Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.38 KB, 9 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b>Suốt quãng đời cắp sách đến trường, người học sinh luôn bầu bạn với sách, vở, bút, thước… và coi </b></i>
<i><b>đó là những vật dụng khơng thể thiếu được. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì tơi u q nhất</b></i>
<i><b>là cây bút bi, một vật đã gắn bó với tơi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ cịn hữu ích với tơi lắm!</b></i>
Hồi cịn ở cấp một, tôi dùng bút máy viết mực và chữ tơi khá đẹp, nhưng khi vào cấp hai thì nó lại gây cho tơi khá nhiều
phiền tối. Tơi phải vừa viết vừa nghe Thầy, cô giảng bài với tốc độ khá nhanh nên bút máy không thể đáp ứng được
yêu cầu này. Chữ viết lộn xộn và lem luốc rất khó coi! Lúc ấy thì Ba mua tặng tôi một chiếc bút bi với lời khuyên: “con
hãy thử xài loại bút này xem sao, hy vọng nó có ích với con”. Kể từ đó tơi luôn sử dụng loại bút này để rồi hôm nay có
dịp nhìn lại, tìm hiểu đơi điều về nó.
Chiếc bút bi đầu tiên, được một nhà báo Hungary làm việc tại Anh tên Laszlo Biro giới thiệu vào năm 1938. điều khiến
Ông nghĩ ra việc sáng chế ra loại bút này là vì những cây bút máy ln gây cho Ông thất vọng, chúng thường xuyên làm
rách, bẩn giấy tờ, phải bơm mực và hay hư hỏng… Vào ngày 15 tháng 6 năm 1938 ông Biro được nhận bằng sáng chế
Anh quốc. Từ khi bút bi được ra đời nó đã được cải tiến nhiều để phù hợp với người dùng và đã trở nên thông dụng
khắp thế giới.
Tuy có khác nhau về kiểu dáng như chúng đều có cấu tạo chung giống nhau. Bút bi có ruột là một ống mực đặc, đầu
ống được gắn với một viên bi nhỏ có đường kính khoảng từ 0,7 đến 1 milimet, được coi như là ngòi bút. Khi ta viết mực
được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của viên bi này và loại mực dùng cho bút khơ rất nhanh.
Con người thường ít nghĩ đến những gì quen thuộc, thân hữu bên mình. Họ cố cơng tính tốn xem trung bình một đời
người đi được bao nhiêu km hay một người có thể nhịn thở tối đa bao nhiêu phút nhưng chắc chưa có thống kê nào về
số lượng bút họ dùng trong đời!
Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim và mực
chứa trong bút được ví như máu, giúp ni sống cơ thể. Cịn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy… chúng phải cứng
cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên
ngồi giống như quần áo, làm tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp phần
tạo nên một cây bút. Như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho đời để rồi khi cạn mực, chúng bị vứt bỏ
một cách lạnh lùng. Mấy ai nhớ đến công lao của chúng!
Bước vào năm học mới, các nhà sản xuất bút bi như Bến Nghé, Đông Á, Thiên Long, Hán Sơn… đã lần lượt cho ra đời
hàng loạt mẫu mã từ đơn giản cho đến cầu kỳ như bút bấm, bút xoay, bút hai màu, ba màu… đủ chủng loại khác nhau
nhằm đáp ứng như cầu người sử dụng.
Các cậu nam sinh thì chỉ cần giắt bút lên túi áo đến trường nhưng nhiều bạn gái lại thích “trang điểm” cho bút các hình
vẽ, hình dáng xinh xắn lên thân hay đầu bút cịn được đính thêm con thú nhỏ ngộ nghĩnh… Thế là những chiếc bút bi lại
theo chân trò nhỏ đến trường, giúp các cô, cậu lưu giữ những thông tin, kiến thức vô giá được thầy cô truyền đạt lại với
cả tấm lịng!
