Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.09 KB, 10 trang )

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

46.

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
HOẠT ĐỘNG XUẤT - NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
ThS. Nguyễn Thị Thanh Nhàn*
Tóm tắt
2020 là năm chứng kiến nền kinh tế thế giới sụt giảm nghiêm trọng do chịu ảnh hưởng lớn
của dịch bệnh COVID-19. Trong bối cảnh đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng đã trở thành điểm sáng của khu vực và cả trên thế giới. Tuy nhiên, do chịu
tác động trực tiếp của đại dịch mà một số ngành hàng là thế mạnh của Việt Nam trong năm qua
tăng trưởng ở mức âm và khơng đạt được mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đề ra. Để giúp các
doanh nghiệp nắm bắt tốt được các cơ hội của thị trường hiện nay cũng như đón đầu được các cơ
hội khi đại dịch đi qua, bài viết đã đưa ra những phân tích về thực trạng hoạt động xuất - nhập
khẩu trong năm qua, từ đó đề xuất những giải pháp cho phía doanh nghiệp cũng như đối với các
cơ quan quản lý nhà nước để có thể thúc đẩy được hoạt động xuất - nhập khẩu trong thời gian tới.
Từ khóa: Xuất khẩu, nhập khẩu, COVID-19, Việt Nam, thế giới
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Qua 35 năm Đổi mới (1986 - 2020), nền kinh tế Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn,
tăng trưởng của nền kinh tế ln ở mức dương, có nhiều năm tăng trưởng đạt mức cao trên dưới
8%; tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống 11,3% năm 2009 và chưa đến 4% vào năm
20191; thu nhập của người dân được cải thiện rõ rệt, đời sống người dân nâng cao. Tuy nhiên,
trong hơn 3 thập niên Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam nhiều lần chịu tác động bởi các cú sốc bên
ngoài như cuộc Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, cuộc Khủng hoảng tài chính thế giới
năm 2008 và cú sốc dịch tễ vào năm 2020. Khác với hai cú sốc trước là về tài chính - tiền tệ, cú
sốc COVID-19 lần này chưa từng có tiền lệ, tác động mạnh mẽ lên nhiều nước trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Dịch COVID-19 bùng phát từ những tháng đầu năm 2020 và hiện vẫn diễn biến phức tạp đã
tác động nặng nề đến kinh tế Việt Nam nói chung và gây khó khăn cho hoạt động xuất - nhập
Nguồn:


*Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông Việt - Hàn, Đại học Đà Nẵng
1

486


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

khẩu nói riêng. Ảnh hưởng của dịch bệnh đã dẫn đến việc tắc nghẽn vận chuyển hàng hóa qua
biên giới, làm gián đoạn chuỗi cung nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất nhiều loại hàng hóa
trong nước. Tiếp đó, kể từ quý II/2020 đến nay, dịch bệnh lan rộng ra khu vực các nước châu Âu,
châu Mỹ và vẫn chưa được kiểm soát hiệu quả, do đó nhiều thị trường xuất - nhập khẩu quan
trọng của nước ta đến nay vẫn áp dụng các biện pháp phong tỏa gây ảnh hưởng rất lớn đến tình
hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như: dệt may, da giày... 
Trong bối cảnh tình hình dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, hoạt động thương mại và
đầu tư trên thế giới suy giảm dẫn đến một số nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam cũng
giảm mạnh như dệt may, da giày, xăng dầu… Tuy nhiên, nhìn chung, tình hình xuất - nhập khẩu
của Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng dương. Trước thực trạng trên, bài viết sẽ đi vào phân tích
rõ hơn về hoạt động xuất - nhập khẩu của từng lĩnh vực, qua đó đưa ra những giải pháp để giúp
các doanh nghiệp tận dụng tốt những cơ hội của thị trường hiện nay cũng như đón đầu được các
cơ hội khi đại dịch đi qua. Bài viết cũng cung cấp những hàm ý chính sách đối với các cơ quan
quản lý nhà nước, các nhà quản trị công ty và nhà đầu tư.
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT - NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
DỊCH COVID-19
2.1. Tình hình xuất khẩu của một số nhóm hàng chính trong năm 2020
Tính cả năm 2020, tổng trị giá xuất khẩu đạt 282,65 tỷ USD, tăng 7,0% tương ứng tăng 18,39
tỷ USD so với năm trước, trong đó: máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 8,89 tỷ USD
tương ứng tăng 48,6%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 8,66 tỷ USD tương ứng

