Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Nghiên cứu cơ sở khoa học cho vấn đề sử dụng đất bền vững trên địa bàn xã minh sơn huyện hữu lũng tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------

--------------------------------

NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC
CHO VẤN ĐỀ SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN
XÃ MINH SƠN, HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-------------------------------

NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC
CHO VẤN ĐỀ SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN


XÃ MINH SƠN, HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HÀ QUANG KHẢI

Hà Nội, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất được xem là tài sản quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản xuất
quan trọng để con người sinh sống, thực hiện lao động để sinh tồn.
Đối với bất kỳ nước nào, đất đều là tư liệu sản xuất nông - lâm nghiệp
chủ yếu, cơ sở lãnh thổ để phân bố các ngành kinh tế quốc dân. Nói đến tầm
quan trọng của đất, từ xa xưa, người Ấn Độ, người Ả-rập, người Mỹ đều có
cách ngôn bất hủ: “Đất là tài sản vay mượn của con cháu”. Người Mỹ cịn
nhấn mạnh “...đất khơng phải là tài sản thừa kế của tổ tiên”. Người Ét-xtô-nia, người Thổ Nhĩ Kỳ coi “có một chút đất cịn q hơn có vàng”. Người Hà
Lan coi “mất đất cịn tồi tệ hơn sự phá sản”. Gần đây trong báo cáo về suy
thối đất tồn cầu, UNEP khẳng định “Mặc cho những tiến bộ khoa học - kỹ
thuật vĩ đại, con người hiện đại vẫn phải sống dựa vào đất”. Đối với Việt
Nam, một đất nước với “Tam sơn, tứ hải, nhất phân điền”, đất càng đặc biệt
quý giá, [36].
Tuy nhiên, tài nguyên đất lại là tài nguyên có hạn và đất có khả năng
canh tác càng ít ỏi. Tồn lục địa, trừ diện tích đóng băng vĩnh cửu (1.360 triệu

ha) chỉ có 13.340 triệu ha đất canh tác. Trong đó, phần lớn diện tích đất có
nhiều hạn chế cho sản xuất do đất quá lạnh, khô, dốc, nghèo dinh dưỡng hoặc
quá mặn, quá phèn, bị ô nhiễm, bị hủy hoại do hoạt động sản xuất hoặc do
chiến tranh… Vì thế, diện tích đất có khả năng canh tác của lục địa chỉ có
3.030 triệu ha, hiện nay nhân loại mới khai thác được 1.500 triệu ha. Mặt
khác, diện tích tự nhiên và đất canh tác trên mỗi đầu người càng giảm do áp
lực tăng dân số, tốc độ đô thị hóa, cơng nghiệp hóa nhanh. Bình qn diện
tích đất canh tác trên đầu người của thế giới hiện nay chỉ còn 0,23 ha, ở nhiều
quốc gia khu vực châu Á, Thái Bình Dương là dưới 0,15 ha, ở Việt Nam chỉ
cịn 0,11 ha. Theo tính tốn của Tổ chức Lương thực thế giới (FAO), với trình


2

độ sản xuất trung bình hiện nay trên thế giới, để có đủ lương thực, thực phẩm,
mỗi người cần có 0,4 ha đất canh tác. Ước tính ở Việt Nam, hàng năm giảm
5m2 đất canh tác/người, [37].
Đặc biệt, trong giai đoạn mọi quốc gia trên thế giới đều phát triển theo
hướng cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, đi kèm với vấn đề này là sự suy thối
mơi trường mang tính chất tồn cầu. Do đó, việc sử dụng đất bền vững, tiết
kiệm và có hiệu quả đã trở thành chiến lược quan trọng có tính tồn cầu. Ở
mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam, để giảm thiểu những tác động xấu từ biến
đổi khí hậu đến sự suy thối đất đai thì cần phải có một chiến lược quốc gia
với tầm nhìn dài hạn cho việc sử dụng tài nguyên đất.
Tài nguyên đất chịu tác động khác nhau của nhiều nhân tố khách quan,
trong đó có con người. Có thể nói: Con người là nhân tố làm biến đổi chiều
hướng phát triển của đất. Nếu con người tác động theo chiều hướng nào thì
đất sẽ biến đổi theo chiều hướng đó. Nó chỉ phát huy đầy đủ vai trị và tiềm
năng của mình khi con người khai thác và sử dụng hợp lý. Đây chính là vấn
đề mấu chốt trong việc sử dụng đất bền vững – một mặt, chúng ta khai thác

được tiềm năng của đất, mặt khác đất phải luôn luôn được bù đắp chất dinh
dưỡng. Vấn đề này còn quan trọng gấp bội phần đối với đất lâm nghiệp vùng
đồi núi của nước ta.
Minh Sơn – thuộc tỉnh Lạng Sơn là một xã miền núi nên hoạt động sản
xuất của người dân đều gắn với các hoạt động sản xuất nông - lâm nghiệp, đời
sống của người dân địa phương cịn rất nhiều khó khăn. Để có được các sản
phẩm cây trồng đa dạng, năng suất cao, đáp ứng được nhu cầu của thị trường,
nâng cao đời sống cho người dân địa phương; bên cạnh đó đảm bảo được vấn
đề sử dụng đất bền vững thì việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp sử dụng
đất bền vững cho xã Minh Sơn là điều cần thiết.


3

Nhằm đánh giá đúng đắn những thay đổi trong công tác sử dụng đất
lâm nghiệp trong thời gian gần đây tại xã Minh Sơn và góp phần trong việc
bảo vệ tài nguyên đất, tài nguyên rừng bền vững, cải thiện đời sống cho người
dân địa phương, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu cơ sở khoa học cho vấn đề sử dụng đất bền vững trên địa bàn
xã Minh Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn”./.


