BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
TRƯƠNG TUẤN ANH
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ XÂY DỰNG RỪNG
GIỐNG VÀ VƯỜN GIỐNG HỮU TÍNH LỒI CÂY SỒI PHẢNG
(Lithocarpus fissus (Champ. ex Benth.) A.Camus) TẠI HUYỆN
HOÀNH BỒ, QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.02.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HUY SƠN
Hà Nội, 2012
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam nằm trong vùng nhi ệt đới gió mùa và tr ải dài theo nhiều vĩ độ, với
2/3 diện tích đất đồi núi, do đó tài ngun rừng có vai trị đặc biệt trong cơng cuộc
phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường ở nước ta. Do nhiều nguyên nhân
khác nhau như sức ép gia tăng dân số, du canh du cư, đốt nương làm rẫy, khai thác
rừng khơng kiểm sốt, cháy rừng, chiến tranh,… nên diện tích và chất lượng rừng
nước ta bị suy giảm liên tục trong thời gian dài. Theo kết quả điều tra đã được công
bố, năm 1945 diện tích rừng nước ta khoảng 14,3 triệu ha, độ che phủ đạt 43% trong
đó phần lớn là rừng tự nhiên, chủ yếu là rừng giàu. Năm 1990, diện tích rừng chỉ
còn kho ảng 9,3 triệu ha, độ che phủ chiếm 28,4%, chủ yếu là rừng trung bình và
rừng nghèo. Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước rừng của cả nước bị
suy giảm cả về diện tích và chất lượng một cách nhanh chóng. Cùng v ới các chính
sách khuyến khích phát triển tài nguyên r ừng kết hợp sự nỗ lực của toàn xã h ội,
đến hết năm 2010, tổng diện tích rừng nước ta là 13.388.075 ha, độ che phủ đạt
39,5%, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 10.304.816 ha và rừng trồng là 3.083.259
ha (Bộ Nông nghi ệp & Phát triển Nông thôn, 8/2011) [3]. Mặc dù , diện tích rừng
trong những năm gần đây đã tăng, nhưng phần lớn có chất lượng kém, trữ lượng rất
3
3
thấp (< 90m /ha), khả năng phục hồi chậm (2 - 3m /ha/năm), lồi cây có giá trị kinh
tế ít, rừng trồng đa số là cây g ỗ mọc nhanh, nhập nội, chủ yếu để sản xuất gỗ nhỏ,
các lồi cây gỗ lá rộng bản địa có kh ả năng cung cấp gỗ lớn thường sinh trưởng
chậm và kém, phần lớn chất lượng giống không đảm bảo, không đáp ứng nhu cầu
sản xuất hiện tại và trong tương lai. Trước tình hình đó, Bộ NN&PTNT đã có nhi ều
chính sách khuyến khích gây trồng, bảo tồn và phát tri ển các loài cây g ỗ bản địa
nhằm mục đích cung cấp gỗ lớn, đồng thời góp phần bảo tồn và phát tri ển các loài
cây bản địa có giá trị một cách bền vững.
Sồi phảng (Lithocarpus fissus (Champ. ex Benth.) A.Camus) là cây g ỗ bản
địa, lá rộng, thường xanh, có phân bố tự nhiên ở các khu rừng thứ sinh từ các tỉnh
miền Bắc như Quảng Ninh, Phú Thọ, Yên Bái đến các tỉnh miền Trung như Nghệ
An, Thanh Hóa và các tỉnh khu vực Tây Nguyên. Thường gặp Sồi phảng mọc ở độ
2
cao 50 - 1.200m so với mực nước biển (Lê Mộng Chân, 2000) [4]. Sồi phảng
thường sống hỗn loài với các loài cây lá r ộng thường xanh như Kháo (Machilus sp),
Giổi xanh (Michelia mediocris), Chẹo tía (Engerhardtia chrysolepis). Do đó, trước
đây diện tích rừng tự nhiên có phân b ố Sồi phảng khá lớn.
Do rừng tự nhiên ngày càng b ị khai thác cạn kiệt, diện tích ngày càng giảm
sút nhanh đã kéo theo s ự suy giảm nghiêm trọng về diện tích cũng như số lượng
quần thể Sồi phảng. Mặc dù , Sồi phảng là lồi cây có kh ả năng tái sinh tự nhiên
mạnh, nhưng do chất lượng của các cây mẹ kém nên khả năng phục hồi tự nhiên của
Sồi phảng rất hạn chế. Do đó diện tích rừng có Sồi phảng phân bố tự nhiên hiện nay
cịn r ất ít và chất lượng khơng đảm bảo dẫn đến khả năng cung cấp gỗ của loài cây
này cịn nhiều hạn chế.
Vì vậy, việc thực hiện đề tài: "Nghiên c ứu một số cơ sở khoa học để xây
dựng rừng giống và vườn giống hữu tính lồi cây S ồi phảng (Lithocarpus fissus
(Champ. ex Benth.) A.Camus) tại huyện Hồnh Bồ, Quảng Ninh" là cần thiết, có ý
nghĩa cả về khoa học và thực tiễn, nhằm cung cấp giống đã được cải thiện, đảm bảo
tiêu chuẩn chất lượng cao hơn cho sản xuất.
Đề tài luận văn là một trong những nội dung quan trọng của Dự án "Nâng
cao chất lượng giống các loài cây b ản địa phục vụ làm giàu r ừng và khoanh nuôi
xúc ti ến tái sinh rừng giai đoạn 2006 - 2010" do PGS. TS. Nguyễn Huy Sơn, Giám
đốc Trung tâm Nghiên cứu Lâm đặc sản là giám đốc dự án và tác gi ả là cộng tác
viên thực hiện dự án. Được sự đồng ý của giám đốc dự án, tác giả đã kế thừa số liệu
và hiện trường dự án, đồng thời bổ sung thêm số liệu của các năm 2011 - 2012 để
hoàn thành lu ận văn thạc sỹ theo chương trình đào tạo sau đại học tại Trường Đại
học Lâm nghiệp Việt Nam khóa 2010 - 2012.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Trên thế giới
Nghiên cứu về Sồi phảng trên thế giới còn r ất hạn chế, đặc biệt là về chọn
giống và kỹ thuật gây trồng. Các cơng trình nghiên cứu đã có m ới chỉ tập trung vào
phân loại, mơ tả hình thái và đặc điểm phân bố của chúng, có thể tổng hợp kết quả
nghiên cứu đối với loài cây này như sau.
