TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA LÂM HỌC
--------------------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ BÊN TRONG VÀ
BÊN NGOÀI ĐẾN RA RỄ CỦA HOM XOAN TA (Melia Azedrach Linn)
TẠI NAM ĐÀN - NGHỆ AN
NGÀNH : LÂM HỌC
MÃ S : 301
Giáo viên h-ớng dẫn: Kiu Vn Thnh
Sinh viên thùc hiƯn : Nguyễn Thị Hảo
Khãa häc
: 2005 - 2009
Hµ Néi – 2009
1
LỜI NÓI ĐẦU
Được sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường, Khoa Lâm học và Bộ
môn giống và công nghệ sinh học - Trường Đại học lâm nghiệp Việt Nam.
Tơi thực hiện khóa luận: " Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố bên
trong và bên ngoài đến ra rễ của hom Xoan ta (Melia azedrach) tại Nam
Đàn - Nghệ An" tại Ban quản lý rừng phòng hộ Nam Đàn, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Kiều Văn Thịnh người đã
giúp đỡ tơi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Cảm ơn toàn bộ cán bộ nhân viên ban quan lý rừng phòng hộ Nam Đàn
và các bạn bè đã góp ý kiến giúp tơi trong thời gian thực hiện.
Mặc dù đã cố gắng nhưng do còn nhiều hạn chế nên khóa luận khơng
tránh khỏi được những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy
cơ giáo cùng các bạn để khóa luận được hồn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2009
SV: Nguyễn Thị Hảo
2
Phần I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xoan ta (Melia azedrach Linn) là cây bản địa đa tác dụng đã được gây
trồng ở nước ta từ lâu. Gỗ Xoan ta có màu nâu nhạt, mềm, nhẹ, ít mối mọt, có
vịng năm rõ, vân, thớ đẹp nên được dùng để làm nhà, đóng đồ mộc gia đình
và làm nơng cụ. Ngồi sản phẩm gỗ, Xoan ta còn cho lá làm phân xanh, quả
hạt làm thuốc sát trùng chữa bệnh ghẻ lở và than gỗ có thể làm thuốc súng.
Xoan ta là cây gỗ lớn, mọc nhanh, thân thẳng, tán thưa, chịu đựng đất
xấu, khô cằn, đất bị thối hố, độ phì đất giảm và hơi chua. Loài cây này sinh
trưởng rất tốt trên đất mùn chân núi đá vơi và có thể mọc rải rác, thuần lồi
hay mọc hỗn giao với các lồi khác.
Nhìn chung, Xoan ta thuộc nhóm cây trồng Lâm nghiệp có giá trị kinh
tế cao và đã được xác định là loài cây trồng rừng sản xuất chủ yếu của 6 trên
9 vùng sinh thái lâm nghiệp trong cả nước theo quyết định số 16/2005/QĐ BNN ngày 15 tháng 3 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông
thôn.
Để phát triển gây trồng các giống cây trồng Lâm nghiệp đã qua chọn
lọc, hiện nay đã có rất nhiều phương pháp nhân giống sinh dưỡng vừa có hệ
số nhân giống cao vừa giữ được đặc tính di truyền của cây mẹ. Trong các
phương pháp đó, giâm hom là một phương pháp được đánh giá có hiệu quả
cao và đã được áp dụng rất phổ biến với nhiều loại cây trồng sinh trưởng
nhanh như Bạch đàn, Keo, Thơng… và một số lồi cây bản địa như Sở, Lát
hoa, Bách xanh…
Xoan ta là loài cây bản địa có giá trị được trồng rất rộng rãi ở Nam Đàn
nhưng chỉ gieo trồng bằng nguồn hạt có sẵn theo kinh nghiệm của người dân
nên năng suất còn rất thấp. Mặt khác, nhu cầu về gỗ của nền kinh tế ngày
càng lớn trong khi nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt nên vấn
3
đề nghiên cứu để tìm được các giống tốt và kỹ thuật nhân giống để có thể duy
trì được các đặc tính tốt đã chọn cho lồi cây này là rất cần thiết. Khóa luận
Nghiên cứu ảnh hƣởng của một số yếu tố bên trong và bên ngoài đến ra
rễ của hom Xoan ta (Melia azedrach Linn) tại Nam Đàn - Nghệ An được
đặt ra nhằm góp phần giải quyết vấn đề này.
4
Phần II
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý
Ban quản lý rừng phịng hộ Nam Đàn nằm trong toạ độ địa lý:
Từ 18o33'15'' - 18o47'37'' vĩ độ Bắc
Từ 105o26'29'' - 105o36'25'' kinh độ Đơng
- Phía Bắc giáp huyện Nghi Lộc và Đô Lương - Tỉnh Nghệ An
- Phía Nam giáp huyện Hương Sơn, Đức Thọ - Hà Tĩnh
- phía Tây giáp huyện Thanh Chương -Tỉnh Nghệ An
- Phía Đơng giáp huyện Hưng Ngun- Tỉnh Nghệ An
2.2. Địa hình địa thế
Tồn bộ diện tích tự nhiên của BQL nằm trong lưu vực hạ lưu sông
Lam chảy từ xã Nam Thượng đến xã Nam Cường.
- Phía Bắc bao gồm sườn Nam dãy Thiên nhẫn và dãy núi Đại Huệ có
đỉnh cao nhất là 470,5m.
- Phía Tây bao gồm sườn Đơng Bắc dãy núi Thiên Nhẫn, dãy núi này
có độ dốc bình quân là 30o, độ dốc lớn nhất là 45o tại khu vực gần đỉnh Thần
Tuy.
- Ngoài hai dãy núi nêu trên cịn có các đồi hình bát úp, chân đồi thoải
hơn tạo nên những hình lịng chảo cục bộ.
2.3. Khí hậu và nguồn nƣớc
2.3.1. Khí hậu
+ Chế độ nhiệt:
Mùa nắng nóng từ tháng 4 đến tháng 9
Mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau
Nhiệt độ bình quân trong năm là 19,9oC. Nhiệt độ cao tuyệt đối là
34,40oC; nhiệt độ thấp tuyệt đối là 6,20oC.
