Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng keo và thông tới môi trường đất tại rừng thực nghiệm núi luốt trường đại học lâm nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.1 MB, 72 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của Khoa Quản lý tài nguyên rừng và môi trường, Bộ
môn Quản lý môi trường, Trường Đại học Lâm Nghiệp em tiến hành thực
hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng Keo và Thông tới môi
trường đất tại rừng thực nghiệm núi Luốt trường Đại học Lâm Nghiệp.”
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin gửi lời cảm ơn tới thầy Trần Quang
Bảo đã trực tiếp hướng dẫn tận tình trong suốt q trình em thực hiện khóa
luận.
Nhân dịp này, em cũng xin phép gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo
trong bộ môn Quản lý môi trường – Trường Đại học Lâm Nghiệp đã tạo điều
kiện, giúp đỡ em trong q trình thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã cố gắng hết sức song do trình độ và thời gian có hạn nên đề
tài khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong nhận được những
ý kiến đóng góp q báu của thầy giáo, cơ giáo, các nhà khoa học và các bạn
để luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Xuân Mai, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Vương Thị Hà

0


ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất và khí hậu là những nhân tố sinh thái quan trọng với sự tồn tại và
phát triển của thực vật rừng. Trong một vùng khí hậu, đất là nhân tố đóng vai
trị quan trọng có tính chất quyết định.
Đất là thành phần quan trọng của hệ sinh thái rừng nó thường xuyên có
mối quan hệ qua lại với các thành phần khác của hệ sinh thái, đặc biệt là
quần xã thực vật rừng. Cho nên có thể nói quần xã thực vật rừng là nhân tố


quan trọng trong sự hình thành đất. Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa đất và
quần xã thực vật rừng đã tạo ra hệ thống “ đất – rừng – đất” là biểu hiện rõ
nét nhất về sự tồn tại và hoạt động của hệ sinh thái rừng.
Chính vì vậy, mất rừng ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên đất. Rừng bị
mất đi gây ra một loạt các hiện tượng suy thối đất, hoang mạc hóa, sa mạc
hóa…và gián tiếp gây ra những ảnh hưởng khơng nhỏ tới khí hậu, mực nước
ngầm, các tệ nạn xã hội, ô nhiễm các môi trường thành phần đe dọa đến sự
tồn tại và phát triển của con người. Do đó việc bảo vệ, nâng cao chất lượng
môi trường đất là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Có rất nhiều phương pháp để bảo vệ và bảo tồn tài nguyên đất như: sử
dụng khoa học công nghệ nhằm nâng cao chất lượng của những vùng đất bị
suy thoái, thau chua rửa mặn (cải tạo những vùng đất ngập mặn để gia tăng
diện tích đất sản xuất), ngăn chặn việc làm ơ nhiễm đất, sa mạc hóa, hoang
mạc hóa, mặn hóa. Sử dụng thực vật để cải tạo và nâng cao chất lượng môi
trường đất là biện pháp đã và đang được rất nhiều nhà khoa học trong và
ngồi nước quan tâm nghiên cứu. Nhằm đóng góp một phần nào đó trong
cơng tác này Trường Đại học Lâm Nghiệp đã có khơng ít những đề tài
nghiên cứu mơi trường đất. Và trong đó việc nghiên cứu những lồi cây có
tác dụng cải tạo đất là cơng việc giữ vai trị quan trọng.
Những lồi cây được trồng tại Rừng thực nghiệm núi Luốt giúp sinh
viên được thực tập nâng cao sự hiểu biết trong quá trình rèn luyện và học tập
tại trường. Cùng với đó việc trồng và nghiên cứu mối quan hệ giữa “cây rừng
1


– đất” đóng góp rất lớn trong việc cải tạo chất lượng mơi trường nói chung
và mơi trường đất nói riêng cho khu vực. Có nhiều đề tài nghiên cứu mối
quan hệ này nhưng phần đa lại đi sâu theo lối mòn nghiên cứu đất để lựa
chọn loại cây trồng phù hợp mà có ít những cơng trình nghiên cứu mối quan
hệ ngược lại là cây ảnh hưởng tới môi trường đất như thế nào? Do đó em đã

mạnh dạn thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng Thông và Keo tới môi
trường đất tại rừng thực nghiệm núi Luốt trường Đại học Lâm Nghiệp.”

2


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Hiện trạng tài nguyên rừng
Rừng là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với chúng ta.
Rừng là hệ sinh thái có độ đa dạng sinh học cao nhất ở trên cạn, nhất là rừng
nhiệt đới ẩm. Ngoài ý nghĩa về tài nguyên động thực vật, rừng còn là một
yếu tố địa lý không thể thiếu được trong tự nhiên, có vai trị cực kì quan
trọng trong việc tạo cảnh quan và tác động mạnh mẽ đến các yếu tố khí hậu,
đất đai. Mặt khác, giá trị khai thác từ rừng trên tồn cầu ước tính hơn 130 tỷ
USD với hơn 60 triệu người lao động trong các ngành cơng nghiệp liên quan
đến rừng. Chính vì vậy, rừng khơng chỉ có chức năng đặc biệt trong bảo vệ
mơi trường mà cịn có ý nghĩa to lớn trong phát triển kinh tế xã hội.
Do nhu cầu dành đất đai cho sản xuất nhiên liệu sinh học ngày một
tăng, đặc biệt ở các nước nhiệt đới, nên trong những năm gần đây nhiều khu
rừng bị tàn phá khiến diện tích rừng trên thế giới đã thu hẹp đáng kể. Cùng
với đó là các vụ cháy rừng xảy ra hàng loạt cũng là nguyên nhân làm mất đi
một lượng lớn diện tích rừng.
Thế giới đã mất hơn 13 triệu hécta rừng, hiện chỉ cịn chiếm 31% diện
tích các châu lục trên tồn cầu với tổng diện tích chưa đầy 4 tỷ hécta. Đó là
những dữ liệu mới nhất về rừng trên thế giới do Tổ chức Lương Nông Liên
hợp quốc (FAO) về hiện trạng rừng toàn cầu nghiên cứu.
Từ năm 1990 đến 2005, diện tích rừng trên Trái đất đã giảm 3%, tức

trung bình mỗi ngày mất 20.000 hécta rừng. Đây là hiện tượng đáng báo
động ở nhiều quốc gia (Phóng viên TTXVN dẫn số liệu của Viện nghiên cứu
kinh tế Ifo ở Munich, Đức công bố ngày 19/1/2011)
Mất rừng ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đất. Đồi núi là địa hình
chiếm phần lớn diện tích trên lục địa, cây rừng mất đi làm đất đai mất đi lớp

