Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tháo gỡ vướng mắc về xử lý nợ xấu, khơi thông dòng vốn tín dụng ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vượt qua đại dịch COVID-19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.21 KB, 8 trang )

KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

34.

THÁO GỠ VƯỚNG MẮC VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU,
KHƠI THƠNG DỊNG VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG,
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19
TS. Lê Văn Hải*
Tóm tắt
Trong nhiều năm qua, hệ thống ngân hàng đã đạt được những kết quả rất quan trọng về xử lý
nợ xấu, khơi thông hàng trăm ngàn tỷ đồng nợ đọng đưa vào đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Đặc
biệt, từ giữa năm 2017, thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử
lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong nâng cao
năng lực tài chính cho các ngân hàng thương mại (NHTM). Mục tiêu cơ cấu lại hệ thống các
TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020 đạt được nhiều bước tiến lớn. Tuy nhiên, trong
thực tiễn đang tiếp tục phát sinh những khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ để hoạt động xử
lý nợ xấu đạt được hiệu quả cao hơn, khơi thơng dịng vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho tăng
trưởng bền vững nền kinh tế. Bài viết tập trung làm rõ những vướng mắc về xử lý nợ xấu đang
phát sinh trong thực tiễn hiện nay, từ đó đưa ra các đề xuất khuyến nghị.
Từ khóa: Tháo gỡ vướng mắc, xử lý nợ xấu, khơi thơng dịng vốn, tín dụng ngân hàng
1. GIỚI THIỆU
Tái cơ cấu TCTD là một trong ba nội dung cơ bản tái cơ cấu nền kinh tế, bao gồm: tái cơ cấu
đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu TCTD. Tái cơ cấu TCTD nâng cao
năng lực cạnh tranh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tái cơ cấu nâng cao khả năng cung
ứng vốn tín dụng của các TCTD góp phần tăng trưởng bền vững nền kinh tế, ứng phó hiệu quả
với diễn biến bất thường của đại dịch COVID-19. Trong đó, nội dung xử lý nợ xấu, nâng cao
chất lượng tín dụng, làm trong sạch bản cân đối của NHTM là giải pháp trọng tâm của tái cơ cấu
TCTD. Vì vậy, việc phân tích, đánh giá rõ những kết quả đạt được, chỉ rõ những vướng mắc đang


gặp phải hiện nay về xử lý nợ xấu có ý nghĩa hết thiết thực và cấp bách.
* Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

389


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Thực hiện nội dung nghiên cứu, do giới hạn của một bài viết nên tác giả khơng có điều kiện
sử dụng phương pháp định lượng, xây dựng tổng quan nghiên cứu, xây dựng mơ hình nghiên
cứu, phát phiếu điều tra, phân tích, giả thiết,… đưa ra giả thiết và câu hỏi nghiên cứu, xây dựng
các hàm, các biến, đo lường các nhân tố ảnh hưởng. Bài viết dựa trên phương pháp nghiên cứu
khoa học định tính truyền thống, phân tích các nền tảng lý luận, khung lý thuyết, tiến hành
phân tích, đánh giá, nhận xét dựa trên nguồn dữ liệu và tư liệu thứ cấp của các cơ quan, tổ chức
như: Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN), NHTM, Cơng ty Quản lý tài sản
(VAMC), và các chuyên gia, các nhà khoa học..., từ đó đưa ra đề xuất, khuyến nghị.
2. TỔNG QUAN NỢ XẤU VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU
Những năm qua, nợ xấu của hệ thống TCTD đã giảm đáng kể trong giai đoạn 2015 - 2020.
Tỷ lê nợ xấu từ đỉnh cao 17,2% vào tháng 9/2012 đã giảm mạnh trong các năm (2013 - 2019).
Tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến hết năm 2019 ở mức 1,89%. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2019
bao gồm cả nợ tiềm ẩn vẫn còn ở tỷ lệ cao, khoảng 4,59%. Song từ đầu năm 2020 do ảnh hưởng
của đại dịch COVID-19 diễn ra trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam, đã tác động lớn đến hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân và khách vay vốn vốn các NHTM
nói chung. Nhiều đối tượng khách hàng của NHTM sụt giảm nguồn thu hay khơng có nguồn thu,
chuỗi cung ứng bị đứt gẫy, khơng có tiền để trả ngân hàng, đã có xu hướng tăng lên vào cuối năm
2020, tới mức trên 2,0% (NHNN, 2010 - 2020).
Tham khảo số liệu công bố trên báo cáo tài chính (BCTC) quý III/2020 của các NHTM cho
thấy, thực trạng nợ xấu nội bảng của 27 NHTM Việt Nam đã tăng 30% trong 9 tháng đầu năm
2020. Đây là giai đoạn diễn ra đỉnh điểm của đại dịch COVID-19 tại Việt Nam; trong đó nợ
nhóm 3, tức là nợ dưới tiêu chuẩn, đã tăng mạnh, tới 70%. Diễn biến nợ xấu nội bảng của 27