+ Chế độ mưa:
Lượng mưa bình quân trong năm là 1900 mm
5
Lượng mưa lớn nhất là 2600 mm
Lượng mưa thấp nhất là 1100 mm
Lượng mưa phân bố không đều, chủ yếu mưa vào các tháng 7, 8, 9
trong năm gây ngập úng nhiều nơi.
+ Chế độ gió:
Hàng năm có hai mùa gió chính: Gió mùa Tây Nam kéo dài từ tháng 4
đến tháng 8, nhiệt độ trong ngày có lúc lên tới 38oC - 40oC, độ ẩm chỉ còn
55% - 60%, có khi lại mưa to gây ngập úng. Thời tiết nóng ẩm đó đã ảnh
hưởng rất lớn đến cơng tác phịng trừ sâu bệnh hại. Gió mùa Đơng Bắc từ
tháng 11 đến tháng 3 năm sau thường mang theo mưa phùn và gió rét.
Độ ẩm khơng khí bình qn trong năm là 83%, lượng bốc hơi bình
quân là 943 mm/năm
2.3.2. Nguồn nước
Lợi thế có sơng Lam chảy qua với tổng chiều dài là 16 km, đây là
nguồn nước tưới chính phục vụ cho sản xuất. Hàng năm nước sông lại dâng
lên và chảy xiết vào các tháng 7, 8, 9 có khi gây ngập úng.
Ngồi ra cịn có sơng Đào và một lượng lớn các đập dự trữ nước là
nguồn cung cấp chủ yếu nước tưới cho ruộng đất canh tác.
6
Phần III
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
3.1. Nghiên cứu về giâm hom
Nhân giống bằng hom là phương pháp dùng một phần lá, đoạn thân,
đoạn cành hoặc đoạn rễ để tạo ra cây mới.
So với một số phương pháp nhân giống sinh dưỡng khác, nhân giống
bằng hom có hệ số nhân cao, tương đối đơn giản ít tốn kém, dễ thực hiện nên
được sử dụng tương đối rộng rãi và phổ biến. Tuy vậy, nhân giống bằng hom
cũng cịn có khá nhiều nhược đểm như bộ rễ cây hom thường kém phát triển,
dễ nhiễm nấm bệnh trong quá trình giâm và giai đoạn đầu sau khi giâm, việc
chăm sóc theo dõi khá phức tạp.
Khả năng ra rễ của hom giâm phụ thuộc vào nhiều nhân tố, cả nhân tố
bên trong và nhân tố bên ngoài như: Đặc điểm di truyền của vật liệu hom, tuổi
của vật liệu hom, kích thước hom giâm, thuốc kích thích ra rễ (loại thuốc và
nồng độ), điều kiện thời tiết, loại giá thể giâm hom…
3.1.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả giâm hom
3.1.1.1. Các nhân tố bên trong
a) Đặc điểm di truyền của loài và xuất xứ
Đặc điểm di truyền của loài là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến
ra rễ của hom. Có những lồi hom rất dễ ra rễ nhưng cũng có những lồi hom
rất khó ra rễ. Ngay trong cùng một lồi, hom của các xuất xứ khác nhau cũng
có khả năng ra rễ không giống nhau.
b) Điều kiện sinh lý của cây mẹ
Điều kiện sống của cây mẹ cũng là một nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới ra rễ của hom. Hom lấy từ cây mẹ sinh sống trong điều kiện môi trường tốt
và không bị sâu bệnh có khả năng ra rễ cao hơn hom lấy từ những cây mẹ
sống trong điều kiện môi trường không thuận lợi và sinh trưởng kém.
c) Tuổi cây mẹ và tuổi cành lấy hom
7
Mỗi lồi cây có một giai đoạn tuổi thích hợp để lấy vật liệu giâm hom,
cây mẹ càng già thì tỷ lệ hom ra rễ càng giảm. Hom lấy từ các cây mẹ q già
thường rất khó hoặc khơng ra rễ. Nghiên cứu của Vê-Khốp đã cho thấy khi
lấy hom Bạch hạp trên cây mẹ 2 tuổi, tỷ lệ hom ra rễ đạt tới 90%, còn lấy ở
cây mẹ 35 tuổi thì hồn tồn khơng ra rễ. Tuổi của cành lấy hom cũng ảnh
hưởng tới sự ra rễ của hom giâm, cành quá già hay quá non thì khả năng ra rễ
của hom giâm sẽ rất thấp hay không ra rễ.
d) Vị trí của cành lấy hom và loại hom
Hom lấy ở các vị trí khác nhau trên cây, thậm chí ở các vị trí khác nhau
trong cùng một cành thì tỷ lệ hom ra rễ thu được cũng khác nhau. Kết quả
nghiên cứu của Lê Đình Khả đối với Keo lá tràm và Keo tai tượng cho thấy
rằng hom ngọn và hom sát ngọn rất cao có tỷ lệ ra rễ từ 93,3% - 100%, trong
khi đó hom rễ và hom sát gốc thì tỷ lệ ra rễ đạt thấp hơn (66,7% - 97,6%).
Loại hom cũng ảnh hưởng tới sự ra rễ, ngay trong cùng một cành hom
lấy ở chồi đỉnh tốt hơn hom lấy ở chồi nách. Người ta thường chia hom ra làm
3 loại chính sau: Hom gỗ mềm, hom gỗ cứng và hom nửa cứng. Với mỗi lồi
cây có một loại hom phù hợp riêng. Ví dụ như Trà my thì lấy hom nửa cứng
cịn Ngọc lan thì lấy hom gỗ mềm sẽ tốt hơn. Nhìn chung với đa số các loài
cây, hom ở trạng thái nửa cứng (hom bánh tẻ) là thích hợp hơn cả.
e) Ảnh hưởng của kích thước hom
Đường kính và chiều dài hom cũng ảnh hưởng tới sự ra rễ của hom
giâm. Nghiên cứu của D.A. Komixarop (1964) với nhiều loại cây cho thấy
rằng hom có kích thước lớn tốt hơn hom có kích thước nhỏ. Tuy nhiên hom
q lớn, đặc biệt là với hom ngọn thường làm cho hom dễ mất nước và bị
héo. Cịn đối với hom q nhỏ thì q trình tích luỹ chất dinh dưỡng khơng
đảm bảo cho hom phát triển tốt, hom thường yếu và thiếu sức sống.
Chiều dài hom cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng ra rễ của hom giâm.