3


bảo vệ. Đất đai vì đó mà bị xói mịn, rửa trơi, bạc màu, suy thối đất ngày
càng tăng.
1.1.2. Hiện trạng suy thoái đất
Hiện nay, theo đánh giá của FAO trong diện tích đất trồng trọt thì đất
cho năng suất cao chiếm 14%, đất cho năng suất trung bình chiếm 28% và
đất cho năng suất thấp chiếm 58%. Trong tương lai, có thể khai phá và đưa
vào sử dụng nơng nghiệp khoảng 15 - 20%, tối đa khoảng 3200 triệu ha, gấp
hơn hai lần diện tích đất đang sử dụng hiện nay. Nhưng rõ ràng, trên phạm vi
toàn thế giới đất tốt thì ít, đất xấu thì nhiều và quỹ đất ngày càng bị thối
hóa.
Có khoảng 2/3 diện tích đất nơng nghiệp trên thế giới đã bị suy thối
nghiêm trọng trong 50 năm qua do xói mịn rửa trơi, sa mạc hóa, chua hóa,
mặn hóa, ơ nhiễm mơi trường, khủng hoảng hệ sinh thái đất. Khoảng 40%
đất nông nghiệp đã bị suy thoái mạnh hoặc rất mạnh, 10% bị sa mạc hóa do
biến động khí hậu bất lợi và khai thác sử dụng không hợp lý. Sa mạc Sahara
mỗi năm mở rộng lấn mất 100.000 ha đất nông nghiệp và đồng cỏ. Thối hóa
mơi trường đất có nguy cơ làm giảm 10 - 20% sản lượng lương thực thế giới
trong 25 năm tới.
Nguyên nhân gây ra sự tổn thất và suy thoái đất rất đa dạng, trước hết
phải kể đến là sự mất rừng hoặc khai thác rừng đến cạn kiệt (gây xói mịn,
làm đá ong hóa, làm mất nước, sạt lở...) đã đóng góp tới 37%; chăn thả quá

mức (làm chặt đất, giảm độ che phủ của cây cỏ) 34%, hoạt động nơng nghiệp
(mặn hóa thứ sinh do tưới tiêu khơng hợp lý; dùng q nhiều phân bón hoặc
hồn tồn khơng dùng phân bón làm xói mịn đất; ơ nhiễm đất do phân bón,
các hợp chất bảo vệ thực vật và ô nhiễm sinh học) 28% và hoạt động công
nghiệp (sử dụng đất làm bãi thải gây ô nhiễm môi trường đất...) 1%. Do vậy,
vấn đề bảo vệ rừng và nâng cao chất lượng đất là vấn đề cấp thiết. Cây rừng
và đất có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau, trồng cây để bảo vệ, nâng

4


cao chất lượng đất đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất sớm và đạt
được nhiều kết quả có ý nghĩa.
1.1.3. Phân tích tình hình nghiên cứu trên thế giới
Năm 1950, tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc
(FAO) cộng tác với liên hiệp quốc tế các tổ chức nghiên cứu về rừng (IRUO)
đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của nhiều loại rừng trồng đến đất ở nhiều
nước khác nhau: Italia, Tây Ban Nha, Ấn Độ, Công Gô Bzazil, Úc, một số
nước vùng Địa Trung Hải, Nam Mỹ. Các cơng trình này cũng tiến hành so
sánh ảnh hưởng của các loại rừng khác nhau đến tính chất đất của rừng. Đó
là sự tích luỹ chất hữu cơ của Bạch đàn trên đất đá vôi là 20,33 (kg/m2), cao
hơn so với rừng Thông (7,54 kg/m2) và đất trồng trọt (2,92 kg/m2). Tuy
nhiên, các nghiên cứu chưa đề cập, đánh giá được ảnh hưởng của cấu trúc
rừng đến tính chất đất.
Trong vùng ơn đới, đã có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của rừng tự
nhiên và rừng trồng đến độ phì qua nhiều năm như Richard (1948, 1959),
Zon C, V (1954, 1971), Remezov (1959), Rodin và Bazilevich (1967),
Saly.R (1985), William, Fritchett (1979)…
L.U.Dela Cruz và A.Clula (1994), đã thí nghiệm trồng hai lồi cây
Acacia và Gmelia trên cùng một đồng cỏ thối hóa ở Philippines. Kết quả

cho thấy khả năng cải tạo của Acacia.
Những năm gần đây, trước yêu cầu ngày càng cao của các ngành công
nghiệp bột giấy, sợi, củi…một số loài cây mọc nhanh đã được trồng trên diện
tích lớn ở nhiều nước trong vùng nhiệt đới, như một số loại Thông, Bạch
đàn, Keo…Rừng nhiệt đới được thay thế bởi rừng trồng thuần loại với chu
kỳ khai thác ngắn. Do đó, vấn đề đặt ra liệu có dẫn đến sự suy thối đất và
năng suất của chu kỳ sau sẽ bị giảm? Ormand và Will (theo Chijoke 1980)
khi nghiên cứu sau khai thác rừng Thông (Pinus radiata) với chu kỳ ngắn đã
cho thấy đất rừng bị thối hóa khá rõ. Năm 1978 Turvey cũng cho biết khi
thay thế rừng tự nhiên bằng Pinus radiata với chu kỳ 15 – 20 năm sản lượng
5


400m3/ha đã làm giảm độ phì đất do khai thác. Hơn nữa do thảm mục rừng
Thơng khó phân giải nên làm chậm quay vịng các chất khống ở trong đất.
Các nghiên cứu của Evan (1978) với loài Keo (Acacia) trong chu kỳ cho thấy
rằng năng suất rừng không bị giảm.
Để nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng đến độ phì của đất trong vùng
nhiệt đới là rất phức tạp và kết quả đạt được còn chưa nhiều. Hiện nay, đây là
vấn đề mà nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu để
tìm ra phương thức hợp lý để bảo vệ và nâng cao độ phì đất.
1.2. Việt Nam
1.2.1. Hiện trạng rừng
Đất nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và đai cao, với địa hình
rất đa dạng, hơn 2/3 lãnh thổ là đồi núi, lại có khí hậu thay đổi từ nhiệt đới
ẩm phía Nam, đến á nhiệt đới ở vùng cao phía Bắc, đã tạo nên sự đa dạng về
hệ sinh thái tự nhiên và sự phong phú về các loài sinh vật. Những hệ sinh
thái đó bao gồm nhiều loại rừng như rừng cây lá rộng thường xanh, rừng nửa
rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá vôi, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim,
rừng lá kim, rừng tre nứa, rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng ngập nước

ngọt,...Rừng là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với chúng ta.
Rừng là hệ sinh thái có độ đa dạng sinh học cao nhất ở trên cạn, nhất là rừng
nhiệt đới ẩm. Ngoài ý nghĩa về tài nguyên động thực vật, rừng cịn là mơt
yếu tố địa lý khơng thể thiếu được trong tự nhiên, có vai trị cực kì quan
trọng trong việc tạo cảnh quan và tác động mạnh mẽ đến các yếu tố khí hậu,
đất đai.
Tuy nhiên, diện tích rừng tự nhiên ngày càng thu hẹp do rất nhiều
nguyên nhân: cháy rừng, phá rừng (của Lâm tặc), do khai thác rừng, chuyển
đổi mục đích sử dụng đất…Mất rừng làm ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên
đất. Đất ở những nơi khơng có rừng chịu ảnh hưởng trực tiếp của: ánh sáng,
nhiệt độ, gió, mưa…gây ra những hiện tượng xói mịn, rửa trơi, lũ qt…gây
suy thối đất rừng.
6