tăng 24,1%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 1,72 tỷ USD tương ứng tăng 16,2%; sắt thép các loại tăng
1,05 tỷ USD tương ứng tăng 25,1%... Bên cạnh đó, có một số nhóm hàng giảm mạnh như: hàng
dệt may giảm 3,02 tỷ USD, tương ứng giảm 9,2%; giày dép các loại giảm 1,52 tỷ USD, tương
ứng giảm 8,3%; xăng dầu các loại giảm 1,03 tỷ USD, tương ứng giảm 51,2%.1
Hình 1. Mức tăng/giảm trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng 
năm 2020 so với năm 2019

Nguồn: Tổng cục Hải quan
1

Nguồn:

487


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Hàng dệt may
Trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong cả năm 2020 ước đạt 35,29 tỷ USD, giảm 10,91% so
với năm 2019. Tính trong năm 2020, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn
nhất từ Việt Nam với trị giá đạt gần 14 tỷ USD giảm 5,8% so với năm trước và chiếm 46,9%
tổng trị giá xuất khẩu hàng dệt may của cả nước; thị trường EU (28 nước) tiêu thụ 3,68 tỷ USD
giảm 15%; tiếp theo là thị trường Nhật Bản đã tiêu thụ 3,53 tỷ USD, giảm 11,4%; thị trường Hàn
Quốc tiêu thụ 2,86 tỷ USD giảm 14,8%.Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc của
Việt Nam năm 2020 giảm mạnh so với năm 2019, nhưng vẫn khả quan khi kết quả xuất khẩu chỉ
giảm 10,9%, thấp hơn nhiều so với dự đoán giảm 15% trong các dự báo hồi tháng 6/2020.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác
Tính cả năm 2020, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 27,19 tỷ USD, tăng 48,6% so với năm
trước. Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng trong năm 2020 chủ yếu
gồm: Hoa Kỳ với 12,21 tỷ USD tăng mạnh 141,5%; EU (28 nước) đạt trị giá 3,49 tỷ USD tăng

28,5%; Hàn Quốc với 2,05 tỷ USD tăng 25,9%; Nhật Bản với 2,05 tỷ USD tăng 5,6%; Trung
Quốc với 1,94 tỷ USD tăng 22,2% so với năm 2019.
Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện
Trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong cả năm 2020 đạt 44,58 tỷ USD, tăng 24,1% so với
năm 2019. Trong năm 2020, xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Trung
Quốc đạt 11,09 tỷ USD tăng 16% so với năm trước; sang thị trường Hoa Kỳ đạt 10,39 tỷ USD
tăng mạnh 71,7%; sang thị trường EU (28 nước) đạt 6,51 tỷ USD tăng 28,7%; sang Hồng Kông
đạt 4,19 tỷ USD tăng 38,2%.
Thủy sản
Năm 2020, xuất khẩu nhóm hàng này đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,5% so với năm trước. Trong
đó, xuất khẩu sang 4 thị trường chính là Hoa Kỳ đạt 1,6 tỷ USD tăng 10,4%; Nhật Bản đạt 1,4 tỷ
USD giảm 1,8%; EU đạt 1,3 tỷ USD giảm nhẹ 0,8% và Trung Quốc đạt 1,2 tỷ USD giảm 4,8%
so với năm 2019.
Gạo 
Trong năm 2020, xuất khẩu gạo của cả nước đạt 6,2 triệu tấn giảm  1,9% về lượng so với năm
trước nhưng do đơn giá bình quân xuất khẩu tăng nên trị giá đã tăng 11,2%, đạt 3,12 tỷ USD.
Đặc biệt, lượng gạo xuất sang thị trường Trung Quốc tăng mạnh (70%), với 811 nghìn tấn; và
xuất sang thị trường dẫn đầu Philippines với 2,2 triệu tấn; tăng nhẹ 4% so với cùng kỳ năm trước.
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
Trong năm qua, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt tới 2,67 tỷ USD, tăng mạnh 28,7% so
với năm trước. Trong đó: xuất sang Hồng Kông là 2,1 tỷ USD, trong khi con số của cùng kỳ năm
trước chỉ là 50 triệu USD; xuất sang Thụy Sỹ là 103 triệu USD, giảm mạnh so với con số 1,4 tỷ
USD của năm ngoái.
2.2. Tình hình nhập khẩu của một số nhóm hàng chính trong năm 2020
Tổng trị giá nhập khẩu năm 2020 tăng 3,7%, tương ứng tăng 9,31 tỷ USD so với năm trước.
Trong đó: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 12,63 tỷ USD, tương ứng tăng 24,6%;

