Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu tính đa dạng của thực vật bậc cao có mạch tại vùng núi viên nam thuộc vườn quốc gia ba vì hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (890.88 KB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

--------------------------------

LÊ ANH VINH

NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG CỦA THỰC VẬT BẬC CAO
CÓ MẠCH TẠI VÙNG NÚI VIÊN NAM THUỘC VƯỜN QUỐC
GIA BA VÌ (HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

--------------------------------

LÊ ANH VINH

NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG CỦA THỰC VẬT BẬC CAO CÓ MẠCH TẠI
VÙNG NÚI VIÊN NAM THUỘC VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ (HÀ NỘI)

Chuyên ngành Lâm học


Mã số:: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS- TSKH . NGUYỄN NGHĨA THÌN

HÀ NỘI NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

--------------------------------

LÊ ANH VINH

NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG CỦA THỰC VẬT BẬC CAO
CÓ MẠCH TẠI VÙNG NÚI VIÊN NAM THUỘC VƯỜN QUỐC
GIA BA VÌ (HÀ NỘI)

Chuyên ngành Lâm học
Mã số:: 60.62.60

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS- TSKH . NGUYỄN NGHĨA THÌN
HÀ NỘI, NĂM 2011


Luận văn được hoàn thành tại:

Khoa sau đại học
Trường đại học lâm nghiệp

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

GS.TSKH. NGUYỄN NGHĨA THÌN
NGƯỜI PHẢN BIỆN 1 : .............................................................................................
............................................................................................
NGƯỜI PHẢN BIỆN 2 : ..............................................................................................
...............................................................................................
NGƯỜI PHẢN BIỆN 3 : ................................................................................................
..............................................................................................

Luận vặ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn theo qyuết định số .... ngày
... Tháng ... năm 2011 họp tại: Trường Đại học Lâm nghiệp
Vào hồi : ... giờ ngày .... tháng ... năm 2011

Có thể tìm hiểu luận văn tại : Thư viện – Trường Đại học Lâm nghiệp


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC


PHIẾU HỌC VIÊN

1. Họ và tên : LÊ ANH VINH
2. Ngày sinh : 02 - 8 - 1976 . Nơi sinh : Thanh oai - Hà Nội
3. Lớp : Cao học 17B - Lâm học. Khoá : 17
4. Chức vụ, đơn vị công tác : Hạt kiểm lâm - Vườn Quốc Gia Ba Vì
5. Địa chỉ cơ quan : Xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì ,Thành phố Hà Nội
6. Địa chỉ nhà riêng: Tập thể Trường THPT Xuân Khanh, Phường Xuân Khanh,
Thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội
7. Điện thoại : Cơ quan : 0433881083
Di động : 0982020043
Học viên

Lê Anh Vinh


1

MỞ ĐẦU
Theo các nhà khoa học, trên trái đất của chúng ta đã trải qua 5 lần diệt
chủng và lần gần đây nhất là 65 triệu năm về trước. Đó là sự diệt chủng của
Khủng long là một ví dụ sinh động và sẽ có thể có một cuộc diệt chủng thứ 6
xảy ra là: sự mất đa dạng sinh học, mà nguyên nhân chính lại do chính con
người chúng ta gây ra.
Cuộc sống của chúng ta liên quan mật thiết đến nguồn tài nguyên mà
trái đất đã cung cấp: khơng khí mà chúng ta thở, thức ăn mà chúng ta ăn, giọt
nước mà chúng ta uống đều có từ “đa dạng sinh học”. Nhưng hiện nay với sự
khai thác q mức và khơng khoa học của mình, con người phải đứng trước
một thử thách hết sức gay go, đó là sự gia tăng mất mát về các loài động vật,

thực vật. Đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá nhất mà khó có thể tái
tạo được trên thế giới, nó là cơ sở của sự sống cịn, thịnh vượng và phát triển
bền vững của loài người.
Sự mất mát về đa dạng sinh học dẫn đến làm mất trạng thái cân bằng
của môi trường sinh thái kéo theo những thảm họa mà loài người đang phải
gánh chịu, đặc biệt trong những năm gần đây, như động đất, sóng thần, lũ lụt,
hạn hán, gió bão, cháy rừng, mơi trường sống bị ô nhiễm nặng nề, ngày càng
xuất hiện nhiều căn bệnh hiểm nghèo... Đó là hậu quả của việc mất đa dạng
sinh học.
Chính vì thấy được tầm quan trọng to lớn đó mà nhiều quốc gia trên thế
giới đã tham gia ký công ước quốc tế về vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học
được thông qua hội nghị thượng đỉnh ở Rio de Janeiro (Braxin, 1992). Theo
công ước này thì bảo tồn sinh học là cái mốc đánh dấu sự cam kết của các
Quốc gia trên thế giới về nguồn tài nguyên sinh vật và nguồn lợi thu được
phải được phân chia công bằng.


2

Hệ thực vật của chúng ta rất đa dạng và phong phú về thành phần loài;
nhiều nhà khoa học đã dự đốn ở nước ta có khoảng 12000 lồi thực vật bậc
cao có mạch: chỉ tính riêng 3 tập Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hồng Hộ
(1991-1993) đã vẽ hình và miêu tả được 10580 loài thực vật bậc cao có mạch
. Ngồi ra có rất nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng bố : 273 lồi thú, 773
lồi chim, 180 lồi bị sát và hàng nghìn lồi động vật khơng xương sống khác
và cịn nhiều lồi chưa được phát hiện, ngay cả những lồi có kích thước lớn
mà các nhà khoa học mới phát hiện trong những năm gần đây
Thế nhưng, do hậu quả của chiến tranh kéo dài, du canh, du cư, phát
nương làm rẫy và một thời gian dài khai thác không hợp lý của các lâm
trường quốc doanh và quân đội, người dân sống gần rừng... nên diện tích rừng