Là một quốc gia đất hẹp người đông, Việt Nam hiện nay có chỉ tiêu
rừng vào loại thấp, chỉ đạt mức bình quân khoảng 0,14 ha rừng, trong khi
mức bình quân của thế giới là 0,97 ha/ người. Tuy nhiên, nhờ có những nỗ
lực trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước về bảo vệ
và phát triển tài nguyên rừng "phủ xanh đất trống đồi núi trọc" nên nhiều
năm gần đây diện tích rừng ở nước ta đã tăng.
Bảng 1.1: Diện tích rừng nước ta từ năm 1945 đến 2010
Đơn vị tính: 1.000.000ha
Năm
1945

1976

1980


1985

1990

1995

1999

2002

2005

2007

2009

2010

Tổng diện
tích

14,3

11,16

10,60

9,89

9,17


9,3

10,99

11,78

12,61

12,84

13,26

13,4

Rừng
trồng

0

0,09

0,42

0,58

0,74

1,05


1,52

1,91

2,3

2,55

2,92

2,4

Rừng tự
nhiên

14,3

11,07

10,18

9,31

8,43

8,25

9,47

9,86


10,28

10,29

10,34

11

Độ che
phủ (%)

43

33,8

32,1

30,0

27,8

28,2

33,2

35,8

37


38,2

39,1

39,5

loại rừng

( Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thơn, tính đến tháng 12 năm 2010)

Trong mấy năm qua, diện tích rừng có tăng song chất lượng rừng thì
ngày càng suy giảm. Độ che phủ tăng giúp bảo vệ đất rừng, giảm hiện tượng
xói mịn, rửa trơi…Rừng trồng dần thay thế cho rừng tự nhiên đã mất có độ
đa dạng sinh học thấp, số lồi động thực vật ít. Do đó, muốn nâng cao, cải
tạo chất lượng đất rừng lại là một cơng việc khó và phải được nghiên cứu
sâu. Sử dụng thực vật để bảo vệ, cải thiện và nâng cao chất lượng đất rừng là
giải pháp bền vững.
1.2.2. Hiện trạng suy thối đất
Việt Nam có diện tích tự nhiên gần 33 triệu ha, trong đó diện tích đang
sử dụng là 22.226.830 ha, chiếm 68,83% tổng quỹ đất. Cịn 10.667.577 ha
đất chưa sử dụng, chiếm 33,04% diện tích đất tự nhiên. Đất nơng nghiệp ít,

7


chỉ có 8,146 triệu ha, chiếm 26,1% diện tích tự nhiên (Tổng cục Địa chính,
1999).
Trong số 22 triệu ha đất đang được sử dụng trong canh tác nông, lâm
nghiệp ở Việt Nam, phần lớn diện tích có hàm lượng dinh dưỡng thấp. Đặc
biệt có tới 9,34 triệu ha đất hoang hóa, trong đó có khoảng 7,85 triệu ha chịu

tác động mạnh bởi sa mạc hóa, chủ yếu là đất trống đồi trọc bạc màu, đang
có nguy cơ thối hóa nghiêm trọng.
Hiện tượng hoang mạc hóa thể hiện rõ nhất trên đất trống đồi núi trọc,
khơng cịn lớp phủ thực vật, địa hình dốc, chia cắt mạnh, nơi có lượng
mưa thấp (700 - 1500mm/năm), lượng bốc hơi tiềm năng đạt 1000 1800mm/năm (Ninh Thuận, Bình Thuận, Cheo Reo, Sơng Mã, n Châu).
Phá rừng, đốt rừng bừa bãi, sử dụng đất không bền vững qua nhiều thế hệ (du
canh, du cư, độc canh, quảng canh…) nên đất bị thối hóa nghiêm trọng.
Cùng với đặc điểm đất đồi núi chiếm 3/4 toàn lãnh thổ lại nằm trong
vùng nhiệt đới, mưa nhiều và tập trung, nhiệt độ khơng khí cao, các q trình
khống hóa diễn ra rất mạnh trong đất nên dễ bị rửa trơi, xói mịn, nghèo chất
hữu cơ và chất dinh dưỡng dẫn đến thối hóa đất. Đất đã bị thối hóa rất khó
có thể khơi phục lại trạng thái màu mỡ ban đầu.
Mặc dù đất sa mạc hóa khơng tập trung và hình thành nên những hoang
mạc rộng hàng trăm ngàn ha như ở một số quốc gia trên thế giới nhưng nước
ta với khoảng 1/3 diện tích đất canh tác đang bị tác động bởi sa mạc hóa
cũng đang là vấn đề phức tạp, nan giải.
Hậu quả của việc phá rừng, đốt rừng bừa bãi, sử dụng đất không bền
vững qua nhiều thế hệ (du canh, du cư, độc canh, quảng canh…) nên đất bị
thối hóa nghiêm trọng, nhiều nơi mất khả năng sản xuất và khả năng hoang
mạc hóa ngày càng phát triển. Do đó, giải pháp được coi là hiệu quả nhất hạn
chế sa mạc hóa, cải tạo, không bỏ rơi đất khô cằn ở Việt Nam không gì hơn
là tăng độ che phủ của rừng bảo vệ đất. Các loại cây trồng được lựa chọn

8


nghiên cứu, trồng thử nghiệm ngoài thực tế là vấn đề cấp thiết đã được rất
nhiều nhà khoa học và nhà nước quan tâm.
Trong những năm gần đây, lồi Thơng (Pinacea Lindl) và Keo (Acacia)
là một trong các loài cây trồng chính trong các chương trình trồng rừng ở

