giữ được một số lượng lớn tượng


114
thờ và đồ thờ đa dạng về loại hình và phong phú về đề tài trang trí, thể hiện bàn
tay khéo léo của người Việt qua nhiều thế kỷ (PL A91, tr.115).
- Tượng thờ tiêu biểu là tượng Phật bà Quan Âm Thiên Thủ Thiên
Nhãn được tạc năm 1656 tại chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), tượng Phật Thích ca
sơ sinh, cặp vẹt gỗ sơn son thếp vàng thế kỷ XVI -XVII…
- Đồ thờ gỗ sơn son thếp vàng như: ngai thờ, long đình, bài vị, hương
án, hồnh phi, câu đối, thuyền thờ chùa Keo (Thái Bình) thế kỷ XVII.
Sưu tập gỗ khảm trai: Sưu tập đồ gỗ khảm trai ở Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam chủ yếu có niên đại thế kỷ XIX - XX (PL A92, tr. 115). Chúng chủ
yếu là đồ dùng trong sinh hoạt, đồ thờ tự và trang trí nội thất như: tranh trang
trí, bức đại tự, bình phong, tủ… với những đề tài kết hợp hài hồ giữa phong
cách cung đình và dân gian [30].
1.2.2. Sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn tại
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

1.2.2.1. Vài nét về Triều Nguyễn và sưu tập hiện vật thời kỳ này tại
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng của lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam, ra đời và tồn tại không những trong một bối cảnh đặc
biệt của đất nước mà còn trong tình hình thế giới có nhiều chuyển biến lớn.
Thắng lợi của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ
nghĩa thực dân và của sự giao lưu buôn bán quốc tế. Hàng loạt các nước Châu
Á lần lượt rơi vào ách đô hộ thực dân và Việt Nam cũng không tránh khỏi
mối đe dọa đó.
Triều Nguyễn gồm hai thời kỳ:
- Thời kỳ độc lập ( 1802 - 1883 )
- Thời kỳ thuộc Pháp ( 1883 - 1945 )


115
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ngoài phần trưng bày giới thiệu những vấn đề
cốt yếu của lịch sử như: thiết chế chính trị, kinh đơ, kinh tế... cịn lưu giữ một số
lượng khá lớn các sưu tập hiện vật với nhiều chất liệu nhằm giới thiệu những nét
văn hóa, những ngành nghề thủ công truyền thống đương thời như: sưu tập
chuông đồng, khánh đồng, sưu tập đồ đồng và đồ đồng khảm tam khí, sưu tập
chạm khắc gỗ, sưu tập ấn, triện, tiền đồng, sưu tập sắc phong...[9, tr.39].
1.2.2.2. Nguồn gốc của sưu tập
Hiện vật đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn tại Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam phần lớn được thu nhận và sưu tầm trong nhân dân từ rất
nhiều ngôi chùa làng và tại các nhà thờ họ của các gia tộc ở Bắc Bộ nước ta.
Sưu tập trên chủ yếu thuộc sở hữu của các nhà sưu tập tư nhân trong nước
thế kỷ XIX v XX. Từ năm 2005, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đà su tầm
đợc số lợng lớn hiện vật nh: Hơng án, Khám thờ, Kỷ thờ, Cửa võng, L
bộ, Bát bửu... bổ sung cho su tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng hiện
đang có tại Bảo tàng.

Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu những hiện vật trong bộ sưu tập
dựa trên việc nghiên cứu những đồ gỗ Việt Nam nói chung và đồ gỗ thời
Nguyễn nói riêng, đồng thời với kết quả giám định của Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam, sưu tập trên thuộc thời Nguyễn (thế kỷ XIX- XX) gồm 77 hiện vật.
1.2.2.3. Đặc điểm của sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời
Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
* Về kiểu dáng
Sưu tập đồ thờ trên khá đa dạng về kiểu dáng. Trong mỗi loại hình lại có
những kiểu dáng khác nhau như: đại tự có kiểu chữ nhật đứng và kiểu chữ nhật
nằm, có loại hình vng, có loại hình chữ nhật, loại có diềm trên, có loại khơng.
Điểm đáng chú ý là những đồ thờ này đều rất phù hợp với chức năng
của chúng. Những đồ thờ này thuận tiện cho sắp đặt, được trang trí cầu kỳ