Có cây bút vẻ ngồi mộc mạc, đơn giản song cũng có cây được mạ vàng sáng lống. Nhìn bút, người ta
biết được “đẳng cấp” của nhau, nhưng nhìn vào nét chữ người ta mới đốn được tính cách hay đánh giá
được trình độ của nhau. “Một chiếc áo cà sa không làm nên ông thầy tu”, một cây bút tuy tốt, đắt tiền đến cỡ
nào cũng chỉ là vật để trang trí nếu vào tay kẻ đầu rỗng mà thôi!
thành một người bạn thân thiết, một cánh tay đắc lực trong việc học tập bạn nhé!
Cùng với sách, vở… bút bi là dụng cụ học tập quan trọng của người học sinh, vì vậy chúng ta cần phải bảo quản bút
cho tốt. dùng xong phải đậy nắp ngay để tránh bút rơi làm hư đầu bi, bộ phận quan trọng nhất của bút. Đặc biệt là luôn
để bút ở tư thế nằm ngang giúp mực luôn lưu thông đều, không bị tắc. Một số loại bút bi có thể thay ruột khi hết mực và
mình xin mách các bạn một mẹo nhỏ là nếu để bút bi lâu ngày khơng xài bị khơ mực thì đừng vội vứt bỏ mà chỉ cần lấy
ruột bút ngâm trong nước nóng độ 15 phút… cây bút của bạn có thể được phục hồi đấy.
Có thể nói rằng bút bi là một trong những phát minh quan trọng của con người. Ngày nay cứ 1 giây lại có 57
cây bút bi được bán ra trên thế giới, chứng tỏ tầm ảnh hưởng quan trọng của nó. Khoa học tiến bộ, nhiều
cơng cụ ghi chép tinh vi hơn, chính xác hơn lần lượt xuất hiện nhưng bút bi vẫn được nhiều người sử dụng
bởi nó rẽ và tiện lợi. Cầm cây bút bi trên tay, nắn nót từng chữ viết cho người thân yêu, chúng ta mới gửi
gắm được trong đó bao nhỉ.
<b>Mỗi dịp xuân về, ngàn hoa lại khoe sắc. Trong mn ngàn lồi hoa rực rỡ sắc hương ấy có </b>
<b>một lồi </b>hoa rất dỗi quen thuộc với người Việt Nam: hoa mai vàng.
Mai vàng thuộc họ hàng mai, vốn là một loài cây hoang dã, mọc nơi núi rừng với dáng vẻ tự nhiên
mà quyến rũ. Trải qua thời gian cùng với nhu cầu thưởng ngoạn, trao gởi tâm linh, con người đã
phát hiện, thuần dưỡng và xem mai như một người bạn thân thiết, tao nhã.
Mai có dáng vẻ thanh cao. Thân cây mềm mại, lá xanh biếc, dịu dàng, hoa tươi, rực rỡ. Mai thường
trút lá vào mùa đông và ra hoa vào mùa xuân. Hoa nở thành từng chùm, có cuốn dài treo lơ lửng
trên cành, thoảng mùi thơm e ấp, kín đáo. Mỗi nụ hoa thường có năm cánh. Cá biệt có hoa tới
những chín, mười cánh. Dân gian vẫn tin rằng năm mới nhà nào có cành mai như vậy là dấu hiệu
của điềm lành, của một năm thịnh vượng, an khang.
Mai thuộc loại dễ trồng và cũng dễ chăm sóc. Người ta thường trồng mai bằng cách chọn những hạt
mai nhín mẩy, phơi khơ rồi đem gieo vào đất ẩm, có thể gieo trong chậu hoặc ngồi vườn. Nó ưa
đất ẩm và ánh sáng nhưng không chịu được úng. Vì vậy cần trồng cây mai nơi cao ráo và phải
thường xuyên tưới nước cho cây. Nếu trồng trong chậu thì cần chú ý bón phân và thay đất hàng
năm. Nếu chăm dóc tốt thì khoảng 5 - 7 năm mai có thể cho hoa. Để có một chậu hoa đẹp thường
chú ý cắt nhánh, uống cành, tạo thế để có được những chậu mai có hình dạng độc đáo, mang ý
nghĩa sâu sắc,đậm chết triết lí Á Đơng. Để mai ra hoa đúng vào ba ngày Tết, người trồng mai
thường phải chú ý trút lá và canh thời tiết. Năm nào thời tiết nắng ấm thì trút lá trước Tết khoảng
hai mươi lăm ngày. Năm nào rét đậm thì phải trút lá sớm hơn.