NHTM công bố BCTC hợp nhất được thể hiện trong Hình 1 dưới đây.
Hình 1. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng/dư nợ cho vay khách hàng tại 27 NHTM

Nguồn: Tổng hợp theo BCTC hợp nhất quý III/2020
của 27 NHTM - NHTM Việt Nam (2015 - 2021)

390


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Nợ xấu tăng, trích lập dự phòng rủi ro của các TCTD cũng tăng. Sở dĩ chi phí dự phịng
khơng tăng đột biến trong năm 2020 là vì nợ xấu của nhiều NHTM tăng mạnh, nhiều khoản nợ
quá hạn do ảnh hưởng bởi COVID-19 đã được cơ cấu lại theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN
ngày 13/3/2020.
Nếu như tính riêng trong khoảng thời gian trước khi nợ xấu bục phát do đại dịch COVID-19,
từ cuối năm 2018 đến ngày 31/5/2020, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 361,2 nghìn tỷ đồng
nợ xấu. Trong đó, lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/5/2020, toàn hệ thống các TCTD đã xử
lý được 293,88 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42/2017/QH14, đạt trung bình
khoảng 7,15 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 3,63 nghìn tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu nội
bảng trung bình tháng giai đoạn 2012 - 2017 (giai đoạn trước khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 có
hiệu lực). Kết quả đạt được là rất tích cực nhưng những khó khăn, vướng mắc đang ảnh hưởng
rất lớn đến tiến độ xử lý nợ xấu của các TCTD (NHNN, 2010 - 2020).
Hình 2. Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tại một số thời điểm (%)

Nguồn: NHNN

Như vậy, trong 7 năm qua, tính từ tháng 7/2014 đến giữa năm 2020, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của

các TCTD đã liên tục giảm mạnh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo lịng tin cho người
dân và thị trường tài chính vào hệ thống TCTD Việt Nam. Tuy nhiên, từ đầu tháng 2/2020 đến nay,
dịch bệnh COVID-19 đã và đang tác động tiêu cực đến an toàn hoạt động của hệ thống các TCD và
các lĩnh vực trong nền kinh tế, đang làm gia tăng nợ xấu sau khi Thông tư số 01/2020/TT-NHNN
của NHNN về tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, cơ cấu lại nợ cho các doanh nghiệp hết hiệu
lực vào cuối tháng 12/2020, nợ được cơ cấu lại sẽ chuyển thành nợ xấu. Trong khi đó, thực tế
lại đang phát sinh hơn 10 nhóm khó khăn, vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số
42/2017/QH14 của Quốc hội. Diễn biến cụ thể nợ xấu của các NHTM điển hình của Việt Nam
sau 5 tháng diễn ra đại dịch COVID-19 được thể hiện ở Hình 3 dưới đây.

391


KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Hình 3. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2020

Nguồn: Tổng hợp từ BCTC hợp nhất của các NHTM hết quý II/2020, tháng 8/2020

Diễn biến số liệu thể hiện ở Hình 3 cho thấy, đến hết tháng 6/2020, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của
các NHTM phân hóa mạnh và có sự khác biệt lớn giữa các ngân hàng. Tuy nhiên, trong những
tháng cuối năm 2020, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM có xu hướng tăng. Theo NHNN, tính đến hết
tháng 8/2020, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống TCTD tiếp tục được duy trì ở mức dưới
2% (NHNN, 2019 - 2020).
Tham khảo nợ xấu nội bảng của một số NHTM cổ phần được thể hiện ở Hình 4 dưới đây.
Hình 4. Nợ xấu nội bảng của một số ngân hàng (tỷ đồng)

Nguồn: Tổng hợp từ BCTC hợp nhất của các NHTM hết quý III/2020, tháng 11/2020

Áp lực với các NHTM trong thời gian tới rất lớn khi Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy

định về cơ cấu thời hạn trả nợ hết hiệu lực. Thơng tư số 01/2020/TT-NHNN dù có được sửa đổi
thêm thì chắc chắn sẽ phải đến lúc khơng thể, khơng cịn lý do để sửa đổi, và nó sẽ hết hiệu lực.
Lúc đó, nợ xấu nổi lên với quy mô cao hơn nhiều so với con số báo cáo trước đó, tỷ lệ nợ xấu nội
bảng có thể lên đến 3% cuối năm 2020 và 4% trong năm 2021.

