Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Nâng cao hiệu quả khai thác vốn tài liệu cổ tại các thư viện trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 164 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC MAI

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC
VỐN TÀI LIỆU CỔ TẠI CÁC THƯ VIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
Chuyên ngành: Khoa học Thư viện
Mã số: 60 32 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC THƯ VIỆN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. TRẦN THỊ MINH NGUYỆT

HÀ NỘI - 2010


2

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn tới các thầy cô giáo và cán bộ của
Khoa Sau đại học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, những người đã dành
tâm sức giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu vừa qua.
Nhân dịp này, xin cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới Khoa Thư
viện - Thông tin, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, cơ quan tơi đang cơng tác,


cảm ơn các thầy cô giáo, các anh chị đồng nghiệp đã quan tâm, tạo mọi điều
kiện thuận lợi, hỗ trợ tôi trong công việc cũng như trong học tập và nghiên
cứu để viết bản luận văn này.
Bản luận văn của tơi khơng thể hồn thành nếu khơng có sự chỉ bảo,
giúp đỡ tận tình của PGS. TS. Trần Thị Minh Nguyệt, người thầy đầy tâm
huyết đã trực tiếp hướng dẫn tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Tơi cũng xin được cảm ơn các cán bộ Thư viện Quốc gia Việt Nam,
Thư viện Hà Nội, Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, Viện Sử học, Viện Văn học, Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học
Quốc gia Hà Nội, các nhà nghiên cứu, bạn bè, đồng nghiệp,… đã hết lịng
giúp đỡ để tơi có được những thông tin, tài liệu quý báu phục vụ cho đề tài.
Cuối cùng, nếu thiếu sự chia sẻ, giúp đỡ, động viên của gia đình và
những người thân u, tơi sẽ khó lịng vượt qua được bản thân để có kết quả
ngày hôm nay. Tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới họ.
Luận văn chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, tơi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của các thầy, cô giáo,
các bạn đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nguyễn Thị Ngọc Mai


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

6

CHƯƠNG 1
VỐN TÀI LIỆU CỔ TẠI CÁC THƯ VIỆN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

VÀ NHU CẦU SỬ DỤNG TÀI LIỆU CỔ
12
1.1. ĐẶC ĐIỂM VỐN TÀI LIỆU CỔ TẠI CÁC THƯ VIỆN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

12

1.1.1. Khái niệm tài liệu cổ
1.1.2. Các tiêu chí để xác định tài liệu cổ
1.1.3. Khái quát về vốn tài liệu cổ tại các thư viện trên địa bàn Hà Nội

12
18
24

1.2. GIÁ TRỊ VĂN HÓA VÀ LỊCH SỬ CỦA VỐN TÀI LIỆU CỔ TẠI CÁC THƯ
VIỆN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

1.2.1. Giá trị nghiên cứu lịch sử
1.2.2. Giá trị nghiên cứu văn hóa
1.3. NHU CẦU SỬ DỤNG VỐN TÀI LIỆU CỔ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

1.3.1. Đặc điểm đối tượng sử dụng
1.3.2. Nhu cầu sử dụng tài liệu cổ

44
46
48
50
50
53


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KHAI THÁC VỐN TÀI LIỆU CỔ
TẠI CÁC THƯ VIỆN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

56

2.1. TỔ CHỨC CÁC SẢN PHẨM THÔNG TIN - THƯ VIỆN

56

2.1.1. Mục lục phiếu
2.1.2. Thư mục
2.1.3. Các ấn phẩm thông tin
2.1.4. Cơ sở dữ liệu
2.1.5. Website của thư viện
2.2. TỔ CHỨC CÁC DỊCH VỤ THÔNG TIN - THƯ VIỆN

2.2.1. Cung cấp tài liệu gốc
2.2.2. Sao chụp tài liệu
2.2.3. Dịch tài liệu theo yêu cầu

56
61
77
80
89
92
92
98

99


4

2.2.4. Tra cứu tin
2.2.5. Cung cấp thông tin theo yêu cầu
2.2.6. Dịch vụ trao đổi thông tin

101
101
102

2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KHAI THÁC VỐN TÀI LIỆU CỔ TẠI CÁC THƯ VIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

2.3.1. Tiêu chí đánh giá
2.3.2. Hiệu quả khai thác tài liệu cổ

107
107
109

CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC VỐN TÀI LIỆU CỔ
TẠI CÁC THƯ VIỆN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
118
3.1. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG TRA CỨU TÀI LIỆU CỔ

3.1.1. Hoàn thiện hệ thống tra cứu truyền thống

3.1.2. Hoàn thiện hệ thống tra cứu hiện đại

118
118
119

3.2. ĐẨY MẠNH VIỆC SỐ HÓA TÀI LIỆU VÀ XÂY DỰNG THƯ VIỆN SỐ VỀ TÀI
LIỆU CỔ

3.2.1. Đẩy mạnh việc số hóa tài liệu
3.2.2. Xây dựng thư viện số về tài liệu cổ
3.3. ĐA DẠNG HÓA VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ THÔNG TIN

122
122
127
130

3.4. TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC GIỮA CÁC THƯ VIỆN TRONG VIỆC KHAI THÁC
TÀI LIỆU CỔ

133

3.5. CÁC GIẢI PHÁP BỔ TRỢ

135

3.5.1. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, xác định giá trị vốn tài liệu cổ
trong các thư viện
135

3.5.2. Hồn thiện cơng tác xử lý hình thức và xử lý nội dung tài liệu
136
3.5.3. Nâng cao hiệu quả công tác bảo quản
136
3.5.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị của thư viện
137
3.5.5. Đào tạo người dùng tin
138
3.5.6. Nâng cao trình độ cán bộ thư viện thông tin
139
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

140
141


5

DANH MỤC CÁC TỪ VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

AACR2

The Anglo-American Cataloging Rules 2nd edition:
Quy tắc Biên mục Anh Mỹ ấn bản lần thứ 2