4

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tài nguyên đất cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng, bằng cách đó,
trực tiếp hay gián tiếp cung cấp thực phẩm cho con người và các loài sinh vật,
đảm bảo sự sinh tồn cho các lồi trên Trái Đất. Tổng diện tích đất tự nhiên

của hành tinh là khoảng 14.700 triệu ha. Trong đó, những loại đất tốt, thích
hợp cho sản xuất nơng nghiệp như đất phù sa, đất đen chỉ chiếm 12,6%;
những loại đất quá xấu như đất vùng tuyết, băng, hoang mạc, đất núi, đất đài
nguyên chiếm đến 40,5%; còn lại là các loại đất không phù hợp với việc trồng
trọt như đất dốc, tầng đất mỏng, …. , [36].
Tuy nhiên, do tốc độ tăng dân số nhanh cùng với mục đích sử dụng
nguồn tài nguyên đất của một cách tràn lan, thiếu bền vững con người đã gây
ra sự tổn thất và suy thoái nguồn tài nguyên này. Trước hết, phải đề cập đến là
sự mất rừng hoặc khai thác rừng đến cạn kiệt (gây xói mịn, đá ong hố, mất
nước, sạt lở...) đã đóng góp tới 37%, chăn thả quá mức (làm chặt đất, giảm độ
che phủ của cây cỏ) 34%, hoạt động nơng nghiệp (mặn hố thứ sinh do tưới
tiêu khơng hợp lý; dùng q nhiều phân bón hoặc hồn tồn khơng dùng phân
bón làm xói mịn đất; 28% do ơ nhiễm đất do phân bón, các hợp chất bảo vệ
thực vật và ô nhiễm sinh học) và 1% hoạt động công nghiệp (sử dụng đất
làm bãi thải gây ô nhiễm môi trường đất...), [37].
1. 1. Trên thế giới
Trong các châu, Châu Âu có tỷ lệ sử dụng đất cao nhất, chiếm 31%,
Châu Úc có tỷ lệ sử dụng đất thấp nhất, chiếm 1,2%, [1].
Ở Châu Á, chiếm 38% dân số của thế giới có 20% diện tích đất nơng
nghiệp, đất dốc chiếm khoảng 35% tổng diện tích đất của các nước đang phát


5

triển [34]. Vùng Đơng Nam Á có tỷ lệ sử dụng đất phù sa rất cao, chiếm 41%.
Trong khi đó, ở Châu Phi có 9%, Nga 6%, Tây Âu 3%, Châu Úc 1%, [1].
Ở Đông Nam Á, vùng đất đồi núi có độ dốc cao, đất thường nghèo nàn.
Ở những nơi này, người dân thường sử dụng những cây trồng cạn do điều
kiện thiếu nước. Hầu hết các nước thuộc Đông Nam Á là các nước đang phát
triển nên việc quản lý và sử dụng đất không hợp lý làm tăng lũ lụt ở hạ nguồn,

đọng bùn ở thung lũng, các cơng trình chứa nước và biến vùng này thành khu
vực xói mịn mạnh nhất trên thế giới. Các vùng cao, đất đai bị suy thối một
cách nghiêm trọng. Xói mòn đất đã ảnh hưởng đến 1,79 triệu km2 ở Trung
Quốc, gây nên 5 tỷ tấn đất bị xói mịn hàng năm, [19].
Ở vùng nhiệt đới ẩm, phần lớn độ màu mỡ của đất chỉ nằm ở lớp đất
mặt. Nếu những lớp đất này bị lộ ra không được bảo vệ thì những trận mưa và
bão mạnh thường xuyên xảy ra ở miền nhiệt đới ẩm sẽ nhanh chóng bào mịn
làm mất độ phì của lớp đất mặt để lại lớp đất có độ phì thấp. Miền nhiệt đới
ẩm là nơi sinh sống của hàng trăm triệu nông dân, hầu hết mức sống người
dân ở đây rất thấp, đa số họ gieo trồng trên những đám đất nhỏ ở các sườn đồi
dốc có nguy cơ xói mịn rất lớn., [18].
Như vậy, với những số liệu cụ thể trên ta thấy rằng tài nguyên đất trên
thế giới đang dần bị thu hẹp, đặc biệt là diện tích đất có khả năng canh tác.
Nếu con người khơng có ý thức bảo vệ và đưa ra các phương hướng phục hồi,
phát triển đất đai thì diện tích sẽ ngày càng suy giảm nghiêm trọng và sẽ ảnh
hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội.
Nhịp độ tăng trưởng trong cả hai mặt dân số và phát triển KT-XH trong
3 thập kỷ qua làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để tìm thức ăn,
chất đốt, nơi cư trú, người nghèo ở các nước đang phát triển buộc phải thực
hiện các việc làm không lâu bền, như: chặt phá rừng, sử dụng quá mức đất


6

nông nghiệp. Việc sử dụng đất không hợp lý làm cho đất dốc bị tàn phá một
cách nhanh chóng.
Mỗi năm trên thế giới có 11 triệu ha rừng bị chặt hạ, 5-7 triệu ha đất bị
mất khả năng sản xuất (FAO-UNEP, 1983). Tổ chức FAO đã tổng kết và chỉ
ra rằng: “Xói mịn đất đóng vai trị chủ yếu trong việc làm suy thoái đất, đặc
biệt là các nước nhiệt đới ẩm và liên quan chặt chẽ đến môi trường tự nhiên,

điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội, chính sách, chế độ, phương thức sử dụng
đất”, [34].
Với thực trạng sử dụng đất như trên, thì việc nghiên cứu, đề xuất và
thực hiện các biện pháp bón phân hợp lý, tăng năng suất cây trồng, lợi dụng
đất một cách tổng hợp. Tuy nhiên, đồng thời với các biện pháp khai thác tiềm
năng của đất thì con người phải ln ln có kế hoạch khơi phục sức sản xuất
của đất, đó chính là vấn đề sử dụng đất tổng hợp và bền vững.
Trong quá trình sản xuất, con người đã có những phương thức sử dụng
đất thay đổi phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Đứng trước nhu cầu lương
thực của thế giới, các nhà khoa học đã thử nghiệm một số mơ hình sử dụng
đất trên phạm vi toàn cầu và đã đạt được một số kết quả khả quan. Nhiều
cơng trình như: sử dụng cây họ Đậu, cây phân xanh trồng xen với cây trồng
chính có tác dụng che phủ, hạn chế sự xói mịn, tăng đạm cho đất, bổ sung
nguồn phân bón đáng kể cho đất, [2].
Theo Zakhatop, Lucton, Sevich thì việc bón phân hữu cơ có tác dụng
chống xói mịn rất tốt. Việc sử dụng phân bón là biện pháp chống xói mịn có
hiệu quả, bón phân thúc đẩy cây sinh trưởng tốt, tạo độ che phủ. Khi bón phân
hữu cơ, đất sẽ có cấu trúc tốt hơn, khả năng ngấm nước cao hơn, thúc đẩy vi
sinh vật hoạt động. Do đó, tính chất đất được cải thiện rõ rệt, [2].
Trên thế giới mô hình sử dụng đất đầu tiên là du canh (Shifting
cultivation) đó là những hệ thống nơng nghiệp trong đó đất đã được phát


7

quang để canh tác trong một thời gian ngắn hơn thời gian bỏ hóa (Conklin,
1957).
Sau du canh là sự ra đời của các phương thức Taungya (canh tác đồi
núi) ở vùng nhiệt đới hệ thống canh tác Taungya được cải tiến sửa đổi và dần
dần được hoàn thiện, phổ biến trên toàn thế giới và được coi như là một hệ

thống sử dụng có hiệu quả về kinh tế lẫn môi trường sinh thái.
Một số phương thức sử dụng đất có hiệu quả cao lâu bền trên đất dốc là
mơ hình SALT (Sloping Agriculture Land Technology) được Trung tâm phát
triển đời sống nơng thơn Bastptit Mindanao Philippines tổng kết, hồn thiện
và phát triển từ giữa năm 1997 đến nay, [16]. Các mơ hình đó khơng chỉ được
ứng dụng và phát triển rộng rãi ở Philippines mà cịn được các nhóm cộng tác
quốc tế và khu vực tiếp cận và ứng dụng.
- Mơ hình SALT1 kỹ thuật canh tác đất nơng nghiệp. Đây là mơ hình
tổng hợp dựa trên cơ sở phối hợp tốt các biện pháp bảo vệ đất đối với sản xuất
lương thực. Kỹ thuật canh tác nông nghiệp trên đất dốc với cơ cấu cây được
sử dụng để đảm bảo SALT1: 75% diện tích đất nơng nghiệp (50% là cây hàng
năm và 25% cây lâu năm) ổn định, có hiệu quả và 25% cây lâm nghiệp.
- Mơ hình SALT2 (Simple Agrolivestock Technology): là mơ hình kinh
tế nơng súc kết hợp đơn giản với cơ cấu 40% cho nông nghiệp + 20% lâm
nghiệp + 20% chăn nuôi + 20% làm nhà ở và chuồng trại, [21].
- Mơ hình SALT3 (Sustainable Agro – Forest Technology) – Kỹ thuật
canh tác lâm nghiệp bền vững. Đây là mơ hình sử dụng đất tổng hợp dựa trên
cơ sở kết hợp trồng rừng quy mô nhỏ với việc sản xuất lương thực thực phẩm.
Cơ cấu sử dụng đất thích hợp ở đây là 40% đất dành cho nông nghiệp, 60%
dành cho lâm nghiệp, [21].
- Mơ hình SALT4 (Small AgroFruit Likelihood Technology) -



hình kỹ thuật sản xuất nông nghiệp với cây ăn quả quy mô nhỏ. Trong mô


8

hình này, ngồi đất đai dành cho nơng nghiệp – lâm nghiệp, cây hàng rào

xanh còn dành ra 1 phần để trồng cây ăn quả. Cơ cấu sử dụng đất dành cho
lâm nghiệp 60%, nông nghiệp 15% và cây ăn quả 25%. Đây là mơ hình địi
hỏi đầu tư cao cả về nguồn lực, vốn và kỹ thuật canh tác, [21].
Một số hệ thống nông lâm kết hợp Đông Nam Á:
Ở Philippines: Các khu vực trồng rừng được xen canh với hoa màu
nơng nghiệp có sự tham gia của người dân, [19].
Hệ thông nông lâm nghiệp ở Trung Quốc: Là hệ thống nông nghiệp dựa vào
cây gỗ gồm rừng và cây công nghiệp với quy mô lớn để sản xuất gỗ. Ví dụ:
hệ thống cây linh sâm xen với cây hoa màu trồng trong giai đoạn khi mới
trồng rừng và một số mơ hình nơng lâm kết hợp khác của Trung Quốc như
trồng xen cây hoa màu với Paulownia, [19].
Hệ thống Taungya cải tiến ở Thái Lan:
Trong hệ thống này, kết hợp giữa cây và vật nuôi được thực hiện trước tiên
trong các chương trình trồng rừng của chính phủ, mục tiêu xây dựng lại rừng
với loại cây trồng Tếch, [19].
Hệ thống nông lâm kết hợp ở Indonesia:
- Hệ thống Pekarangan: Vườn hộ Pekarangan là một sự kết hợp cây
ngắn ngày, cây lâu năm và vật nuôi (gồm gia súc) trong các khu vực quanh
nhà. Đó là một hệ thống canh tác tương hỗ với ranh giới được xác định để
phục vụ một loạt các chức năng khác nhau về kinh tế, sinh học tự nhiên và
văn hóa xã hội. Hệ thống vườn hộ xuất phát từ trung tâm đảo Java và phát
triển sang Đông, Tây Java vào giữa thế kỷ 18.
- Hệ thống Kebun-Talun: hệ thống này bao gồm 3 giai đoạn phát triển:
Kebun (Vườn), kebun campuran (Vườn hỗn giao) và Talun (Vườn hỗn giao
xen cây rừng hay vườn rừng). Giai đoạn một, kebun bao gồm khai hoang rừng
và canh tác hoa màu ngắn ngày. Các hoa màu này chủ yếu được dùng trong