392


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Kết quả xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 bằng hình thức khách hàng
trả nợ tăng mạnh, phản ánh ý thức trả nợ của khách hàng đã cải thiện. Khách hàng chủ động và
hợp tác hơn trong việc trả nợ TCTD, hạn chế tình trạng chủ tài sản cố ý chây ỳ, chống đối nhằm
kéo dài thời gian xử lý. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã và
đang phát huy hiệu quả, góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và đẩy mạnh cơng tác xử lý
nợ xấu của hệ thống các TCTD.
Việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD cho
thấy, xử lý nợ xấu cũng có kết quả nhưng dường như đang chùng xuống. Để tiếp tục triển khai
công tác thanh tra, giám sát, cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg
ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD
gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020 và Nghị quyết số 42/2017/QH14 đạt hiệu quả, NHNN
cần chỉ đạo sát sao quá trình triển khai nhiệm vụ cơ cấu lại hệ thống các TCTD, triển khai quyết
liệt phương án xử lý các TCTD yếu kém.
Cơ cấu lại các TCTD luôn gắn với xử lý nợ xấu, việc triển khai cơ cấu lại 3 NHTM bị NHNN
mua bắt buộc là một q trình khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ, phải phối hợp chặt chẽ và lấy
ý kiến của nhiều bộ, ngành, các cơ quan liên quan và phụ thuộc vào kết quả đàm phán với các
nhà đầu tư.
3. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ VƯỚNG MẮC TRONG XỬ LÝ NỢ XẤU

- Khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành có
liên quan và các tỉnh, thành phố
Một số địa phương chưa quyết liệt, thiếu đồng bộ…, công tác thu giữ tài sản bảo đảm cịn
nhiều khó khăn, bất cập. Ngồi ra, trong q trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, việc
thừa kế nghĩa vụ trả nợ giữa pháp nhân mới thành lập và pháp nhân cũ chưa được đồng bộ… dẫn
đến tranh chấp kéo dài tại Tòa án.
- Việc bán nợ xấu và tài sản bảo đảm theo giá trị thị trường, phát triển thị trường mua bán
nợ quy định tại Điều 5 Nghị quyết số 42/2017/QH14 vẫn cịn gặp một số khó khăn
Việc mua bán nợ xấu chủ yếu diễn ra giữa TCTD và hai đơn vị mua nợ chính là VAMC và
DATC. Tại Việt Nam hiện nay còn thiếu thị trường thứ cấp và phái sinh đối với các khoản nợ;
việc thẩm định giá khoản nợ đang được các tổ chức thẩm định giá áp dụng theo Hệ thống Tiêu
chuẩn thẩm định giá Việt Nam (được áp dụng chung cho thẩm định giá các loại tài sản) nên khi
định giá các khoản nợ đôi khi việc vận dụng của các tổ chức thẩm định giá là khác nhau, gây khó
khăn cho các bên trong việc lựa chọn mức giá tham khảo làm cơ sở xác định mức giá khởi điểm
trong giao dịch mua bán nợ.
- Về cơ chế tiếp cận thơng tin về tình trạng tài sản bảo đảm quy định tại Điều 7 Nghị quyết
số 42/2017/QH14
Hiện nay, Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự khơng có hệ thống dữ liệu cho phép các TCTD
trích xuất, tra cứu thơng tin tài sản có liên quan đến vụ việc đang được thụ lý giải quyết. Đồng thời,
cũng chưa có hướng dẫn về cơ chế xác định sớm hữu hiệu trong quá trình thẩm định để xác định tài
sản nào đang tranh chấp, tài sản nào đang phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, dẫn đến cách
393