nước ta. Keo và Thơng là hai lồi cây sinh trưởng được trên đất nghèo dinh
dưỡng và đa tác dụng về mặt kinh tế và môi trường.
Keo được sử dụng vào nhiều mục đích kinh tế khác nhau: làm cột nhà,
chống lị (ở Nam Phi); làm gỗ xẻ (ở Úc); cung cấp than, củi (ở Indonexia); ở
Việt Nam sử dụng gỗ Keo làm nguyên liệu giấy. Do vậy, diện tích rừng trồng
Keo sẽ còn được tăng lên trong những năm tới.
Bên cạnh đó, Keo sinh trưởng nhanh, nhiều cành nên rừng Keo nhanh
khép tán, tán lá dày nhờ đó nước được giữ lại trên tán nhiều hơn, làm giảm
dòng chảy bề mặt tăng dịng chảy ngầm có tác dụng chống xói mịn. Đồng
thời còn trả lại đất một lượng chất hữu cơ lớn thơng qua vật rơi rụng hàng
năm. Ngồi ra, rễ Keo có cơ chế cộng sinh với một số lồi vi khuẩn chúng
hình thành nốt sần do vậy Keo cịn có khả năng cố định đạm cho đất.
Các lồi Keo (Acacia) thường sinh trưởng nhanh, ngồi ra chúng có thể
sinh trưởng và cho năng suất trên những đất nghèo dinh dưỡng. Tuy nhiên,
những loài Keo này là cây nhập nội cần phải có nghiên cứu để đánh giá mức
độ ảnh hưởng của rừng trồng Keo đến độ phì của đất.
Thơng (Pinacea Lindl) ở nước ta trồng chủ yếu thường là: Thông ba lá
(Pinus kesiya), Thông nhựa (Pinus merkusii) và Thông đi ngựa (Pinus
massoniana). Các lồi này có khả năng sinh trưởng nhanh, sống được trên
đất khô nghèo dinh dưỡng. Thông có nhiều vai trị cả về mặt kinh tế và mơi
trường.
Gỗ Thơng có nhiều tác dụng: thường làm gỗ trụ mỏ, xây dựng, nguyên
liệu giấy. Nhựa của ba loài này có chất lượng tốt, đem lại giá trị cao về mặt
kinh tế. Thơng cịn có thể làm thuốc. Bên cạnh đó, Thơng là lồi tái sinh tự
nhiên tốt, trồng được cả trên đất dốc do đó giữ đất, giữ nước, giảm hiện
9


tượng xói mịn rửa trơi. Đồng thời, nhựa thơng có mùi thơm tự nhiên có tác
dụng cải thiện chất lượng mơi trường khơng khí, đem lại cảm giác dễ chịu

cho con người. Tuy nhiên, lá rụng phân giải chậm, dễ cháy.
Hiện nay người ta đã ước tính được tác dụng về cung cấp lâm sản của
rừng chỉ chiếm 10%, trong khi đó tác dụng cải tạo mơi trường đạt tới 90%
(Phùng Ngọc Lan). Do đó, vấn đề này được rất nhiều nhà khoa học trong
nước quan tâm nghiên cứu.
1.2.3. Phân tích hiện trạng nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, các nghiên cứu của Trertov (1974), Hoàng Xuân Tý
(1973), Nguyễn Ngọc Bình (1980), Đỗ Đình Sâm (1983) đã chứng minh rằng
khi phá rừng tự nhiên để trồng thuần loài Mỡ (Mangletia glauca), Bồ đề
(Styrax tonkinensis), Luồng và Tre diễn (Dendro calamus sp) sự suy thối
hóa lý tính và chất hữu cơ là rõ rệt. Tuy nhiên với Thông (Thông nhựa –
Pinus Merkusii) sau khi được trồng trên đồi trọc 10 -15 năm hàm lượng mùn,
tính chất lý, độ ẩm của đất đã được cải thiện (Ngơ Đình Quế 1976- 1980),
khi nghiên cứu với rừng trồng Bạch đàn liễu và Bạch đàn trắng (10 – 15 tuổi)
trên đồi trọc, các tính chất lý, hóa học cơ bản của đất chưa có sự thay đổi
đáng kể. Riêng độ ẩm đất dưới rừng Bạch đàn ln khơ hơn đối chứng (chưa
trồng) (Hồng Xn Tý, 1973). Năm 1965 Nguyễn Kha với luận án tiến sĩ
“Động thái đất dưới rừng thông ở cao nguyên trung phần ở Việt Nam”.
Trong luận văn này tác giả đi sâu vào Thông nhựa (Pinus kesiya)
Từ năm 1974 – 1977 Lâm Công Định đã đưa ra một số quan điểm về
phân vùng trồng 3 loại Thơng và năm 1977 có tác phẩm “Rừng trồng
Thông”. Trong tác phẩm này tác giả đã tổng hợp các kết quả của các cơ sở
sản xuất và nghiên cứu từ vấn đề tạo cây con, tỉa thưa chăm sóc, chích nhựa
đối với ba lồi thơng hiện có phổ biến ở nước ta: Thơng ba lá (Pinus kesiya),
Thông nhựa (Pinus merkusii) và Thông đuôi ngựa (Pinus massoniana).
Trần Hậu Huệ (1966), đã nghiên cứu khả năng sinh trưởng và sinh khối
của Keo lá tràm để so sánh với sinh khối của Bạch đàn là cơ sở kinh doanh
10



nguyên liệu giấy Đồng Nai. Tác giả đã đưa ra kết luận: Sinh khối của Keo lá
tràm cao hẳn sinh khối của Bạch đàn ở cuối chu kỳ kinh doanh. Hơn nữa,
sinh khối cành và lá Keo lá tràm cũng lớn hơn hẳn lồi Bạch đàn, do đó khả
năng bồi hồn chất dinh dưỡng cho đất thơng qua lượng cành khô lá rụng cao
hơn Bạch đàn. Mặt khác, Keo lá tràm lại có tác dụng cải tạo đất cịn Bạch
đàn thì lại làm thối hố đất.
Nghiên cứu của Lê Văn Tiềm (1966), đã nêu rõ ảnh hưởng của các
dạng sử dụng đất khác nhau tại Sơn La đến tính chất đất như: hàm lượng
mùn, đảm tổng số, các chất dễ tiêu… Kết quả cho thấy hàm lượng mùn dưới
rừng tự nhiên cao nhất (6,85%), tiếp theo là lúa nước (4,13%), thấp nhất là
nương cố định (1,46%). Trong đó, những tính chất của đất không được tác
giả đề cập đến.
Trần Nguyên Giảng (1996), đã nghiên cứu trồng 10 loài cây bản địa
dưới rừng Keo lá tràm và Keo tai tượng tại Vườn quốc gia Cát Bà - Hải
Phòng. Tác giả cho rằng hai lồi cây này có tác dụng cải thiện bảo vệ đất,
phù trợ cho cây bản địa mọc và phát triển nên cách làm như vậy là đúng.
Nhưng đến năm 1998 thì kết quả đạt được lại khơng giống nhau: Cây bản địa
dưới tán rừng Keo lá tràm có tỉ lệ sống cao, sinh trưởng, phát triển tốt, trong
khi đó cây bản địa trồng dưới tán rừng Keo tai tượng có tỉ lệ sống thấp, sinh
trưởng, phát triển kém, khơng có triển vọng tồn tại. Tác giả giải thích đó có
lẽ là do nhu cầu nước của Keo tai tượng rất lớn làm cho đất luôn khô cứng
nên không cải thiện được mơi trường đất.
Đỗ Đình Sâm và cộng sự năm 2001 đã nghiên cứu đề tài “Bón phân cho
rừng trồng Keo lá tràm trên đất phù sa cổ ở vùng Đông Nam Bộ”. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra sau hai năm phát triển của rừng Keo lai bón phân với 200g
NPK với 100g phân vi sinh tăng trưởng của cây có thể đạt đến 26m3/ha/năm.
Đề tài chưa đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ của Keo đến chất lượng đất
rừng. Năm 2005, Đỗ Đình Sâm nghiên cứu “Đánh giá ảnh hưởng rừng trồng
cây nhập nội đến môi trường đất.” Nghiên cứu chỉ ra rằng trồng Keo lai ở
11