CSDL

Cơ sở dữ liệu


ĐHQGHN

Đại học Quốc gia Hà Nội

ĐHSPHN

Đại học Sư phạm Hà Nội

MARC21

Machine-Readable Cataloging 21: Khổ mẫu Biên
mục đọc máy

NXB

Nhà xuất bản

TT TTTV

Trung tâm Thông tin Thư viện

TV

Thư viện

TVQGVN

Thư viện Quốc gia Việt Nam



6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, nhân loại trên toàn thế giới đang chứng kiến
một xu thế lớn, đó là xu thế tồn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
một cách mạnh mẽ. Thế giới dường như trở nên “nhỏ bé” hơn cùng với sự phát
triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và mạng
thơng tin tồn cầu. Trước xu thế chung của thế giới, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã chủ trương chủ động hội nhập quốc tế với phương châm Việt Nam sẵn
sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới
phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển. Từ ngày 11 tháng 1 năm 2007,
bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế của Việt Nam
được đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sự kiện này đã mang đến cho Việt
Nam cơ hội phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề mới trong việc giữ vững nền độc lập
tự chủ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm quốc phòng và an ninh, bảo
vệ Tổ quốc. Trong tiến trình tồn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam chỉ có thể “sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước
khẩn trương của thời đại”[12], thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, khi biết phát huy nội lực, giữ gìn,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Trước tình hình đó, nhiệm vụ đặt ra cho lĩnh vực văn hóa của đất nước
ngày càng trở nên nặng nề, phức tạp hơn. Các cơ quan văn hóa, trong đó có các
thư viện và cơ quan thông tin, một mặt cần đẩy mạnh việc giao lưu văn hóa, trao
đổi, chia sẻ thơng tin với các nền văn hóa khác trên thế giới để tiếp thu những giá
trị văn hóa tinh hoa của nhân loại, một mặt cần kế thừa, gìn giữ và bảo tồn bản
sắc văn hóa của dân tộc, làm cho những giá trị của di sản quý báu đó được tiếp
nối và đổi mới phù hợp với thời đại. Các thư viện và cơ quan thông tin trên cả



7

nước nói chung và các thư viện trên địa bàn Hà Nội nói riêng đã góp phần khơng
nhỏ trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa thành văn của dân tộc, xây
dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Các thư viện trên địa bàn Hà Nội như: Thư viện Quốc gia Việt Nam,
Thư viện Hà Nội, Thư viện Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Thư viện Viện
Nghiên cứu Hán Nôm,… là những kho tàng di sản thư tịch đồ sộ của Thủ đơ
nói riêng và đất nước nói chung. Trong quá trình hoạt động của mình, các thư
viện đã tiến hành thu thập và tổ chức khai thác các nguồn tài liệu trong nước và
ngồi nước, trong đó có nhiều tài liệu cổ, quý giá, có giá trị rất lớn trong việc
phục vụ tra cứu, nghiên cứu như: các tài liệu Hán Nôm, tài liệu xuất bản từ thời
Pháp thuộc, các tài liệu nước ngồi nói về Việt Nam,… Bảo tồn và khai thác có
hiệu quả kho tàng thư tịch cổ tại các thư viện này có ý nghĩa quan trọng góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời đại ngày nay.
Bằng việc tổ chức các dịch vụ đọc, mượn tài liệu, tra cứu - tìm tin, cung
cấp thơng tin có chọn lọc, biên soạn các tài liệu thư mục, xây dựng các cơ sở
dữ liệu,… các thư viện trên địa bàn Hà Nội đã giúp người đọc, người dùng tin
có điều kiện khai thác và phát huy giá trị các tài liệu cổ trong vốn tài liệu của
mình. Tuy nhiên, hiệu quả khai thác vốn tài liệu cổ được lưu giữ trong các thư
viện trên địa bàn Hà Nội nhằm đáp ứng ở mức cao nhất nhu cầu của bạn đọc
vẫn là vấn đề đáng được quan tâm.
Việc nghiên cứu thực trạng khai thác vốn tài liệu cổ tại các thư viện trên
địa bàn Hà Nội trong giai đoạn hiện nay sẽ là điều kiện để có được cái nhìn
tồn diện, đầy đủ hơn về vốn tài liệu cổ, hiện trạng sử dụng chúng và đưa ra
được những giải pháp phù hợp cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động này
tại các thư viện ở Hà Nội nói chung và các thư viện cả nước nói riêng. Vì
những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả khai thác vốn

tài liệu cổ tại các thư viện trên địa bàn Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp cao
học chuyên ngành khoa học thư viện tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội.


8

* Tình hình nghiên cứu đề tài:
Hiện nay đã có một số luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp của học
viên, sinh viên các trường đại học chuyên ngành thư viện - thông tin đề cập
tới vốn tài liệu, trong đó có vốn tài liệu cổ của các thư viện như:
- Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành thư viện - thơng tin trường Đại học
Văn hóa Hà Nội với đề tài “Kho tài liệu Việt Nam cổ và các thư mục tài liệu
Việt Nam cổ của Viện Thông tin Khoa học Xã hội” (năm 1999) của tác giả
Hoàng Thanh Thủy. Khóa luận tập trung khảo sát các bộ sưu tập tài liệu Việt
Nam cổ và các công cụ thư mục phản ánh vốn tài liệu này tại Viện Thông tin
Khoa học Xã hội.
- Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Nghiên cứu công tác bảo quản tài liệu
cổ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm” (năm 2004) của tác giả Bùi Thị Hồng Len,
sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Khóa luận chủ yếu tập trung
nghiên cứu, khảo sát công tác bảo quản tài liệu cổ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
- Luận văn thạc sĩ với đề tài “Bảo quản di sản thư tịch cổ tại Viện Thông
tin Khoa học Xã hội” (năm 2005) của tác giả Nguyễn Thị Thúy Bình. Luận
văn nghiên cứu vốn tài liệu cổ và thực trạng công tác bảo quản tài liệu cổ tại
Viện Thông tin Khoa học Xã hội.
- Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Vốn tài liệu quý hiếm ở Thư viện Quốc gia
Việt Nam” (năm 2005) của tác giả Trần Thị Phương Lan. Tác giả luận văn đã
tìm hiểu thực trạng vốn tài liệu quý hiếm ở Thư viện Quốc gia Việt Nam,
trong đó có vốn tài liệu cổ, và nêu lên những phương hướng, giải pháp để
nâng cao hiệu quả khai thác vốn tài liệu này tại Thư viện Quốc gia Việt Nam.
Ngồi các cơng trình nói trên, cịn có một số luận văn thạc sĩ đề cập đến

vấn đề tăng cường nguồn lực thông tin tại các cơ quan thông tin thư viện như:
“Tăng cường nguồn lực thông tin tại Viện Thông tin Khoa học Xã hội trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” của tác giả Phạm Bích Thủy