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây
khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý tài sản theo Nghị quyết số 42/2017/QH14.
- Về quyền thu giữ tài sản bảo đảm quy định tại Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14
Trên thực tế, việc thu giữ tài sản bảo đảm hiện nay vẫn phụ thuộc khá nhiều vào thiện chí của

bên vay (đặc biệt trong trường hợp khách hàng không hợp tác, cố ý chây ỳ trong việc bàn giao
tài sản bảo đảm). Đồng thời, sự phối hợp của các cơ quan hữu quan tại địa phương trong một số
trường hợp chưa kịp thời (như xác minh thông tin khách hàng, hỗ trợ thu giữ tài sản bảo đảm
cũng làm ảnh hưởng đến công tác xử lý thu hồi nợ xấu…).
- Về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm
và xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14
Hiện nay, số lượng các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại Tòa án còn rất hạn
chế, điều này phần nào ảnh hưởng đến kết quả xử lý nợ xấu nói chung. Một số TCTD đã áp dụng
hình thức rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm và đang được Tòa
án các cấp xem xét giải quyết. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có trường hợp nào được giải quyết
theo thủ tục rút gọn.
- Về đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu quy định tại khoản 4 Điều 9 Nghị
quyết số 42/2017/QH14
Thực tế, trong quá trình xử lý nợ xấu, hầu hết các chủ tài sản là người vay khơng có khả năng
trả nợ cho NHTM đều chống đối, khơng hợp tác... Do đó, TCTD, tổ chức mua bán nợ đề xuất sử
dụng biên bản thu giữ thay cho văn bản về việc bàn giao tài sản thế chấp/văn bản về việc bàn giao
tài sản mua bán nợ nhưng khơng được Văn phịng Đăng ký đất đai chấp thuận. Từ đó dẫn đến các
bên liên quan khơng thực hiện được việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản cho bên mua tài sản.
- Về điều kiện chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động sản quy định tại Điều 10
Nghị quyết số 42/2017/QH14
Việc chuyển nhượng các dự án chưa có Giấy chứng nhận vẫn gặp phải khó khăn khi tiến hành
các thủ tục chuyển nhượng dự án tại các cơ quan có thẩm quyền.
- Về việc thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm và việc nộp thuế khi
chuyển nhượng tài sản bảo đảm quy định tại Điều 12, Nghị quyết số 42/2017/QH14
Một thực trạng đó là việc phải nộp các khoản thuế trước khi thực hiện nghĩa vụ ưu tiên thanh
toán cho bên nhận bảo đảm là TCTD đã làm giảm số tiền thu hồi nợ của TCTD. Nhiều trường
hợp số tiền bán tài sản bảo đảm không đủ thu hồi nợ cho TCTD nhưng vẫn phải nộp thuế, gây
khó khăn cho cả bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi chủ nợ có bảo
đảm của TCTD…

- Khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ
án hình sự quy định tại Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14
Các thủ tục, quy trình và sự phối hợp, thể hiện trách nhiệm của các bên có liên quan về hồn
trả tài sản bảo đảm nên công việc này kéo dài thời gian, các TCTD chậm nhận được tài sản để
chủ động bán hay phát mại, xử lý, thu hồi vốn.
394


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

- Về công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự
Mặc dù đã có Quy chế phối hợp giữa NHNN và Bộ Tư pháp về hoạt động thi hành án dân sự,
tuy nhiên, tại một số địa phương do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, hoạt
động thi hành án ngân hàng còn chưa thật sự hiệu quả, nhiều vụ việc kéo dài…, phát sinh nhiều
chi phí cho các TCTD xử lý nợ. Trong thực tế, đối với nhiều trường hợp, TCTD thu hồi được nợ
về, trừ các chi phí, số thực thu hạch tốn vào nội bảng khơng cịn được bao nhiêu.
- Về việc giới hạn phạm vi lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản bảo đảm
Việc giới hạn tổ chức thẩm định giá phải nằm trên địa bàn tỉnh, thành phố đã làm hạn chế cơ
hội lựa chọn được tổ chức định giá có đủ uy tín, năng lực để thực hiện định giá tài sản bảo đảm.
Nhiều địa phương còn thiếu tổ chức thẩm định giá hoặc năng lực của tổ chức thẩm định giá còn
yếu, dẫn đến chất lượng thẩm định giá chưa cao. Thậm chí có khả năng xảy ra tình trạng thiếu
minh bạch, cấu kết giữa chấp hành viên, thẩm định giá viên, đấu giá viên… làm thiệt hại về tiền
cho các TCTD cần thu hồi vốn đọng từ các khoản nợ xấu.
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
4.1. Đối với Chính phủ
Chính phủ cần tăng cường tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố thực
hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và các địa phương đẩy mạnh hơn nữa quá trình