9


nơng hộ, một phần ít để bán. Trong giai đoạn Kebun, hệ thống có ba tầng
(theo chiều thẳng đứng) với hoa màu ngắn ngày chiếm ưu thế: tầng thấp nhất
bao gồm các loại thực bì bị sát mặt đất cao khoảng 30cm; tầng cao từ 50cm
đến 1m chiếm ưu thế bởi rau xanh và tầng trên bao gồm bắp, thuốc lá, khoai
mì hoặc dây leo họ đậu mọc trên giàn tre. Sau hai năm, cây con của các loại
lâu năm bắt đầu phát triển làm diện tích đất canh tác hoa màu ngắn ngày giảm
xuống. Khi đó, Kebun từ từ chuyển sang Kebun campuran, trong đó hoa màu
ngắn ngày sẽ được trồng xen kẽ với các cây lâu năm đang phát triển. Về giá
trị kinh tế, vườn tạp ít hơn vườn chuyên canh, nhưng về giá trị sinh học tự
nhiên thì cao hơn. Sự đa dạng tự nhiên trong Kebun campuran cũng tăng
cường vấn đề bảo tồn đất, nước. Xói mòn trong hệ thống Talun đươc hạn chế
ở mức tối thiểu, bởi vì cây bụi thấp và vật rụng rất nhiều. Khi cây bụi thấp và
thảm vật rụng mất đi thì xói mịn có thể gia tăng. Trong Kebun campuran,
những cây chịu được bóng như khoai mơn chiếm lĩnh khoảng khơng phía
dưới 1m, khoai mì hình thành tầng thứ hai từ 1m đến 2m và tầng thứ ba là
chuối và cây lâu năm. Sau khi thu hoạch hoa màu ngắn ngày trong Kebun
campuran, cánh đồng có thể được bỏ hoang khoảng 2-3 năm được chiếm ưu
thế bởi cây lâu năm. Trong giai đoạn này, Talun là giai đoạn cao đỉnh của hệ
thống Kebun – Talun. Talun được chiếm ưu thế bởi sự kết hợp cây lâu năm và
tre, hình thành ba tầng. Giai đoạn Talun có thể kèm theo một sự đa dạng của
hình dạng như khoảng rừng nhỏ (cung cấp chất đốt hoặc vật liệu xây dựng),
tre và sự kết hợp cây lâu năm, [19].
Về nghiên cứu hệ thống canh tác vào năm 1990, tổ chức FAO đã xuất
bản cuốn “Phát triển hệ thống canh tác”. Cơng trình chỉ rõ phương pháp tiếp
cận nông thôn trước đây là phương pháp tiếp cận một chiều từ trên xuống, đã
không phát huy tiềm năng nông trại và cộng đồng nông thôn. Thông qua
nghiên cứu và thực tiễn, tài liệu đã nêu lên phương hướng tiếp cận mới –


10


phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân, nhằm phát triển các hệ
thống trang trại trong cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững. Hệ thống
nông trại được chia làm 3 phần cơ bản:
- Nông hộ đơn vị ra quyết định.
- Trang trại và các hoạt động
- Các thành phần ngoài trang trại.
Ở đây, sử dụng cách đánh giá nhanh nơng thơn có sự tham gia của người
dân vào việc nghiên cứu các hệ thống canh tác. Theo Robert Chambers (1985)
có các cách tiếp cận sau đây: (20-12-23).
- Tiếp cận Sondeo của Peter Hildebrand (1981).
- Tiếp cận “Nông thôn-trở lại-về nông thôn” của Robert Rhoade (1982).
- Cách tiếp cận “Chuẩn đoán và thiết kế của ICRAF”
- Chương trình nơng nghiệp quốc tế - bản phân tích theo vùng các hệ canh
tác của trường Đại học Cornel (Garrett và cộng sự, 1987).
Nhìn chung, các cách tiếp cận trên đều xem xét đánh giá nhanh như một
quá trình học tập liên tục và đang tiếp diễn, qua đó các kết quả của mỗi giai
đoạn đều được sử dụng để đánh giá lại vấn đề và các biện pháp đã dự kiến.
Nhiều kỹ thuật điều tra và phỏng vấn được xây dựng qua các cách tiếp cận đó
có khả năng áp dụng tốt đối với lâm nghiệp cộng đồng, đặc biệt là nhu cầu coi
hệ canh tác như một tổng thể để xem xét các vấn đề theo quan điểm của từng
nông dân cá thể và cả cộng đồng nhóm, nhất là cần hiểu các vấn để sử dụng
đất tác động đến việc đề xuất quyết định của nông dân như thế nào. Những
ràng buộc đặc biệt đối với “nông dân nghèo” cũng rất quan trọng trong việc
thiết kế các biện pháp can thiệp về trồng cây lâm nghiệp và nông nghiệp, về
cải tạo đồng cỏ chăn nuôi hoặc các đầu vào, nguồn lực chung yêu cầu phải có
sự đóng góp lao động của cộng đồng.
Về phương pháp tiến hành, các bước được trình bày như sau:



11

- Cung cấp các chỉ dẫn để xây dựng một khung cảnh đáng tin cậy nhằm
tiến hành phỏng vấn.
- Tiếp thu thông tin qua các phạm trù quen thuộc ở địa phương, đặc biệt
là các thông số đo và ước tính thời gian.
- Tạo nên việc liên hệ tốt đối với người phải trả lời trước khi đi vào các
vấn đề tế nhị.
- Khuyến khích người được hỏi tham gia thảo luận về các lĩnh vực quan
trọng đối với họ.
- Thảo luận các kết quả suốt trong quá trình phỏng vấn cùng với tổ.
- Kiểm tra chéo thông tin quan sát và sử dụng các kỹ thuật lấy mẫu.
Năm 1985, tại hội nghị RRA (Rapid Rural Appraisal) ở Đại học
Khonkean (Thái Lan) thuật ngữ “sự tham gia” hay “người tham gia” được sử
dụng.
Năm 1987 - 1988, người ta chia phương pháp RRA ra 4 loại:
- RRA cùng tham gia (Participatory RRA)
- RRA tham dò (Exploratory RRA)
- RRA chủ đề (Topical RRA)
- RRA giám sát (Monitoring RRA)
Trong đó, RRA cùng tham gia là giai đoạn chuyển đổi đầu tiên sau
PRA.
Từ năm 1990 – 1991, cuộc bùng nổ sử dụng PRA tại Ấn Độ vào các
chương trình phất triển nơng thơn, lâm nghiệp xã hội và các nước khác như:
Châu Á, Châu Phi, các chương trình phát triển nơng thơn như: Nepan, Thái
Lan, Philippin, Trung Quốc, [21].
Đến năm 1994, có hai cuộc hội thảo quốc tế và PRA tại Ấn Độ, đến nay
có hơn 30 nước đã và đang áp dụng PRA vào phát triển các lĩnh vực:
- Quản lý tài nguyên thiên nhiên.



12

- Sử dụng đất trong nông lâm nghiệp.
- Các chương trình xã hội và xóa đói giảm nghèo.
- Y tế và an toàn lương thực.
* Những nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất bền vững:
Từ cuối thập kỷ 70 nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm phát triển các
phương pháp thu nhập thông tin cho quy hoạch các phương pháp điều tra
đánh giá cùng tham gia như đánh giá nhanh nơng thơn (RRA), đánh giá nơng
thơn có sự tham gia (PRA), phương pháp phân tích các hệ thống canh tác cho
quy hoạch sử dụng đất được nghiên cứu rộng rãi. Những thử nghiệm phương
pháp RRA vào thập kỷ 80 và phương pháp PRA đầu thập kỷ 90 trong phát
triển nông thôn và lập kế hoạch sử dụng đất được thực hiện trên 30 nước phát
triển, [32].
Vấn đề quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân đã được
nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu và công bố kết quả. Vấn đề quy
hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân đã được Holm Uibrig đề cập
khá đầy đủ và toàn diện, [35]. Trong tài liệu này, tác giả phân tích một cách
đầy đủ về mối quan hệ giữa cơng tác có liên quan như quy hoạch rừng, vấn đề
phát triển nông thôn, quy hoạch sử dụng đất, phân hạng đất và phương pháp
tiếp cận mới trong quy hoạch sử dụng đất.
Năm 1984, Maydell cho rằng có 4 điểm chính trong q trình quy
hoạch nông lâm nghiệp tại các nước nhiệt đới là:
1) Phân tích xu hướng nghĩa là phân tích hiện trạng và phát triển.
2) Xác định mục tiêu và nhiệm vụ.
3) Phân tích phương pháp.
4) Đánh giá.
Năm 1985, tổ chức FAO thành lập một quy trình quy hoạch sử dụng
đất với 4 câu hỏi:



13

1) Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu quy hoạch là gì?
2) Có các phương pháp sử dụng đất nào?
3) Phương án nào là tốt nhất?
4) Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?
Năm 1988, Dent khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau
và mối quan hệ của các cấp: Kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng
(tỉnh, huyện), cấp cộng đồng (xã, thơn). Ơng đã có cơng trong việc khái quát
và định hướng quy hoạch sử dụng đất cấp địa phương.
Năm 1998, trong chương trình hội thảo quốc tế tại Việt Nam , vấn đề
quy hoạch sử dụng đất làng bản đã được tổ chức FAO đề cập chi tiết về mặt
khái niệm, sự tham gia trong việc đề xuất các chiến lược quy hoạch sử dụng
đất và đất cấp làng bản, [31].
Như vậy, vấn đề quy hoạch đất đai có sự tham gia của người dân ở cấp
vĩ mô cũng được các tác giả trên thế giới đặc biệt quan tâm để có được những
phương án sử dụng đất khoa học nhất.
1.2. Ở Việt Nam
Tổng diện tích đất đai tự nhiên của Việt Nam là 33 triệu ha, đứng hàng
thứ 58 trên thế giới, trong đó đất bồi tụ khoảng 11 triệu ha, đất phát triển tại
chỗ khoảng 22 triệu ha. Đất bằng và đất ít dốc chiếm 39%. Đất thuận lợi cho
sản xuất nông nghiệp chiếm 17%. Đất cần cải tạo như đất cát, mặn, phèn, xám
bạc màu... khoảng 20%. Trong số các nhóm đất chính có 9,1% đất phù sa,
7,5% đất xám bạc màu, 5,2% đất phèn, 3,0% đất mặn, 1,4% đất cát biển,
48,5% đất feralit đỏ vàng, 11,4% đất mùn vàng đỏ trên núi, 0,5% đất mùn trên
núi cao…, [36].
Tài nguyên đất vô cùng quý giá, đặc biệt là ở một đất nước mà có trên
80% số dân tham gia vào làm nơng nghiệp như ở Việt Nam. Vì thế luật đất

đai năm 1993 đã nêu rõ: “Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá là tư liệu sản


14

xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố các khu vực dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hố, xã hội,
an ninh và quốc phịng”, [5].
Với tầm quan trọng như vậy, công tác quản lý và sử dụng đất đai ở
nước ta được quan tâm từ rất sớm.
Luật đất đai năm 1993 khẳng định vai trò của cấp xã trong quản lý và
sử dụng đất đai tại địa phương, [5]. Trong 7 nội dung quản lý Nhà nước về đất
đai, Điều 13 luật đất đai năm 1993 có 4 nội dung mà cấp xã cùng với các cơ
quan cấp trên thực hiện, đó là:
- Điều tra khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng, lập bản đồ địa chính.
- Quy hoạch và kế hoạch hóa việc sử dụng đất.
- Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sử
dụng đất, thống kê, kiểm kê đất.
- Giải quyết tranh chấp về đất đai, khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong
phạm vi quản lý và sử dụng đất đai của địa phương.
Điều 17 trong Luật này quy định và phân biệt rõ về nội dung quy hoạch
và kế hoạch sử dụng đất đai trong phạm vi cấp xã là phân định, xác định ranh
giới và lập kế hoạch sử dụng các loại đất, [5].
Điều 8 - Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 chỉ ra cấp xã là đơn
vị hành chính thấp nhất có nhiệm vụ điều tra, xác định các loại rừng, phân
định ranh giới rừng, đất trồng rừng trên bản đồ và người thực địa, thống kê
theo dõi diễn biến tình hình rừng, đất trồng rừng… trên địa phương mình.
Điều 7 Luật này quy định trên phạm vi các xã, căn cứ vào mục đích sử
dụng để phân chia và xác định ranh giới 3 loại rừng phòng hộ, rừng sản xuất,
rừng đặc dụng.