116
với nhiều thể loại hoa văn khác nhau. Đề tài được sử dụng trong trang trí
rộng rãi từ hoa lá, chim muông đến những con vật thiêng trong bộ tứ linh
như long, ly, quy, phượng.
Các nghệ nhân thời Nguyễn không những sử dụng họa tiết hoa lá để
trang trí mà cịn nhằm tạo dáng cho tác phẩm của mình như tạo dáng hình lá
sen, hình cành mai...Vào thời kỳ này, các nghệ nhân đã có sự tiếp thu nghệ
thuật trang trí phương Tây với một số kiểu trang trí mới được áp dụng như
các vật trang trí hình lá nho, sóc, hình lục giác... [18].
* Về hoa văn trang trí.
Đề tài trang trí:
Trong sưu tập, đề tài trang trí chủ yếu là các con vật, cỏ cây, hoa lá, các dạng
hình học, minh văn, hoặc theo bộ “lưỡng”, “tứ”... (PL A83 - 88, tr. 112 - 114).
- Các con vật : Gồm có rồng, lân, phượng, rùa, dơi, cá ...
+ Rồng: là con vật đứng đầu tứ linh, theo âm Hán Việt gọi là Long.
Đây là con vật huyền thoại mà theo những nhà nghiên cứu thì nó là sự cách

điệu của con rắn thêm chân như cá sấu. Theo các nhà nghiên cứu cho rằng
Rồng là con vật được sáng tạo từ 36 bộ phận tiêu biểu của 36 con vật vốn là
vật tổ của những tộc người cổ xưa sống ở Trung Quốc.
Rồng biểu hiện cho nguyên lý dương tượng trưng cho trạng thái động,
sự phát triển và thịnh vượng. Trong sưu tập, rồng được trang trí theo những
đồ án cụ thể như:
- Đồ án “Tứ linh”: gồm 4 con vật long, ly, quy, phụng (rồng, lân, rùa, phượng)
- Đồ án “Long ẩn vân” (Rồng ẩn trong mây). Rồng được vẽ ẩn hiện
trong mây, lúc ẩn, lúc hiện biểu trưng cho một cơ hội tốt lành, gặp được
những điều may mắn, vui vẻ.
- Đồ án “ Long hàm thọ” (Rồng ngậm chữ Thọ)


117
- Đồ án “ Lưỡng long chầu nhật” (2 rồng chầu mặt trời). Trong đồ án
này long tượng trưng cho nguyên lý dương. Do đó, nguyên lý này biểu thị cho
tam dương, biểu ý của câu chúc “Tam dương khai thái” tức là mọi việc đều
hanh thông.
- Đồ án “ Lưỡng long chầu hoa cúc” (2 rồng chầu hoa cúc)
- Đồ án “ Lưỡng long chầu Thọ” (2 rồng chầu chữ Thọ)
Ngồi những đồ án nêu trên, cịn có một số đồ án vẽ rồng đi kèm với
những họa tiết trang trí khác như hoa cúc, chữ Thọ, mặt trời....
Trong sưu tập đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng thời Nguyễn tại Bảo
tàng lịch sử Việt Nam, rồng có những dáng sau:
- Cắn đuổi nhau trên các khung, diềm của cuốn thư, đại tự
- Uốn lượn quanh các cột trụ của khám thờ, ngai thờ...
- Nằm ở trung tâm của đồ thờ, trên diềm, mặt trước bệ của hương án,
đài thờ, ngai thờ...chỉ nhìn thấy mặt và hai chân.
- Bay lượn trên bề mặt vật thờ trong đồ án “Long ẩn mây” thường được
sử dụng trong cửa khám thờ, ngai thờ..

- Rồng hố từ hoa lá những lồi q và có ý nghĩa như: mai hóa long,
cúc hóa long, trúc hóa long,.. là đặc điểm phổ biến được trang trí trên khung
hồnh phi dạng chữ nhật [5], [6].
+ Lân: là một trong bốn tứ linh. Con đực gọi là Kỳ, con cái gọi là Lân
nên thường gọi là Kỳ Lân. Lân được coi là chúa của loài thú; là con vật hình
thành từ sự liên tưởng của con người. Lân có hình dáng rất dặc biệt trong
nghệ thuật thời Nguyễn: chân hươu, móng ngựa, đi bị, sừng là u thịt cứng
và được coi là một nhân thú. Lân tượng trưng cho triều đại mới lên, cho sự
xuất hiện của minh chúa, trong kiến trúc nó được tượng trưng cho sự bền
vững của cơng trình.


×