1.1.1. Nghiên cứu về phân lo ại thực vật
Cây Sồi phảng (Lithocarpus fissus (Champ. ex Benth.) A.Camus) là cây
thuộc họ Dẻ (Fagaceae), chi Lithocarpus.
Tên chi Lithocapus có nguồn gốc từ đặc điểm hạt có hình dạng tương tự như
quả đấu nhưng vỏ rất cứng, từ "Lithos" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là đá và từ
"carpos" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là hạt giống [45].
Trên thế giới, họ Dẻ (Fagaceae) có kho ảng 900 lồi, phần lớn phân bố ở
vùng ôn đới Bắc bán cầu, cận nhiệt đới và nhiệt đới, nhưng chưa thấy ở Nam Phi.
Phân bố tập trung nhất là ở Châu Á, đặc biệt là Việt Nam có tới 216 lồi, ít nhất là
Châu Phi và vùng Địa Trung Hải chỉ có 2 lồi (Khamleck Xaydala, 2004) [35].
Nghiên cứu về phân loại, theo Bentham và Hooker (1862-1885) (dẫn theo
Nguyễn Tiến Bân, 1997) họ Dẻ chưa được coi là một Taxon độc lập, các chi thuộc
họ Fagaceae được để trong họ Cupuliferae. Nhưng theo hệ thống của Milchior
(1964), Soepadmo (1972), hệ thống Menitsky (1984), Takhtajan A. L. (1987) coi họ
Dẻ là một họ riêng gồm 7 - 9 chi và chia làm 2 - 5 phân họ. Năm 1996 Takhtajan A.
L. đưa ra một hệ thống phân loại riêng khá c với các hệ thống phân loại cũ, ông
đồng ý với quan điểm của Kupriantova (1962) tách chi Nothofagus ra khỏi họ
Fagaceae thành một họ riêng (Khamleck Xaydala, 2004) [35]. Ngoài ra, một số tác
giả như Lecomte H. (1931) [49] trong Thực vật chí Đại cương Đơng Dương cơng
bố họ Dẻ (Fagaceae) ở Đơng Dương có 150 loài. Camus A. (1938) (dẫn theo Phan
Minh Quang, 2008) [22] cũng nghiên cứu và đặt tên khoa học cho nhiều loài thuộc
họ Dẻ.
4
Nghiên cứu của R. Hickel et A. Camus (1910) (dẫn theo Đỗ Văn Chính,
2005) [10] đã mơ t ả tương đối đầy đủ về đặc điểm hình thái và phân loại đến chi,
loài thuộc họ Dẻ ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Còn n ghiên cứu của Eseepadmo
(1972) và của Liao, Jih-Ching (1996) (dẫn theo Đỗ Văn Chính, 2005) đã giới thiệu
khá chi tiết về phân loại, phân bố, giá trị sử dụng của các loài thuộc họ Dẻ ở
Malesiana và Đài Loan.
Ở Trung Quốc, Hầu Khoan Chiêu (1958) [42] đã coi họ Dẻ (Fagaceae) là một
họ riêng, có đến 600 lồi, trong đó có các chi Lithocapus, Castanopsis, Quercus...
Theo Liu Maosong and Hong Bigong (1998) [51] họ Dẻ ở Trung Quốc là một trong
những họ quan trọng nhất trong khu vực ơn đới và cận nhiệt đới, có 7 chi, trong đó có
khoảng 352 lồi và các bi ến thể khác. Sự phân bố của loài phong phú về chỉ số loài
đặc hữu và các mối quan hệ của chúng với các đặc điểm khí hậu và địa lý của họ Dẻ
cũng đã được nghiên cứu. Còn theo Huang Chengchiu, Chang Yongtian, Hsu Yongchun
& Jen Hsienwei (1998) [43] tại Trung Quốc có 7 chi và 294 lồi, trong đó có 163 lồi
đặc hữu, ít nhất 3 lồi đã giới thiệu. Tại Trung Quốc cây Sồi phảng ngoài tên khoa học
là (Lithocarpus fissus (Champ. ex Benth.) A.Camus) cò n được chấp
nhận với tên khác là ( Castanopsis fissa (Champ. ex Benth.) Rehd. et Wils) [44]. Còn
theo Chamlong Phengklai (2006) [38] tại Thái Lan họ Dẻ gồm có 4 chi
với 119 loài, 2 phân loài và 2 giống bản địa.
1.1.2. Nghiên cứu về đặc điểm hình thái
Sồi phảng đã được mơ tả khá kỹ về đặc điểm hình thái. Đây là cơ sở khoa
học cho việc định loại và phân bi ệt Sồi phảng với những loài khác, đặc biệt là với
những lồi cùng chi v ới nó. Việc mơ tả hình thái lồi nhìn chung có sự thống nhất
cao giữa các tác giả ở nhiều quốc gia và tổ chức nghiên cứu khoa học khác nhau.
Theo Manos, Paul S., Zhe-Kun Zhou and Charles H. Canon, (2001) [52], Li
Shou Zhui [47] thì Sồi phảng là cây g ỗ nhỡ, chiều cao khoảng 20m, thân thẳng,
phân cành cao, v ỏ mỏng màu xám nh ạt với các vết nứt dọc theo thân, vỏ dày 3 5mm, cây non có v ỏ nhẵn. Lá đơn mọc cách, có lá kèm rụng sớm, phiến lá hình
trứng ngược hoặc mác ngược, phiến lá dài 12 - 18cm, rộng 5 - 8 cm, bề mặt trên
5
nhẵn, bề mặt dưới màu xanh xám được phủ lông ngắn mềm màu gỉ sắt, gân bên 14 20 đôi rõ ràng . Hoa đơn tính cùng gốc, hoa đực dạng bơng đi sóc ở cuối cành,
hoa cái dạng bơng ng ắn; bao hoa có 3 ơ, mỗi ơ có 2 noãn; cụm hoa dài 6 - 15cm, 1
hoa thường có 5 - 7 quả tập trung trên một cuống. Quả hạch, khơng có cu ống, dài
1,5cm và rộng 0,8 - 1cm. Quả đơn hoặc 2 - 3 quả trong một đấu, quả hình trứng
ngược, đầu có mũi nhọn ngắn.