ở nước ta đã bị giảm đi một cách nhanh chóng. Theo P. Maurand (1943), vào
năm 1943 có khoảng 40,7% diện tích cả nước được rừng che phủ (13,5 triệu
ha), song tỷ lệ này đã giảm xuống còn 27,1% vào năm 1980 và 26,2% vào
năm 1985 (Bộ Lâm nghiệp, 1991), báo cáo về tình hình Lâm Nghiệp của Lê
Huy Ngọ ở kỳ họp thứ XIII-Quốc Hội khoá X, ngày 30 /11/2000 thì: Độ che
phủ ở nước ta đã đạt 33% tương đương với độ che phủ của năm 1975,năm
2009 cơng bố của Bộ NN&PTNT thì rừng ở Việt Nam có độ che phủ đạt
39,1%. Ước tính có khoảng trên dưới 100.000 ha rừng bị mất đi mỗi năm.
Như vậy độ che phủ nằm dưới mức độ an tồn sinh thái. Hơn nữa rừng lại
khơng được phân bố đồng đều như vùng Tây Bắc, lưu vực của một số con
sông, mà độ che phủ của rừng giảm đi một cách nghiêm trọng (12%). Hiện
nay rừng tập trung nhiều ở các khu bảo tồn và Vườn Quốc gia.
Việt Nam là một trong những nước thực hiện công ước đa dạng sinh
học đó bằng sự ra đời của các Vườn Quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên
.Trong sự nghiệp bảo vệ đa dạng sinh học ở các Vườn Quốc gia và các khu
bảo tồn là hết sức quan trọng mang tính chiến lược hàng đầu của cơng cuộc


3

bảo vệ sự sống còn của nhân loại.
Vườn Quốc gia Ba Vì được thành lập năm 1991 và vùng núi Viên Nam
là phần được mở rộng sang tỉnh Hịa Bình năm 2003 của Chính phủ cũng
khơng nằm ngồi mục đích ấy.
Các Vườn Quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên muốn thực hiện được
nhiệm vụ cao cả ấy thì điều quan trọng hàng đầu là phải đánh giá được tính đa
dạng sinh học một cách đầy đủ. Để dựa trên sơ sở đó đưa ra được các biện
pháp bảo tồn các lồi q hiếm, các lồi có nguy cơ diệt chủng, hay các hệ
sinh thái một cách có hiệu quả nhất.
Mặc dù Vườn Quốc gia Ba vì được sự quan tâm của Chính phủ và các

tổ chức quốc tế đã và đang thực hiện các Chương trình nghiên cứu khoa học,
điều tra tài nguyên rừng, lên danh lục Động-Thực vật, Chương trình phục hồi
sinh thái... Bước đầu cũng đánh giá được giá trị, tiềm năng và ý nghĩa của một
Vườn Quốc gia đặc trưng cho hệ sinh thái rừng . Song một số nội dung quan
trọng chưa được thực hiện một cách có hệ thống, đó là đánh giá đa dạng sinh
học về các taxon phân loại một cách chính xác, đánh giá sự đa dạng về công
dụng của các lồi để dựa trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp bảo tồn thích hợp.
Vùng núi Viên Nam thuộc Vườn Quốc gia Ba Vì (Hà Nội) là phần
được Thủ tướng chính phủ quyết định cho mở rộng sang tỉnh Hồ Bình năm
2003, cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào.
Từ nhận thức và yêu cầu thực tiễn cấp bách đó, chúng tơi đã tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu tính đa dạng thực vật bậc cao có mạch tại vùng
núi Viên Nam thuộc Vườn Quốc gia Ba Vì ( Hà Nội) .”


4

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG
THỰC VẬT
1.1. Quan điểm nhận thức về đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học là môn khoa học được nhiều người trên thế giới và
trong nước quan tâm trong những năm gần đây. Vấn đề bảo vệ đa dạng sinh
học đang trở nên bức xúc và được các quốc gia đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên
những quan điểm, khái niệm về đa dạng sinh học vẫn chưa đầy đủ, chưa rõ
ràng cần phải thống nhất.
Trong cuốn “Kế hoạch hành động đa dạng Việt Nam”, 1992 cũng có nêu khái
niệm về đa dạng sinh học như sau:“Là tập hợp tất cả sự sống trên hành tinh
của chúng ta, bao gồm tổng số các lồi động vật, thực vật, tính đa dạng và sự
phong phú trong từng lồi, tính đa dạng của hệ sinh thái trong các cộng đồng

sinh thái khác nhau hoặc là tập hợp các loài sống ở các vùng khác nhau trên
thế giới với các hoàn cảnh khác nhau”. Định nghĩa này tuy đã nêu lên được
các thành phần đa dạng từng loài, đa dạng giữa các loài, đa dạng về hệ sinh
thái, nhưng định nghĩa này còn dài và chưa cụ thể. Khi đọc, làm cho chúng ta
dễ nhầm giữa tính phong phú và tính đa dạng của loài, mặt khác định nghĩa
này chỉ đề cập đến động vật và thực vật, chưa đề cập đến các quần xã sinh vật
khác cũng khơng kém phần quan trọng, đó là vi sinh vật, nấm, tảo...
Trong tác phẩm “Đa dạng cho sự phát triển” của Viện tài nguyên gen và Thực
vật quốc tế (IPGRI), thì đa dạng sinh học được định nghĩa như sau:“Đa đạng
sinh học là sự biến dạng trong cơ thể sống và các phức hệ sinh thái mà chúng
sống. Đa dạng sinh học có 3 mức độ là đa dạng di truyền, đa dạng loài và đa
dạng về hệ sinh thái”.
Với định nghĩa này thì đã đề cập tới ba mức độ về đa dạng đó là đa dạng về