9

(năm 2001), “Tăng cường nguồn lực thông tin tại Thư viện Quốc gia Việt
Nam” của tác giả Trần Mỹ Dung (năm 2004), “Tăng cường nguồn lực thông
tin Thư viện Hà Nội phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô” của
tác giả Nguyễn Thị Kim Dung (năm 2005),… Các cơng trình này đều có đề
cập đến khía cạnh vốn tài liệu cổ nhưng chỉ là một ý nhỏ trong việc nghiên
cứu nguồn lực thông tin tại các cơ quan thơng tin thư viện nói trên. Trên các
tạp chí chuyên ngành như Thư viện Việt Nam, Văn thư lưu trữ Việt Nam,
Xưa và nay, Hán Nôm,... cũng đã đăng tải một số bài viết của các tác giả
nghiên cứu về loại hình, phương thức bảo quản, khảo sát và đánh giá sơ bộ về
các bộ sưu tập tài liệu cổ tại các thư viện riêng biệt.
Trên thực tế, cho đến nay, vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu nào đầy
đủ, hệ thống về vấn đề nâng cao hiệu quả khai thác vốn tài liệu cổ tại các thư
viện trên địa bàn Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Việc khai thác vốn tài liệu cổ tại các thư viện trên địa bàn Hà Nội.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng khai thác vốn tài liệu cổ tại các thư viện trên địa
bàn Hà Nội từ năm 2005 đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu thực trạng khai thác vốn tài liệu cổ tại
các thư viện trên địa bàn Hà Nội từ năm 2005 đến nay, luận văn đề xuất một

số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác vốn tài liệu cổ trên địa bàn Hà
Nội trong thời gian tới.


10

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu đặc điểm, vai trò của vốn tài liệu cổ tại các thư viện và
nhu cầu sử dụng vốn tài liệu cổ trên địa bàn Hà Nội.
- Khảo sát thực trạng khai thác vốn tài liệu cổ tại các thư viện trên địa
bàn Hà Nội nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động này.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tài liệu cổ tại
các thư viện trên địa bàn Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với những quan điểm, đường lối, chính sách mới của
Đảng và Nhà nước ta, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
o Phân tích và tổng hợp tài liệu
o Điều tra bằng phiếu
o Quan sát, phỏng vấn
o Thống kê
o Đối chiếu, so sánh
5. Đóng góp của luận văn:
- Góp phần làm rõ hơn vai trò của vốn tài liệu cổ đối với việc giữ gìn,
bảo tồn các giá trị văn hóa của đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng trong
xu thế hội nhập và tồn cầu hóa hiện nay.
- Nhận diện rõ hơn thực trạng việc khai thác vốn tài liệu cổ tại các thư
viện trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
- Đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và nâng cao hiệu

quả khai thác vốn tài liệu cổ, đáp ứng nhu cầu của người dùng tin tại các thư
viện trên địa bàn Hà Nội.


11

6. Kết cấu luận văn:
Ngồi phần lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Vốn tài liệu cổ tại các thư viện trên địa bàn Hà Nội và nhu cầu sử
dụng tài liệu cổ
Chương 2: Thực trạng khai thác vốn tài liệu cổ tại các thư viện trên địa bàn
Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác vốn tài liệu cổ tại các thư
viện trên địa bàn Hà Nội

***


12

Chương 1
VỐN TÀI LIỆU CỔ TẠI CÁC THƯ VIỆN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
VÀ NHU CẦU SỬ DỤNG TÀI LIỆU CỔ
1.1. ĐẶC ĐIỂM VỐN TÀI LIỆU CỔ TẠI CÁC THƯ VIỆN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

1.1.1. Khái niệm tài liệu cổ
Sự xuất hiện của máy in chữ rời vào thế kỷ XV ở Châu Âu đã tạo nên
một cuộc cách mạng trong lịch sử nhân loại. Thế kỷ XX, loài người lại chứng
kiến một cuộc cách mạng thông tin nữa với sự ra đời và ứng dụng hiệu quả

của máy tính và mạng Internet, làm thay đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
cũng như tính chất nghề nghiệp của cán bộ thư viện và những thói quen vốn
có của người đọc, người dùng tin.
“Thế giới nằm trên mười ngón tay của bạn”. Đó là câu nói cửa miệng
của Bill Gates, cựu chủ tịch tập đoàn Microsoft nổi tiếng. Ngày nay, con
người không cần phải tốn nhiều thời gian, công sức, tiền bạc mà chỉ cần ngồi
một chỗ, ngay tại nhà mình, có thể dễ dàng tìm kiếm được mọi thông tin cần
thiết chỉ bằng vài thao tác đơn giản và một cú nhấp chuột trên máy tính có nối
mạng Internet.
Cùng với sự phát triển của công nghệ, con người đã phát minh ra những
loại hình vật mang tin hiện đại như sách điện tử (ebook) với những tiện ích mà
trước đó người ta khó có thể hình dung được. Là một thiết bị kỹ thuật số nhỏ,
gọn, nhẹ, sách điện tử có thể chứa được khối lượng thơng tin tương đương với
hàng chục cuốn sách giấy thông thường. Thiết bị này hiển thị văn bản sách trên
một màn hình nhỏ cho phép người sử dụng đọc được một cách dễ dàng, thậm
chí khi cần có thể đánh dấu, ghi chép trên văn bản như khi đọc sách giấy. Từ
những đặc điểm ưu việt đó, nhiều người tin rằng khi sách điện tử được phát
triển hơn nữa vào đầu thế kỷ XXI, chúng sẽ thách thức sự tồn tại của sách giấy
theo cách mà công nghệ của những thế kỷ trước không làm được.


13

Trước sự phát triển của Internet, truyền hình và các thiết bị kỹ thuật số,
mối lo ngại cho sự tồn vong của tài liệu truyền thống trên giấy không phải là
khơng có cơ sở. Tuy nhiên, trên thực tế, những sách giấy, những tài liệu truyền
thống đến nay vẫn tồn tại, tồn tại song song và phát triển cùng với những loại
hình vật mang tin hiện đại và khơng hề giảm đi giá trị vốn có của chúng.
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tài liệu. Theo từ điển
Oxford, tài liệu là “một dạng văn bản viết tay, in ấn hay điện tử cung cấp cho

ta thông tin hay chứng cứ, hoặc được dùng làm hồ sơ chính thức” [92]; Theo
Bách khoa thư Encarta, tài liệu được hiểu là văn bản viết chính thức hoặc vật
chứa thơng tin [89]; Theo từ điển Thuật ngữ Thư viện - Thông tin học trực tuyến
ODLIS (Online Dictionary for Library and Information Science) “tài liệu là một
thuật ngữ chung chỉ các thực thể vật lý bao gồm bất kỳ dạng thức nào có ghi
lại tất cả hoặc một đoạn của một hay nhiều tác phẩm nhằm mục đích truyền
đạt hay lưu giữ tri thức” [91];... Từ những định nghĩa này, có thể thấy rằng,
theo nghĩa khái quát nhất, tài liệu là thơng tin được mã hố trên một dạng vật
chất nhất định, có thể bảo quản và sử dụng [66, tr.2]. Như vậy, tài liệu được
nhắc đến với hai yếu tố đặc trưng gắn bó mật thiết với nhau đó là yếu tố vật
mang tin (yếu tố hình thức) và thơng tin (yếu tố nội dung), trong đó nội dung
thơng tin có trong tài liệu đóng vai trị quyết định giá trị của tài liệu.
Trong thực tiễn, tài liệu đã trở thành một phương tiện cần thiết cho mọi
lĩnh vực hoạt động xã hội của loài người. Giá trị của tài liệu được xác định
bằng khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin tài liệu của con người đối
với các mặt hoạt động xã hội, thể hiện ở giá trị thực tiễn và giá trị lịch sử. Giá
trị thực tiễn của tài liệu là khả năng phục vụ thông tin của tài liệu cho các hoạt
động đang diễn ra trong xã hội như: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo
dục, khoa học, kỹ thuật... Giá trị lịch sử của tài liệu là khả năng đáp ứng nhu
cầu sử dụng thơng tin có trong tài liệu cho cơng tác nghiên cứu quá khứ,
nghiên cứu lịch sử, giúp các nhà nghiên cứu có được cái nhìn đầy đủ về