488



KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

điện thoại các loại và linh kiện tăng 2,03 tỷ USD, tương ứng tăng 13,9%; sản phẩm từ chất dẻo
tăng 731 triệu USD, tương ứng tăng 11,2%...
Hình 2. Mức tăng/giảm trị giá nhập khẩu của một số nhóm hàng chủ lực 
năm 2020 so với năm 2019

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
Trong năm 2020, nhập khẩu nhóm hàng này đạt tới xấp xỉ 64 tỷ USD, tăng mạnh 24,6%  so
với cùng kỳ năm trước và chiếm tỷ trọng lớn nhất tới 24% trong tổng trị giá nhập khẩu của cả
nước. Trong năm qua, nhập khẩu từ Trung Quốc tăng mạnh và đã vượt Hàn Quốc trở thành thị
trường lớn nhất cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam. Cụ thể, nhập khẩu từ Trung Quốc với
18,5 tỷ USD, tăng tới 52% (tương ứng tăng 6,3 tỷ USD); nhập khẩu từ Hàn Quốc với 14,1 tỷ
USD, chỉ tăng nhẹ 1,7%. Ngoài ra, nhập khẩu từ Đài Loan với 7,7 tỷ USD, tăng tới 38% (tương
ứng tăng 2,1 tỷ USD) so với năm trước.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 
Trị giá nhập khẩu của nhóm hàng này trong năm 2020 lên 37,25 tỷ USD, tăng nhẹ 1,4% so
với năm trước. Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp nhóm hàng này cho Việt
Nam trong năm 2020 với trị giá hơn 17 tỷ USD, tăng 14,4% so với năm 2019. Bên cạnh đó,
các thị trường chủ lực khác đều suy giảm như thị trường Hàn Quốc với 6 tỷ USD, giảm 2,6%;
nhập từ Nhật Bản với 4,4 tỷ USD, giảm 5,9%; nhập từ Đức với 1,5 tỷ USD, giảm 12,4% so
với năm trước.
Nhóm mặt hàng nguyên phụ liệu dệt may, da giày 
Năm 2020, tổng trị giá nhập khẩu của nhóm hàng này là 21,54 tỷ USD, giảm 10,7% (tương
ứng giảm 2,6 tỷ USD) so với năm 2019. Trung Quốc là thị trường lớn nhất cung cấp nhóm hàng
nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may, da giày cho Việt Nam, chiếm tỷ trọng 51% với 10,9 tỷ

USD, giảm 5,3% so với năm trước. Ngồi ra, nhập khẩu nhóm hàng này cịn có xuất xứ từ Hàn
489