5

gen, về loài và về hệ sinh thái. Song vẫn cịn chung chung vì vẫn chưa đề cập
tới khơng gian và môi trường sống của sinh vật”.
Trong công ước về bảo tồn đa dạng sinh học được thông qua tại hội nghị
thượng đỉnh toàn cầu ở Rio de Janeiro (Brazin, 1992) đã định nghĩa đa dạng
sinh học như sau:“Đa dạng sinh học là các dạng sinh vật khác nhau ở tất cả
mọi nguồn, bao gồm hệ sinh thái trên đất liền, trên biển và trên các hệ sinh
thái nước khác, sự đa dạng thể hiện trong từng loài, giữa các loài và giữa các
hệ sinh thái” .Định nghĩa này đã khá đầy đủ và rõ ràng, đó là đa dạng sinh học
thể hiện ở ba mức độ:
+ Đa dạng về gen
+ Đa dạng về loài.
+ Đa dạng về hệ sinh thái.
Trong cuốn “Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật” của Nguyễn Nghĩa Thìn

định nghĩa như sau:“Đa dạng sinh vật là toàn bộ các dạng khác nhau của cơ
thể sống trên trái đất, các sinh vật phân cắt đến các động vật, thực vật ở cạn
cũng như ở dưới nước, từ mức độ phân tử ADN đến các quần thể sinh vật, kể
cả xã hội lồi người. Mơn học nghiên cứu về tính đa dạng đó được gọi là Đa
dạng sinh học”.
Vậy đa dạng sinh học cũng được chia ra ba cấp:
+ Đa dạng di truyền: Thể hiện đa dạng về nguồn gen và genotyp nằm trong
mỗi loài. Phân biệt mỗi lồi trước hết qua bộ nhiễm sắc thể (hình thái ngồi).
Mỗi một lồi có số thể nhiễm sắc hay một bản đồ thể nhiễm sắc khác nhau...
+ Đa dạng về loài: Đa dạng loài thể hiện bằng số loài khác nhau sinh sống
trong một vùng nhất định.
+ Đa dạng hệ sinh thái: Đa dạng hệ sinh thái thể hiện sự khác nhau của các
kiểu quần xã sinh vật tạo nên. Các sinh vật ở các điều kiện sống (đất, nước,


6

khi hậu, địa hình...) nằm trong mối quan hệ tương hỗ tác động lẫn nhau tạo
thành các hệ sinh thái và các nơi ở.
Như vậy xã hội loài người càng văn minh và phát triển thì quan niệm về đa
dạng sinh học càng được nâng cao và hoàn thiện hơn.
1.2. Những nghiên cứu về đa dạng sinh học từ thế kỷ 18 đến nửa thế kỷ
20 ở Việt Nam
Ngoài những tác phẩm cổ điển của Loureiro (1790) của Pierre (1879-1907),
từ những năm đầu thế kỷ đã xuất hiện một công trình nổi tiếng, là nền tảng
cho việc đánh giá tính đa dạng thực vật Việt Nam, đó là bộ thực vật chí đại
cương Đơng Dương do Lecomte chủ biên (1907-1952). Trong cơng trình này
các tác giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khố mơ tả các lồi thực
vật có mạch trên tồn bộ lãnh thổ Đơng Dương.
Tiếp theo Humbert chủ biên (1938-1950) đã bổ sung, chỉnh lý để hoàn thiện

việc đánh giá thành phần loài cho toàn vùng và gần đây nổi bật nhất là bộ
thực vật chí Campuchia, Lào và Việt Nam do Aubreville khởi xướng và cùng
nhiều tác giả khác chủ biên (1960-1997). Đến nay Aubreville đã công bố 29
tập nhỏ gồm 74 họ cây có mạch nghĩa là chưa đầy 20% tổng số họ đã có.
Năm 1965 PocsTamas đã thống kê được ở miền Bắc có 5190 lồi và năm
1969 Phan Kế Lộc thống kê và bổ sung nâng số loài ở miền Bắc lên 5609
loài, 1660 chi và 140 họ (xếp theo hệ thống Engler). Trong đó có 5069 lồi
thực vật Hạt kín và 540 lồi thuộc các ngành cịn lại. Song song với sự thống
kê đó ở miền Bắc từ 1969-1976 cho xuất bản bộ cây cỏ thường thấy ở Việt
Nam gồm 6 tập do Lê Khả Kế chủ biên và ở miền Nam Phạm Hồng Hộ cơng
bố hai tập cây cỏ miền Nam Việt Nam giới thiệu 5326 lồi, trong đó có 60
lồi thực vật Bậc thấp và 20 lồi Rêu cịn lại 5246 lồi thực vật có mạch.
Trên cơ sở bộ thực vật chí Đơng Dương, Thái Văn Trừng (1978) đã thống kê


7

ở Việt Nam có 7004 lồi, 1850 chi và 289 họ,bao gồm ngành Hạt kín có 3366
lồi (90,9%), 1727 chi (93,4%) và 239 họ (82,7%) trong hệ thực vật Việt
Nam; ngành Dương Xỉ và họ hàng Dương Xỉ có 599 loài (8,6%), 205 chi
(5,57%) và 42 chi (14,5%), ngành Hạt trần 39 loài (0,5%), 18 chi (0,9%) và 8
họ (2,8%) trong hệ thực vật Việt Nam.
Để phục vụ công tác khai thác tài nguyên viện điều tra qui hoạch rừng đã
công bố 7 tập cây gỗ rừng Việt Nam (1971-1989) đã gới thiệu khá chi tiết
cùng với hình vẽ, đến 1996 cơng trình đã được dịch ra tiếng Anh do Vũ Văn
Dũng chủ biên. Trần Đình Lý và tập thể (1993) cơng bố 1900 cây có ích ở
Việt Nam[13], Võ Văn Chi (1997) công bố Từ điển cây thuốc Việt Nam[4].
Trong thời gian gần đây hệ thực vật Việt Nam đã được hệ thống lại bởi các
nhà thực vật Liên Xô và Việt Nam đăng trong Vascular Plants Synopsis of
Vietnamese Flora tập 1-2 (1996) và tạp chí sinh học 1994 và số 4 (chuyên đề)