Hom quá ngắn thì lượng dinh dưỡng không đảm bảo cho hom ra rễ, hom quá
dài sẽ gây hiện tượng mất nước làm cây héo và chết, ngồi ra cịn gây lãng
8
phí hom ở lồi q hiếm. Nhìn chung hom nên để từ 2-3 mắt với chiều dài
hom khoảng 10-15cm. Như vậy kích thước hom cũng là một vấn đề cần chú ý
trong giâm hom.
f) Ảnh hưởng của lá trên hom
Lá là cơ quan quang hợp để tạo ra các chất hữu cơ cần thiết cho cây.
Trong giâm hom, lá trên hom ảnh hưởng rất nhiều tới khả năng thành công.
Lá giữ vai trị trong việc tạo ra các mơ phân sinh của rễ ở các hom cành chưa
hoá gỗ, lá thốt hơi nước khuếch tán các chất kích thích ra rễ đến các bộ phận
của hom. Lá là cơ quan điều tiết chất điều hoà sinh trưởng ở hom. Vấn đề cần
chú ý là diện tích lá để lại trên hom. Nếu diện tích lá để lại q lớn thì làm
cho hom giâm mất nước nhanh và hạn chế số hom trên một đơn vị diện tích,
mặt khác nếu diện tích lá để lại q nhỏ thì ảnh hưởng tới khả năng ra rễ của
hom. Kết quả nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đối với
loài Bạch đàn và Keo cho thấy nên để từ 1/3-1/2 diện tích lá trên hom sẽ cho
tỷ lệ ra rễ tốt nhất.
3.1.2.2. Các nhân tố bên ngoài
Ngoài các nhân tố nội sinh, các nhân tố bên ngồi (mơi trường giâm
hom) cũng ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả giâm hom. Các nhân tố bên ngoài
ảnh hưởng đến việc giâm hom bao gồm:
a) Nhiệt độ
Nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quá trình phân chia tế bào
và quá trình sinh hố của cây, dẫn đến sự hình thành và phát triển của rễ hom.
Nhiệt độ quá thấp sẽ hạn chế các q trình trao đổi chất nên có ảnh hưởng đến
sự hình thành chồi và rễ bất định. Nhiệt độ thấp làm hom ở trạng thái tiềm ẩn
không thể ra rễ dẫn tới làm thời gian ra rễ bị kéo dài. Nếu nhiệt độ quá cao thì
hom bị đốt nóng, q trình thốt hơi nước xẩy ra mạnh nên hom dễ bị héo. Ví
dụ như lồi Nhựa ruồi (Ilex cinerea) giâm hom ở 15oC sau 42 ngày mới ra rễ,
ở 20oC thì 28 ngày đã ra rễ, cịn ở nhiệt độ 35oC thì bị héo hồn tồn
(Komisarov, 1964). Nhiệt độ còn gián tiếp ảnh hưởng tới các yếu tố khác.
9
Nhìn chung nhiệt độ thích hợp cho việc giâm hom của nhiều loài cây, đảm
bảo cho hom ra rễ là từ 21-27oC vào ban ngày và 15oC vào ban đêm. Theo
Longman (1993) nhiệt độ khơng khí thích hợp giâm hom cho nhiều lồi cây là
từ 28-33oC, cịn nhiệt độ giá thể thích hợp là 25-30oC.
b) Độ ẩm
Độ ẩm của mơi trường giâm hom có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
thành công trong giâm hom. Độ ẩm môi trường nuôi cấy bao gồm độ ẩm
khơng khí và độ ẩm giá thể giâm hom. Khi mới tách ra khỏi cây mẹ hom vẫn
cịn cần nước cho q trình sinh lý bên trong và thoát hơi nước qua lá. Nếu
lượng nước trong hom hút vào và bay hơi khơng cân bằng thì hom sẽ bị héo
rồi chết. Vỳ thế khu giâm hom phải đặt ở khu vực có độ ẩm khơng khí cao, tối
thiểu phải lớn hơn 80% độ ẩm bão hoà. Tuy nhiên khi độ ẩm quá cao thường
tạo điều khiện thuận lợi cho nấm và vi khuẩn phát triển làm cho hom dễ bị
thối. Độ ẩm giá thể có ảnh hưởng lớn đến khả năng ra rễ của hom giâm. Đối
với nhiều lồi cây độ ẩm giá thể thích hợp cho giâm hom là từ 50-70%, độ ẩm
giá thể tăng lên 100% thì tỷ lệ ra rễ bị giảm xuống. Vỳ vậy trong q trình
giâm hom cần có những điều chỉnh thích hợp. Trong thực tế việc phun sương
mù giúp duy trì độ ẩm cho hom là rất cần thiết. Phun sương làm tăng độ ẩm
khơng khí và làm giảm sự bốc hơi nước ở lá. Thời gian mỗi lần phun và thời
gian cách quãng giữa các lần phun cũng ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của
hom. Tuỳ từng loại hom, từng giai đoạn và điều kiện thời tiết của từng ngày
để điều chỉnh chế độ phun cho hợp lý.
c) Ánh sáng
Cùng với nhiệt độ và độ ẩm thì ánh sáng cũng là yếu tố rất quan trọng
trong giâm hom. Khơng có ánh sáng thì hom khơng có hoạt động quang hợp,
q trình trao đổi chất khó xảy ra do đó khơng có hoạt động ra rễ, nếu ánh
sáng quá mạnh (ánh sáng trực xạ) lại kéo theo nhiệt độ cao thì hom rất nhanh
héo và chết. Chỉ có một số ít lồi mới có khả năng ra rễ khi thiếu ánh sáng
10
cịn hầu hết các lồi cây ưa sáng và chịu bóng đều cần có ánh sáng để hom ra
rễ.
Nhu cầu về ánh sáng đối với mỗi loại hom khác nhau cũng khác nhau,
nhìn chung độ sáng thích hợp khoảng 4500-5500 lux/giờ. Ngồi ra ánh sáng
cịn phụ thuộc vào mức độ hoá gỗ và chất dự trữ trong hom. Hom hoá gỗ yếu,
chất dự trữ ít cần cường độ ánh sáng tán xạ cao hơn so với hom đã hoá gỗ.
Ánh sáng còn ảnh hưởng gián tiếp đến các yếu tố khác như nhiệt độ và độ ẩm.