14

những vấn đề xã hội trong quá khứ thông qua việc khai thác các thông tin
trong tài liệu, sách báo.
Hiểu rõ về tài liệu và các đặc trưng của tài liệu, nhưng để đi đến một cách
hiểu chung nhất về khái niệm tài liệu cổ còn nhiều vấn đề đáng bàn. Trước hết,
“cổ” là một từ thường dùng trong cuộc sống hàng ngày của con người. Ngoài ý

nghĩa chỉ một bộ phận trên thân thể con người, người ta vẫn thường dùng từ “cổ”
để chỉ những gì xưa cũ hoặc thuộc về một thời xa xưa trong lịch sử [74, tr.196]
như: “cổ điển”, “đồ cổ”, “chơi đồ cổ”, “sưu tầm cổ vật”, “sách cổ”, “nhà cổ”, “nền
văn học cổ”... Ở phương Tây, khái niệm “cổ” hay “cổ đại” được bắt nguồn từ một
từ trong tiếng Latin “antiquarius”. Từ gốc Latin này đã để lại dấu ấn trong ngôn
ngữ của nhiều nước: antique - cổ, cổ đại (trong tiếng Anh và Pháp), antiquarian người bán đồ cổ (trong tiếng Anh),…
Tuy nhiên, trên thực tế, không dễ để xác định được như thế nào gọi là “cổ”,
“cũ” đến mức độ nào, “xưa” đến mức độ nào thì được coi là “cổ”. Từ điển Tiếng
Việt định nghĩa “cũ” là tính từ chỉ những vật “được dùng đã lâu và khơng cịn
ngun như trước nữa” hoặc những gì “thuộc về thời đã qua, nay khơng cịn nữa
hoặc khơng thích hợp nữa” [74, tr.212]. Tiêu chí để phân biệt “cũ” và “cổ” là yếu
tố thời gian và giá trị. “Đồ cũ” là đồ đã qua sử dụng, khi giá trị sử dụng đã hết có
thể xem là cũ, lạc hậu, cổ lỗ. “Đồ cổ” thường được dùng để chỉ những vật lâu năm,
kết tinh giá trị của cả một giai đoạn lịch sử. Một cuốn sách được xuất bản trên năm
năm có thể được coi là sách cũ, nhưng một cuốn sách làm bằng giấy dó có từ thế kỷ
XVIII lại được gọi là sách cổ.
Để xác định tuổi hay niên đại của các hiện vật được coi là cổ vật có những
quy định rất khác nhau ở nhiều quốc gia. Ví dụ ở Pháp, người ta xác định tuổi của
cổ vật là trăm năm và không cấm xuất khẩu đối với các đồ vật dưới một trăm tuổi
(Quy định về xuất khẩu Pháp). Luật về bảo vệ các di sản văn hóa ở Philipin lại
quy định “được gọi là cổ vật là các tài sản văn hóa được phát hiện ít nhất 100
tuổi, hoặc tuy không lâu năm lắm nhưng việc làm ra vật thể ấy đã ngừng và đang


15

là hiếm hoặc trở thành hiếm”. (Luật số 846 ngày 18/6/1966 của Philipin). Luật
của Indonesia quy định “về các di tích văn hóa cần được bảo trợ có ít nhất 50
tuổi, có tầm quan trọng về lịch sử, khoa học hoặc văn hóa” (Luật số 5/1992 về
các di tích văn hóa cần được bảo trợ). Luật của Ả rập Xê út quy định: “Thuật ngữ

cổ vật dùng để chỉ các tài sản động sản hay bất động sản do con người xây dựng,
làm ra, sản xuất, tu chỉnh hoặc suy nghĩ ra đã được trên 200 năm” (Luật số M 26
ngày 3/8/1972 của nhà vua Ả rập Xê út về quản lý các di tích lịch sử) [11, tr.23].
Về giá trị của đồ cổ, các nhà sử học và khảo cổ học cho rằng cổ vật có thể
hiểu theo nghĩa thơng thường là một vật lâu năm, đồng thời có giá trị khoa học, giá
trị lịch sử, giá trị văn hóa nghệ thuật. Đi kèm theo các giá trị kể trên là giá trị về kinh
tế của vật phẩm. [26, Tr.138]. Nhiều nhà nghiên cứu có quan điểm chung: cổ vật là
sản phẩm văn hóa vật thể, có thời gian lâu năm, quý hiếm, có giá trị mỹ thuật, lịch
sử, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và giá trị kinh tế [16, tr.5]. Luật Di sản văn hóa của
Việt Nam cũng chỉ rõ: “Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về
lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên”[22, tr.8].
Sách cổ, tài liệu cổ cũng là một loại hình di sản văn hóa vật thể, một loại cổ
vật. Vì vậy, từ những nhận định trên đây đối với đồ cổ hay cổ vật, có thể coi tài
liệu cổ, sách cổ phải là những tài liệu, sách vở đã ra đời từ một thời kỳ xa xưa
trong lịch sử, quý hiếm và có giá trị về nhiều mặt: lịch sử, văn hóa, khoa học,...
Nhưng thời kỳ xa xưa đó là thời kỳ nào, bao giờ một tài liệu, một cuốn sách được
coi là “cổ”, cho đến nay, đây vẫn là một vấn đề được nhiều người tranh luận.
Giới sưu tầm, chơi sách cổ ở Việt Nam hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau
về vấn đề này. Có người gọi sách cổ là những sách có từ trên một trăm năm, cịn
sách có tuổi từ năm mươi năm đến một trăm năm tạm gọi là sách xưa, cụ thể là
sách trước năm 1945 là sách tiền chiến, sách từ năm 1954 đến 1975 in tại miền
Nam thì gọi là sách trước 1975. Có người coi sách cổ là sách có tuổi đời từ 50
năm trở lên, cụ thể là từ trước năm 1945. Theo linh mục Nguyễn Hữu Triết, một
nhà sưu tầm, chơi sách cổ nổi tiếng ở TP. Hồ Chí Minh, người đã giành giải cao