1995, lần lượt đã chỉnh lý, bổ sung các họ của hệ thực vật Việt Nam
Đáng chú ý nhất phải kể đến bộ cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ (19911993) xuất bản tại Canada và đã được tái bản có bổ sung tại Việt Nam trong
hai năm gần đây. Đây là bộ danh sách đầy đủ nhất và dễ sử dụng nhất góp
phần đáng kể cho khoa học thực vật học ở Việt Nam. Bên cạnh đó một số họ
riêng biệt đã được cơng bố như Orchidaceae Đông Dương của Seidenfaden
(1992), Orchidaceae Việt Nam của Averianov (1994), Euphorbiaceae Việt
Nam của Nguyễn Nghĩa Thìn (1999), Annonaceae Việt Nam của Nguyễn
Tiến Bân (2000). Đây là những tài liệu quan trọng nhất làm cơ sở cho việc
đánh giá về đa dạng phân loại thực vật Việt Nam.
Bên cạnh những cơng trình mang tính chất chung cho cả nước hay ít ra một
nửa đất nước, có nhiều cơng trình nghiên cứu khu hệ thực vật từng vùng được
cơng bố chính thức như hệ thực vật Tây Nguyên đã cơng bố 3754 lồi thực
vật có mạch do Nguyễn Tiến Bân, Trần Đình Đại, Phan Kế Lộc chủ biên


8

(1984); danh lục thực vật Phú Quốc của Phạm Hoàng Hộ (1985) cơng bố 793
lồi thực vật có mạch trong một diện tích 592 km2; Lê Trần Chấn, Phan Kế
Lộc, Nguyễn Nghĩa Thìn, Nơng Văn Tiếp (1990) hệ thực vật Lâm Sơn,
Lương Sơn, Hà Sơn Bình trên một diện tích nhỏ 15km2 đã thống kê 1261 loài
thực vật bậc cao có mạch 698 chi và 178 họ; Danh lục thực vật Cúc Phương
do Nguyễn Nghĩa Thìn chủ biên (1992) có 1942 lồi, 228 họ thuộc 7 ngành
trong đó có 127 loài Rêu và được bổ sung sửa chữa và tái bản năm 1997 do
Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Bá Thụ cơng bố, nâng số lồi
lên 1983 lồi, 915 chi và 229 họ trên một diện tích 220 km2; Phan Kế Lộc, Lê
Trọng Cúc (1997) đã giới thiệu danh lục thực vật lưu vực sơng Đà; Nguyễn
Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời (1998) đã giới thiệu danh lục thực vật vùng
núi cao Sa Pa-Phan Si Pan gồm 2024 loài thực vật bậc cao có mạch, 771 chi,
200 họ thuộc 6 ngành.

Trên cơ sở các bộ thực vật chí, các danh lục thực vật của từng vùng, việc đáng
giá tính đa dạng hệ thực vật của cả nước hay từng vùng cũng đã được các tác
giả đề cập đến dưới các mức độ khác nhau, trên những nhận thức khác nhau.
Về đa dạng các đơn vị phân loại: Trên phạm vi cả nước Nguyễn Tiến Bân
(1990) đã thống kê và đi đến kết luận thực vật Hạt kín trong hệ thực vật Việt
Nam có 8500 lồi, 2050 chi trong đó lớp Hai lá mầm 1590 chi và trên 6300
loài và lớp Một lá mầm 460 chi với 2200 loài. Phan Kế Lộc (1996) đã tổng
kết hệ thực vật Việt Nam có 9628 lồi cây hoang dại có mạch, 2010 chi, 291
họ, 733 loài cây trồng, như vậy tổng số loài lên tới 10361 loài, 2256 chi, 305
họ chiếm 4%, 15% và 57% tổng số các loài, chi và họ của thế giới, ngành Hạt
kín chiếm 92,47% tổng số lồi, 92,48% tổng số chi và 85,57% tổng số họ,
ngành Dương xỉ kém đa dạng hơn theo tỷ lệ 6,45%, 6,27%, 9,97% về lồi,
ngành Thơng đất đứng thứ 3 (0,58%), tiếp đến là ngành Hạt trần (0,47%) cịn
hai ngành cịn lại khơng đáng kể về chi và họ ngành Hạt Trần đứng thứ 3


9

(0,90%; 2,75%) tiếp đến ngành Thơng đất (0,25%; 1,03%), cịn 2 ngành cịn
lại tương tự nhau. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã tổng hợp và chỉnh lý các tên
theo hệ thống Brummitt (1992) đã chỉ ra hệ thực vật Việt Nam có 11178 lồi,
2582 chi, 395 họ thực vật bậc cao và 30 họ có trên 100 chi, 5732 lồi chiếm
51,3% tổng số loài của hệ thực vật.
Về đánh giá đa dạng phân loại theo từng vùng: Được mở đầu các cơng trình
của Nguyễn Nghĩa Thìn (1992-1994) về đa dạng thực vật Cúc Phương, tiếp
theo là Phan Kế Lộc (1992) về cấu trúc hệ thực vật Cúc Phương, Lê Trần
Chấn, Phan Kế Lộc, Nguyễn Nghĩa Thìn, Nơng Văn Tiếp (1994) về đa dạng
hệ thực vật Lâm Sơn (Hồ Bình).
Từ năm 1995-2002, ngồi các cuốn sách đã cơng bố cùng Phùng Ngọc Lan,
Nguyễn Bá Thụ: "Tính đa dạng thực vật Cúc Phương" (1976) và cùng