Là lồi cây m ọc nhanh, ưa sáng nên có phân bố rộng ở rừng nhiệt đới ẩm
thường xanh ở Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Malaysia, ... thường gặp Sồi phảng ở độ
cao dưới 1.600m so với mực nước biển [52].
1.1.3. Nghiên cứu về giống
Theo Wang J, Wang ZH, Yang L, Ren H (2008) [53] khi nghiên cứu về tác
động của lớp đất phủ trên bề mặt hạt giống và số lần tưới nước đến tỷ lệ nảy mầm
của hạt giống và khả năng sinh trưởng của cây con Sồi phảng cho thấy rằng ảnh
hưởng của lớp đất phủ trên bề mặt tới sự nảy mầm của hạt giống phụ thuộc vào điều
kiện độ ẩm của lớp đất nền. Khi số lần tưới nước là 1 lần/ngày thì độ dày lớp đất
phủ bề mặt hạt giống có thể hạn chế tỷ lệ nảy mầm của hạt giống và làm tăng tỷ lệ
chết đối với cây con, trong khi tưới nước 2 hoặc 3 lần/ngày, bao gồm cả cải thiện
điều kiện độ ẩm của lớp đất nền, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự nảy mầm của hạt
giống và sinh trưởng của cây giống. Sinh trưởng của cây giống Sồi phảng đã được
tăng cường đáng kể bởi lớp đất phủ trên bề mặt. Thí nghiệm trên đã chỉ ra rằng việc
giữ một lớp đất phủ trên bề mặt có thể ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt giống và
sự sống sót của cây giống Sồi phảng.
1.1.4. Nghiên cứu về trồng rừng
Theo Feng Sui-qi (2010) [40] khi nghiên cứu so sánh kết quả trồng rừng hỗn giao
giữa loài Sồi phảng với Thông đuôi ngựa theo các tỉ lệ hỗn giao khác nhau tại trang trại
lâm nghiệp Nam Bình tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, kết quả cho thấy tỉ lệ hỗn giao khác
nhau đã ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sinh trưởng đường kính ngang ngực, chiều cao
vút ng ọn, lượng tăng trưởng, suất tăng trưởng và trữ lượng của rừng trên một đơn vị diện
tích. Trồng rừng hỗn giao giữa lồi cây S ồi phảng với Thơng đi ngựa có thể nâng cao
6
tính ổn định của rừng và năng suất của đất lâm nghiệp. Nghiên cứu tỉ lệ hỗn giao
khác nhau giữa các mơ hình bao gồm các cơng thức thí nghiệm: thuần loài cây sồi
phảng, tỉ lệ 7 sồi phảng + 3 thông đuôi ngựa, 5 sồi phảng + 5 thô ng đuôi ngựa, 3 sồi
phảng + 7 thông đuôi ngựa và thuần lồi thơng đi ngựa. Kết quả cho thấy tỉ lệ hỗn
giao 7 sồi phảng + 3 thông đuôi có lượng tăng trưởng cao nhất, tiếp theo là tỉ lệ hỗn
giao 5 sồi phảng + 5 thông đuôi ngựa và thuần lồi thơng đi ngựa cho lượng tăng
trưởng thấp nhất. Như vậy, tỉ lệ hỗn giao thích hợp là 7 sồi phảng + 3 thông đuôi
ngựa giúp tăng trưởng về đường kính và chiều cao cho cả hai lồi này đạt cao nhất.
Còn theo Li Po Lin Shaohui (2001) [50] khi nghiên cứu về bón phân cho lồi
cây Sồi phảng trồng được một năm tuổi tại huyện Tây An, tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc đã cho thấy khả năng sinh trưởng đáng kể so với khơng bón phân. Trong năm
đầu tiên sau khi bón phân chuồng, chăm sóc tổng hợp với phân bón Sồi phảng có
mức tăng trưởng chiều cao tăng 81% so với khơng bón phân, cịn v ới bón phân urê
có m ức tăng trưởng 42% so với khơng bón phân. Trong năm thứ ba, tăng trưởng
chiều cao của cả hai thí nghiệm bón phân trên đều có sự tăng trưởng đáng kể so với
khơng bón phân, nhưng ở các năm tiếp theo sự khác biệt về tăng trưởng giảm dần.
Chen Bo, Jiang Zhurong, Zhang Jie, Wu Zhongqing, Xu Yingbao, Chen
Hongyue (2009) [39] khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của các biện pháp canh tác khác
nhau tới khả năng sinh trưởng của cây Sồi phảng, tác giả đã tiến hành trồng thử
nghiệm 12 công th ức áp dụng các biện pháp canh tác khác nhau trên các vùng đất
đồi tại một huyện phía bắc của tỉnh Quảng Đơng, Trung Quốc. Bằng cách thiết lập
12 ô m ẫu cố định lâu dài (đánh số ô từ 1 đến 12) và thu thập số liệu sinh trưởng của
tất cả các cá thể của quần thể Sồi phảng, sau đó tiến hành so sánh sinh trưởng của
cây theo các bi ện pháp: (i) chăm sóc khác nhau; (ii) mật độ trồng khác nhau (500
cây/ha, 800 cây/ha, 1 .000 cây/ha, 1.200 cây/ha); (iii) kích thước hố khác nhau
(30x30x30cm, 40x40x40cm, 50x40x30cm, 50x50x50cm). Kết quả cho thấy khả
năng sinh trưởng khác nhau khá rõ r ệt giữa 12 ơ mẫu, biện pháp chăm sóc ở ô số 12
cho khả năng sinh trưởng tốt nhất, mật độ trồng ở ô s ố 8 (800 cây/ha) cho khả năng
sinh trưởng tốt nhất, kích thước hố khác nhau ở ô s ố 6 (50x50x50cm) cho khả năng
7
sinh trưởng tốt nhất. Trên cơ sở phân tích cụm, hiệu quả tăng trưởng của 12 ơ mẫu
thí nghiệm các tác giả đã chia thành 3 lo ại: lô sinh trưởng nhanh, lơ sinh trưởng
trung bình và lơ sinh trưởng chậm.