16

trong cuộc thi “Những cuốn sách vàng” trong hội sách tháng 3/2004 tại TP. Hồ Chí
Minh: “Niên đại của sách dễ xác định, thường có in năm xuất bản, nơi xuất bản,

nếu khơng thì căn cứ vào chất liệu để xác định khoảng thời gian xuất bản”. Trong
một bài phỏng vấn trên báo Văn hóa điện tử, linh mục Nguyễn Hữu Triết nói:
“Sách từ trước năm 1945 ở các cửa hàng cịn lại khơng nhiều. Sưu tầm sách cổ đơi
khi phải có cơ duyên và may mắn” [77]. Như vậy, ngay trong giới sưu tầm, chơi
sách cổ ở Việt Nam có những cách nhìn nhận khác nhau về niên đại của sách cổ.
Tương tự như vậy, những người sưu tầm sách cổ trên thế giới cũng
chưa đi đến một nhận định thống nhất xem một cuốn sách có tuổi đời bao
nhiêu năm thì được coi là cổ. Trong bài viết “The future is here for
antiquarian books”, tác giả có luận giải cho rằng: nếu một cuốn sách (mà nội
dung nó đề cập đến) vẫn là một phần của hiện tại, của lịch sử đương đại thì nó
khơng nên được xem là sách cổ; nhưng lịch sử đương đại của mỗi người cũng
có những nét khơng tương đồng bởi vậy vấn đề này hãy còn cần tiếp tục làm
sáng tỏ [92]. Trả lời cho câu hỏi “Một cuốn sách bao nhiêu năm tuổi thì được
coi là cổ?”, Hiệp hội những Nhà bán sách cổ Hoa Kỳ (Antiquarian
Booksellers’ Association of America) đã đưa ra câu trả lời: “...“cổ” là một từ
mang tính tương đối dùng cho những cuốn sách có thể sưu tập để phân biệt
với những sách đã qua sử dụng.”[91]. Jeremy M. Norman, một chuyên gia về
sách cổ, cũng có quan điểm tương tự cho rằng sách cổ, giống như đồ cổ, chỉ
thứ gì đó vừa cổ vừa có thể sưu tập được; có nghĩa là một cuốn sách mà người
ta vừa muốn bảo quản vì bản thân sự cổ xưa của nó đồng thời cũng vì nhu cầu
thực chất đối với nó.[89]
Quan điểm của các nhà thư viện, lưu trữ học về sách cổ, tài liệu cổ ở
các vùng miền, các quốc gia khác nhau cũng không đồng nhất. Ở Nga, trong
bản Quy định về danh mục nhà nước những tài liệu quý, hiếm thuộc phông
lưu trữ Liên bang Nga (Ban hành kèm theo Quyết định số 75 ngày 9/10/2001
của Cơ quan Lưu trữ Liên bang Nga) quy định về niên hạn tài liệu cổ là


17


những tài liệu có từ cuối thế kỷ 17 trở về trước nhưng cũng nói rõ phải căn cứ
vào “số lượng tài liệu cổ đại còn tồn tại cho đến ngày nay, ở vùng này hay
vùng khác mà mốc thời gian ấn định để coi tài liệu có thuộc diện có niên hạn
cổ đại hay khơng để đưa vào Danh mục Nhà nước”. Ở Trung Quốc, các nhà
thư viện học xem sách cổ là “các sách phản ánh nền văn hóa Trung Hoa
được tạo ra với các dạng thức truyền thống và được xuất bản trước năm
1911” [87]. Ở Anh, linh mục Nguyễn Hữu Triết cho biết: “Ở Anh cuốn sách
nào có tuổi từ 50 năm trở lên thì được xem là sách cổ” [77].
Rõ ràng, quan niệm về tuổi của sách vở, tài liệu bao nhiêu thì được gọi là
cổ trên thực tế không dễ đi đến một nhận định thống nhất bởi cũng giống như đối
với tuổi của cổ vật, nó cịn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: quốc gia, dân tộc,
chế độ chính trị, vốn thư tịch cổ hiện cịn lưu giữ được,…
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về sách cổ, tài liệu cổ như định nghĩa của Từ
điển Bách khoa Việt Nam: “Sách cổ là thuật ngữ xuất hiện từ nửa sau thế kỷ 19;
thường dễ nhầm với “sách hiếm”, “sách cũ”. Giá trị sách cổ được xác định bằng
phương pháp giám định về các mặt: ngôn ngữ cổ, nội dung thời đại phản ánh (sách
thời cổ đại, trung đại, cận đại), vật liệu sử dụng, phương pháp in,…” [73, tr. 714].
Theo Nguyễn Thị Thúy Bình (2005) tài liệu cổ là những tài liệu được xuất bản, xuất
hiện vào thời phong kiến ở nước ta, có nội dung phản ánh các khía cạnh của đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của đất nước ở các thời kỳ trong lịch sử [33,
tr.12]. Định nghĩa của Từ điển ODLIS, “sách cổ” (antiquarian book) là “một cuốn
sách đã qua sử dụng và không được tái bản nữa, có giá trị hơn so với hầu hết các
loại sách cũ nhờ sự hiếm có và / hoặc tình trạng của cuốn sách, thường được bán
bởi các nhà bán sách cổ. Các cuốn sách cổ rất hiếm và giá trị cao được bán ở các
nhà đấu giá” [91].
Tóm lại, khi nhắc đến sách cổ, tài liệu cổ, thư tịch cổ, chúng ta cần xem xét
ở nhiều góc độ:
- Thời gian xuất hiện của tài liệu thuộc giai đoạn lịch sử trước đây;