nơi đất làm bằng cơ giới có sinh trưởng thấp hơn ở nơi trồng đất làm bằng
thủ cơng.
Ngơ Đình Quế năm 2008 nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng của một số loại
rừng đến môi trường ở Việt Nam” đã đạt được nhiều kết quả , tuy nhiên đề tài
nghiên cứu chủ yếu là đặc điểm sinh lý và sinh thái của Thông ba lá, Thông
nhựa và Keo và ảnh hưởng của chúng tới chất lượng đất rừng. Đề tài chưa
quan tâm đến ảnh hưởng của cấu trúc rừng đến môi trường đất dưới tán rừng.
Trường Đại học Lâm Ngiệp là trường đầu ngành trong việc đào tạo và
nghiên cứu nhiều lĩnh vực liên quan đến rừng. Để phục vụ cho cơng tác quản
lý, bảo vệ và nâng cao vai trị của rừng, trường đã có nhiều đề tài nghiên cứu
liên quan tới rừng đặc biệt là nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại rừng và
cây trồng đến môi trường đất đã thu được nhiều kết quả có ý nghĩa.
Vấn đề nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa Rừng – Môi trường đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều tác giả trên thế giới và trong nước. Tuy
nhiên, những cơng trình nghiên cứu một cách hệ thống và đồng bộ về tác
động của cây rừng đến chất lượng đất dưới tán rừng vẫn chưa có nhiều. Vì
vậy, đề tài này được thực hiện nhằm góp phần đưa ra một số đánh giá và
nhận xét về chất lượng của đất dưới tán rừng trồng Thơng và Keo. Qua đó
góp phần vào công tác bảo vệ, cải thiện và nâng cao chất lượng đất, đặc biệt
là đất rừng trong tình hình suy thối đất ngày càng tăng hiện nay.

12


Chƣơng 2
MỤC TIÊU- NỘI DUNG- PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được diễn biến tính chất lý hóa của mơi trường đất dưới

rừng trồng Thơng và Keo tại rừng thực nghiệm núi Luốt, Trường Đại học
Lâm Nghiệp.
- Đề xuất được giải pháp nâng cao khả năng cải tạo đất của rừng trồng
Thông và Keo tại rừng thực nghiệm núi Luốt.
2.2. Nội dung nghiên cứu
1) Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng Keo và Thông tại rừng
thực nghiệm núi Luốt.
2) Nghiên cứu tính chất lý hóa (pHKCl, dung trọng, tỷ trọng, độ xốp,
hàm lượng mùn, N-P-K dễ tiêu) và diễn biến môi trường đất dưới rừng trồng
Keo và Thông tại rừng thực nghiệm núi Luốt.
3) Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc rừng tới tính chất của đất.
4) Đề xuất giải pháp nâng cao khả năng cải tạo đất của rừng thực
nghiệm núi Luốt.
2.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số tính chất (dung trọng, tỷ trọng, độ xốp, pHKCl, hàm lượng mùn,
N-P-K dễ tiêu) của đất dưới tán rừng Keo và Thông tại rừng thực nghiệm núi
Luốt, Trường Đại học Lâm Nghiệp.
2.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số tính chất lý hóa đặc trưng của môi
trường đất dưới rừng trồng Keo và Thông tại rừng thực nghiệm núi Luốt,
Trường Đại học Lâm Nghiệp.
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và nội dung đề ra, khóa luận đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
2.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp
Đây là phương pháp nhằm giảm bớt thời gian và công việc ngồi thực
địa, trong phịng thí nghiệm. Phương pháp này rất cần thiết và được nhiều
13



người sử dụng trong q trình nghiên cứu. Thơng qua các số liệu này giúp tôi
tổng kết lại các kinh nghiệm, kế thừa có chọn lọc thành quả nghiên cứu từ
trước đến nay. Những tài liệu phục vụ cho quá trình làm khóa luận:
+ Tài liệu về địa chất thổ nhưỡng
+ Tài liệu về khí hậu
+ Kế thừa số liệu tầng cây cao, tầng cây bản địa, cây bụi thảm tươi.
+ Các tài liệu khác có liên quan (sách, giáo trình, báo chí, luận văn tốt
nghiệp các khóa trước, internet…)
2.4.2. Phương pháp ngoại nghiệp
Khảo sát toàn bộ khu vực núi Luốt, đề tài lựa chọn 15 ơ tiêu chuẩn điển
hình đại diện cho các trạng thái rừng của tầng cây cao và tầng cây bản địa để
nghiên cứu. Mỗi ô tiêu chuẩn có diện tích 1000 m2 (25m x 40m). Trên mỗi ơ
tiêu chuẩn bố trí 4 ơ thứ cấp để điều tra các nhân tố tiểu hoàn cảnh rừng, cây bụi
thảm tươi, vật rơi rụng. Diện tích mỗi ơ thứ cấp là 25m2 (5m x 5m). Tồn bộ tiến
trình và phương pháp nghiên cứu được mô phỏng theo sơ đồ hình 2.1

Hệ thống 10 OTC định vị từ năm 2001-2005

Hệ thống 5 OTC định vị bổ sung năm 2008

Thu thập số liệu

Động
thái tầng

Cây bụi
thảm
tươi


Cây
bản địa

cây cao

Đất

Đánh giá, nhận xét chất lượng đất dưới tán rừng Thông và Keo
Giải pháp nâng cao khả năng cải tạo đất của rừng

Hình 2.1. Quá trình nghiên cứu của đề tài

14


2.4.3. Phương pháp nội nghiệp
2.4.3.1. Phương pháp lấy mẫu
a) Lấy mẫu phân tích
Trên các OTC lấy mẫu đất tổng hợp theo phương pháp phổ biến ở
CHLB Đức, cụ thể như sau:
+ Tầng 0 – 10 cm, mẫu tổng hợp được lấy từ 9 mẫu đơn lẻ. 01 mẫu lấy ở
thành phẫu diện chính, 08 mẫu cịn lại lấy ở 08 hướng cách phẫu diện chính 8
– 10m.
+ Tầng 20 – 30 cm, mẫu tổng hợp được lấy từ 05 mẫu đơn lẻ. 01 mẫu
lấy ở thành phẫu diện chính, 04 mẫu cịn lại lấy ở 04 phương cách phẫu diện
chính 8 – 10m.
+ Tầng >30 cm, mẫu tổng hợp được lấy từ 5 mẫu đơn lẻ. 01 mẫu lấy ở
thành phẫu diện chính, 04 mẫu cịn lại lấy ở 04 phương cách phẫu diện chính
8 – 10m.
+ Lấy mẫu phân tích dung trọng bằng ống dung trọng có thể tích