Mai là một cây quý của người Việt Nam. Hiểu biết về cây mai sẽ giúp chúng ta khám phá ra bao
điều thú vị để từ đó càng thêm yêu quý, nâng niu trân trọng và biết cách làm tôn vinh giá trị của
mai, góp phần làm cho ngàn hoa của xứ sở ln rực rỡ sắc hương.
<b>Trong dịng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, </b>
<b>“BìnhNgơ đại cáo”</b> của Nguyễn Trãi được đánh giá là ánh “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn
độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt ln u thích, tự hào.
"Bình Ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc
Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng
nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ
bạo” và “Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đoạn thứ hai của bài cáo
đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố
cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát
tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới
ách thống trị của kẻ thù: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai
vạ”; “Dối trời, lừa dân, đủ mn nghìn kế-Gây binh kết ốn, trải hai mươi năm”. Đoạn văn ngùn
ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất
của bài cáo, có Ý nghĩa như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại
quá trình khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài
đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân
không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít
địch nhiều”…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi sáng suốt, bền chí, yêu nước “Ngẫm thù
lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề khơng cùng sống”, biết đồn kết lịng dân “Sĩ tốt một lịng
phụ tử-Hịa nước sơng chén rượu ngọt ngào”, dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn
ngày một trưởng thành “Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh”và ngày càng chiến thắng giòn giã,
vang dội “Đánh một trận sạch khơng kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim mng”, giặc Minh thì
sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo
lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng
tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
“Đại cáo bình Ngơ” của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta
thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện
lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người
dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…”
Nguyễn Trãi khơng chỉ là một danh nhân văn hố thế giới, một nhà nhân cách lớn mà còn là một
Bài cáo được công bố năm 1428, sau khi LL đại phá quân M đã truyền lệnh NT viết nên nhằm ban
bố rộng rãi cho toàn dân rằng cuộc kháng chiến chống M đã kết thúc, 1 kỉ ngun mới – kỉ ngun
hồ bình, độc lập dân tộc, tự do được mở ra. Bài cáo vừa mang những đặc trưng cơ bản của thể cáo
vừa có những điểm sáng tạo đặc sắc của NT. ĐCBN được viết bằng chữ Nôm, chia thành bốn phần
khá rõ.
Mở đầu, t/g đã nhắc đến tư tưởng nhân nghĩa – đây là một tư tưởng nhân đạo lớn,, xuyên suốt mạch
cảm xúc của tác phẩm. Với NT, ông quan niệm “ Việc nhân ….trừ bạo” – yêu nước, thương dân, vì
dân trừ bạo, đem lại một cuộc sống yên bình, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu lớn lao mà NT đã
giành cả đời để theo đuổi. Bên cạnh tư tưởng nhân nghĩa, NT còn khẳng định hùng hồn về nền độc
lập từ bao đời của Đại Việt. Ơng khẳng định ĐV từ lâu đã có những phong tục riêng, có ranh giới rõ
rang, có những triều đại cùng song2 tồn tại, phát triển với các triều đại phương Bắc - đây là một lời
phát biểu thật hoàn chỉnh, sâu sắc. Cả đoạn văn mang âm điệu chững chạc, tự tin, lời văn sắc sảo,
người viết đã viết với một tâm trạng tự hào, tinh thần khẳng khái.