18

- Các đặc điểm về dạng vật chất mang tin, kỹ thuật chế tác, phương pháp in
ấn, ngôn ngữ và các đặc điểm hình thức khác của tài liệu phải là những hình thức
đã được sử dụng trong quá khứ mà hiện tại rất hiếm khi hoặc khơng cịn sử dụng.
- Tài liệu có nội dung phản ánh các khía cạnh của đời sống kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội và khoa học kỹ thuật ở các thời kỳ trong lịch sử.
Từ những nhận định trên, có thể hiểu khái quát tài liệu cổ là những tài liệu
được ra đời trong một thời kỳ lịch sử (tùy theo quy định của từng quốc gia), có
giá trị tiêu biểu cho thời kỳ lịch sử đó trên các mặt lịch sử, văn hóa, khoa học,...
1.1.2. Các tiêu chí để xác định tài liệu cổ
Tiêu chí là những tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một
sự vật, một khái niệm. Khái niệm về tài liệu cổ cho thấy một cuốn sách, một tài
liệu được coi là cổ phải có những tiêu chí sau:
* Thời gian xuất hiện tài liệu
Một trong những đặc điểm quan trọng của tài liệu là chúng luôn mang dấu
ấn của thời đại mà ở đó chúng xuất hiện.
Tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, tùy thuộc vào hiện
trạng vốn tài liệu còn lưu giữ được, ở những khu vực, những nước khác nhau lại
có những quy định khác nhau về thời gian đối với tài liệu được coi là cổ.
Ở Việt Nam, trải qua các thời kỳ trong lịch sử: thời kỳ Hồng Bàng với nhà
nước Văn Lang, Âu Lạc, thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ phong kiến tự chủ, thời kỳ
Pháp thuộc, thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ,… văn tự ở Việt Nam ngoài việc được
viết tay trên lụa, trên giấy dó, gốm sứ, khắc trên gỗ, đá, kim loại,… các sách vở,
tài liệu cịn được hình thành bằng phương pháp in ấn. Sự ra đời của nghề in sách
báo hiện đại bằng máy ở Việt Nam được đánh dấu bằng sự kiện năm 1865, nhà in
typô đâu tiên in chữ quốc ngữ ở Sài Gòn do chính quyền thuộc địa Pháp lập ra
để in Gia Định báo, tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Căn cứ vào sự
kiện này, nhiều nhà nghiên cứu đã rất có lý khi cho rằng tài liệu cổ ở Việt



19

Nam phải là những tài liệu xuất hiện trước năm 1865. Điểm lại lịch sử chữ
viết và nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam, chữ Hán, chữ Nôm đã từng có
những thời kỳ được sử dụng rộng rãi và có sức sống mạnh mẽ. Sau này, chữ
quốc ngữ ra đời với những ưu điểm nổi bật so với chữ Hán và chữ Nôm đã
được dần dần truyền bá trong cả nước, trở thành phương tiện hiệu quả để giáo
dục quốc dân, mở mang dân trí, phát triển văn hóa Việt Nam [42, tr.5]. Ngay
sau thành công của Cách mạng tháng Tám, ngày 8/9/1945, bên cạnh Sắc lệnh
số 17 thành lập Nha bình dân học vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
20 về việc bắt buộc học chữ quốc ngữ đối với mọi người dân trên toàn lãnh thổ
Việt Nam [48]. Sắc lệnh được ban hành vào thời điểm năm 1945 này đã mở ra
một trang mới cho lịch sử chữ viết ở Việt Nam, lần đầu tiên chữ quốc ngữ, chữ
Việt trở thành một ngôn ngữ mang tính chính thức của quốc gia, được sử dụng
trong mọi hoạt động chính trị, xã hội. Vì vậy, cũng có khơng ít nhà nghiên cứu
đi đến nhận định lấy mốc 1945 để làm tiêu chí xác định tài liệu cổ.
Ngoài in ấn và chữ viết, lược khảo lịch sử sách ở Việt Nam, chúng ta
thấy rằng Việt Nam sớm đã có sách, theo nhiều chứng lý về khảo cổ học, dân
tộc học cũng như theo chính sách vở của người Trung Quốc kể lại, rất có thể
dân tộc ta đã có sách từ trước thế kỷ X. Lịch sử sách Việt Nam trải qua các
thời đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn từ thế kỷ X đến
thế kỷ XIX đã có được một kho tàng thư tịch đồ sộ, rất tiếc đến nay khơng
cịn lưu giữ được bao nhiêu. Ngay cả trong giai đoạn thực dân nửa phong kiến từ
cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, sách vở ở nước ta vẫn có những bước phát
triển. So sánh tài liệu, sách vở giữa các giai đoạn lịch sử, nhìn chung, theo đánh
giá của các nhà nghiên cứu, “những tài liệu được hình thành trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945 không thể nhầm lẫn với các loại tài liệu hình thành sau đó
về nhiều mặt: nội dung, hình thức, ngơn ngữ, vật liệu chế tạo,…” [9, tr.115].
Năm 1945 cũng thường được các nhà sử học và khảo cổ lấy làm ranh giới thời

gian để phân chia giữa tân với cổ vì ở thời điểm này chế độ phong kiến và thực
dân xâm lược Việt Nam chấm dứt và xã hội ta bắt đầu bước qua một chế độ mới.


20

Như vậy, về tiêu chí thời gian có thể lấy dấu mốc 1945 trở về trước để tạm
xác định tài liệu cổ ở Việt Nam, mặc dù, trên thực tế, việc ấn định này hồn tồn
mang tính chất tương đối.
* Nội dung tài liệu
Một trong hai yếu tố đặc trưng có gắn bó mật thiết với nhau của tài liệu đó
là yếu tố nội dung. Để xác định một tài liệu có phải là tài liệu cổ hay khơng cũng
rất cần quan tâm tới đặc trưng về nội dung của tài liệu. Có thể nói, việc đánh giá
giá trị về mặt nội dung của tài liệu là hết sức quan trọng, nhất là trong việc lựa
chọn các tài liệu đặc biệt như tài liệu cổ.
Tài liệu cổ ở Việt Nam phải là những tài liệu có nội dung thể hiện các
khía cạnh của đời sống văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học kỹ thuật
của đất nước trong những giai đoạn lịch sử từ thời phong kiến trở về trước.
Đó có thể là những tài liệu văn học - nghệ thuật, lịch sử, tơn giáo, giáo dục,
chính trị - xã hội, y dược, địa lý, luật pháp, kinh tế, ngôn ngữ, khoa học kỹ
thuật, quân sự, quốc phịng... có giá trị đặc sắc về lịch sử, khoa học, văn hóa
phản ánh sự phát triển của xã hội, của phương thức và lực lượng sản xuất, của
môi trường sinh thái, điều kiện tự nhiên - xã hội qua các thời kỳ lịch sử của
dân tộc, phản ánh quan hệ đối ngoại của đất nước trên các lĩnh vực, phản ánh
sự phát triển của các dân tộc, các quốc gia, phản ánh cuộc đời và sự nghiệp
của các nhà hoạt động tiêu biểu qua các thời đại lịch sử,…
* Hình thức tài liệu
Sách vừa là một sản phẩm tinh thần, đồng thời cũng là một sản phẩm vật
chất. Sách vở, tài liệu có q trình phát sinh phát triển của mình và có mối quan hệ
mật thiết với sự phát triển xã hội. Nhiều loại hình tài liệu, sách báo đã nối tiếp

nhau ra đời trong lịch sử từ những cuốn sách đầu tiên được ghi chép trên đất, đá,
mai rùa, xương thú,… cho đến những cuốn sách được in trên giấy và hiện đại hơn
nữa là các loại hình sách điện tử.