Như vậy ánh sáng là yếu tố rất cần cho hom ra rễ nhưng loại ánh sáng và mức
độ chiếu sáng cần phải rất hợp lý. Vỳ vậy trong giâm hom thường sử dụng
nhà kính, nhà lưới. Mặt khác trên luống giâm hom phải thiết kế khung vòm
được che bằng nilon trắng để điều chỉnh ánh sáng thích hợp cho hom ra rễ.
d) Thời vụ giâm hom
Thời vụ giâm hom là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng
tới tỷ lệ ra rễ của hom giâm. Một số lồi có thể giâm hom quanh năm nhưng
một số lồi có tính thời vụ rõ rệt. Nhìn chung mùa mưa là mùa giâm hom cho
tỷ lệ ra rễ cao nhất với nhiều loài cây, một số loài ra rễ tốt vào mùa xuân.
Thời vụ giâm hom của một số lồi cây cịn phụ thuộc vào giai đoạn
sinh trưởng của cây. Hom lấy từ giai đoạn cây sinh trưởng tốt nhất thường
cho tỷ lệ ra rễ cao nhất. Hầu hết các loài cây đều sinh trưởng mạnh vào mùa
mưa (xuân - hè) và sinh trưởng chậm vào mùa khô (cuối thu và đầu đông). Vỳ
vậy thời kỳ giâm hom tốt nhất cho nhiều loài cây là các tháng của mùa xuân hè và đầu thu.
e) Giá thể giâm hom
Giá thể là nơi cắm hom sau khi đã xử lý chất điều hoà sinh trưởng. Giá
thể giâm hom cần đảm bảo những tính chất cơ bản như tơi xốp, giữ ẩm,
thống khí và thốt nước, đồng thời cũng phải được khử trùng. Có nhiều loại
giá thể như: Cát tinh, mùn cưa, xơ dừa băm nhỏ, đất vườn ươm…Một giá thể
giâm hom tốt là giá thể phải có độ thống khí và duy trì được độ ẩm trong
thời gian dài mà không ứ nước, tạo điều kiện cho rễ phát triển tốt đồng thời
11
giá thể phải sạch, không bị nấm, sâu bệnh. Giá thể cần đảm bảo vệ sinh và đủ
ẩm trong quá trình giâm hom, hạn chế khả năng nhiễm nấm. Nhiệt độ giá thể
thích hợp cho giâm hom một số lồi cây nhiệt đới là 25-30oC (Longman,
1993).
f) Chất điều hoà sinh trưởng
Chất điều hồ sinh trưởng có vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh
quá trình hoạt động sinh lý sinh hoá, sinh trưởng và phát triển của cây. Các
chất điều hồ sinh trưởng là các chất có hoạt động sinh lý mạnh. Các chất
điều hoà sinh trưởng ở nồng độ thích hợp có tác dụng kích thích q trình
sinh trưởng của cây. Có nhóm chất có tác dụng kích thích sinh trưởng như
nhóm chất Auxin, Gibberillin, Xitokinin. Có một số chất lại có tác dụng
ngược lại gọi là chất ức chế sinh trưởng như: Etylen, axit abxixic,
phenol…Mỗi loại có đặc trưng tác dụng riêng, có nhóm kích thích ra chồi, có
nhóm kích thích ra rễ nhưng cũng có nhóm kìm hãm sự ra rễ…
Nhờ phát hiện ra các chất điều hồ sinh trưởng mà cho đến nay cơng
nghệ nhân giống vơ tính bằng giâm hom đã phát triển rất mạnh. Nhiều loài
cây rừng ngày nay việc nhân giống bằng hom đã trở nên đơn giản cho tỷ lệ
thành công cao. Vấn đề của nhiều loài cây trong giâm hom hiện nay là đưa
vào mơi trường giâm hom loại chất kích thích nào với nồng độ bao nhiêu để
có tỷ lệ hom ra rễ cao nhất.
Các chất được dùng trong giâm hom hiện nay chủ yếu là các chất trong
nhóm Auxin như: IBA (Ildol butiric acid), IAA (Ildol acetic acid), IPA (Indol
propionic acid), NAA (Napthalen acetic acid), 2,4-D (2,4-dicholorophenoxy
acetic acid)…Gần đây người ta còn tổng hợp được một số auxin mới như PIAA, 3HP-IAA, P-IBA, ngồi ra cịn có ABT cũng là một auxin được dùng
trong giâm hom ở Trung Quốc (Wang tao, 1988). Trong các loại auxin nói
trên thì IBA là chất được sử dụng phổ biến nhất và có hiệu quả vời nhiều lồi
cây, sau đó là IAA, NAA và 2,4-D. Tuy vậy tuỳ trường hợp cụ thể mà các
auxin có hiệu quả kích thích ra rễ khác nhau đối với từng loại cây khác nhau.
12
Ví dụ IBA có hiệu quả ra rễ cao với một số loài cây như Bách xanh
(Calocedrus macrolepis), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Thông caribê (Pinus
caribea), Thông đỏ (Taxus chinensis), Sao đen (Hopea odorata), Dầu rái
(Dipterocarpus alatus), Keo dậu (Leucaena lecephala), Giáng hương
(Pterocarpus macrocapus) (Lê Đình Khả, 2001)…Cịn NAA thì lại có hiệu
quả ra rễ cao đối với lồi Sở (Camelia oleosa) (Nguyễn Hồng Nghĩa, Đồn
Thị Bích, 1997). Đối với 2,4-D lại có hiệu quả ra rễ cao đối với Luồng
(Dendrocalamus membranaceus) thuộc nhóm tre trúc (Hồng Vĩnh Tường,
1978).