Nguyễn Thị Thời công bố cuốn "Đa dạng thực vật có mạch vùng núi cao Sa
Pa-Phan Si Pan (1998) Nguyễn Nghĩa Thìn và một số tác giả khác công bố
một số loạt bài báo về đa dạng về thành phần thực vật ở các Vườn Quốc gia
Cúc Phương, Bạch Mã, Cát Tiên và các khu bảo tồn vùng núi đá vơi Hồ
Bình, khu bảo tồn Na Hang ở vùng mỏ vàng Bồng Miêu, Tam Kỳ, Quảng
Nam Đà Nẵng, vùng núi cao Phan Si Pan, vùng ven biển Nam Trung Bộ, và
khu bảo tồn Pù Mát, vùng núi đá vơi Phong Nha, VQG Bến En. Qua q trình
nghiên cứu, Tác giả đã công bố cuốn “Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh
vật” nhằm hướng dẫn cách đánh giá tính đa dạng thực vật của vùng nghiên
cứu cho các Vườn Quốc gia và khu bảo tồn trong cả nước. Đó là những tài
liệu nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn của các Vườn Quốc gia và khu bảo
tồn ở Việt Nam.
Về đa dạng quần xã thực vật trên phạm vi cả nước: Phải kể đến cơng trình nổi
tiếng của Thái Văn Trừng (1963-1978) về thảm thực vật Việt Nam. Trên quan
điểm sinh thái phát sinh, tác giả đã phân chia thảm thực vật Việt Nam thành


10

các kiểu, kiểu phụ, kiểu trái và thấp nhất các ưu hợp. Trong các yếu tố phát
sinh thì khí hậu là yếu tố phát sinh ra kiểu thực vật và con người là yếu tố
phát sinh của các kiểu phụ, kiểu trái và ưu hợp, địa lý, địa hình, địa chất, thổ
nhưỡng, khu hệ thực vật.
Đối với miền Nam có cơng trình thảm thực vật nam Trung bộ của Schmid
(1974). Ngồi điều kiện khí hậu với chế độ thốt nước khác nhau, các tiêu
chuẩn phân biệt các quần xã là sự phân hố khí hậu, thành phần thực vật đai
cao. Tác giả xác nhận các loài thuộc hệ thực vật Malêzi ở đai thấp dưới 600m
cịn các lồi thuộc hệ thực vật Bắc Việt Nam-Nam Trung Hoa ở đai trên 1200
m, từ 600-1200 m được coi là đai chuyển tiếp. ở miền Bắc có cơng trình của
Trần Ngũ Phương (1970) đã chia các đai trên cơ sở độ cao, sau đó kiểu dựa

vào điều kiện địa hình và tính chất sinh thái, các kiểu khu vực dựa vào thành
phần thực vật.
Năm 1995, Nguyễn Văn Thường đã xây dựng bản đồ thảm thực vật Bắc
Trung bộ đã chia 4 vùng sinh thái chính căn cứ vào độ cao so với mặt biển: <
700 m nhiệt đới ẩm, < 700 m nhiệt đới ẩm có 1/ 2 mùa khơ, < 700 m hơi khơ
có mùa mưa rõ và 800  1500 m nhiệt đới ẩm có thể nói đó là cơng trình lớn
nhất về thảm thực vật Việt Nam. Mãi năm 1985 theo cách phân loại mới của
UNESCO (1973) Phan Kế Lộc đã vận dụng thang phân loại đó để phân loại
thảm thực vật Việt Nam thành 5 lớp quần hệ, 15 dưới lớp, 32 nhóm quần hệ,
77 quần hệ khác nhau. Cách phân loại đó đã được Nguyễn Nghĩa Thìn áp
dụng (1994-1996).
Việc đánh giá các quần xã thực vật cho từng vùng như Phan Kế Lộc, Trần
Văn Thụy (1995) về thảm thực vật tỉnh Thanh Hoá.
Đối với rừng đặc dụng: Năm 1995 Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Bá Thụ và
Trần Văn Thụy đã nghiên cứu các quần xã thực vật và xây dựng bản đồ thảm
thực vật Vườn Quốc gia Cúc Phương, cùng năm có một số thơng báo của Vũ


11

Văn Dũng về các kiểu thảm thực vật ở khu bảo tồn Vũ Quang, của Lê Xuân ái
về các kiểu thảm thực vật Côn Đảo, của Nguyễn Duy Chuyên về các kiểu
thảm thực vật ở các khu bảo tồn và Vườn Quốc gia các tỉnh miền Nam Việt
Nam, của Trần Ngọc Bút về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Cát Bà,
Lê Đức Giang về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Bến En, của Huỳnh
Văn Kéo về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Bạch Mã, của Võ Văn
Bền về các kiểu thảm thực vật đảo Phú Quốc, của Đặng Huy Huỳnh, Nguyễn
Xuân Đặng, Lê Văn Chiêm về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Nam
Cát Tiên, Đỗ Minh Tiến về các kiểu thảm thực vật khu bảo tồn Tam Đảo, Bùi
Văn Định, Cao Văn Sung, Phạm Đức Tiến về các kiểu thảm thực vật Vườn

Quốc gia Ba Bể. Những năm gần đây 1998 Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn
Thị Thời giới thiệu về các kiểu thảm thực vật vùng Sa pa-Phan Si Pan, Kim
J.W., Nguyễn Nghĩa Thìn (1998), Nguyễn Nghĩa Thìn (1999) về các kiểu
thảm ở Vườn Quốc gia Cát Bà.
1.3. Những nghiên cứu gần đây:
GS.TSKH. Nguyễn Nghĩa Thìn (2006) “Đa dạng thực vật Khu bảo tồn thiên
nhiên Na hang Tỉnh Tuyên Quang”. Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội đã xác
định được 1162 loài thuộc 614 chi, 159 họ của 4 ngành.
PGS.TSKH. Lê Xuân Huệ, TS. Trần Huy Thái (2009): “Điều tra đánh giá đa
dạng sinh học của một số nhóm sinh vật của Khu bảo tồn thiên nhiên Copia
(Sơn La) và đề xuất các giải pháp để quản lý bảo tồn”.Viên sinh thái và tài
nguyên sinh vật(Viện khoa học và công nghệ Việt Nam), đã xác định được
610 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 415 chi của 149 họ gồm 5 ngành
Phạm Thị Kim Dung(2009): “Phân tích sự đa dạng của hệ thực vật bậc cao có
mạch ở khu bảo tồn thiên nhiên Fù Huống, Tỉnh Nghệ An làm cơ sở cho cơng
tác bảo tồn”.Khố luận tốt nghiệp đại học hệ chính quy, ngành sinh học, khoa
sinh học, Trường Đại học khoa học tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội, đã