phân loại, sắp xếp các doanh nghiệp, trọng tâm là các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tái cơ
cấu, nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo điều kiện để hệ
thống các TCTD xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính. Các bộ chủ quản chỉ đạo các tập đồn,
tổng cơng ty, đơn vị thành viên thực hiện nghĩa vụ trả nợ/nghĩa vụ bảo lãnh đối với các khoản vay
tại các TCTD mà các đơn vị đứng ra bảo lãnh cho các công ty con, công ty thành viên.
Thứ hai, trên cơ sở thực tế áp dụng chính sách tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 và kết quả
tổng kết, đánh giá việc thực hiện Quyết định số 1058/QĐ-TTg đến cuối năm 2020, NHNN
nghiên cứu xây dựng trình Chính phủ Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2021 - 2025
nhằm tiếp tục hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý hiệu quả nợ xấu, góp phần thực hiện thành cơng
các mục tiêu về cơ cấu lại hệ thống các TCTD và chiến lược phát triển ngành Ngân hàng trong
giai đoạn tiếp theo.
Thứ ba, theo Thông báo số 3616/TB-TTKQH về kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
tại phiên họp thứ 45 tháng 5/2020 đợt 2, Chính phủ cần tiếp tục tăng cường chỉ đạo rà sốt các
chính sách về tín dụng, có các giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu gia tăng.
Thứ tư, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và các địa phương tập trung giải quyết khó khăn,
vướng mắc cụ thể liên quan đến công tác triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành và địa phương;
bán nợ xấu và tài sản bảo đảm theo giá trị thị trường, phát triển thị trường mua bán nợ; cơ chế
tiếp cận thơng tin về tình trạng tài sản bảo đảm; quyền thu giữ tài sản bảo đảm; áp dụng thủ tục
rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm;
thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm và việc nộp thuế khi chuyển nhượng
tài sản bảo đảm...
395


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

4.2. Đối với Quốc hội
Quốc hội cần cân nhắc các nhóm giải pháp, bao gồm:
Thứ nhất, Quốc hội cần xem xét đến khía cạnh xử lý nợ xấu khi quyết định chính sách cơ bản
về tài chính, tiền tệ quốc gia; đặc biệt là quy định liên quan đến thuế của các khoản TCTD phát

mại tài sản thu hồi nợ; về chi nguồn thu ngân sách nhà nước hàng năm từ cổ tức của các NHTM
Nhà nước đã cổ phần hóa mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, tiến hành cập lại số tiền chia cổ tức
đó để tăng vốn điều lệ cho chính các NHTM Nhà nước đó đã cổ phần hóa.
Thứ hai, Quốc hội cần thực hiện quyền giám sát tối cao đối với quá trình triển khai, thực hiện
Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Chính phủ, các địa phương, các cấp, các ngành và các tổ chức
xã hội; chỉ đạo các đoàn Đại biểu Quốc hội tăng cường hoạt động giám sát việc thực hiện Nghị
quyết số 42/2017/QH14 tại địa phương.
Thứ ba, Quốc hội xem xét chỉ đạo Tòa án Nhân dân tối cao về việc triển khai, ban hành văn
bản hướng dẫn các cấp Tịa án có liên quan thi hành thủ tục rút gọn theo quy định pháp luật, để
giải quyết nhanh chóng yêu cầu khởi kiện nêu tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán (Tòa án Nhân dân tối cao).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2015 - 2020), Cổng thông tin của Hiệp hội Ngân hàng Việt
Nam, truy cập tại www.vnba.org.vn: các mục: Thông tin hoạt động các NHTM hội viên hàng,
tháng, các năm 2015 - 2020.
2. NHNN (2019 - 2020), Báo cáo tài chính hợp nhất của các NHTM hàng quý; Báo cáo tài
chính hàng năm; Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh hàng năm, các năm 2019 - 2020;
Thông tin về lãi suất, tín dụng thanh tốn; cơng bố trên trang web của một số NHTM Việt
Nam các năm 2019 - 2020, truy cập từ ngày 20/02/2021 đến 08/3/2021, Hà Nội, 2020.
3. NHNN (2019 - 2020), Cổng thông tin của NHNN, truy cập tại www.sbv.gov.vn: Mục tin tức,
Văn bản quy phạm pháp luật; các thơng tin có liên quan đã được cơng bố.
4. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 42/2017/QH14 Về thí điểm xử lý nợ xấu các TCTD Việt Nam,
Hà Nội, tháng 7/2017.
5. VNDIRECT (2018 - 2020), Báo cáo nghiên cứu thị trường tài chính hàng tháng, các tháng
trong các năm 2018 - 2020 của Cơng ty Chứng khốn VNDIRECT gửi các nhà đầu tư chứng
khốn mở tài khoản tại Cơng ty.

396




×