100cm3.
Đất lấy về phải để trong kho đất riêng không được để trong phịng phân
tích vì đất có thể hấp phụ các chất dễ bay hơi như: NH3 , Cl2, SO2… làm thay
đổi tính chất đất. Số lượng khoảng 0,5 – 1kg là vừa.
Lấy đất theo phương pháp ngẫu nhiên (chia tư). Cụ thể là dàn mỏng đất
rồi chia làm 4 phần theo đường chéo như hình vẽ sau:
2
1

3
4

Lấy phần 1 & 3 bỏ 2 & 4 hoặc lấy 2 &4 4 bỏ 1 & 3. Lấy hết và trộn đều.
b) Phơi mẫu
Trừ một số trường hợp phải phân tích ngay tại nơi lấy mẫu, cịn nói
chung đất lấy về cần phải phơi khô.
Mẫu đất lấy về cần phải hong khô kịp thời, băm nhỏ cỡ 1 – 1,5 cm, sau
đó dàn mỏng trên giấy sạch và phơi khô trong râm. Nơi phơi đất phải được
15


thống gió và khơng có hóa chất, sau vài ngày được hong khơ trong trạng
thái khơ khơng khí, cho vào túi nilon hoặc hộp giấy bằng bìa cứng, trong thời
gian phơi để tăng cường q trình làm khơ có thể lật đều đất lên. Thông
thường đất cát sẽ nhanh khô hơn đất sét.
c) Nghiền và rây mẫu
Đất sau khi hong khô đập nhỏ rồi nhặt hết xác thực vật, côn trùng, sỏi
đá, kết von… Đất được phân tích các chỉ tiêu hóa học và một số chỉ tiêu lý
học như: độ ẩm, tỷ trọng, thành phần cơ giới, sức hút ẩm cực đại… được giã
trong cối đồng, chày được bịt bằng cao su và rây qua rây có đường kính 1mm

(phải giã hết và rây hết số đất đó, khơng được bỏ phần còn lại trên rây). Đất
sau khi được trộn đều được cho vào lọ nút mài hoặc bỏ trong hộp bìa cứng có
ghi nhãn đầy đủ các mục:
+ Địa điểm lấy mẫu đất và thứ tự phẫu diện
+ Tên tầng đất
+ Độ sâu
+ Ngày lấy mẫu
+ Người lấy mẫu
Sau khi xử lý mẫu đem phân tích tại phịng phân tích đất và mơi trường
Viện quy hoạch và thiết kế nơng nghiệp. Các nội dung phân tích bao gồm:
2.4.3.2. Phân tích mẫu
a) Một số tính chất lý học của đất
- Xác định tỷ trọng bằng phương pháp Picnomel
- Xác định dung trọng băng phương pháp ống dung trọng (100cm3)

 Xác định độ xốp của đất: Tính tốn theo cơng thức:
% Độ xốp =

100%

Trong đó: d là tỷ trọng đất
D là dung trọng đất
b) Một số tính chất hóa học của đất
- Định lượng mùn (OM%): bằng phương pháp Tiurin
- Định lượng đạm dễ tiêu: Bằng phương pháp Kononova
- Định lượng lân dễ tiêu: Bằng phương pháp Oniani
- Định lượng K2O: Bằng phương pháp quang kế ngọn lửa
- Xác định PhKCl: Bằng phương pháp pH-mét
16



Chƣơng 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1 Điều kiện tự nhiên
3.1.1 Vị trí địa lý
Núi Luốt, trường Đại học Lâm nghiệp thuộc thị trấn Xuân Mai, huyện
Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, cách Hà Đông 22km về phía Đơng Nam, cách thị
xã Hồ Bình 40km về phía Tây Bắc.
Tọa độ địa lý: 20050’30’’ vĩ độ Bắc; 105030’45’’ kinh độ Đơng.
Phía Tây và Tây Bắc giáp xã Hồ Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hồ
Bình.
Phía Nam giáp thị trấn Xn Mai và quốc lộ 6.
Phía Đơng giáp quốc lộ 21A.
Phía Bắc giáp đội 6 nơng trường chè Cửu Long.
3.1.2 Địa hình
Khu thực nghiệm núi Luốt nằm trên khu vực chuyển tiếp giữa một bên là
đồng bằng ở phía Đơng và một bên là đồi núi ở phía Tây, nên có địa hình
tương đối đơn giản và đồng nhất. Gồm hai quả đồi nối tiếp nhau tạo thành
một dải dài. Đỉnh cao nhất có độ cao tuyệt đối (so với mặt nước biển) là 133m
và đỉnh cao thứ hai có độ cao tuyệt đối là 90m. Độ dốc trung bình của khu
vực nghiên cứu là 150.
3.1.3 Địa chất thổ nhưỡng
Theo kết quả nghiên cứu của bộ môn Đất trường Đại học Lâm nghiệp,
đất thuộc khu vực núi Luốt có nguồn gốc đá mẹ gần như thuần nhất. Chủ yếu
là đá Poocfiarit, ngồi ra cịn có một tỷ lệ rất ít đá Poocfia thạch anh. Đá
Poocfiarit là đá mắc ma trung tính, thành phần chủ yếu gồm: Al2O3, FeO,
MgO, CaO, NaCl, SiO2, Fe2O3. Do nằm trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió
mùa nóng ẩm, mưa nhiều nên đá Poocfiarit rất dễ bị phong hóa. Điều này thể