1.1.5. Giá tr ị sử dụng
Hầu hết các loài tr ong họ Dẻ cho gỗ cứng, nặng, ít bị mối mọt, có thể dùng
làm nhà, đóng tàu xe, làm cầu, trụ mỏ, đồ gia dụng, ngồi ra vỏ cây có nhiều tanin
dùng để thuộc da, nhuộm vải có giá trị. Đặc biệt, các lồi thu ộc chi Castanopsis có
thể xếp vào loại cây đa tác dụng vừa cho gỗ, củi, hạt, tanin và thâ n cây dùng gây
trồng nấm. (Khamleck, 2004) [16] [35].
1.2. Ở Việt Nam
Các nghiên c ứu về Sồi phảng ở trong nước cũng còn r ất hạn chế, mới chỉ có
một số ít nghiên cứu về đặc điểm hình thái, phân bố và một số ít các cơng trình
nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật gây trồng. Các nghiên cứu về chọn và nhân gi ống
cho loài cây này cịn khá s ơ sài, có thể tổng hợp các nghiên cứu đối với loài cây
này như sau.
1.2.1. Tên gọi và phân lo ại
Ở nước ta ngoài tên g ọi phổ thơng, Sồi phảng cịn được gọi với một số tên
khác như: Dẻ bốp [4], Cồng (dân tộc Đan lai tại huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An),
Dẻ chẻ, Cà ổi đấu nẻ, Kha thụ chẻ [48],…
Về danh pháp quốc tế Sồi phảng cũng được nhiều nhà khoa học gọi với tên
khác nhau. Ở Việt Nam tên khoa học của Sồi phảng được sử dụng gồm có:
Lithocarpus fissus (Champ. ex Benth.) A.Camus.; Castanopsis fissa (Champ. ex
Benth.) Rehd. et Wils [46].; Quercus fissa (Champ. ex Benth) [46].; Pasania fissa
(Champ. ex Benth.) Oerst [46].; Castanopsis cerebrina Barnett [4]. Trong luận văn
này tác gi ả dùng tên khoa h ọc của loài Sồi phảng là Lithocarpus fissus (Champ. ex
Benth.) A.Camus (lấy theo "Tên cây r ừng Việt Nam").
Ở Việt Nam họ Dẻ (Fagaceae) là một trong 10 họ có số lồi lớn nhất
(Nguyễn Tiến Bân, 1997; Viện địa lý, 1999) [1], [36]. Chính vì vậy, họ Dẻ là đối
tượng nghiên cứu khá phức tạp, khơng những chúng có số lồi lớn mà cịn có vùng
8
phân bố rộng, chủ yếu là cây g ỗ lớn (Nông Văn Tiếp, Lương Văn Dũng, 2007) [29].
Hai nhà khoa học người Pháp là R. Hickel và A. Camus là nh ững người đầu tiên đã có
nhi ều cơng trình nghiên cứu về họ Dẻ ở Việt Nam và Đông Dương. Theo các tác giả
này, Họ Dẻ có 3 chi: Quercus, Lithocarpus, Castanopsis, với tổng số là 157 loài
(Lecomte M. H. (1931) [49].
Các kết quả nghiên cứu về số loài trong họ Dẻ ở nước ta cũng rất khác nhau.
Tuy nhiên, các kết quả đều cho thấy họ Dẻ là một trong những họ có nhiều lồi nhất
ở nước ta. Theo Võ V ăn Chi và Dương Đức Tiến (1978) khi phân loại thực vật học, tác
giả cho rằng Fagaceae là họ duy nhất nằm trong bộ Fagales, Ở Việt Nam có 5 chi:
Castanea, Castanopsis, Fagus, Lithocarpus và Quercus (dẫn theo Nông Văn Tiếp và
Lương Văn Dũng, 2007) [29]. Trần Đình Lý và cộng sự (1993) [20] khi nghiên cứu họ
Dẻ ở Việt Nam đã nhận xét họ Fagaceae có 5 chi g ồm 100 lồi. Trong đó chủ yếu là
các loài thuộc các chi Castanopsis, Lithocarpus và Quercus, đây là những loài cung cấp
gỗ và cho quả ăn được. Lê Trần Chấn và cộng sự (1999) (dẫn theo Nguyễn Toàn Thắng,
2008) [26] đã chỉ ra họ Dẻ là một trong 10 họ có số lồi lớn nhất Việt Nam với khoảng
213 loài. Lê Mộng Chân và Lê Th ị Huyên (2000) [4] đã chỉ ra rằng trên thế giới họ Dẻ
là một họ lớn gồm 7 chi có trên 600 lồi, ở Việt Nam có 5 chi và khoảng 120 lồi. Theo
Phạm Hồng Hộ (1993, 2000) [13] [14] thì Việt Nam có 215 lồi thuộc họ Dẻ. Cịn
theo Tr ần Hợp (2002) [15] thì họ Dẻ là họ duy nhất thuộc bộ Dẻ, và mô t ả khá chi tiết
về hình thái, đặc điểm sinh thái và vùng phân b ố của 5 chi Dẻ với 59 loài. Theo
Nguyễn Tiến Bân (2003) [2] thì họ Dẻ ở Việt Nam có 6 chi gồm: Castanea,
Castanopsis, Fagus, Lithocarpus, Quercus và Trigonobalanus với 216 loài. Hiện nay
chúng ta vẫn sử dụng theo hệ thống phân loại này.
Về phân loại, do là họ có số lượng lồi rất lớn nên các nghiên c ứu ở nước ta
mới chỉ tập trung vào phân lo ại các phân họ và chi, việc phân loại đến lồi cịn r ất
ít nghiên cứu.