3.2. Nghiên cứu về Xoan ta
3.2.1. Trên thế giới
Các nghiên cứu của Boonchoop Boontawee, Pitay Petmak, Chatuporn
Mungkularat và Thavee Chairuangsiricul (1997) cho thấy Xoan ta bắt đầu
rụng lá từ tháng 10, rụng hoàn toàn vào tháng 1 năm sau, đâm chồi vào tháng
2 đồng thời bắt đầu ra hoa và kết thúc hoa vào tháng 3. Quả ra từ tháng 3,
phát triển sau 8 tháng và chín vào tháng 11. Để tạo cây con từ hạt cần phải
chọn hạt, ủ, làm đất, gieo ươm và chăm sóc sau 4 tháng mới có thể đem trồng
rừng. Nghiên cứu về gieo ươm cho thấy kích cỡ bầu có ảnh hưởng rõ rệt đến
sinh trưởng của Xoan ta ở vườn ươm, cây sau 4 tháng tuổi với kích cỡ bầu
4x6cm, 5x8cm, 6x8cm cho các giá trị sinh trưởng chiều cao bình quân lần
lượt là 14,63cm; 20,90cm; 35,18cm, đường kính bình qn là 0,26cm;
0,30cm; 0,46cm và tỷ lệ rễ trên chồi non của cây con 4 tháng tuổi lần lượt là
1,016; 1,119; 1,143.
Các kết quả nghiên cứu về sinh học hạt giống của Xoan ta cho thấy từ 1
hạt Xoan ta có thể nảy mầm thành 4 cây con (Miller, 1990. Journal of the
Arnold Arboretum).
Các nghiên cứu về giống và trồng rừng của J.K.Roop, P.Kdhaliwal và
S.S.Guraya (2002) ở trường đại học nông nghiệp Punjab Ấn Độ cho thấy
Xoan ta có khả năng tái sinh chồi và hạt rất mạnh, người ta có thể nhân giống
13
hom rễ Xoan ta bằng cách bới đất chặt lấy từng đoạn rễ có đường kính
khoảng 1cm, dài 10-12cm rồi xử lý bằng benlat 0,3% và giâm vào bầu đất.
Sau khoảng 10 ngày khi các chồi mọc dài thì tỉa để lại một chồi chính chăm
sóc để đem trồng.
3.2.2. Ở Việt Nam
Xoan ta là cây bản địa phân bố rộng từ Bắc đến Nam, loài cây này đã
được nhân dân ta biết đến từ lâu nhờ giá trị về gỗ và các sản phẩm phụ khác.
Xoan ta là loài cây mọc nhanh thường được tái sinh và phục hồi trên đất sau
nương rẫy, sinh trưởng và phát triển tốt trên các loại đất, đặc biệt có thể sinh
trưởng trên đất cằn cỗi. Xoan ta cũng được gây trồng ở nhiều nơi theo kinh
nghiệm dân gian từ lâu và được trồng theo hình thức phân tán trong cộng
đồng làng bản Việt Nam. Tuy vậy những nghiên cứu về loài này cho đến nay
ở nước ta cịn rất ít, chưa cụ thể và chưa có hệ thống. Các tài liệu đúc kết từ
kinh nghiệm của người dân địa phương kết hợp với những điều tra về đặc
điểm sinh học và khả năng gây trồng Xoan ta của Viện điều tra quy hoạch
rừng (1981) và Vụ khoa học công nghệ - Bộ lâm nghiệp (1984) đã đưa ra
những đặc điểm cơ bản và giá trị sử dụng cũng như khả năng gây trồng loài
cây này ở nước ta. Trần Hợp và Hoàng Quảng Hà đã đề xuất 100 lồi cây bản
địa có giá trị cao ở miền nam Việt Nam để trồng rừng phịng hộ và rừng sản
xuất, trong đó lồi Xoan ta được xem như một loài triển vọng trong trồng
rừng ở Miền nam nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Trong danh lục các loài
cây chủ yếu trong trồng rừng sản xuất theo 9 vùng sinh thái lâm nghiệp theo
quyết định số 16/2005/QĐ-BNN ngày 15/3/2005 thì Xoan ta được xem như
lồi cây bản địa có giá trị trong trồng rừng ở 6 trên 9 vùng sinh thái. Cho đến
nay các nghiên cứu về lồi Xoan ta cịn rất ít, các tài liệu chỉ dừng lại ở mức
độ đưa ra một số đặc điểm sinh học, phương pháp thu hái, chế biến, bảo quản
hạt và gây trồng cây con từ hạt.
Có thể tổng kết một số nghiên cứu về loài Xoan ta của Việt Nam như
sau:
14
3.2.2.1. Đặc điểm phân bố và sinh thái
Xoan ta có nguồn gốc từ Hymalaya, biên độ sinh thái rộng, phân bố ở
hầu hết các tỉnh trên phạm vi toàn quốc, từ vùng núi cao đến vùng đồng bằng.
Xoan ta là lồi chịu đựng được nóng, lạnh, thường tái sinh phục hồi trên đất
sau nương rẫy, sinh trưởng và phát triển trên nhiều loại đất, đặc biệt thích hợp
với đất mùn chân núi đá vôi, chịu đựng đất xấu, đất khô cằn, đất có độ PH từ
5,5 - 6,5. Là lồi cây mọc nhanh, rụng lá vào mùa đơng, thích hợp với nơi có
lượng mưa từ 1000mm/năm trở lên. Cây tái sinh chồi và hạt mạnh, có thể mọc
rải rác, mọc thuần loài hay mọc hỗn giao với các loài khác.
3.2.2.2. Đặc điểm hình thái
Cây Xoan ta là cây gỗ nhỡ đến gỗ lớn (chiều cao từ 15-20m, đường
kính từ 30-70cm); thân thẳng, tán thưa, vỏ màu xám nâu-trơn, có những
đường bì khổng chạy dọc màu da cam, cành non có lơng; lá kép lơng chim 23 lần, mọc cách; có nhiều lá chét mỏng, mềm, mép lá có răng cưa, đầu nhọn,
gốc thn trịn, dài 3-7cm, rộng 2-3cm, gân bên 10-14 đơi, cuống lá dài
0,5cm, có lơng hình sao (lá thường mùi hắc). Hoa hình chuỳ, mọc ở nách lá,
hoa nhỏ, đều, có cánh đài 5-6 chiếc, có lơng, có cánh tràng 5-6 chiếc, mềm,
màu trắng làm nền cho 10-12 nhị thành ống ở giữa màu tím, có hương thơm;
bầu có 5-6 ơ nhẵn, có vịi dài. Hoa nở vào tháng 2-3, quả hạch dạng trứng,
màu vàng khi chín, vỏ trong hố gỗ cứng có 4-5 ơ, mỗi ơ có 1 hạt.