17


hiện ở tầng C, tầng C dầy và dễ bóp vụn. Đá lộ đầu xuất hiện chủ yếu ở đỉnh
và sườn đỉnh của đỉnh 133m, rất ít gặp ở đỉnh 90m.
Nhìn chung đất ở khu vực nghiên cứu tương đối thuần nhất bởi được
phát triển trên cùng một loại đá mẹ, cùng điều kiện, hoàn cảnh. Cũng theo kết
quả nghiên cứu của bộ môn Đất trường Đại học Lâm nghiệp, đất núi Luốt là
đất Feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ Poocfiarit. Đất có màu sắc từ vàng
nâu tới nâu vàng, tầng đất từ trung bình đến dày, diện tích đất có tầng đất
mỏng rất ít, những nơi tầng đất dày tập trung chủ yếu ở chân hai quả đồi,
sườn Đông Nam quả đồi thấp (90m so với mặt nước biển) và sườn Tây Nam
quả đồi cao (133m so với mặt nước biển), tầng đất mỏng tập trung ở đỉnh đồi,
sườn phía Đơng Bắc quả đồi thấp và sườn Tây Bắc quả đồi cao.
Đất trong khu vực khá chặt, đặc biệt là những lớp đất mặt ở khu vực
chân đồi và những lớp đất sâu ở khu vực đỉnh yên ngựa. Kết von thật và giả
được tìm thấy ở khắp nơi trong khu vực, có những nơi kết von thật chiếm tới
60 - 70% trọng lượng đất. Điều này chứng tỏ sự tích luỹ sắt khá phổ biến và
trầm trọng trong đất, ở một số nơi đá ong được phát hiện với mức độ nhiều
hoặc ít. Đá ong tập trung chủ yếu ở chân đồi phía Tây Nam, Đơng Nam đồi
cao. Hàm lượng mùn trong đất nhìn chung thấp, điều đó chứng tỏ q trình
tích lũy mùn kém.
Những đặc điểm trên phần nào nói lên mức độ Feralít khá mạnh trong
khu vực núi Luốt.
Trong những năm trước đây, quá trình xói mịn và rửa trơi khá nghiêm
trọng. Điều đó được thể hiện qua kết cấu phẫu diện đất: Tầng A thường mỏng
có tỷ lệ sét cao nên khi mưa rất dính. Tầng B nằm trong khoảng từ 10 - 110
cm có tỷ lệ sét 25 -26%. Tầng C thường dày và một số đá lẫn đã bị phong hóa
tạo ra tầng BC xen kẽ. Đất có hàm lượng chất dinh dưỡng cao, hàm lượng
mùn từ 2 - 4%, độ ẩm của đất từ 6-9%. Tỷ lệ đá lẫn trong đất ở mức độ trung

bình.

18


3.1.4. Khí hậu thuỷ văn
Theo kết quả nghiên cứu của trạm thuỷ văn Đại học Lâm nghiệp từ
năm 1996 đến năm 2007 (Bảng 3.1) cho thấy, khu vực Xuân Mai thuộc tiểu
vùng khí hậu 3 của miền Bắc Việt Nam, hàng năm có hai mùa rõ rệt.
- Mùa mưa bắt đầu từ giữa tháng 4 đến tháng 10.
- Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Trong thời gian
này lượng mưa nhỏ hơn lượng bốc hơi.
* Chế độ nhiệt:
- Nhiệt độ trung bình năm là 23,90C
- Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất (tháng 6): 28,50C
_

Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (tháng 1):15,70C
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu Khí hậu khu vực Xuân Mai (1996-2007)

Tháng

Nhiệt độ (oC )

Lƣợng mƣa (mm)

Độ ẩm khơng khí (%)

1


17,1

13,8

80,4

2

18,3

24,3

82,9

3

20,3

48,0

85,5

4

24,2

95,3

83,5


5

26,4

204,6

81,6

6

28,5

234,7

80,4

7

28,5

304,3

82,3

8

27,9

302,8


84,8

9

26,6

196,7

82,1

10

25,3

154,5

80,3

11

22,3

63,3

78,5

12

18,7


22,2

78,4

TB

23,9

1677,7

81,6

(Nguồn trạm khí tượng thuỷ văn Đại học Lâm nghiệp)

19


* Chế độ mưa:
Lượng mưa trung bình năm là 1677,7 mm. Phân bố không đều qua các
tháng trong năm.
- Lượng mưa trung bình tháng cao nhất (tháng 7): 304,3 mm
- Lượng mưa bình quân thấp nhất (tháng 1): 13,8 mm
- Số ngày mưa trong năm 210 ngày
* Độ ẩm không khí:
Khu vực nghiên cứu có độ ẩm khơng khí tương đối cao nhưng phân bố
không đều giữa các tháng trong năm.
- Độ ẩm khơng khí trung bình năm là 81,6%.
- Tháng có độ ẩm khơng khí bình qn cao nhất (tháng 3): 85,5%.
- Tháng có độ ẩm khơng khí bình quân thấp nhất (tháng 12): 78,4%
* Chế độ gió:

Khu vực nghiên cứu chịu ảnh hưởng của hai luồng gió chính:
- Gió Đơng - Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
- Gió Đơng - Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 7.
- Ngoài ra từ tháng 4 đến tháng 6 khu vực cịn chịu ảnh hưởng của gió
Lào.
3.1.5. Tình hình thực vật
Trước năm 1984 tại khu vực này, thực vật chủ yếu là các loài cây bụi
thảm tươi như: Sim, Mua, Cỏ tranh, Cỏ lào, Xấu hổ… Sau năm 1984 Trường
Đại học Lâm nghiệp đã tiến hành trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc
với các loài cây trồng chính là Thơng đi ngựa (Pinus massonianna Lamb),
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis Cunn), Keo tai tượng (Acacia mangimum
Will),… Đến năm 1993, Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm rừng, Trường
Đại học Lâm nghiệp đã tiến hành trồng thử nghiệm một số lồi cây bản địa
tại khu vực này.
Nhìn chung, thảm thực vật gây trồng đa dạng phong phú, phát huy tốt
tác dụng phịng hộ và cải thiện mơi trường sinh thái của khu vực. Tuy nhiên,
20


như đã nói ở trên, trong khu vực hiện nay đang tồn tại mẫu thuẫn giữa các
loài thực vật về nhu cầu dinh dưỡng và ánh sáng.
3.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Núi Luốt nằm trong khu vực có dân cư tương đối đông, nhiều thành
phần: Cán bộ công chức, sinh viên, bộ đội, dân buôn bán, nông dân. Bên
cạnh tầng lớp cán bộ cơng chức, dân bn bán có thu nhập tương đối ổn
định, là những người dân lao động nơng nghiệp có thu nhập thấp. Do đó, khu
vực này thường bị tác động của các hoạt động chăn thả trâu bò, lấy củi… gây
ra những tác động xấu đến rừng và đất rừng. Mặt khác, khu vực núi Luốt tiếp
giáp xã Hoà Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình. Đây là một xã miền núi
ở phía Bắc huyện Lương Sơn, người dân sống chủ yếu dựa vào sản xuất

nơng lâm nghiệp. Diện tích đất lâm nghiệp có khoảng 543 ha, nhưng nghề
rừng chưa phát triển. Do vậy đời sống của người dân chưa được nâng cao.
Đây là yếu tố bất lợi cho việc trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng tại Núi Luốt.
Vì vậy, cần tạo điều kiện cho người dân tham gia làm nghề rừng.
Nhìn chung điều kiện tự nhiên ở đây rất thuận lợi cho nhiều loài thực
vật sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, do người dân xung quanh thường
xuyên đến kiếm củi và tàn phá lớp cây bụi thảm tươi, chăn thả trâu bị… vì
thế việc quản lý bảo vệ và phát triển rừng cịn gặp nhiều khó khăn.