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Quốc với 2,3 tỷ USD, giảm 21%; từ Đài Loan với hơn 2 tỷ USD, giảm 14,4%; từ Hoa Kỳ với
1,7 tỷ USD, giảm 18%.
Điện thoại các loại và linh kiện
Trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong năm 2020 đạt 16,64 tỷ USD, tăng 13,9% so với năm
2019. Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn là hai thị trường chính cung cấp điện thoại các loại và linh
kiện cho Việt Nam với tổng trị giá đạt 15,56 tỷ USD, chiếm 93% tổng trị giá nhập khẩu của nhóm
hàng này. Trong đó: nhập khẩu từ Trung Quốc là 7,8 tỷ USD, tăng 2,9% so với năm trước; nhập
khẩu từ Hàn Quốc là 7,76 tỷ USD, tăng 31,1%.
Phế liệu sắt thép
Trong năm 2020, lượng phế liệu sắt thép nhập về Việt Nam đạt 6,3 triệu tấn, tăng 11,4% với
trị giá đạt gần 1,7 tỷ USD, tăng nhẹ 0,7% so với năm 2019. Phế liệu sắt thép có nguồn gốc xuất
xứ từ hai thị trường chính là Nhật Bản và Hoa Kỳ, chiếm tỷ trọng tới 70%. Tuy nhiên, lượng
nhập khẩu phế liệu sắt thép từ Nhật Bản lại tăng cao, trong khi từ Hoa Kỳ lại giảm mạnh. Cụ thể,
lượng nhập từ Nhật Bản là 3,4 triệu tấn, tăng 55% và từ Hoa Kỳ hơn 1 triệu tấn, giảm 16,5%.
Ơ tơ ngun chiếc các loại
Tính chung năm 2020, Việt Nam nhập khẩu 105 nghìn chiếc ô tô nguyên chiếc các loại, giảm
tới 24,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ơ tơ 9 chỗ ngồi trở xuống sụt giảm mạnh nhất
với 26,2% và mới về được 75.576 chiếc, trong khi đó, ơ tơ vận tải đạt số lượng 22.420 chiếc, chỉ
giảm 24,1%. Việc ô tô nhập khẩu giảm mạnh trong năm 2020 do nhiều ngun nhân khác nhau,
trong đó chủ yếu vì ảnh hưởng từ dịch CVOID-19 khiến nhu cầu mua xe giảm. Ngồi ra, các
chính sách của Nhà nước nhằm thúc đẩy tiêu thụ ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước cũng là một
trong các nguyên nhân chính dẫn đến hệ quả trên.
2.3. Đánh giá kết quả hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam
Nhìn chung, năm 2020 là một năm đầy thách thức đối với mọi nền kinh tế. Việc đại dịch bùng

phát và vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại đã khiến nền kinh tế thế giới sụt giảm một cách nghiêm
trọng. Trong bối cảnh đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung và xuất - nhập khẩu nói riêng
đã trở thành điểm sáng của khu vực và cả trên thế giới. Tuy nhiên, do chịu tác động trực tiếp của
đại dịch mà một số ngành hàng là thế mạnh của Việt Nam trong năm qua tăng trưởng ở mức âm và
không đạt được mục tiêu như Đảng và Chính phủ đề ra. Nhưng nhìn chung, đa phần các khối ngành
quan trọng khác vẫn đạt được những bước phát triển như kỳ vọng của Chính phủ và doanh nghiệp.
Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có
13 FTA đã ký kết và đi vào hiệu lực. Việc tham gia vào Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu
Âu (EVFTA) đã thúc đẩy rất lớn cho nền xuất khẩu nước nhà đạt được nhiều kết quả tích cực.
Ngồi ra, cịn một yếu tố quan trọng hơn nữa đó là sự chủ động trong việc phòng, chống dịch
bệnh COVID-19 và kiểm sốt tốt dịch bệnh của Chính phủ Việt Nam góp phần duy trì ổn định
hoạt động sản xuất trong nước.
Từ những số liệu về tình hình xuất - nhập khẩu năm 2020, chúng ta có thể phân tích được
các khối ngành máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện trong năm qua vẫn hoạt động và phát
490