Phần 2 của bài là một bản cáo trạng đẫm máu và nước mắt, tố cáo tội ác của lũ giặc ngông cuồng,
những tội ác ấy khiến đất trời phải căm phẫn, nhân dân phải đứng lên để đấu tranh giành lại quyền
tự chủ. T/g đã liệt kê rõ rang hành động của giặc Minh “nướng dân đen, vùi con đỏ”, dối trời lừa
dân, gây binh kết oán, thuế khoá cống nạp…huỷ diệt con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát
cả những người dân vô tội,… với một giọng văn kết án để thể hiện lịng đau xót, căm thù giặc đến
tận cùng
tháo gỡ những khó khăn làm nên đại thắng; khơng chỉ dừng ở đó, NT đã vạch rõ sự thất bại nhục
nhã , cảnh lũ bại quân kẻ chết người bị thương dẫm đạp lên nhau mà chạy thốt thân “Đơ đốc Thơi
Tụ …tội” – “Thượng thư…”. ND ta đã nêu cao nhân nghĩa khơng những tha tội chết cho chúng mà
cịn cấp thuyền, ngựa, lương…Hành động đó khơng chỉ vì long hiếu sinh, long nhân đạo, u hồ
bình của nhân dân ta mà còn sang ngời tư tưởng cốt lõi nêu ở đầu bài cáo “nhân nghĩa – yên dân -
trừ bạo”
Đoạn kết thúc là lời tuyên bố thắng lợi vẻ vang của cuộc chiến, khẳng định cái tất thắng của sự
nghiệp chính nghĩa, vết nhục ngàn đời đã rửa xong. “ Xã tắc từ đây …mới” Đoạn văn mang một
tâm trạng hả hê, giọng văn thư thái, khoẻ khoắn như một tiếng chuông ngân vang..
Bài ĐCBN là một bản anh hùng ca bất hủ, một áng thiên cổ hùng văn của dân tộc VN. Bài văn là
kết tinh giữa tài năng nghệ thuật và cảm hứng nhân đạo sâu sắc của t/g. NT cũng như những giá trị
nghệ thuật và nhân văn sâu săc trong các tác phẩm của ông, đặc biệt là ĐCBN, sẽ còn lưu truyền
mãi về sau, sẽ sống mãi trong lòng bao thế hệ người dân VN.
* Mở bài :
- Giới thiệu về con Trâu : Trog n~ bức tranh dân gian , trên con đườg làng sớm tinh mơ , những
buổi chiều hôm hay giữa trưa hè nắng lửa trên cánh đồng làng hình ảnh con trâu đi trc' cái cày theo
sau đã là hình ảnh quen thuộc của nơng thơn VN , thế mới có câu " Con trâu là đầu cơ nghiệp ".
* Thân bài :
- Nguồn gốc : Con trâu của VN vốn có nguồn gốc từ loại trâu rừng ở vùng đầm lầy . Đc ng` xưa săn
bắt thuần hóa , h` đã trở thành vật nuôi thân thuộc nhất của nhữg miền thơn q
- Phân loại
+Trâu thuộc họ bị , bộ guốc chẵn, nhóm đv nhai lại , sừng rỗng .
+ Trâu của Vn thuộc giống thuần chủng tức là giốg trâu đầm lầy , tầm vóc nhỏ đến TB so vs các
loại trâu của Nam á .
- Đặc đ? cấu tạo :
+ TRâu trưởng thành có chiều cao TB từ 1m2~>1m4
+ Sừng trâu hình cánh cung ( lưỡi liềm ) . Đầu nhọn thường dùng để tự vệ .
+ Tai trâu dài cỡ bằng lá đa , lá mít , rất linh hoạt .
+ Da trâu dày , lơg rậm , cứng . Trâu thường có màu xám đen . Một số con đột biến gen có màu
trắng
+ Đi trâu dài có túm lơg dùng để xua đuổi ruồi muỗi hoặc các lồi kí sinh khác
+ Bốn chân thon chắc , có móng sừng giúp trâu di chuyển tốt ở mọi địa hình
- Đặc điểm sinh trưởng :
+Trâu sinh sống ở khắp nơi . Thức ăn của chúng là các loại cỏ , rơm rạ và 1 số lá cây
+ Trâu là động vật có vú , sinh sản đơn tính . Trâu cái đẻ theo mùa , thường vào vụ xuân hè .
+ Nghé con mới chào đời chưa có sừng , chưa mọc răng chỉ sau 1 vài tiếng đã có thể đi lại đc .
+ Nghé đc 3 tuổi thì mọc răng cửa , 6 t? thì thành trâu trưởng thành , hàm trên có 8 răng . Trâu ko
có hàm dưới .
+ Một đời trâu mẹ đẻ từ 5~>6 lần . Thường thì mỗi 1 lần nghé con .