12

thống kê được 1124 loài thuộc 585 chi và 166 họ thực vật của 5 ngành thực
vật bậc cao có mạch v.v...
1.4.Ở Vườn Quốc gia Ba vì:
Vườn quốc gia Ba vì được đặc trưng là một diện tích rừng điển hình nhất Việt
Nam.
- Hồng Hoa Quế (1997) “ Nghiên cứu tính đa dạng cây gỗ vùng núi cao ở
Vườn Quốc Gia Ba Vì”, Luận án thạc sỹ khoa học Lâm Nghiệp, Trường Đại
Học Lâm Nghiệp đã xác định được 221 loài cây gỗ thuộc 125 chi và 51 họ
của 2 ngành thực vật….

- Trần Văn Ơn (2000) “Bảo tồn cây thuốc của dân tộc Dao ở Vườn Quốc Gia
Ba Vì”.Luận án Tiến Sỹ, Trường Đại học Dược Hà Nội. Đã xác định được
500 lồi cây có giá trị làm thuốc cần phải bảo tồn tại Vườn Quốc Gia Ba Vì
của dân tộc Dao v.v..
Núi Viên Nam là phần mở rộng, đến nay chưa có một nghiên cứu nào chuyên
về thực vật ở khu vực này. Đây cũng chính là lý do để chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài này.


13

Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU.
2.1. Mục tiêu của đề tài:
- Mô tả, đánh giá các kiểu thảm thực vật trong phạm vi nghiên cứu.
- Xây dựng danh lục các lồi và đánh giá tính đa dạng hệ thực vật bậc
cao có mạch ở khu vực nghiên cứu.
2.2. Nội dung nghiên cứu: Để đáp ứng mục tiêu trên chúng tôi thực
hiện các nội dung sau:
- Nghiên cứu các kiểu thảm thực vật vùng nghiên cứu
- Nghiên cứu đa dạng về thành phần loài, chi, họ và đánh giá tính đa
dạng của nó.
- Đa dạng về thành phần
- Đa dạng về giá trị tài nguyên
+ Tài nguyên cây có ích
+ Tài ngun về nguồn gen
2.3. Phương pháp nghiên cứu.
2.3.1. Phương pháp kế thừa.
- Kế thừa có phê phán các kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đây.

2.3.2. Phương pháp điều tra thực địa.
- Áp dụng phương pháp điều tra thực địa được Nguyễn Nghĩa Thìn giới thiệu
trong cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh học (1997), và hệ sinh thái rừng
nhiệt đới (2004).


14

Xác định địa điểm và tuyến thu mẫu
Để thu mẫu một cách đầy đủ và đại diện cho một khu nghiên cứu, chúng ta
không thể đi hết các điểm trong khu nghiên cứu, vì thế việc chọn tuyến và địa
điểm thu mẫu là hết sức cần thiết.
Dựa vào bản đồ hiện trạng và đặc điểm địa hình, thiết lập các tuyến thu mẫu
sao cho tuyến đường đi phải xuyên qua các môi trường sống của khu nghiên
cứu, nghĩa là các tuyến đó cắt ngang các vùng đại diện cho khu nghiên cứu.
Từ tuyến chính, các tuyến phụ theo kiểu xương cá được mở về hai phía và đi
qua các quần xã khác nhau. Trung bình 1,5 km chiều dài của tuyến chính lại
có 2 tuyến phụ được mở ra. Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra tất cả các loài
thực vật bậc cao có mạch nằm ở phạm vi 10m mỗi bên.
Trên các tuyến thu mẫu nói trên, chọn những điểm chốt, tức là những điểm
đặc trưng nhất để đặt các ơ tiêu chuẩn. Sau khi xác định vị trí ô tiêu chuẩn,
dùng dây nylon có màu để định vị các ơ. Trong mỗi ơ tiêu chuẩn có kích
thước 50m x 40m (0,2 ha), tiến hành điều tra tất cả các lồi thực vật bậc cao
có mạch nằm trong phạm vi của ô.
Phương pháp thu mẫu
Để thu mẫu, hiện nay, nên dùng túi polyetylen để đựng mẫu mà không dùng
cặp gỗ dán như trước đây vì vừa cồng kềnh, vừa khó bảo quản, cần có sổ ghi
chép riêng, dây buộc, kéo cắt cành, nhãn, kim chỉ, bút chì (2B), cồn, giấy báo.
Nguyên tắc thu mẫu:
- Mỗi mẫu phải có đầy đủ các bộ phận, nhất là: cành, lá, hoa và cả quả càng

tốt (đối với cây lớn) hay cả cây đối với cây thân thảo.
- Mỗi cây thu từ 3 – 5 mẫu cịn mẫu cây thân thảo thì tìm các mẫu giống nhau
và cũng thu với số lượng trên để vừa nghiên cứu các biến dạng của loài, vừa