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

triển tốt; các sản phẩm về gỗ, đồ chơi, dụng cụ thể thao, sắt thép vẫn đạt xuất siêu cao, cho dù
ảnh hưởng của nguồn cung nhập khẩu của các thị trường nước bạn.
Việc các khối ngành nông sản, giày dép, dệt may và xăng dầu năm nay xuất khẩu bị chững
lại cũng khơng q khó để dự báo, nhất là khi các thị trường đối tác lâu năm như Hoa Kỳ, Trung
Quốc, Liên minh châu Âu bị tác động do dịch bệnh quá nặng nề và vẫn đang trong thời kỳ bị
phong tỏa. Tuy số lượng xuất khẩu giảm, nhưng giá trị lại tăng, đơn cử như ngành xuất khẩu gạo,
khối lượng gạo xuất khẩu năm 2020 đạt 6,15 triệu tấn với giá trị 3,07 tỷ USD, tuy giảm 3,5% về
khối lượng nhưng tăng tới 9,3% về giá trị so với năm 2019. Nguyên nhân là do sức cạnh tranh

của các thị trường xuất khẩu chính như: Thái Lan, Ấn Độ và một số nước Đơng Nam Á giảm
mạnh. Ngồi ra, việc giá trị của các ngành hàng xuất khẩu về nông sản tăng cũng đến từ hai
ngun nhân: (i) do có sự hịa nhập tốt với những tiêu chuẩn khắt khe của các nước có địi hỏi
cao về chất lượng; và (ii) đại dịch làm cán cân cung cầu chênh lệch lớn khiến những nước xuất
khẩu nông sản tốt như Việt Nam được hưởng lợi từ đại dịch. Theo cố vấn cao cấp của Ngân hàng
Thế giới (WB) Hardwick Tchale, COVID-19 đã làm đứt gãy nhiều chuỗi cung ứng nông sản, giá
lương thực tăng, trong đó có giá gạo, ở một số nước, giá cả lương thực tăng mạnh như Argentina
tăng 39%, Myanmar tăng 30%... đây là thiệt thòi lớn cho các quốc gia này nhưng lại là cơ hội
cho các nước xuất khẩu lương thực, nông sản như Việt Nam.
Mặc dù trị giá xuất khẩu hàng dệt may giảm nhưng lại có được những cơ hội mới, cụ thể đây
là lần đầu tiên Việt Nam chiếm tới 20% thị phần hàng may mặc vào Mỹ. Nguyên nhân xuất phát
từ việc các nhãn hàng may mặc đã và đang chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam nhằm
tránh ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Kim ngạch nhập khẩu năm 2020 đạt 262,4 tỷ USD, tăng 3,7% so với năm 2019. Nhập khẩu
tập trung chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và xuất, kim ngạch
nhập khẩu nhóm hàng này đạt 245,6 tỷ USD, tăng 4,1% so với năm 2019, chiếm tỷ trọng 93,6%
trong tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó, nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ,
phương tiện vận tải, phụ tùng tăng mạnh tới 16,3%. Điều này chứng tỏ nền kinh tế đang có sự
phục hồi khá mạnh mẽ về sản xuất trong khi nhập khẩu cho tiêu dùng đã giảm đáng kể, tỷ trọng
chỉ chiếm 6,4%, giảm 0,5 phần trăm so với năm 2019.
3. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT - NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
3.1. Phân tích tình hình thị trường quốc tế để chủ động nắm bắt cơ hội
Về xuất khẩu năm 2021, kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc rất nhiều vào cầu của một số thị
trường lớn như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Trung Quốc và ASEAN, đang chiếm tới gần 80%
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nếu sự phục hồi của các thị trường này nhanh và mạnh như
một số tổ chức quốc tế dự báo, Việt Nam có khả năng sẽ lấy lại được nhịp độ tăng trưởng xuất
khẩu cao như năm 2019 và các năm trở về trước và sẽ có đóng góp tích cực hơn vào tăng trưởng
GDP. Nhưng nếu các thị trường này phục hồi chậm, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong
năm tới có thể vẫn đạt mức tăng trưởng dương nhưng sẽ không đạt mức cao như kỳ vọng để đóng

góp vào mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức 6% trong năm 2021 như mục tiêu Chính phủ đề ra.
Vậy nên việc đưa ra được các giải pháp kịch bản ứng phó đối với thị trường của từng quốc gia,
nhu cầu đối với từng ngành hàng sau khi đại dịch lắng dần là vô cùng cần thiết.