21

Quá trình phát triển của các loại hình, các kiểu sách, các đặc điểm hình thức
của sách (vật liệu tạo thành sách, chữ viết, kỹ thuật in ấn) chính là tấm gương
phản ánh đặc điểm của từng thời kỳ lịch sử. Phân tích này giúp chúng ta có thể đi
đến nhận định sách vở, tài liệu được coi là cổ phải là những sách vở, tài liệu có
dạng vật liệu tạo thành, chữ viết và kỹ thuật in ấn mà hiện nay khơng cịn hoặc rất
hiếm sử dụng.
Ở Việt Nam, những tài liệu được coi là cổ, quý hiếm hiện nay là những tài
liệu được tạo thành từ các chất liệu mà hiện tại khơng cịn dùng nữa như: gỗ, tre,
nứa, lụa, đá, kim loại, giấy dó,… Những tài liệu đó có thể được làm bằng các
phương thức rất độc đáo như khắc bằng dao, đục trên đá, kim loại, gốm, gỗ,…;
được viết bằng bút lông tẩm mực hay son lên giấy dó, lụa, vải,…; cũng có thể
được in bằng ấn triện, con dấu, ván khắc, in typơ,… Có nhiều tài liệu viết bằng
các ngôn ngữ cổ mà hiện nay hoặc cịn ít người biết hoặc khơng cịn được sử dụng
nữa như chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latin cổ hoặc các ngơn ngữ dân tộc ít người
khác như chữ Nơm Tày, chữ Thái cổ,…
Những tài liệu cổ điển hình hiện nay ở Việt Nam có thể kể đến rất nhiều:
- Các tài liệu viết trên lá cây như sách bằng lá bng cổ của người Thái
hiện cịn lưu giữ ở Thư viện tỉnh Nghệ An và trong bộ sưu tập của nhà nghiên
cứu Nguyễn Hùng Vĩ. Người dân tộc Thái lấy lá cây buông luộc lên rồi ép
phẳng ra để viết sách. Một trang sách lá có chiều dài khoảng 50cm, chiều
ngang khoảng 5cm, chứa được số lượng chữ bằng một trang sách Hán Nôm.
Người ta lấy kim khắc chữ lên lá rồi trộn mực Tàu với mật một loài cá suối
phết lên. Mật cá có tác dụng làm cho mực dẻo và mật cá có vị đắng nên mối

mọt không ăn. Làm xong người ta đục lỗ ở hai đầu để xỏ dây. Ngoài cùng của
sách là hai thanh gỗ được chạm trổ và sơn son thiếp vàng rất đẹp làm bìa. Khi
khơng dùng đến người ta rút sợi dây buộc sang một bên để treo ở trên nhà
sàn. Có nơi, người ta khơng dùng thanh gỗ mà dệt thổ cẩm, luồn nan tre vào


22

trong để bó sách. Theo như ơng Vĩ thì loại sách này chỉ có duy nhất ở dân tộc
Thái nơi miền Tây Nghệ An [30].
- Các tài liệu đá cổ như các bia đá, 82 bia tiến sĩ hiện còn lưu giữ tại
Văn Miếu (được UNESCO công nhận là “Di sản tư liệu thế giới” ngày
9/3/2010) hay bộ kinh Đại tạng được Đinh Liễn, con trai cả của Đinh Bộ Lĩnh
cho khắc trên 100 cây cột đá (hiện nay đã tìm được khoảng 16 cột) tại kinh đơ
Hoa Lư năm Quý Dậu 973. Trong bộ kinh đá này, mỗi cột kinh đá có 8 mặt,
khắc đầy chữ Hán ghi âm tiếng Phạn, một ngôn ngữ cổ Ấn Độ. Cho đến nay,
đây được coi là những văn bản sớm nhất thời kỳ độc lập có giá trị lịch sử vơ
cùng q giá mà chúng ta biết được [6].
- Các tư liệu bằng kim loại như chuông đồng thời Lý, Trần, Lê, các
sách bằng vàng (kim sách), sách bằng bạc (ngân sách), sách bằng đồng (đồng
sách) dùng để tôn phong các vị đế vương hoặc ban tặng cho các thành viên
được sủng ái trong hoàng gia và hoàng tộc. Ở Huế, hiện nay cịn bảo lưu được
một số ít sách như vậy được làm dưới triều Nguyễn (1802 - 1945). Nội dung
các sách này rất ngắn gọn và súc tích, chứ khơng dài như những quyển sách
bằng giấy mà chúng ta thường đọc. Ngồi tờ bìa trước và tờ bìa sau, sách dày
nhất có 7 tờ ruột và sách mỏng nhất có 3 tờ ruột. Mỗi trang chỉ có 5 dịng.
Những tờ ruột dùng để chuyển tải nội dung bằng cách đúc chìm các chữ hoặc
viết các chữ. Nội dung các chữ nghĩa đó được gọi là “sách văn”. Các tờ sách
kim loại (vàng, bạc, đồng) được đóng lại với nhau bằng 4 dây khuyên, tức là 4
vòng tròn nhỏ bằng cùng chất liệu. Tùy theo địa vị và chức tước của người

được tôn phong hoặc ban tặng mà sách làm bằng vàng hay bạc, cỡ lớn hay
nhỏ, dày hay mỏng, đựng trong hộp bằng kim loại hay bằng gỗ, hoặc cả hai
loại hộp [46].
- Các sách viết trên tre (giản sách), khắc trên gỗ mà tiêu biểu là kho
mộc bản triều Nguyễn hiện còn lưu giữ được tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
4 ở Đà Lạt. Kho mộc bản này là những văn bản chữ Hán - Nôm được người