15

Luật đất đai năm 2003 (số 13/2003/QH11) quy định về quản lý và sử
dụng đất đai, Điều 11 quy định về nguyên tắc sử dụng đất phải đảm bảo
các nguyên tắc:
- Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất;
- Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi
ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh;
- Người sử dụng đất thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong thời
hạn sử dụng đất theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan, [40].
Nhìn chung, Luật đất đai năm 1993 và Luật bảo vệ & phát triển rừng
năm 1991 đều khẳng định cấp xã có vai trị cơ sở trong quy hoạch và sử dụng
đất. Luật đất đai năm 2003 khẳng định vấn đề sử dụng và quy hoạch đất đai
phải đảm bảo sự phát triển bền vững. Luật đất đai năm 2003 tập trung chủ yếu
vào việc sử dụng đất theo nguyên tắc phát triển bền vững.
Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994 của Chính phủ ban hành quy định về
việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng lâu dài vào
mục đích lâm nghiệp, [6].
Nghị định 01/CP ngày 04/01/1995 quy định về việc giao khốn đất và
sử dụng đất vào mục đích nơng nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong các
doanh nghiệp nhà nước, [7].
Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về giao đất, cho thuê đất
lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào
mục đích lâm nghiệp, [8].
Nghị định 64/CP ngày 27/03/1993 nói đến vai trị cấp xã trong việc
giao đất nơng nghiệp ở Điều 8, Điều 12, Điều 15 của quyết định về giao đất
nông nghiệp, [9].



16

Thông tư số 106/QHKT ngày 15/04/1991 của Tổng cục quản lý ruộng
đất hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất cấp xã, Thông tư này chủ yếu đề cập
đến quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, [22].
Quyết định số 364/CT ngày 06/01/1991 đề cập việc giải quyết tranh
chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tỉnh, huyện, xã.
Để phát triển kinh tế nông – lâm nghiệp, Đảng và Nhà nước đã ban
hành một số chủ trương, chính sách cụ thể sau:
- Chỉ thị số 202/TTg ngày 28/06/1991 của Thủ tướng Chính phủ về cho
vay vốn sản xuất nơng – lâm – ngư nghiệp với mức ưu đãi.
- Quyết định số 264/CT ngày 22/07/1992 đưa ra chính sách khuyến
khích đầu tư phát triển nghề rừng. Quyết định này ra đời phần nào giải
quyết được những khó khăn về vốn cho cây trồng nông – lâm nghiệp.
- Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg ngày 21/12/1998 đưa ra trách nhiệm
quản lý Nhà nước thuộc các cấp và đất lâm nghiệp.
Tất cả các Nghị quyết, Quyết định trên chính là cơ sở quan trọng cho
việc quy hoạch và sử dụng đất cấp xã.
Cũng trong giai đoạn này, nhiều kết quả nghiên cứu về quy hoạch, sử
dụng đất bền vững được công bố.
Năm 1996, Nguyễn Xuân Qt cơng bố cơng trình “Sử dụng đất tổng
hợp và bền vững”. Trong đó, ơng nêu ra những điều cần biết về đất đai, phân
tích tình hình sử dụng đất đai, các mơ hình sử dụng đất tổng hợp và bền vững,
mơ hình khoanh ni và phục hồi rừng ở Việt Nam, đồng thời, bước đầu đề
xuất tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mơ hình sử dụng đất tổng hợp và
bền vững, [16].
Trong cuốn “Đất rừng Việt Nam”, Nguyễn Ngọc Bình đưa ra những
quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở đặc điểm cơ bản của

đất rừng Việt Nam, [3].


17

Về luân canh, tăng vụ, trồng gối vụ để sử dụng đất đai hợp lý đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, như: Phạm Văn Chiểu (1964), Bùi Huy
Đáp (1997), Vũ Tuyên Hoàng (1987), Lê Trọng Cúc (1971), Nguyễn Ngọc
Bình (1987), Bùi Quang Toản (1991). Theo các tác giả, việc lựa chọn hệ
thống cây trồng phù hợp trên đất dốc là quan trọng đối với vùng đồi núi phía
Bắc Việt Nam.
Năm 2003, trong giáo trình “Quản lý sử dụng đất”, tác giả Hà Quang
Khải đưa ra khái niệm về hệ thống sử dụng và đề xuất một số hệ thống, kỹ
thuật sử dụng đất bền vững trong điều kiện Việt Nam, [12]. Trong đó, các cơ
sở quan trọng cho việc đề xuất được các tác giả phân tích như: quan điểm về
tính bền vững, kỹ thuật về sử dụng đất bền vững, các chỉ tiêu đánh giá về tính
bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất.
Việt Nam là một quốc gia có đặc trưng là đất đồi núi chiếm 3/4
toàn lãnh thổ lại nằm trong vùng nhiệt đới, mưa nhiều và tập trung, nhiệt
độ không khí cao, các q trình khống hố diễn ra rất mạnh trong đất nên dễ
bị rửa trơi, xói mịn, nghèo chất hữu cơ và chất dinh dưỡng dẫn đến thoái hố
đất.
Đề tài của tác giả Nguyễn Văn Hịa “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số
nhân tố sinh thái đến sinh trưởng và năng suất hạt điều trồng ở các tỉnh phía
Bắc Tây Nguyên” đã rút ra một số kết luận: Sinh trưởng chiều cao vút ngọn
và đường kính tán của cây Điều trồng tại các tiểu vùng Bắc Tây Nguyên
không có sự sai khác rõ ràng. Tuy nhiên, năng suất hạt Điều trồng ở các tiểu
vùng nào có độ cao tuyệt đối thấp cao hơn rõ rệt so với năng suất hạt Điều
trồng ở vùng có độ cao tuyệt đối cao, [2].
Tác giả Nguyễn Huy Sơn đưa ra một số biện pháp sử dụng đất gắn liền

với việc bảo vệ độ phì nhiêu của đất dốc. Tác giả đề xuất một số l cây họ đậu
như Keo tai tượng, Keo lá tràm, Cốt khí, Muồng vàng… trồng trên đất đỏ