1.2.2. Đặc điểm hình thái và phân b ố tự nhiên
Sồi phảng đã được mô tả là cây g ỗ nhỡ đến lớn, cao 20 - 25m, đường kính có
thể tới 80cm, thân thẳng, phân cành cao, có múi, g ốc có bạnh vè nhỏ. Vỏ màu xám
9
nhạt. Cành thẳng, tỉa cành tự nhiên tốt, mỗi năm có 2 vịng cành. Lá đơn mọc cách, có
lá kèm r ụng sớm, phiến lá hình trứng ngược hoặc ngọn giáo, dài 17 - 18cm, rộng 4
- 8cm, đầu lá có mũi nhọn ngắn, đi hình nêm, mép lá ở 3/4 phía đầu có răng cưa
nhọn; gân bên 16 - 18 đôi kéo dài tới đỉnh răng cưa. Màu sắc 2 mặt lá phân biệt rõ r ệt,
mặt trên xanh thẫm, mặt dưới phủ lơng ngắn màu gỉ sắt óng ánh. Cuống lá dài 1,5 2cm. Hoa đơn tính cùng gốc; bơng đi sóc đực dựng đứng nghiêng, bao hoa 6, nhị 10
- 12, bơ ng đi sóc cái dài 5 - 6cm, hoa cái thưa trải đều trên bông. Đấu có cuống ngắn
0,4cm; đường kính 1,7 - 1,8cm bọc 1/2 - 2/3 quả, phía trong phủ nhiều lơng mịn, phía
ngồi phủ lơng vàng óng ánh. V ảy trên đấu thưa, hình thn dài, x ếp thành nhiều hàng
khơng đều. Quả hình trụ, đầu có mũi nhọn ngắn, dễ rời khỏi đấu, dài 2,5cm, đường kính
1,5cm; sẹo phẳng hoặc hơi lồi, đường kính 0,6 - 0,7cm. Khi chín quả màu nâu vàng. R
ễ cọc ngắn không ăn sâu, hệ rễ bên thường rộng hơn đường kính tán lá. Cây có kh ả
năng liền rễ (Lê Mộng Chân và Lê Th ị Huyên, 2000; Forest
Inventory and Planing Institute, 2009) [4] [41].
Sồi phảng thường phân bố tự nhiên ở các rừng thứ sinh từ các tỉnh miền Bắc
như Quảng Ninh, Phú Thọ, Yên Bái đến các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.
Thường gặp Sồi phảng mọc ở độ cao 50 - 1.200m so với mực nước biển. Sồi phảng
là cây ưa sáng, lúc nhỏ thích hợp với độ tàn che 0,5 - 0,6, thường mọc ở sườn ngồi
bìa rừng hoặc ở những chỗ trống trong rừng tự nhiên. Do thân tròn th ẳng, phân
cành cao, độ thon nhỏ nên Sồi phảng rất thích hợp cho việc trồng rừng cung cấp gỗ
lớn hay gỗ xẻ (Lê Mộng Chân, 2000). Lập địa trồng thích hợp cho Sồi phảng là nơi
đất ẩm mát, thoát nước, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến sét nhẹ, pH KCl = 4 - 5,
o
tầng đất từ 40 - 50cm, nhiệt độ bình quân từ 18 - 25 C và lượng mưa từ 1.500 2.000mm, độ cao dưới 800m so với mực nước biển (trang web Agriviet.com) [11].
1.2.3. Giá tr ị sử dụng
Gỗ Sồi phảng có lõi màu nâu đến vàng sẫm, vân hơi thẳng, kết cấu mịn, mềm
và hơi nặng, dễ chế biến nhưng kém chịu mục mọt. Được dùng làm g ỗ xây dựng,
làm dụng cụ gia đình, hịm. Vỏ cây và đấu quả chứa nhiều tanin. Hạt dùng làm
thuốc trị đau họng, lá dùng ngoài tr ị đòn , ngã tổn thương và ghẻ lở [48].
10
Theo Lê Mộng Chân và Lê Th ị Huyên (2000) [4] thì gỗ Sồi phảng là gỗ
cứng, khơng m ối mọt, độ thon nhỏ thường được dùng làm nhà, làm tr ụ mỏ và các
đồ dùng hàng ngày. Cây kích thước lớn thường bị rỗng ruột.
Còn theo Nguy ễn Bá Chất (1999) [7], Sồi phảng là loài cây r ất thích hợp để
làm gỗ trụ mỏ, là một trong những lồi cây dùng để trồng rừng bổ sung trong cơng
tác khoanh nuôi, nh ất là những vùng t ạo rừng để cung cấp gỗ mỏ bởi khả năng
cung cấp hạt giống, sinh trưởng nhanh, có tính quần hợp cao.
1.2.4. Kỹ thuật gây tr ồng
Nghiên cứu xây dựng mơ hình trồng rừng hỗn loài bằng các loài cây lá r ộng
bản địa trên đất rừng thối hóa ở các tỉnh phía Bắc, Nguyễn Bá Chất (1998) [6] và
Hoàng Văn Thắng (2004) [24] đã sử dụng cây Sồi phảng để trồng hỗn loài với các
loài cây b ản địa khác như Lim xanh, Trám trắng, Vạng trứng và Re gừng tại Cầu
Hai, Phú Th ọ. Trong 2 năm đầu Sồi phảng và các loài cây lá r ộng bản địa khác
được che bóng b ởi lớp cây phù tr ợ là Keo tai tượng và Cốt khí. Đến tuổi 3 và 4 thì
tỉa cành và t ỉa thưa lớp cây phù tr ợ, tạo điều kiện về không gian dinh dưỡng cho
Sồi phảng và các loài cây b ản địa khác sinh trưởng, phát triển tốt hơn. Do được tác
động các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù h ợp nên mặc dù được trồng trên đối
tượng đất rừng thối hóa, nhưng trong những năm đầu Sồi phảng đã đạt được
1,6cm/năm về đường kính và 1,5m/năm về chiều cao. Đến tuổi 6 một số cây Sồi
phảng trong mơ hình đã ra hoa, kết quả. Sau 7 năm thực hiện mơ hình cho thấy Sồi
phảng còn l ại với tỷ lệ sống đạt 90 - 92% tùy theo t ừng cơng thức thí nghiệm và
hiện tại Sồi phảng đang sinh trưởng phát triển tốt và rất có triển vọng. Kết quả
nghiên cứu này cho thấy Sồi phảng có thể trồng hỗn lồi theo hàng v ới các loài cây
lá rộng bản địa khác trên đối tượng đất thối hóa ở các tỉnh phía Bắc.
Nghiên cứu tạo rừng hỗn loài giữa Sồi phảng và Luồng ở Cầu Hai, Đoan
Hùng, Phú Th ọ (Nguyễn Thị Nhung, 2004) [21] và ở Bình Thanh, Cao Phong, Hịa
Bình (Hoàng Văn Thắng, 2008) [25], các tác gi ả cho thấy Sồi phảng trong mơ hình
hỗn lồi với Luồng sinh trưởng tương đối tốt và cũng rất có triển vọng.