23

xưa khắc gỗ để in ra các loại sách tại Việt Nam vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX, bao gồm hơn 34 nghìn tấm, phần lớn được khắc hai mặt. Ðây là những
tài liệu vô cùng giá trị, phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt
Nam thời cận đại và cũng là di sản tư liệu đầu tiên của Việt Nam được
UNESCO công nhận là "Di sản tư liệu thế giới" [23].
- Ngoài ra, thư tịch cổ Việt Nam còn là những tài liệu viết trên lụa (đặc
biệt là các tranh lụa) và trên giấy, trong đó tiêu biểu là giấy dó một loại vật
liệu đặc biệt của Việt Nam được làm từ vỏ cây dó. Khi chưa có giấy hiện đại
(dân gian gọi là “giấy tây” để phân biệt với “giấy ta” là giấy bản, giấy dó),
giấy dó là nguyên liệu chủ yếu để vẽ, in tranh dân gian, làm nguyên liệu cho
các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, và đặc biệt được dùng để viết và in sách, hầu
hết các sách cổ Hán Nơm đều in trên giấy dó.
Tóm lại, để đánh giá, xác định một tài liệu cổ, chúng ta cần dựa trên
nhiều tiêu chí. Các tiêu chí như đã trình bày ở trên, một mặt có tính độc lập,
có thể cho thấy giá trị của tài liệu cổ trên từng phương diện cụ thể, nhưng mặt
khác, những tiêu chuẩn đó ln có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc vận
dụng những tiêu chí này trên thực tế cần phải linh hoạt và xuất phát từ các
yêu cầu thực tiễn để đánh giá, xác định tài liệu một cách hợp lý.
Ở Việt Nam, do điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng, dân tộc, lịch sử, kinh tế,
văn hóa, xã hội, chính trị, vốn sách vở, tài liệu cổ hiện cịn lưu giữ được cũng có

những đặc điểm riêng, có những tài liệu cổ nội sinh qua các thời kỳ lịch sử, trong
đó đa phần là thư tịch Hán - Nơm, các họa đồ cổ, tranh cổ,…; đồng thời cũng có
các tài liệu cổ được xuất bản ở nước ngoài, do các cơ quan hay cá nhân thu thập
như các sách Latin cổ, Trung Quốc cổ, Nhật Bản cổ,…
Nền văn hiến lâu đời của dân tộc đã để lại kho tàng thư tịch lớn nhưng
trải qua những thăng trầm của lịch sử, tài liệu cổ ở Việt Nam khơng cịn giữ
lại được nhiều, số tài liệu cổ ít ỏi cịn lại phần lớn cũng bị tổn thất, hư hỏng.


24

Nhiều cuốn sách đến nay chỉ còn được biết đến trong những bản thư mục cổ.
Nguyên nhân của sự mất mát này là do chiến tranh, thiên tai, địch họa, kỹ
thuật in ấn chưa phát triển, nhiều tài liệu độc bản, ý thức bảo vệ thư tịch của
người dân không cao,… Hiện nay, các tài liệu cổ Việt Nam được sưu tầm, tập
hợp và lưu trữ tại các trung tâm lưu trữ quốc gia, một số bảo tàng, thư viện và
tồn tại rải rác trong nhân dân trong các bộ sưu tập cá nhân, gia đình, dịng họ,
các đền chùa,… ở trong và ngoài nước.
1.1.3. Khái quát về vốn tài liệu cổ tại các thư viện trên địa bàn Hà Nội
Hà Nội, thủ đơ nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học cơng nghệ của cả nước. Nằm hai
bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc bộ trù phú, Hà Nội có được vị
thế thuận lợi để trở thành nơi giao lưu thương mại trong nước và quốc tế.
Ngay từ buổi đầu của lịch sử Việt Nam, vùng đất địa linh nhân kiệt này
đã sớm trở thành một trung tâm chính trị và tơn giáo. Năm 1010, Lý Công
Uẩn, vị vua đầu tiên của nhà Lý, quyết định xây dựng kinh đô mới ở vùng đất
này với cái tên Thăng Long. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, kinh
thành Thăng Long là trung tâm buôn bán, văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc.
Khi Tây Sơn rồi nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì, kinh đô được chuyển về
Huế và Thăng Long bắt đầu mang tên Hà Nội từ năm 1831, dưới thời vua

Minh Mạng. Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương
và được người Pháp xây dựng, quy hoạch lại. Trải qua hai cuộc chiến tranh,
Hà Nội là thủ đô của miền Bắc rồi nước Việt Nam thống nhất và giữ vai trò
này cho tới ngày nay.
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội
hiện nay có diện tích 3.324,92 km², gồm một thị xã, 10 quận và 18 huyện
ngoại thành. Cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội là một trong hai
trung tâm kinh tế của cả quốc gia.


25

Kể từ khi định đô đến nay, Hà Nội đã trịn nghìn năm tuổi. Khơng chỉ
là một trung tâm kinh tế của cả nước, Hà Nội thực sự là nơi kết tinh tinh hoa,
hội tụ các bậc hiền tài là nguyên khí của đất nước, giao lưu bốn phương và toả
sáng văn hiến. Đó là nền văn hố kinh kì, có sắc thái riêng và từng bước được
phát triển, nâng cao trong tồn bộ tiến trình chung của nền văn hố dân tộc.
Là thủ đơ của đất nước Việt Nam có lịch sử hàng nghìn năm văn hiến,
Hà Nội cũng là một trung tâm văn hóa, giáo dục với rất nhiều nhà hát, bảo
tàng, thư viện hàng đầu trong cả nước, các làng nghề truyền thống, những cơ
quan truyền thông cấp quốc gia và các trường đại học lớn.
Theo số liệu thống kê năm 2009 của Tổng cục Thống kê, hiện nay Hà
Nội có 32 thư viện do địa phương quản lý với tổng số tài liệu là 557 nghìn
cuốn (bao gồm các thư viện thuộc Hà Nội cũ và các thư viện thuộc Hà Tây
mới sát nhập) [60]. Ngoài hệ thống thư viện công cộng do Thành phố Hà Nội
quản lý, địa bàn Hà Nội còn là nơi hội tụ các cơ quan, đồn thể, các nhà máy,
xí nghiệp, các viện, trung tâm nghiên cứu, các trường phổ thông, trường đại
học lớn, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, nghề nghiệp,… trong cả nước.
Hệ thống các cơ quan chuyên ngành và đa ngành, các trường học cùng với
các thư viện và trung tâm thông tin trực thuộc đã làm tăng thêm số lượng và

loại hình thư viện đa dạng, phong phú cho thủ đô Hà Nội. Tổng hợp từ số liệu
năm 2006 của Vụ Thư viện Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, tổng số thư viện,
tủ sách cơ sở trên địa bàn Hà Nội hiện nay vào khoảng gần 2000 [81], trong
đó có 5 trên 6 thư viện lớn nhất cả nước, được coi là “có vị trí đặc biệt quan
trọng” được Nhà nước “đầu tư tập trung” như Thư viện Quốc gia Việt Nam,
Thư viện Khoa học Kỹ thuật Trung ương, Thư viện Viện Khoa học xã hội,
Thư viện Quân đội, Thư viện Hà Nội [24, điều 14, chương IV].
Cùng với sự lớn mạnh của đất nước, được sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước, sự nghiệp thư viện trên địa bàn Hà Nội trong thời gian qua đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kể với mạng lưới thư viện rộng khắp bao gồm các
thư viện thuộc nhiều hệ thống, đảm bảo cho mọi người dân đều có quyền tiếp


×