15

để trao đổi.
- Các mẫu thu trên cùng một cây thì cùng đánh một số hiệu mẫu. Có hai cách
đánh số phổ biến hiện nay: đánh từ 1 trở đi kể từ khi thu mẫu đầu tiên cho đến
hết sự nghiệp làm nghiên cứu khoa học hoặc đánh số theo năm tháng không
phụ thuộc vào các đợt thu mẫu trước đó. Ví dụ: đợt nghiên cứu vào ngày 25
tháng 7 năm 2011, đánh số 25072011 là gốc và sau đó lần lượt ghi tiếp từ số 1
trở đi. Cách này tiện lợi là khơng cần phải nhớ số trước đó mà thu đợt nào
đánh số đợt đó và qua số đó có thể nhận biết được thời gian thu mẫu.
- Khi thu phải ghi chép ngay những đặc điểm dễ nhận biết ngồi thiên nhiên
như đặc điểm vỏ cây, kích thước cây, nhất là các đặc điểm dễ mất sau khi khô
như màu sắc của hoa, quả, mùi vị,…
- Thu và ghi chép xong cho vào túi polyetylen to mang về nhà mới làm mẫu.
Việc cho vào túi polyetylen có lợi là gọn nhẹ, không bị va quệt khi băng qua
rừng, mẫu giữ tươi lâu kể cả khi trời nắng to. Cần chú ý là khi cho mẫu vào
túi phải nhẹ nhàng, nếu có hoa thì dùng lá của mẫu để bọc trước khi cho vào
túi. Có thể dùng túi nhỏ và mỏng đựng riêng từng loài và buộc chặt tất cả các
túi nhỏ đó cho vào túi to.
Xử lý và bảo quản mẫu
Hàng ngày, các mẫu thu cần được đeo nhãn ngay. Trên mỗi nhãn cần ghi
chép:
- Số hiệu mẫu: NT-25092011.01
- Địa điểm và nơi lấy (tỉnh, huyện, xã, mọc ven suối, thung lũng, sườn hay
đỉnh núi hoặc đồi,…).

- Ngày lấy mẫu.
- Đặc điểm quan trọng: cây gỗ hay dây leo, độ cao, màu sắc lá, hoa, quả, lông,


16

gai, mùi vị,…
- Người lấy mẫu.
Khi ghi phải dùng bút chì mềm, tuyệt đối khơng dùng bút bi, bút mực để tránh
bị mất khi ngâm tẩm về sau.
Sau khi đã đeo nhãn, các mẫu cần được xử lý. Sử dụng hai phương pháp xử lý
mẫu sau:
Xử lý khô
Mỗi mẫu được đặt gọn trong một tờ báo gập lại, vuốt ngay ngắn nhưng chú ý
trên mỗi mẫu phải có có lá sấp, lá ngửa để có thể quan sát dễ dàng cả hai mặt
lá mà không phải lật mẫu. Đối với hoa, dùng các mảnh báo nhỏ để ngăn cách
nó với hoa hay lá bên cạnh, phòng khi sấy dễ bị dính vào các bộ phận bên
cạnh. Sau đó xếp chồng các mẫu lên nhau, sau 5-10 mẫu đặt một tấm nhơm
lượn sóng để tăng độ thống khí, giữ nhiệt tốt và dùng đơi cặp ơ vng (mắt
cáo) để ốp ngồi rồi ép chặt mẫu và bó lại, mỗi cặp mẫu khoảng 15-20 mẫu.
Các bó mẫu được đem phơi nắng hoặc sấy. Hàng ngày phải thay giấy báo mới
để mẫu chóng khô và không bị ẩm, không làm cho mẫu bị nát.
Xử lý ướt
Khi khơng có thời gian và điều kiện làm mẫu ngay trong ngày, sau khi đã xử
lý mẫu xong, không dùng cặp mắt cáo để ép mẫu hoặc chỉ ép trong một thời
gian ngắn sao cho chúng đủ thời gian ổn định vị trí và sau đó bỏ cặp, dùng
giấy báo bọc ngồi rồi bó chặt lại và cho các bó mẫu đó vào túi polyetylen cỡ
lớn. Mỗi túi lớn có thể chứa nhiều bó mẫu. Dùng cồn đổ cho thấm ướt các tờ
báo và buộc chặt lại để chuyển về nơi có điều kiện sấy khơ.
Nhãn mẫu

Nhãn là ghi lại một cách ngắn gọn hồ sơ của mẫu để làm cơ sở cho các nhà


17

nghiên cứu phân loại, sinh thái, địa lý thực vật, sinh hóa phân loại, di truyền
phân loại… trong q trình nghiên cứu. Một cơng trình đầy đủ, chính xác và
nghiêm túc về sinh học như trên đã nói phải thơng báo đầy đủ những thông tin
được ghi trong nhãn. Đây là một bộ phận quan trọng của mẫu lưu giữ vĩnh
viễn nó có giá trị như các tập hồ sơ của các phịng tổ chức.
Nhãn thường có hình chữ nhật kích thước khoảng 7 x 10 cm giấy trắng dai,
viết bằng tay hay đánh máy thường được in sẵn và dán ở góc dưới, bên phải:
Số hiệu mẫu (No):
Tên phổ thông (Common name):
Tên Khoa học (Scientific name):
Tên họ (Family name):
Người thu mẫu (Leg. = Legit):
Ngày thu mẫu:
Địa điểm thu mẫu:
Ngoài ra một số nhãn khác thường bé hơn độ 3 x 10cm được dán kèm theo ở
phía trên hay bên cạnh ghi những thay đổi do các chuyên gia viết về sau, khi
kiểm tra mẫu, có thể sửa đổi tên khoa học cho cập nhật hoặc thay lại tên khoa
học cũ bằng một tên mới sau khi kiểm tra lại đã có sẵn trong đó ghi cả họ và
tên người kiểm tra và ngày kiểm tra. Nếu mẫu đã có tên đúng thì chuyên gia
kiểm tra cần dán thêm một nhãn con ghi đủ tên và ngày tháng và ở giữa ghi
dấu “!” để khẳng định tên trong mẫu là đúng. Trên bìa mẫu cũng có những
nhãn chỉ ra người đã lấy hạt phấn hay các bộ phận khác để nghiên cứu tế bào
hay sinh hóa.
Trình bày mẫu