18

bazan thối hóa nhằm cải tạo loại đất này phục vụ cho trồng rừng và phát
triển cây công nghiệp, [11].
Công tác giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng
ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nơng lâm nghiệp theo quy hoạch và kế
hoạch là một chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước từ nhiều năm nay
để gắn lao động với đất đai tạo thành động lực phát triển sản xuất nơng lâm
nghiệp, từng bước ổn định và phát triển tình hình kinh tế xã hội, tăng cường
an ninh quốc phịng. Tác giả Phạm Quốc Tuấn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá
hiệu quả sử dụng đất hộ gia đình sau giao đất giao rừng huyện Yên Châu –
tỉnh Sơn La” đưa ra một số nhận định: Nhờ có giao đất, giao rừng cho từng hộ
gia đình và các nhân mà mỗi thửa đất đều có chủ sử dụng thực sự, người dân
có trách nhiệm cụ thể trong việc sử dụng đất hơn thông qua một số hợp đồng;
công tác giao đất giao rừng làm cho hiệu quả sử dụng đất có hiệu quả hơn,
mức sống của hộ gia đình được tăng lên; hạn chế đáng kể tranh chấp đất đai
xảy ra trên địa bàn, [24].
Nước ta với đặc trưng là gồm nhiều dân tộc, mỗi dân tộc đều có phong
tục tập quán, phương thức canh tác, trình độ phát triển, văn hố khác nhau. Vì
vậy, việc tổ chức quản lý sao cho phù hợp với từng địa bàn cụ thể đảm bảo sử
dụng đất đai, tài nguyên một cách hợp lý, có hiệu quả là một trong những
nhiệm vụ có tính chiến lược trong quản lý và phát triển nông thôn. Và một
bước tiến quan trọng trong cuộc cách mạng phát triển ở vùng đồi núi nước ta
chính là sự chuyển hướng từ nông nghiệp và lâm nghiệp thuần túy sang mơ
hình nơng lâm kết hợp.
“ Nơng lâm kết hợp bao gồm các hệ thống canh tác sử dụng đất khác

nhau, trong đó các loại cây thân gỗ sống lâu năm được trồng kết hợp với lồi
cây nơng nghiệp hoặc vật ni trên cùng một diện tích đất canh tác, đã được
quy hoạch sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi hoặc


19

thủy sản. Chúng được kết hợp với nhau hợp lý trong khơng gian hoặc theo
trình tự thời gian. Giữa chúng có tác dụng qua lại với nhau cả về phương diện
sinh thái và kinh tế theo hướng có lợi”, [14].
Ở nước ta, những nghiên cứu về hệ thống nông lâm kết hợp đã trở
thành nội dung quan trọng trong sản xuất nông lâm nghiệp trên đất dốc. Năm
1987, các tác giả Nguyễn Ngọc Bình, Nguyễn Đình Hưởng, Hồng Hịe đã
tổng kết mơ hình nơng lâm kết hợp ở Việt Nam, cơng trình đã tập hợp đánh
giá hiệu quả kinh tế và khả năng áp dụng của các mơ hình trong điều kiện cụ
thể của mỗi vùng, [10].
Việc sử dụng đất phải hướng tới mục tiêu tạo nhiều sản phẩm, nâng cao
mức sống của người dân, đa dạng hóa về chủng loại, tăng cường dự trữ, xuất
khẩu. Trên cơ sở đó, tăng cao thu nhập, ổn định, phát triển kinh tế, bảo vệ và
cải thiện độ màu mỡ của đất, bảo vệ môi trường, xây dựng một nền sản xuất
phát triển bền vững, [12].
* Vấn đề quy hoạch sử dụng đất, sử dụng tài nguyên rừng bền vững
Từ năm 1955 – 1975, công tác điều tra phân loại đất đã được tổng hợp
một cách có hệ thống trên phạm vi tồn miền Bắc. Nhưng đến sau năm 1975,
các số liệu nghiên cứu về phân loại đất mới được thống nhất cơ bản, [11].
Những thành tựu trong giai đoạn này là cơ sở quan trọng góp phần vào việc
bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả trong cả
nước.
Trong giai đoạn trước năm 1993, nhìn chung quy hoạch sử dụng đất
được thực hiện bởi tổ chuyên môn từng ngành. Căn cứ vào định hướng phát

triển ở Trung ương có Viện Điều tra quy hoạch rừng, ở tỉnh có các đồn, đội
điều tra quy hoạch, tiến hành quy hoạch tổng thể cấp vĩ mô. Các đối tượng
quy hoạch Lâm nghiệp hiện nay ở nước ta gồm có:
- Cấp quản lý lãnh thổ: Tồn quốc, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã


20

- Quy hoạch lâm nghiệp cho cấp quản lý sản xuất kinh doanh: Lâm
trường, Công ty lâm nghiệp, khu rừng phịng hộ, rừng đặc dụng, cộng
đồng thơn bản, hộ gia đình.
Trong những năm gần đây đã có một số chương trình dự án đã vận dụng
phương pháp quy hoạch sử dụng đất cấp vi mơ có sự tham gia để quy hoạch sử
dụng đất nông lâm nghiệp cho xã, thôn bản, hộ gia đình ở nước ta.
Phương pháp tiếp cận có sự tham gia là phương pháp có khả năng
khuyến khích, thúc đẩy cộng đồng trong việc đánh giá hiện trạng, cũng như
xác định yêu cầu và đề xuất chiến lược phát triển, trong tổ chức thực thi và
theo dõi, giám sát và đánh giá các phương án sử dụng đất.
Cơng tác đánh giá nơng thơn có sự tham gia (phương pháp PRA)
thường được áp dụng phổ biến trong quy hoạch sử dụng đất.
Phương pháp PRA là phương pháp tiếp cận và cũng là công cụ lập kế
hoạch phát triển có sự tham gia của người dân, lần đầu tiên được áp dụng
trong chương trình hợp tác lâm nghiệp Việt Nam - Thụy Điển do SIDA tài trợ
vào cuối năm 1991. Đây là chương trình sử dụng PRA một cách hệ thống trên
địa bàn rộng trong thời gian dài và được coi là phương pháp cốt lõi cho việc
phát triển phổ cập lâm nghiệp. Giai đoạn đầu PRA được nhấn mạnh vào giai
đoạn lập kế hoạch thôn bản trong dự án lâm nghiệp trang trại của 6 tỉnh phía
Bắc. Trong những năm gần đây, PRA chủ đề được triển khai để đánh giá, giám
sát các hoạt động cấp thôn bản. Chương trình phát triển nơng thơn miền núi là
sự tiếp theo của các chương trình lâm nghiệp, trang trại, khuyến lâm vẫn tiếp

tục sử dụng PRA là phương pháp tiếp cận chủ yếu. Cho đến nay hơn 100 cộng
đồng đã sử dụng PRA vào lập kế hoạch, thực hiện, giám sát và đánh giá, [11].
Các điều kiện để thực hiện tốt phương pháp PRA theo nghiên cứu của
Nguyễn Thị Dơn năm 1999:


21

Cơ chế chính sách của chính phủ và địa phương cho phép sử dụng
phương pháp có sự tham gia của người dân (PRA).
Các thành viên trong nhóm (PRA) phải hiểu biết lẫn nhau, cảm nhận
thoải mái và thân thiện.
Các thành viên trong nhóm gặp gỡ người dân, tạo mối quan hệ qua lại để
có thể hồ nhập, học hỏi về phong tục tập quán, cách sống và thói quen. Cần
phải giải thích rõ ràng để người dân nắm được mục đích và u cầu của cơng
việc và tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trước khi thực hiện PRA nhất
thiết phải thu thập và nghiên cứu kỹ tài liệu sẵn có của thơn bản. Trong
trường hợp cần thiết phải tiến hành tổ chức đào tạo, tập huấn cho cán bộ và
những nông dân chủ chốt của thôn bản về cách tiếp cận PRA.
Quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân xuất hiện ở nước
ta cùng với việc chuyển hướng tổ chức sản xuất nền kinh tế nói chung và
trong ngành lâm nghiệp nói riêng. Từ một nền lâm nghiệp truyền thống với
lực lượng sản xuất chỉ có lực lượng quốc doanh và tập thể, chúng ta đang
chuyển dần sang đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp xã hội. Đồng bào các dân
tộc thuộc các cộng đồng làng bản, các hộ gia đình đã trở thành lực lượng hết
sức quan trọng tham gia vào việc quản lý bảo vệ rừng và mọi lĩnh vực sản
xuất lâm nghiệp. Tuy nhiên, quy hoạch sử dụng đất cấp vi mô có sự tham gia
của người dân mới được nghiên cứu và ứng dụng trong những năm gần đây.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề quy hoạch sử dụng đất cấp vi mô đã
được đề cập tới trong nhiều cơng trình nghiên cứu ở mức độ khác nhau. Cho

đến nay những nghiên cứu trên vẫn còn hết sức tản mạn và chưa có sự phân
tích tổng hợp thành cơ sở lý luận để có thể áp dụng vào thực tiễn, [30].
Như vậy, trên thế giới và ở Việt Nam, vấn đề sử dụng đất được quan tâm
và nghiên cứu từ rất sớm. Các phương pháp tiếp cận, mô hình canh tác nơng
lâm kết hợp và sự tham gia của người dân đều nhằm mục đích: canh tác các


22

loại cây trồng trên một diện tích để cho hiệu quả kinh tế, sinh học tự nhiên và
văn hóa xã hội. Giải pháp quy hoạch sử dụng đất ở các nghiên cứu trên thế
giới và Việt Nam là giải pháp quan trọng trong việc sử dụng đất đai. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về cơ sở khoa học cho vấn đề sử dụng đất bền vững
vẫn chưa nhiều. Đặc biệt, ở xã Minh Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
chưa có nghiên cứu nào thực hiện nghiên cứu cơ sở khoa học và phương
hướng sử dụng đất bền vững.


23

CHƯƠNG II

MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quản lý, sử dụng đất của xã
nhằm góp phần đề xuất một số giải pháp sử dụng đất tổng hợp, bền vững trên
địa bàn xã Minh Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể

+ Đánh giá những điều kiện khó khăn, thuận lợi trong tình hình sử dụng
đất trên địa bàn xã hiện nay.
+ Đưa ra một số giải pháp sử dụng đất tổng hợp, bền vững.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình sử dụng đất trên địa bàn xã Minh Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh
Lạng Sơn.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu tình hình sử dụng đất nơng lâm nghiệp trên
địa bàn xã Minh Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
2.4. Nội dung nghiên cứu
Để giải quyết được những mục tiêu đề ra, nội dung luận văn được xác
định như sau:
- Phân tích những điều kiện thuận lợi và khó khăn về tình hình quản lý sử
dụng đất trên địa bàn xã.
- Nghiên cứu tình hình sử dụng đất trên địa bàn xã và những vấn đề liên quan.
- Đề xuất phương án sử dụng đất tổng hợp và bền vững cho xã Minh Sơn.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm phương pháp luận


×