Nghiên cứu làm giàu r ừng bằng cây Sồi phảng cũng đã được một số tác giả
11
quan tâm. Sử dụng Sồi phảng và một số loài cây b ản địa khác trồng làm giàu theo rạch
cho các đối tượng rừng thứ sinh nghèo tại Cầu Hai, Nguyễn Bá Chất (1995) [5] cho
thấy Sồi phảng có t ỷ lệ sống cao (>85%), tăng trưởng bình quân chung về đường kính
là 1,3cm/năm và chiều cao là 1,2m/năm, cây trồng sinh trưởng tốt và ít bị sâu bệnh. Từ
kết quả nghiên cứu về lâm nghiệp trang trại ở Phú Thọ, trong chương trình hợp tác Lâm
nghiệp Việt Nam - Thụy Điển, Nguyễn Bá Chất (1993) đã xây d ựng hướng dẫn kỹ
thuật gây trồng Sồi phảng và một số loài cây b ản địa khác. Đây là cơ sở bước đầu để
các địa phương ở miền Bắc áp dụng trồng rừng cho loài cây này .
Lê Minh Cường (2007) [9] khi đánh giá sinh trưởng của một số loài cây lá
rộng địa bản trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ tại Đại Lải, Vĩnh Phúc, trong đó có
Sồi phảng cho thấy Sồi phảng có khả năng sinh trưởng khá nhanh, tăng trưởng
đường kính bình qn đạt 1,2cm/năm, chiều cao đạt 1,0m/năm và sau 7 - 8 năm tuổi
đã hình thành rừng hỗn giao với Thông mã vĩ.
Theo Bùi Tr ọng Thủy (2010) [27] khi nghiên cứu kỹ thuật trồng một số lồi
cây bản địa (trong đó có Sồi phảng) dưới tán rừng Thơng mã vĩ ở Lạng Sơn thì Sồi
phảng ở giai đoạn đầu từ 1 - 3 năm tuổi sinh trưởng tốt nhất ở độ tàn che 0,3 - 0,5 và
đất phải đủ ẩm, tầng đất dày trên 50cm, thành ph ần cơ giới là thịt nhẹ. Vì vậy, điều
chỉnh độ tàn che hợp lý theo giai đoạn rừng non của Sồi phảng sẽ nâng cao tỷ lệ
sống và khả năng sinh trưởng, qua đó nâng cao năng suất của rừng trồng.
Dự án nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng tự nhiên bị suy thoái
ở miền Bắc Việt Nam (Dự án RENFODA - Rehabilitation of Natural Forest in
Degraded Watershed Area in the North of Vietnam) do Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam (2001) tiến hành đã sử dụng Sồi phảng và một số loài cây lá r ộng bản địa
khác như Dẻ đỏ, Lim xanh, Trám trắng để trồng làm giàu r ừng theo rạch và theo
đám cho đối tượng rừng thứ sinh nghèo kiệt tại Bình Thanh, Cao Phong, Hịa Bình.
Sau 4 năm thí nghiệm cho thấy các loài cây tr ồng làm giàu r ừng, Sồi phảng là lồi
cây có t ỷ lệ sống cao, đạt từ 95,4% - 96,3% và sinh trưởng tương đối tốt. Tăng
trưởng bình quân của Sồi phảng 4 năm tuồi về đường kính là 1,4cm/năm và chiều
cao là 1,5m/năm, ở tuổi này chưa có sự khác nhau về sinh trưởng giữa Sồi phảng
12
trồng theo rạch và trồng theo đám. Tuy nhiên, kết quả bước đầu này cho thấy Sồi
phảng là loài cây r ất có triển vọng trong việc trồng làm giàu r ừng, nâng cao chất
lượng rừng thứ sinh nghèo kiệt ở nước ta [37].
Theo Trần Văn Khoan (2000) [19], đội sản xuất Lâm nghiệp Cộng Hòa, Lâm
trường Cẩm Phả (nay là Công ty Lâm nghi ệp Cẩm Phả), tỉnh Quảng Ninh đã phối
hợp với Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam trồng 2ha rừng Sồi phảng thuần loài,
mật độ khi trồng ban đầu là 500 cây/ ha. Sau 7 năm trồng (1999), rừng đã khép tán,
mật độ còn l ại là 300 cây/ha, chi ều cao bình quân đạt 8 - 9m, đường kính ngang
ngực bình qn đạt 10 - 11cm, hình thành quần thụ Sồi phảng sinh trưởng tốt và rất
có tri ển vọng.
Ngồi các cơng trình nghiên c ứu về các biện pháp kỹ thuật gây trồng, Sồi
phảng còn được trồng trong các vườn sưu tập thực vật ở các Vườn Quốc gia và Khu
bảo tồn thiên nhiên. Điển hình như Vườn Quốc gia Bến En, Vườn Quốc gia Xuân
Sơn, Khu di tích lịch sử Đền Hùng, Khu vườn sưu tập thực vật ở Trung tâm Khoa
học sản xuất Lâm nghiệp Đông Bắc Bộ (Đại Lải - Vĩnh Phúc), Khu vườn sưu tập
thực vật ở Cầu Hai (Phú Thọ), ... trong các mơ hình này Sồi phảng được trồng thành
các ô t ừ 20 - 40 cây. Kết quả theo dõi cho th ấy Sồi phảng trồng ở các địa phương
đều có khả năng sinh trưởng tốt. Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng của Sồi phảng phụ
thuộc vào từng điều kiện lập địa cụ thể (dẫn theo Nguyễn Văn Đăng, 2010) [11].
Từ kết quả trồng rừng bằng cây Sồi phảng, Bộ NN&PTNT đã ban hành danh
mục các loài cây ch ủ yếu cho trồng rừng sản xuất theo 9 vùng sinh thái lâm nghi ệp
theo Quyết định số 16/2005/QĐ-BNN, trong đó Sồi phảng là cây tr ồng rừng thích
hợp cho vùng Đơng Bắc và Bắc Trung Bộ. Trên thực tế, việc trồng rừng bằng cây
Sồi phảng ở các địa phương cịn r ất hạn chế, các diện tích rừng Sồi phảng hiện có
là do q trình khoanh ni xúc ti ến tái sinh tự nhiên, quá trình quản lý bảo vệ mà
hình thành, nên chất lượng rừng thường chưa đảm bảo.