18

Trình bày mẫu là một quá trình gắn mẫu và nhãn vào tờ bìa. Hầu hết các bìa
mẫu của các nước Bắc Mỹ có kích thước 29 x 41cm. Ở Việt Nam thường
dùng kích thước 28 x 42 cm. Bìa mẫu là những giấy Crôki (Croquis) dày,
đanh và cứng. Chất lượng giấy tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Đối với
phịng mẫu cây khơ giấy cần 100% chất xơ để đảm bảo độ cứng, còn để học
tập chất lượng giấy thấp hơn. Giấy cần phải cứng khó gấp để đỡ hỏng mẫu
nhất là khi chuyền tay nhau.
Để đính mẫu vào bìa mẫu có nhiều cách khác nhau. Ở Việt Nam theo truyền
thống dùng chỉ để khâu các bộ phận đính chặt lên bìa mẫu. Vì điều kiện độ
ẩm cao nếu dùng các băng dính để dán thì dễ bị bong ra.
Khi khâu chú ý theo các đường thẳng, ngắn nhất từ trên xuống dưới. Mục
đích để dán chặt các đường chỉ ở mặt lưng bìa vào bìa một cách dễ dàng nhất.
Hiện nay các mẫu được đính vào bìa mẫu là vừa dùng chỉ khâu những nơi
cứng và vừa dùng súng bắn nhựa để dán những phần mềm hơn và ở phía sau.
Việc dán mối chỉ phía sau nhằm mục đích khi chồng các mẫu lên nhau khơng
bị vướng làm hỏng mẫu phía dưới. Ở các nước thường dùng các băng dính
hoặc các hồ dán như: Swiffs Z – 5032, Elmen’s glue – all, Nicobon B hoặc
Wihold 128. Nhựa 35 – 6262 được dùng để dán các lá cứng. Các phần dễ rơi
thường đựng vào các túi hoặc dán kết hợp với khâu vào bìa mẫu.
2.3.3. Phương pháp trong phịng thí nghiệm.
- Xác định tên khoa học và chỉnh lý theo các tài liệu sau: [4], [10], [11], [20],
[27], [29], Vân Nam thực vật chí (Trung Văn)
Thực vật chí Đơng Dương (Flore générale de l’ Indo-chine, H. Lecomte, 1907
- 1952)
Thực vật chí Cam-pu-chia, Lào, Việt Nam (Flore du Cambodge, du Laos et
du Vietnam, Aubréville A. et al., 1960 - 1997)



19

The Plant Book (D.J.Mabberley, 1997)
Flora of China - Illustration (1994 - 2000)
Khoá xác định và phân loại họ Thầu dầu Việt Nam (Nguyễn Nghĩa Thìn,
1999)
Identification guide to Vietnamse Orchids (Orchidaceae Juss.) (Averyanov L.
V., 1991)
Lan Việt Nam (The Orchids of Vietnam) (Nguyễn Thiện Tịch, 2001)
- Xây dựng danh lục thực vật theo Brummitt (1992)
Mỗi nhóm đối tượng, kết quả sau khi phân tích và kiểm tra tên khoa
học cùng với các thông tin liên quan, danh lục được thiết lập, trong đó các
lồi trong các chi, các chi sắp xếp trong các họ, bộ, lớp, ngành theo từng hệ
thống khác nhau đối với từng nhóm đối tượng.
- Đánh giá đa dạng về phân loại: đa dạng họ, chi, loài của các ngành
- Đánh giá về các giá trị tài nguyên sử dụng.
+ Cây có ích: Dựa vào Tài liệu của Tài nguyên Thực vật Đông Nam
Á(PROSEA), Cây gỗ rừng Việt Nam(2000) xác định: Cây cho thuốc, cây gỗ,
cây ăn được, cây cảnh, cây cho dầu béo, cây cho sợi, cây cho tinh dầu, cây
cho nhựa, cây cho ta nanh, cây khác.
+ Giá trị bảo tồn cây quý hiếm. Dựa vào tài liệu Sách đỏ việt Nam
(2007)


20

Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên

3.1.1.Vị trí địa lý
- Khu vực mở rộng có toạ độ địa lý:
+ Từ 1050 23' đến 1050 28' độ vĩ Bắc
+ Từ 200 56' đến 21000' độ kinh Đông
Khu vực điều tra nghiên cứu là núi Viên Nam thuộc vườn Quốc Gia Ba Vì là
diện tích được quy hoạch là rừng phịng hộ, với độ cao từ coste 100m trở lên,
xung quanh đỉnh Viên Nam, thuộc địa bàn 9 xã của 4 huyện Lương Sơn, Kỳ
Sơn (tỉnh Hồ Bình) và Thạch Thất ,Quốc Oai ( Thành phố Hà Nội), trong đó:
Huyện Kỳ Sơn gồm 4 xã: Phú Minh,Dân Hoà, Phúc Tiến và Yên Quang
Huyện Lương Sơn gồm 1 xã: Lâm Sơn
Huyện Thạch Thất gồm 2 xã : Yên Trung và Yên Bình
Huyện Quốc Oai gồm 2 xã : Đông Xuân và Tiến Xuân
Tổng diện tích tự nhiên khu vực điều tra nghiên cứu là: 9.242 ha
3.1.2. Địa hình và địa thế
Khu vực điều tra nghiên cứu là phần phía Nam của hệ thống núi Tản Viên,
gồm tồn bộ diện tích từ độ cao 100m trở lên của núi Viên Nam.
Núi Viên Nam chạy theo hướng từ Tây sang Đông, tiếp giáp với núi Tản
Viên, tại phía Tây xã Phúc Tiến huyện Kỳ Sơn, qua các đỉnh núi 831, 1.031,
861 và 874.Phía Đơng thuộc xã Tiến Xuân Thành phố Hà Nội Sườn Bắc
thuộc xã Yên Trung Thành Phố Hà Nội và Sườn Nam thuộc về xã Dân Hồ
huyện Kỳ Sơn.
Núi Viên Nam có địa hình chia cắt rất phức tạp với nhiều hướng dơng phụ.
Độ dốc bình qn từ 20-250 ,sườn Bắc có độ dốc lớn hơn sườn Nam, có nhiều
nơi độ dốc > 300.


×