21


Chƣơng 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm cấu trúc rừng Thông và Keo tại khu vực nghiên cứu
Cấu trúc rừng đặc biệt là cấu trúc hình thái có liên quan chặt chẽ đến
khả năng bảo vệ đất của rừng. Vì vậy, khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng
tôi chỉ nghiên cứu đến một số chỉ tiêu: chiều cao vút ngọn, D1.3, độ tàn che và
độ che phủ tầng cây cao, cây bản địa và cây bụi thảm tươi.
Tầng cây cao có tác dụng chi phối tiểu hồn cảnh rừng và có ảnh hưởng
tới sinh trưởng của cây bản địa trồng dưới tán của nó. Vì vậy, nghiên cứu
hiện trạng tầng cây cao là một việc làm cần thiết.
Theo kết qủa điều tra trên 15 ô tiêu chuẩn tầng cây cao khu vực núi
Luốt chủ yếu là 2 lồi cây chính: Thơng đi ngựa và Keo lá tràm. Hai loài
này được trồng thuần loài hoặc hỗn loài với tỷ lệ khác nhau. Tuy nhiên ở đây
đề tài khơng tập trung đi sâu vào tổ thành lồi mà chủ yếu là điều tra hiện
trạng tầng cây cao để xác định mối quan hệ giữa tầng cây cao với một số
thành phần khác của rừng, nhằm đánh giá ảnh hưởng đến môi trường đất
dưới tán rừng nên đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu đặc điểm hai loài Thơng
và Keo.

4.1.1. Đặc điểm cấu trúc rừng trồng Thơng

Hình 4.1. Rừng Thông tại khu vực nghiên cứu

22


4.1.1.1.Đặc điểm tầng cây cao
a) Mật độ tầng cây cao
Mật độ tầng cây cao là số lượng cây gỗ thuộc tầng cây cao trong 1 ha.
Mật độ là nhân tố quan trọng thể hiện mức độ sinh trưởng của tầng cây cao.
Kết quả tính tốn mật độ tầng cây cao từ năm 2006 đến năm 2010 được thể
hiện qua bảng 4.1.
Bảng 4.1: Mật độ Thông (cây/ ha) giai đoạn 2006 – 2010
STT
1
2
3
5
5
6
7
8
9
10
11

Số hiệu
OTC
2

5
6a
6b
7a
7b
8a
9
10

12

Tên lồi cây
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Sai tiêu chuẩn (S)
Trung bình
Hệ số biến động
(S%)

Năm
2006
570
390

460
220
260
480
500
720
230
168,23
425,56

Năm
2007
570
390
460
220
260
480
500
720
230
168,23
425,56

Năm
2008
540
380
460
220

250
480
490
680
220
158,98
413,33

Năm
2009
540
380
460
220
250
480
490
680
220
158,98
413,33

Năm
2010
540
380
460
220
250
480

490
680
220
158,98
413,33

39,53

39,53

38,46

38,46

38,46

Từ bảng 4.1 nhận thấy, trong 5 năm từ năm 2006-2010 mật độ cây của
các OTC 6a; 6b; 7b không thay đổi, OTC 6b vẫn giữ ở 220 cây/ha, 460
cây/ha ở OTC 6a, 720 cây/ha ở OTC 9. Chứng tỏ, Thông ở những OTC này
sinh trưởng và phát triển tốt, không chịu sự tác động về mặt cơ giới (tỉa thưa)
và thiên tai.
Mật độ các OTC còn lại (2; 5; 7a; 9; 10) được giữ nguyên ở hai năm
2006 và năm 2007, nhưng từ năm 2008 mật độ giảm và ổn định đến 2010. Số
lượng cây trong khoảng 2006 – 2010 biến động khá rõ từ 39,53% xuống còn
38,46%. Mật độ tầng cây cao giảm đột ngột vào năm 2008 và được giữ ổn
định đến nay. Sự biến đổi mạnh mẽ nhất vào năm 2008 có thể được lý giải là
do sự thay đổi khá lớn của điều kiện thời tiết trong năm dẫn đến một loạt cây
bị chết. Cùng với đó là q trình chặt ni dưỡng rừng qua các thời kỳ và
23



chặt tỉa thưa để tạo môi trường, độ tàn che thích hợp cho lớp cây bản địa
trồng dưới tán rừng. Cành cây rơi rụng, cây chết trả lại chất hữu cơ cho đất
dưới tán rừng, cải thiện hàm lượng mùn cho đất. Tuy nhiên, tại rừng núi Luốt
vẫn tồn tại hiện tượng người dân vào rừng lấy củi do vậy đã tác động không
nhỏ tới đất rừng.
Mật độ ảnh hưởng khơng nhỏ tới biến đổi kích thước cây rừng, mật độ
càng cao sự ưu tiên phát triển chiều cao là chủ yếu, song tới một giai đoạn
nhất định sự phát triển chiều cao có xu hướng chậm dần, cịn đường kính
phát triển chậm. Hiện nay người ta đang xây dựng các mơ hình rừng trồng có
mật độ chuẩn để phát huy tối đa khơng khả năng phát triển tồn diện kích
thước cây rừng, sử dụng triệt để khơng gian dinh dưỡng.
b) Biến đổi đường kính ngang ngực ( D1.3) của Thơng tại khu vực
nghiên cứu.
Đường kính ngang ngực là chỉ tiêu quan trọng phản ánh sức sinh
trưởng của cây rừng. Qua đó có thể phản ánh hiệu quả của đất đai, các biện
pháp lâm sinh và khả năng thích ứng của cây với điều kiện hồn cảnh. Do đó,
đường kính ngang ngực là chỉ tiêu không thể thiếu trong nghiên cứu mối
quan hệ “đất – cây – đất”. Số liệu D1.3 trên các OTC nghiên cứu được thể
hiện qua bảng 4.2.
Bảng 4.2. Biến động đường kính ngang ngực D1.3 của Thơng
giai đoạn 2006- 2010
STT

Số hiệu OTC

Tên lồi

1
2

3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

2
5
6a
6b
7a
7b
8a
9
10

Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng
Thơng

Sai tiêu chuẩn (S)
D1.3tb
Hệ số biến động (S%)

24

2006
24,2
26,7
25,8
28,9
27,8
26,9
23
21,2
25,1
2,42
25,51
9,49

2007
24,5
27
26,1
29,6
28,5
27,6
23,7
22,1
26

2,38
26,12
9,12

Năm
2008
24,9
27,4
26,5
30,2
29,1
28,2
24,4
22,8
26,7
2,36
26,69
8,84

2009
25,5
27,8
26,9
30,6
29,5
28,5
24,7
23,1
27
2,37

27,07
8,74

2010
25,9
28,2
27,3
31,1
29,7
28,7
24,9
23,5
27,4
2,37
27,41
8,66


×