491


KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Chính phủ cần phối hợp thường xuyên với cơ quan đại diện thương mại tại các nước để theo
sát diễn biến tình hình thị trường, đặc biệt là tình hình phịng, chống dịch COVID-19 ở các thị
trường là đối tác lớn và quan trọng của Việt Nam để kịp thời triển khai các biện pháp nhằm tận
dụng cơ hội thị trường và giảm thiểu những tác động bất lợi đối với hoạt động xuất - nhập khẩu
của Việt Nam.
Bộ Công Thương cần tập trung theo dõi sát tình hình thị trường để rà sốt, xác định chủng
loại hàng hóa mà các nước đang có nhu cầu nhập khẩu, từ đó định hướng cho các doanh nghiệp
về các ngành hàng có tiềm năng xuất khẩu sang các nước, thông tin về nhu cầu nhập khẩu của
các nước và định hướng hoạt động xúc tiến thương mại, ví dụ những mặt hàng mới mà thị trường
các nước đang có nhu cầu mạnh trong bối cảnh COVID-19 như: khẩu trang kháng khuẩn, đồ bảo
hộ, buồng khử khuẩn toàn thân được coi là phương án thay thế tốt trong bối cảnh xuất khẩu các
mặt hàng dệt may gặp khó khăn.
3.2. Tận dụng lợi ích từ Hiệp định Thương mại tự do EVFTA để thúc đẩy hoạt động
xuất - nhập khẩu
Hiệp định EVFTA có hiệu lực vào ngày 01/8/2020 là một FTA thế hệ mới, mang lại nhiều
tác động tích cực đến nhiều mặt của nền kinh tế Việt Nam, qua đó có tác động đến tăng trưởng
xuất - nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường EU.
Để tận dụng có hiệu quả các ưu đãi của EVFTA mang lại, các doanh nghiệp trong nước cần
chủ động tìm hiểu nội dung của EVFTA để điều chỉnh quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm, chuyên nghiệp hóa quy trình bán hàng, tích cực xây dựng và quảng bá thương hiệu…
để nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm và doanh nghiệp, vượt qua được các rào cản về

kỹ thuật, dễ dàng thâm nhập vào thị trường các nước EU.
Để được hưởng các ưu đãi thuế suất 0% từ Hiệp định EVFTA, hàng hóa xuất khẩu sang EU
phải thỏa mãn quy tắc xuất xứ, đây cũng là một rào cản lớn với Việt Nam do nguồn nguyên liệu
cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc và
ASEAN. Do đó, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn đến nguồn cung nguyên vật liệu và có thể
dịch chuyển sang nguồn nguyên vật liệu trong nước hoặc nhập khẩu nguyên vật liệu từ các quốc
gia đảm bảo các tiêu chuẩn theo Hiệp định EVFTA.
3.3. Thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi để góp phần tăng kim ngạch xuất nhập khẩu
Quốc tế đánh giá rất cao sự chủ động và quyết liệt của Việt Nam trong phòng, chống dịch
COVID-19, cùng với việc Chính phủ ln quyết tâm cải thiện mơi trường kinh doanh, dó đó,
Việt Nam vẫn là điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư FDI trong bối cảnh đại dịch. Vì vậy, để
giữ sức hút với vốn FDI, trước hết, Việt Nam cần nỗ lực phục hồi nền kinh tế sau đại dịch, đồng
thời, thuận lợi hóa các thủ tục cách ly, kiểm tra y tế để các nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận tìm
hiểu thị trường Việt Nam.
Ngồi ra, chúng ta phải tận dụng tốt thời điểm đại dịch và chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
để biến thách thức thành lợi thế, thu hút dịng vốn FDI với cơng nghệ cao đang chuyển dịch từ
các nước có dấu hiệu bất ổn di dời sang Việt Nam; cần cắt ngắn các thủ tục hành chính nhằm tháo
492