+ Trâu đực trưởng thành từ 450-500kg
+ Trâu cái trưởng thành nặng từ 300-400 kg
- Tác dụng - ích lợi :
+ Ở nông thôn , từ xưa đến nay , trâu là nguồn sức kéo chính . Trâu đc dùng để kéo cày bừa . 1 con
+ Trâu còn là nguồn cung cấp thực phầm : Thịt trâu nạo , độ dạm cao , h` đã thành những món ăn
đặc sản , thịt trâu nướng là tốt , thịt trâu xào rau muống , rau cần ; Sữa trâu chất lượng ko kém sữa
bò , một con cái trog 1 vụ có thể cho tới 500 l sữa
+ Phân trâu : dùng bón ruộng .
- Ý nghĩa lịch sử văn hóa xã hội :
+ Con trâu đã gắn bó vs tuổi thơ của n~ đứa trẻ cùng thôn quê : Chăn trâu - cắt cỏ - thả diều - thổi
sáo ( trên những bức tranh cổ từ xa xưa đã có hình ảnh quen thuộc : chú mục đồng ngồi trên lưng
trâu thổi sáo .
+ Đinh Bộ Lĩnh từng cưỡi trâu đánh trận giả , sau này trở thành Hoàng đế
+ Con trâu gắn liền vs lễ họi văn hóa dân gian :
Hội " đâm trâu " của các dân tộc tây nguyên
Hội " chọi trâu " ở đồ sơn
+ TRuyện cổ tích nxưa của việt nam đã có mặt con trâu ( trí khơn của ta đây )
+ Con trâu đã đc chọn làm " linh vật " cho thế vận hjội Đôg Nam á lần thứ 22 tại VN
* Kết bài :
- Con trâu là vật nuôi quen thuộc nhất
- Dù đất nước phát triển cơg nghiệp hóa , hiện đại hóa , diên tích canh tác có thể bị thu hẹp lại ,
nhưg ko bh` vắng bóg những con trâu cần mẫn lầm lũi trên cánh đồng làng .
" Bao giờ cây lúc cịn bơg
Thì cịn ngọn cỏ ngồi đồng trâu ăn " .
<b>Thuyết minh về Vịnh Hạ Long nhé </b>
Nằm ở vùng Ðông Bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của
thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp
đảo Cát Bà, phía đơng là biển, phần cịn lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới
hạn từ 106o58' - 107o22' kinh độ Ðông và 20o45' - 20o50' vĩ độ Bắc với tổng diện tích 1553 km2
gồm 1969 hịn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Ðảo của vịnh Hạ Long
có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía đơng nam
(thuộc vịnh Bái Tử Long) và vùng phía tây nam (thuộc vùng vịnh Hạ Long) có tuổi kiến tạo địa
chất từ 250 - 280 triệu năm. Vùng tập trung dày đặc các đảo đá có phong cảnh ngoạn mục và nhiều
hang động đẹp nổi tiếng là vùng trung tâm Di sản thiên nhiên vịnh Hạ Long, bao gồm vịnh Hạ Long
và một phần vịnh Bái Tử Long. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới cơng nhận có diện tích 434
km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm
(phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia
được Bộ Văn hố Thơng tin xếp hạng năm 1962.
Tên gọi Hạ Long đã thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử, thời Bắc thuộc khu vực này được gọi là Lục
Châu, Lục Hải. Các thời Lý, Trần, Lê Vịnh mang các tên Hải Đông, An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn
hay Lục Thủy. Tên Hạ Long (rồng đáp xuống) mới xuất hiện trong một số thư tịch và các bản đồ
hàng hải của Pháp từ cuối thế kỷ 19.
Trên tờ Tin tức Hải Phịng xuất bản bằng tiếng Pháp có bài viết về sự xuất hiện của sinh vật giống
rồng trên khu vực là vịnh Hạ Long ngày nay với nhan đề Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long, khi
viên thiếu úy người Pháp Legderin, thuyền trưởng tàu Avalence cùng các thủy thủ bắt gặp một đôi
rắn biển khổng lồ ba lần (vào các năm 1898, 1900 và 1902). Có lẽ người Châu Âu đã liên tưởng con
Buồm, hòn Cặp Gà, hòn Lư Hương... Tất cả trông rất thực, thực đến kinh ngạc. Hình dáng những
đảo đá diệu kỳ ấy biến hố khơn lường theo góc độ ánh sáng trong ngày và theo góc nhìn. Tiềm ẩn
trong lịng các đảo đá ấy là những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Ðầu Gỗ, động
Sửng Sốt, động Tam Cung... Ðó thực sự là những lâu đài của tạo hố giữa chốn trần gian. Từ xưa,
Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là kỳ quan đất dựng giữa trời cao.