1.2.5. Đặc điểm sinh trưởng và kh ả năng tái sinh
Nghiên cứu về đặc điểm sinh trưởng của Sồi phảng, Nguyễn Văn Huy (1990)
(theo Nguyễn Văn Đăng, 2010) [11] cho thấy Sồi phảng là loài cây sinh trưởng nhịp
13
điệu, mỗi năm có hai mùa sinh trưởng, mùa Xuân và mùa Hè , tạo thành hai vòng
cành liền nhau. Mỗi năm Sồi phảng đổi trục một lần, một chồi bên mọc thấp hơn
phát triển mạnh, đỉnh sinh trưởng cũ ngừng sinh trưởng và teo đi. Sồi phảng ở tuổi
2 và tuổi 3 có sự đổi ngọn đặc biệt, từ một vị trí nách lá sát đất, một chồi phát triển
mạnh, sau 1 năm cao hơn chồi cũ, sau đó thay thế chồi cũ.
Theo Nguyễn Bá Chất (1999, 2002) [7] [8], lượng tăng trưởng hàng năm của
Sồi phảng khác nhau giữa cây tự nhiên và cây tr ồng, giữa các độ tàn che khác nhau.
Sồi phảng mọc tự nhiên có lượng tăng trưởng hàng năm cao nhất từ tuổi 8 đến tuổi
15, còn ở rừng trồng lượng tăng trưởng hàng năm của Sồi phảng đạt cao nhất ở tuổi
6 đến tuổi 15. Sồi phảng từ rừng trồng ln có lượng tăng trưởng cao hơn cây mọc
trong rừng tự nhiên ở cùng độ tuổi.
Nghiên cứu về khả năng tái sinh của Sồi phảng dưới một số trạng thái rừng tự
nhiên, Nguyễn Bá Chất (1999) [7] cho thấy Sồi phảng có khả năng tái sinh hạt và chồi
đều rất mạnh. Tuy nhiên, số lượng cây Sồi phảng tái sinh hạt có sự khác biệt giữa các
độ tàn che. Nơi có độ tàn che nhỏ (0,3) thì số lượng cây tái sinh có chiều cao lớn hơn
1m ln cao hơn ở nơi có độ tàn che cao (0,6). Kết quả nghiên cứu về nhóm lồi sinh
thái Vi ện Điều tra quy hoạch rừng (1971) (dẫn theo Nguyễn Văn Đăng, 2010) [11] cho
thấy Sồi phảng thường sống hỗn loài với các loài Lim xanh, Dẻ, Ràng ràng mít, Chẹo
tía, Giổi xanh, Re, Máu chó, Gội, Táu, Xoan đào,... Phần lớn gặp trong rừng thứ sinh,
có khi chúng chiếm tỷ lệ cao trong tổ thành. Một số nơi như ở Tiên Yên (Qu ảng Ninh),
Quỳ Châu (Nghệ An) có những quần thụ Sồi phảng chiếm
75 - 80% tổ thành loài.
1.2.6. Nghiên cứu cải thiện giống
Nghiên cứu về chọn giống Sồi phảng đến nay vẫn còn ít được quan tâm.
Xuất phát từ nhu cầu sản xuất thực tiễn là hàng năm nước ta cần khoảng 800kg hạt
giống Sồi phảng để trồng khoảng 2.000ha cho các vùng Tây B ắc, Trung tâm, Đông
Bắc và Bắc Trung Bộ (Nguyễn Huy Sơn, 2010) [23] thì việc chọn giống Sồi phảng
càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Thực hiện chiến lược phát triển giống cây
lâm nghiệp giai đoạn 2006 - 2020 đã được Bộ NN&PTNT ban hành theo Quyết
14
định số 62/2006/QĐ-BNN ngày 16/8/2006, trong đó cây Sồi phảng được ưu tiên
phát triển giống phục vụ mục tiêu làm giàu r ừng và khoanh nuôi xúc ti ến tái sinh.
Đây là cơ sở cung cấp giống Sồi phảng đã được cải thiện nhằm nâng cao chất lượng
rừng trồng ở nước ta.
Theo kết quả điều tra ban đầu của dự án "Nâng cao ch ất lượng rừng giống
một số loài cây b ản địa phục vụ làm giàu r ừng và khoanh nuôi xúc ti ến tái sinh"
do Trung tâm Nghiên c ứu Lâm đặc sản - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
thực hiện cho thấy tại các tỉnh Yên Bái, Phú Th ọ, Quảng Ninh và Nghệ An hiện có
khoảng 39ha rừng cây Sồi phảng có thể chọn và chuyển hóa thành rừng giống.
Trong thời gian qua Trung tâm nghiên c ứu Lâm đặc sản đã phối hợp với Công
ty L âm nghiệp Con Cuông (Nghệ An) ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để tuyển
chọn các cây trội từ 30ha rừng Sồi phảng nhằm chuyển hóa thành rừng giống Sồi
phảng, lấy hạt giống và tạo cây con cung cấp cho thị trường quanh vùng.
1.3. Nhận xét và thảo luận
Kết quả của các cơng trình nghiên cứu trên rất quan trọng, nó làm cơ sở khoa
học cho các nghiên cứu tiếp theo, nhất là về vấn đề cải thiện giống và hoàn thi ện kỹ
thuật gây trồng lồi Sồi phảng.
Điểm qua các cơng trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước cho thấy các
nghiên cứu về Sồi phảng chưa nhiều, mới chỉ tập trung vào lĩnh vực phân loại thực
vật, mơ t ả hình thái, đặc điểm phân bố, đặc điểm sinh thái, giá trị sử dụng,... Những
nghiên cứu này mới chỉ là những cơ sở khoa học ban đầu, góp phần cho việc chọn
tạo giống và gây tr ồng trong các bước tiếp theo.
Trong các điều kiện tự nhiên và th ực tế khác nhau thì kỹ thuật gây trồng
cũng khác nhau. Vì thế, có thể ứng dụng kỹ thuật gây trồng của một số mơ hình điển
hình trong thực tế để mở rộng trong sản xuất trong những điều kiện tương tự. Từ đó,
hồn thiện quy trình kỹ thuật gây trồng rừng lồi Sồi phảng cho từng vùng sinh thái
cụ thể. Kỹ thuật gây trồng Sồi phảng hiện nay chủ yếu là do kinh nghiệm của nhân
dân là chính. Tuy đã có m ột số cơng trình nghiên cứu nhưng chưa cụ thể,
15
chưa nghiên cứu kỹ thuật gieo ươm, chế độ che sáng và bón thúc nào là phù h ợp
nhất với cây con trong giai đoạn vườn ươm.