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

gỡ cho mọi doanh nghiệp, vừa khôi phục, đổi mới đồng bộ nền kinh tế, vừa phát triển kinh tế số,
Chính phủ số, biến thị trường Việt Nam dễ tiếp cận hơn với nhiều đối tác nước ngoài.
Bên cạnh việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, Việt Nam cũng cần
tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn, chủ động trong việc lựa chọn dự án và nhà đầu tư. Cùng với
đó, Việt Nam cần tập trung chuẩn bị mặt bằng, nhất là tại các khu công nghiệp để sẵn sàng đón
dự án đầu tư nước ngồi, đồng bộ về hạ tầng giao thông, khả năng cung cấp điện, nước, thông

tin liên lạc...
3.4. Xác định nơng nghiệp là nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sau đại dịch
Nông nghiệp vốn dĩ là ngành có năng lực cạnh tranh lớn của Việt Nam trên thị trường quốc tế
nhờ tính chất về địa lý, thổ nhưỡng và khả năng sản xuất nông nghiệp. Qua đại dịch COVID-19,
nông nghiệp càng chứng tỏ là một bệ đỡ tốt cho nền kinh tế, vừa đảm bảo được an ninh lương
thực, đồng thời, vẫn cung cấp nguyên liệu cho nhóm hàng xuất khẩu chủ lực.
Bộ Nơng nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đưa ra mục tiêu tổng quát trong thời gian tới
là: “Phát triển nền nông nghiệp thơng minh, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu,
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; nông thôn mới phồn vinh và văn minh, nơng
dân giàu có”.
Trong giai đoạn tới, Cục Xúc tiến Thương mại cần rà sốt chương trình xúc tiến thương mại
quốc gia, ưu tiên đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho các mặt hàng nông, thủy sản đối với các thị
trường thay thế trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp.
Giá trị của sản xuất nông nghiệp tập trung chủ yếu ở khâu chế biến, phân phối và dịch vụ. Do
đó, cách tiếp cận của Việt Nam sẽ phải thay đổi, phát triển theo chuỗi chứ không chỉ phát triển
nông nghiệp đơn thuần. Không chỉ chú trọng việc sản xuất nơng nghiệp mà cịn phải gắn với phát
triển thị trường, với sự hình thành chuỗi sẽ tạo ra lợi thế riêng cho Việt Nam về lâu dài và giá trị
gia tăng cao nhất. Đồng thời, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu
cơ để tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn nữa.
 Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, ứng dụng nhanh thành quả
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số và kinh tế số trong lĩnh vực
nông nghiệp. Phát triển các cụm liên kết sản xuất gắn với vùng nguyên liệu, các hình thức hợp
tác liên kết sản xuất, chế biến kết nối với hệ thống tiêu thụ trong nước và quốc tế.
3.5. Đáp ứng nguồn cung nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu
Bên cạnh những ảnh hưởng đối với hoạt động xuất khẩu, dịch COVID-19 cịn có tác động
tiêu cực tới nguồn cung nguyên vật liệu nhập khẩu cho sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước
và sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là những khó khăn của các doanh nghiệp dệt may, điện tử...
trong khâu nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện để sản xuất hàng xuất khẩu.
Chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ giá, bù đắp chi phí vận chuyển, lưu kho do cộng
đồng doanh nghiệp phải nhập khẩu nguyên vật liệu từ các thị trường mới với các chi phí liên

quan cao hơn như: giá nguyên vật liệu cao hơn, chi phí vận chuyển cao hơn do phải chuyên chở
quãng đường dài hơn. Đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp cung ứng vật tư trong nước vượt qua
493


KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

khó khăn, tiếp tục thực hiện vai trò nhà cung ứng nguyên liệu, hàng hóa đầu vào trong nước.
Nghiên cứu đề xuất các biện pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong nước, đa dạng hóa
thị trường nhập khẩu, tránh phụ thuộc nguồn cung nguyên liệu vào một thị trường.
Đối với các doanh nghiệp có đầu vào phụ thuộc và thị trường quốc tế, khơng nên giới hạn
mình với các nhà cung cấp cấp một và cấp hai mà nên mở rộng như hướng đến nguồn cung trong
nước hoặc những thị trường có tình hình dịch bệnh ổn định hơn.
3.6. Định hướng dịch chuyển xuất khẩu từ lượng sang chất
Trong thời gian tới, xuất - nhập khẩu của Việt Nam phải chuyển từ tăng xuất khẩu về mặt
số lượng sang tăng về chất, đây cũng là điều mà Việt Nam chưa làm được trong nhiều năm qua.
Giá trị gia tăng xuất khẩu của Việt Nam rất thấp do chủ yếu vẫn là gia công xuất khẩu, giai
đoạn tới cần tập trung nâng cao về chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh. Muốn
vậy, cần chuyển sang sản xuất xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng cơng nghệ; tỷ lệ nội địa cao
hơn bằng cách phát triển công nghiệp hỗ trợ, cùng với đó là chiến lược xây dựng thương hiệu
cho hàng hóa.
4. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hầu hết các nước trên thế giới tăng trưởng âm thì với mức tăng trưởng xuất
khẩu 7% và nhập khẩu 3% của nước ta là rất đáng ghi nhận, được cộng đồng quốc tế đánh giá
cao. Kết quả nêu trên một lần nữa khẳng định tính hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của cả hệ
thống chính trị, của Chính phủ và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, Nhân dân. Tuy nhiên,
do chịu tác động trực tiếp của đại dịch mà một số ngành hàng là thế mạnh của Việt Nam trong
năm qua tăng trưởng ở mức âm và không đạt được mục tiêu như Đảng và Chính phủ đề ra, nhưng
nhìn chung, đa phần các khối ngành quan trọng khác vẫn đạt được những bước phát triển như kỳ
vọng của Chính phủ và doanh nghiệp.

Trong thời gian tới, tình hình dịch bệnh COVID-19 sẽ dần được kiểm soát ở nhiều quốc gia,
đây là một tín hiệu tốt giúp thúc đẩy hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam tăng trưởng cao
trở lại. Để giúp các doanh nghiệp nắm bắt tốt được các cơ hội của thị trường hiện nay cũng như
đón đầu được các cơ hội khi đại dịch đi qua, bài viết đã đưa ra những giải pháp như: về phía
Chính phủ, cần chỉ đạo các bên liên quan theo sát diễn biến tình hình thị trường quốc tế để kịp
thời triển khai các biện pháp nhằm tận dụng cơ hội thị trường và giảm thiểu những tác động bất
lợi đối với hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam; tận dụng lợi ích từ Hiệp định Thương mại
tự do EVFTA để thúc đẩy hoạt động xuất - nhập khẩu vào thị trường châu Âu; có các giải pháp
nhằm thu hút dịng vốn FDI để góp phần tăng kim ngạch xuất - nhập khẩu. Ngoài ra, để đáp
ứng nguồn cung nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, các doanh nghiệp nên đa dạng hóa thị trường
nhập khẩu, tránh phụ thuộc nguồn cung nguyên liệu vào một thị trường. Trong thời gian tới,
nông nghiệp được dự báo là nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sau đại dịch COVID-19, do đó, doanh
nghiệp cần có những giải pháp giúp tăng giá trị xuất khẩu của nhóm ngành này. Cuối cùng, để
giúp xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam khơng chỉ tăng giá trị xuất khẩu mà còn trở thành thương
hiệu có uy tín trên thị trường quốc tế, Việt Nam cần phải chuyển từ tăng xuất khẩu về mặt số
lượng sang tăng về chất, đây cũng là điều mà Việt Nam chưa làm được trong nhiều năm qua.
494


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Xuất - Nhập khẩu (2021), Xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2020 ước 6,15 triệu tấn,
truy cập ngày 02/3/2021, từ < />2. Bích Lan, Bùi Hùng (2020), Ủy ban về các vấn đề xã hội họp phiên toàn thể lần thứ 18, truy
cập ngày 27/02/2021, từ < />3. Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam trong bối cảnh tác động của COVID-19: Cơ
hội và thách thức (2020), truy cập từ ngày 03/3/2021, từ < />nong-nghiep-va-phat-trien-nong-thon-viet-nam-trong-boi-canh-tac-dong-cua-covid-19-cohoi-va-thach--.aspx>
4. Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 và 12 tháng/2020 (2021),
truy cập ngày 27/02/2021, từ < />5. Xuất - nhập khẩu là điểm sáng trong bức tranh kinh tế 2020 (2021), truy cập từ ngày 03/3 /2021,

từ  < />
495



×