Vịnh Hạ Long cũng là nơi gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân tộc với những địa danh nổi
tiếng như Vân Ðồn - nơi có thương cảng cổ nổi tiếng một thời (1149), có núi Bài Thơ ghi bút tích
của nhiều bậc vua chúa, danh nhân, xa hơn chút nữa là dịng sơng Bạch Ðằng - nơi đã từng chứng
kiến hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của cha ơng ta chống giặc ngoại xâm.. Khơng chỉ có vậy, Hạ Long
ngày nay được các nhà khoa học chứng minh là một trong những cái nôi của con người có nền văn
hố Hạ Long từ Hậu kỳ đồ đá mới với những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Ðồng Mang, Xích
Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng... Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh
thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh
thái rừng cây nhiệt đới... Với hàng ngàn loài động, thực vật vô cùng phong phú trên rừng dưới biển,
cá, mực... Có những lồi đặc biệt q hiếm chỉ có ở nơi đây.
Với những giá trị đặc biệt như vậy, ngày 17/12/1994, trong phiên họp lần thứ 18 của Hội đồng Di
sản Thế giới thuộc UNESCO tổ chức tại Thái Lan, vịnh Hạ Long chính thức được cơng nhận là Di
sản thiên nhiên, khẳng định giá trị mang tính tồn cầu của Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long.
Cách đây hơn 5 thế kỷ, Nguyễn Trãi đi ngang qua khu vực này và lần đầu tiên ca ngợi vịnh Hạ
Long là kỳ quan, khi viết trong bài "Lộ nhập Vân Đồn":
Lộ nhập Vân Đồn san phục san
Thiên khơi địa khiết phó kỳ quan
Vua Lê Thánh Tông đề trên vách đá Núi Bài Thơ năm 1468:
Cự lãng nông nơng kiểu bách xun
Quần sơn cờ cổ bích liên thiên
Trăm dịng sơng chảy mênh mơng quanh núi
Quần đảo rải rác như bàn cờ, biển liền trời sắc xanh biếc.
I. Hang, Ðộng
Hang Ðầu Gỗ
Qua ngăn thứ 1, vào ngăn thứ 2 bằng một khe cửa hẹp. ánh sáng chiếu vào đây mờ ảo, những bức
tranh mới lạ hiện lên long lanh huyền bí. Những chùm hoa đá lúc ẩn lúc hiện, những hình ảnh vừa
quen thuộc vừa lạ,... tạo cho con người vừa sợ sệt vừa tò mò. Tận cùng hang là một chiếc giếng tiên
bốn mùa nước ngọt trong vắt, chảy tràn trề quanh năm. Bất giác ta nhìn lên phía trên trong ánh sáng
mờ ảo, ta nhận ra bốn xung quanh là bức thành cổ, trên đó đang diễn ra một trận hỗn chiến kỳ lạ,
những chú voi đang gầm thét, người và ngựa chen chúc, gươm giáo mọc tua tủa, tất cả đang ở trong
tư thế xơng lên và bỗng dưng bị hố đá chốn này. Năm 1917, vua Khải Ðịnh lên thăm hang Ðầu
Gỗ, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần tiên của tạo hoá, ông đã cho khắc một tấm văn bia với nội dung ca
ngợi cảnh đẹp của non nước Hạ Long và hang Ðầu Gỗ. Hiện nay, tấm bia đá vẫn còn ở phía bên
phải cửa động.
Hang Sửng Sốt
Nằm ở khu vực trung tâm của Di sản thế giới vịnh Hạ Long, động Sửng Sốt trong đảo Bồ Hòn.
Người Pháp đặt cho động cái tên grotto les suprices (động của những sửng sốt). Ðây là một hang
Hang Trinh Nữ - Hang Trống