3.2.2.3. Giá trị kinh tế
Gỗ Xoan ta màu nâu nhạt, mềm, nhẹ, ít mối mọt, có vịng năm rõ vân,
thớ đẹp. Gỗ Xoan ta thường được dùng để làm nhà, đóng đồ mộc gia đình,
làm nơng cụ. Lá làm phân xanh; quả, hạt có thể làm thuốc sát trùng chữa bệnh
ghẻ lở, quả cịn có thể ép lấy tinh dầu; than gỗ có thể làm thuốc súng…
3.2.2.4. Kỹ thuật gieo trồng
+ Thu hái hạt giống: Thường thu hái hạt giống trên những cây mẹ có độ
tuổi từ 5-8, thời gian thu hái khi quả chín khoảng tháng 12-2, thu hái khi vỏ
quả có màu vàng, thịt quả mềm, hạt mẩy, nhân màu trắng. Quả sau khi thu hái
15
được phân loại, ủ những quả chưa chín. Khi quả chín đều đem ngâm nước lã,
chà hết lớp vỏ quả, rửa sạch hạt phơi khô và cho vào bảo quản (bảo quản
trong khoảng từ 6-7 tháng).
+ Nhân giống: Có thể nhân giống bằng hạt hay bằng hom rễ. Nếu nhân
giống từ hạt (quả sau khi thu hái có thể gieo ngay hay sau khi bảo quản).
Trước khi gieo ngâm hạt trong nước 2 sơi 3 lạnh trong vịng 5-6 giờ rồi vớt ra
và ủ vào cát ẩm, khi hạt nứt nanh thì gieo vào bầu đất có đường kính 7-8cm,
dài 12-15cm. Hỗn hợp ruột bầu 80% đất màu + 20% phân chuồng hoai. Theo
kinh nghiệm của người dân vùng núi phía bắc thì hái quả Xoan già ném vào
đống lửa cho cháy sém hết lớp vỏ ngoài rồi đem gieo thì nhanh nảy mầm.
Chăm sóc cây trong vườn ươm khi cây cao 40-50cm, đường kính khoảng
1cm, cây sinh trưởng tốt là có thể đem trồng. Nếu nhân giống bằng rễ thì cắt
từng đoạn rễ có đường kính khoảng 1cm, dài 10-20cm, xử lý bằng benlat
nồng độ 0,3%, sau đó giâm vào bầu đất, chăm sóc và tỉa chồi để lại một chồi
chính khoẻ mạnh để đem trồng.
+ Trồng và chăm sóc: Có thể trồng tập trung hay phân tán theo đường
đi, bờ vườn quanh nhà…Đào hố kích thước 40x40x40cm, nếu trồng tập trung
thì mật độ khoảng từ 1300-2000 cây/ha, có thể bón thêm phân chuồng nơi đất
xấu, ấn đất chặt, cắm cọc giữ cây ổn định. Chăm sóc 3 năm đầu, mỗi năm một
lần, thường xuyên làm cỏ xoa chồi nhánh giúp cây mọc thẳng, khi cây cao 22,5m thì để phân cành. Sau 7-8 năm có thể chặt, năng suất khoảng 710m3/ha/năm. Sản lượng có thể đạt 130-150m3/ha vào cuối chu kỳ khai thác.
Như vậy qua khảo sát một số tài liệu cho thấy mặc dù Xoan ta đã được
gây trồng ở nước ta từ lâu song những nghiên cứu về lồi này cịn ít và chưa
có hệ thống. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy có thể phát triển loài cây
này trên diện rộng. Những nghiên cứu về chọn tạo giống và nhân giống cũng
bước đầu được thực hiện tại Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng thuộc Viện
khoa học lâm nghiệp và triển vọng đem lại nhiều kết quả khả quan.
16
Phần IV
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được ảnh hưởng của một số yếu tố bên trong và bên ngoài
đến kết quả tạo cây con bằng hom ngọn làm cơ sở cho việc phát triển, gây
trồng các dịng vơ tính Xoan ta tốt ở Nam Đàn - Nghệ An.
4.2. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên tôi tiến hành một số nội dung nghiên cứu
sau:
+ Ảnh hưởng của nồng độ IBA đến ra rễ của hom
+ Ảnh hưởng của chiều dài hom đến ra rễ của hom
+ Ảnh hưởng của giá thể đến ra rễ của hom
4.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.3.1. Phương pháp ngoại nghiệp
4.3.1.1. Chuẩn bị hom, xử lý và giâm hom
♦ Cắt cành lấy hom: Cắt cành lấy hom trên các cây lấy hom ở vườn
giống vào buổi sáng sớm. Cành sau khi cắt được bảo quản nơi râm mát hay
ngâm ngay phần gốc cành vào nước sạch.
♦ Cắt tạo hom: Dùng kéo sắc cắt tạo hom từ cành lấy hom, tránh làm
dập, trầy xước hom. Mỗi cành cắt một hom ngọn dài 8-12cm mang từ 5-7 lá.
Vết cắt ở vị trí cách lá cuối cùng 2cm. Sau đó cắt bỏ 2/3 diện tích của lá dưới
cùng và 1/2 diện tích của các lá tiếp theo. Gốc hom phải cắt vát 45o, vết cắt
phải dứt khốt, phẳng, khơng bị trầy xước.
♦ Xử lý hom: Ngâm gốc hom vào vào nước sạch ngay sau khi cắt sau đó
vớt ra ngâm ngay vào dung dịch benlat nồng độ 0,2% (2g benlat/10lit nước)
trong khoảng thời gian 10-15 phút để khử nguồn nấm bệnh.
♦ Chuẩn bị nền giâm: Phun benlat hay thuốc tím 0,5% trên thể nền
giâm trước khi giâm hom 2 ngày để hạn chế các nguồn lây bệnh từ thể nền.
Tưới nước nền giâm cho thật ẩm toàn bộ ruột bầu trước khi cấy hom.
17
♦ Kỹ thuật cấy hom: Hom sau khi xử lý nấm bệnh được chấm gốc vào
chất kích thích ra rễ. Dùng que cấy có đường kính lớn hơn đường kính gốc
hom một chút để chọc lỗ sâu 2-3 cm ở giữa bầu, cắm hom vào lỗ rồi dùng
ngón trỏ và ngón tay cái ấn nhẹ xung quanh gốc hom để phần hom dưới mặt
đất được tiếp xúc hoàn toàn với đất bầu đồng thời giữ cho hom đứng thẳng.
Đối với giá thể là nền cát thì cấy hom thành từng hàng cách nhau 5-6cm, hom
cách hom 3-3,5cm. Sau khi cấy xong dùng ơ doa tưới đều tồn bộ mặt luống
nhằm san bằng bề mặt luống.
♦ Chăm sóc hom sau giâm
Phủ nilon trắng mờ lên tồn bộ khung vịm luống giâm để giữ ẩm.
Hàng ngày tưới phun sương, thời gian tưới cách nhau 30-40 phút, mỗi lần
tưới từ 7-10 giây, tuỳ thuộc vào thời tiết từng ngày mà chế độ phun thay đổi
để đảm bảo cho hom ra rễ. Nguyên tắc chung là phải giữ cho lá của hom luôn
tươi và nhiệt độ không quá 32oC. Việc tưới phun như vậy được duy trì trong
vịng 3-4 tuần cho đến khi hom ra rễ. Trong những ngày nắng to cần tăng
cường thêm giàn che phụ nhằm hạn chế ánh sáng và tăng nhiệt độ cũng như
ẩm độ trong luống hom.
4.3.1.2. Bố trí thí nghiệm
+ Ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích sinh trưởng đến kết quả
giâm hom
Thí nghiệm với 6 loại nồng độ IBA khác nhau: 250ppm, 500ppm,
750ppm, 1000ppm, 1250ppm, 1500ppm và một cơng thức đối chứng khơng
xử lý hố chất.
+ Ảnh hưởng của chiều dài hom đến kết quả giâm hom
Thí nghiệm với các loại hom có chiều dài 8cm, 10cm, 12cm, 14cm và
16cm. Hom trong thí nghiệm trước khi giâm được xử lý với chất kích thích
sinh trưởng IBA nồng độ 750ppm.
+ Ảnh hưởng của giá thể đến kết quả giâm hom
18
Hom giâm được xử lý bằng chất kích thích sinh trưởng IBA nồng độ
750ppm. Các loại thể nền dùng trong thí nghiệm gồm:
◦ 100% đất màu (CT 1)
◦ 100% cát sông (CT 2)
◦ 50% đất màu + 50% cát sông (CT 3)
◦ 50% đất màu + 20% cát sông + 20% than trấu + 10% phân
chuồng hoai mục (CT 4)
◦ 60% đất màu + 25% thân bèo tây băm nhỏ + 10% phân chuồng
hoai mục + 5% NPK (CT 5)
Ghi chú: Các cơng thức thí nghiệm ở trên được bố trí theo khối ngẫu
nhiên đầy đủ, mỗi cơng thức bố trí 3 lần lặp và số hom trong mỗi lần lặp là 45
hom.
4.3.1.3. Ghi chép, thu thập số liệu
Hàng ngày theo dõi tình trạng sống, chết và nguyên nhân chết của từng
hom trong từng cơng thức thí nghiệm. Sau 30 ngày thì tiến hành đo chiều dài
rễ và đếm số rễ ở các hom có rễ, quan sát tình trạng ra mô sẹo ở các hom
không ra rễ và nguyên nhân chết ở các hom chết.
Số liệu thu thập được ghi vào mẫu biểu sau:
19
Mẫu biểu 41: Biểu điều tra số lƣợng rễ/hom và chiều dài hom
Lồi cây:…………..
Ngày giâm hom:………………..
Địa điểm:………….
Ngày kết thúc:………………….
Cơng
thức
TN
Lần
Số thứ
lặp
tự hom
Ra rễ
Lrễ
Không ra rễ
Số rễ
(mm)
Mô sẹo
Không
Chết
mô sẹo
1
1
IBA
2
...
45
250
1
ppm
2
2
...
45
4.3.2. Phương pháp nội nghiệp
4.3.2.1. Tính các đặc trưng mẫu:
- Tỷ lệ hom sống (%) =
n .100
(1)
- Tỷ lệ hom ra rễ (%) =
n .100
(2)
s
N
r
N
- Chiều dài rễ trung bình (cm) = Tổng dài rễ/Tổng số rễ
- Số trung bình mẫu:
1 n
Xi
n i 1
(3)
1 n
( Xi X )
n 1 i 1
(4)
X =
- Sai tiêu chuẩn:
S=±
- Hệ số biến động:
20
S% =
S
X
.100
(5)
4.3.2.2. Kiểm tra ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả thí nghiệm:
- Kiểm tra ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm đến tỷ lệ hom sống và
tỷ lệ hom ra rễ:
Tiêu chuẩn sử dụng: Tiêu chuẩn χ2
2
2
q
T
i
i
T q .T v T i TS
2
TS
2
(6)
Nếu n2 052 tra bảng với k = (a-1)(b-1) thì giả thiết H0 được chấp
nhận, các mẫu tham gia kiểm tra thuần nhất về chỉ tiêu nghiên cứu.
Nếu n2 052 tra bảng với k = (a-1)(b-1) thì giả thiết H0 bị bác bỏ, các
mẫu không thuần nhất về chỉ tiêu nghiên cứu.
- Kiểm tra ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm đến số lượng rễ trên
hom và chiều dài rễ:
Tiêu chuẩn sử dụng: Phân bố F
F
A
na V A
.
a 1 V N
(11)
Nếu FA tính theo (11) ≤ F05 tra bảng với k1 = a-1 và k2 = n-a bậc tự do
thì giả thiết H0 được chấp nhận, nhân tố A tác động đồng đều lên kết quả thí
nghiệm.
Nếu FA tính theo (11) > F05 tra bảng với k1 = a-1 và k2 = n-a bậc tự do
thì giả thiết H0 bị bác bỏ, nhân tố A tác động không đồng đều lên kết quả thí
nghiệm.
4.3.2.3. Kiểm tra cơng thức có ảnh hưởng trội nhất đến kết quả thí nghiệm:
- Tìm cơng thức có ảnh hưởng trội nhất đến tỷ lệ hom sống và tỷ lệ
hom ra rễ:
So sánh hai số trung bình lớn thứ nhất và lớn thứ hai của các cơng thức
thí nghiệm tương ứng bằng tiêu chuẩn U của phân bố tiêu chuẩn
21
Pmax 1 p max 2
U=
Sp
(12)
Trong đó Sp là số của thành số mẫu:
Sp =
với:
1
1
p.q.
n1 n2
P=
n1 . p m1 n2 . p m 2
n1 n2
(13)
(14)
và q = 1 - p
Nếu |U| tính theo (12) ≤ 1,96 thì khơng só sự sai khác giữa hai trị số
trung bình của hai cơng thức kiểm tra, có thể chọn một trong hai cơng thức thí
nghiệm là cơng thức có ảnh hưởng trội nhất.
Nếu |U| tính theo (12) > 1,96 thì có sự khác biệt giữa hai trị số quan sát
của hai cơng thức thí nghiệm, cơng thức có trị số quan sát lớn nhất là cơng
thức có ảnh hưởng trội nhất.
- Tìm cơng thức có ảnh hưởng trội nhất đến số rễ/hom và chiều dài rễ.
So sánh trị trung bình lớn thứ nhất và lớn thứ hai bằng tiêu chuẩn t của
Student
t
Trong đó:
S'' =
X max 1 X max 2
1
1
S''
n1 n2
(15)
VN
là sai tiêu chuẩn ngẫu nhiên
na
ni và nj là dung lượng mẫu ứng với cơng thức thí nghiệm có số
trung bình mẫu lớn thứ nhất và lớn thứ hai.
Nếu | t | tính theo (15) ≤ t05 tra bảng với k = n-a bậc tự do thì giả thuyết
H0 được chấp nhận, sai khác giữa hai số trung bình là khơng rõ rệt nên có thể
chọn một trong hai cơng thức làm cơng thức có ảnh hưởng trội nhất đến kết
quả thí nghiệm.
22
Nếu | t | tính theo (15) > t05 tra bảng với k = n-a bậc tự do thì giả thuyết
H0 bị bác bỏ, chọn cơng thức thí nghiệm ứng với số trung bình lớn nhất làm
cơng thức có ảnh hưởng trội nhất.
Xử lý số liệu được thực hiện trên phần mềm Exel 5.0.
23
Phần V
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
5.1. Ảnh hƣởng của nồng độ IBA đến ra rễ của hom
Thí nghiệm với 6 loại nồng độ IBA khác nhau và một công thức đối
chứng (không sử dụng thuốc), thu được kết quả như sau:
5.1.1. Ảnh hưởng của nồng độ IBA đến tỷ lệ hom sống và tỷ lệ hom ra rễ
Sau 30 ngày tiến hành thí nghiệm: từ khi giâm đến chăm sóc, theo dõi
và ghi chép số cây sống, số cây chết, số cây ra rễ ở từng cơng thức thí nghiệm
vào mẫu biểu 4.1 thì thu được số liệu về tỷ lệ hom sống và tỷ lệ hom ra rễ ở
bảng sau:
Bảng 5.1: Ảnh hƣởng của nồng độ IBA đến tỷ lệ hom sống
và tỷ lệ hom ra rễ
Tỷ lệ hom sống
Tỷ lệ hom ra rễ
(ppm)
%
S
%
S
ĐC- 0
10.37
1.28
8.15
1.28
250
52.59
5.59
37.04
5.59
500
45.93
8.98
40.00
8.89
750
65.93
12.24
58.52
7.14
1000
39.26
6.79
32.59
2.57
1250
31.85
3.39
23.70
7.80
1500
40.74
8.41
21.48
3.39
Nồng độ IBA
- Tỷ lệ hom sống:
Qua bảng 5.1 cho thấy nồng độ IBA có ảnh hưởng đến tỷ lệ hom sống.
Khi nồng độ IBA tăng, tỷ lệ hom sống cũng có xu hướng tăng lên và đạt được
24
trị số cao nhất ở nồng độ 750ppm (65,93%), sau đó có xu hướng giảm. Các
cơng thức có xử lý IBA đều có tỷ lệ hom sống cao hơn đối chứng .
Kiểm tra sự thuần nhất về tỷ lệ hom sống giữa các cơng thức thí
nghiệm bằng tiêu chuẩn χ2 cho kết quả: n2 = 100,76 > 052 = 12,6 (tra bảng
với k = 6 bậc tự do). Kết quả đó cho phép khẳng định nồng độ IBA như đã
nghiên cứu có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ hom sống.
Để xác định được nồng độ thích hợp nhất cho giâm hom Xoan ta, khóa
luận đã dùng tiêu chuẩn U của phân bố chuẩn để kiểm tra sai dị về tỷ lệ hom
sống của cặp cơng thức thí nghiệm cho kết quả tốt nhất. Kết quả cho thấy |U|
= 2,25 > 1,96 nên chúng không thuần nhất với nhau, cơng thức thí nghiệm
ứng với nồng độ 750ppm cho tỷ lệ sống cao nhất là nồng độ thích hợp nhất
cho giâm hom Xoan ta.
- Tỷ lệ hom ra rễ:
Bảng 5.1 cho thấy nồng độ IBA có ảnh hưởng đến tỷ lệ hom ra rễ. Khi
nồng độ bắt đầu tăng, tỷ lệ hom ra rễ tăng lên tương ứng và đạt được trị số lớn
nhất (58,52%) tại nồng độ 750ppm sau đó giảm dần. Tỷ lệ này thấp nhất ở
cơng thức đối chứng - không xử lý IBA (chỉ đạt 8,15%). Kết quả kiểm tra ảnh
hưởng của nồng độ IBA đến tỷ lệ hom ra rễ bằng tiêu chuẩn χ2 cho thấy n2 =
96,15 > 052 = 12,6 (tra bảng với k = 6 bậc tự do). Điều này chứng tỏ nồng độ
hố chất tác động khơng đồng đều lên tỷ lệ hom ra rễ. Kiểm tra thuần nhất
giữa hai công thức cho tỷ lệ hom ra rễ lớn thứ nhất và thứ hai bằng tiêu chuẩn
U của phân bố chuẩn thu được |U| = 3,09 > 1,96 chứng tỏ hai nồng độ trên
cho tỷ lệ hom ra rễ khác nhau rõ rệt. Như vậy cơng thức thí nghiệm ứng với
nồng độ 750ppm là cơng thức có ảnh hưởng trội nhất đến khả năng ra rễ của
hom giâm.
Ảnh hưởng khác nhau của nồng độ IBA đến kết quả giâm hom được
minh hoạ bởi biểu đồ sau:
25