Vì thế, trong phạm vi nghiên cứu của Đề tài luận văn sẽ tập trung vào các
vấn đề sau đây:
+ Nghiên cứu đặc điểm lâm học quần thể và chọn cây trội Sồi phảng
+ Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che sáng đến khả năng sinh trưởng cây
con trong giai đoạn vườn ươm
+ Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ bón thúc phân đến khả năng sinh trưởng
của cây con trong giai đoạn vườn ươm
+ Bước đầu đánh giá khả năng sinh trưởng của rừng giống và vườn giống
hữu tính trồng ở Hồnh Bồ - Quảng Ninh
+ Để xuất một số biện pháp kỹ thuật chọn tạo giống và trồng rừng giống,
vường giống hữu tính Sồi phảng.
16
Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, GIỚI HẠN
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Làm cơ sở khoa học góp phần nâng cao chất lượng giống cây Sồi phảng
nhằm phục vụ trồng rừng gỗ lớn và phục hồi rừng tự nhiên nghèo ki ệt ở một số tỉnh
vùng núi phía B ắc.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được một số căn cứ khoa học của cây Sồi phảng làm cơ sở đề xuất
biện pháp kỹ thuật xây dựng rừng giống, vườn giống hữu tính.
-
Bước đầu xác định được một số biện pháp kỹ thuật chọn giống và nhân
giống cây Sồi phảng để cung cấp giống phục vụ xây dựng rừng giống, vườn giống
hữu tính tại Hồnh Bồ, Quảng Ninh.
-
Đề xuất được một số biện pháp kỹ thuật chọn giống, nhân giống và trồng
rừng loài cây S ồi phảng.
2.2. Giới hạn nghiên cứu
- Về đối tượng: cây Sồi phảng (Lithocarpus fissus (Champ. ex Benth.)
A.Camus) hiện đang được trồng rừng ở nước ta.
- Về nội dung: Đề tài chỉ nghiên cứu đặc điểm lâm học quần thể loài Sồi
phảng trong rừng tự nhiên, đặc điểm vật hậu và kỹ thuật chọn giống, nhân giống
loài Sồi phảng; bước đầu đánh giá khả năng sinh trưởng của rừng giống và vườn
giống hữu tính 3 năm tuổi trồng ở Quảng Ninh.
- Địa bàn nghiên c ứu: Mặc dù t ại Quảng Ninh loài cây S ồi phảng phân bố
trong rừng tự nhiên khá nhi ều nhưng do khai thác cạn kiệt không thể chọn được cây
mẹ để lấy giống làm khảo nghiệm. Vì vậy địa bàn nghiên c ứu như sau:
+ Điều tra nghiên cứu đặc điểm lâm học chọn giống ở 2 tỉnh Nghệ An và
Phú Th ọ (Cụ thể là tại Công ty Lâm nghiệp Con Cuông, huyện Con Cuông, tỉnh
17
Nghệ An và Trung tâm nghiên c ứu thực nghiệm lâm sinh Cầu Hai, huyện Đoan
Hùng, t ỉnh Phú Thọ).
+ Kỹ thuật tạo cây con bằng hạt ở Trạm nghiên cứu thực nghiệm Lâm sản
ngoài gỗ Hoành Bồ, Quảng Ninh.
+ Xây dựng rừng giống và vườn giống hữu tính ở Trạm nghiên cứu thực
nghiệm Lâm sản ngoài gỗ Hoành Bồ, Quảng Ninh.
2.3. Nội dung
2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm lâm học quần thể và ch ọn cây trội Sồi phảng
- Đặc điểm tổ thành loài t ầng cây cao
- Đặc điểm tổ thành loài t ầng cây tái sinh
- Chọn cây trội trong quần thể rừng tự nhiên để lấy vật liệu giống
2.3.2. Nghiên cứu đặc điểm vật hậu và hình thái các b ộ phận của cây Sồi phảng
- Thời gian bắt đầu ra hoa, kết quả theo hai vùng sinh thái (Nghệ An, Phú Thọ).
- Đặc điểm hình thái thân, lá, hoa, qu ả và hạt của Sồi phảng theo hai vùng
sinh thái (Nghệ An, Phú Thọ).
2.3.3. Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống hữu tính
- Kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp hữu tính.
- Ảnh hưởng của chế độ che sáng đến sinh trưởng cây con trong giai đoạn
vườn ươm.
- Ảnh hưởng của chế độ bón thúc phân đến khả năng sinh trưởng của cây con
trong vườn ươm.
2.3.4. Bước đầu đánh giá kh ả năng sinh trưởng của rừng giống và vườn giống
hữu tính trồng ở Hồnh B ồ, Quảng Ninh
- Sinh trưởng của Rừng giống (về đường kính gốc và chiều cao vút ngọn)
- Sinh trưởng của Vườn giống hữu tính (về đường kính gốc và chiều cao vút ngọn)
2.3.5. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật chọn giống, nhân gi ống và tr ồng rừng
loài cây S ồi phảng
- Chọn cây trội
- Nhân giống bằng phương pháp hữu tính
- Kỹ thuật gây trồng
18
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp chung
Bố trí thí nghiệm theo phương pháp sinh thái thực nghiệm, điều tra khảo sát,
bố trí thí nghiệm ngồi hiện trường kết hợp với phương pháp phân tích trong phịng
để định lượng các chỉ tiêu cần thiết. Thu thập số liệu theo phương pháp điều tra ô
tiêu chuẩn tạm thời và ô tiêu chu ẩn định vị điển hình. Xử lý, phân tích số liệu theo
các phương pháp thống kê sinh học trên máy tính bằng các phần mềm Excell, SPSS,
... (Vũ Tiến Hinh, 1995; Nguyễn Hải Tuất, 1982; Nguyễn Hải Tuất, Ngô Kim Khơi,
1996 ; Nguyễn Hải Tuất, Nguyễn Trọng Bình, 2005) [12], [31], [32], [33].
19
Hình 2.1: Sơ đồ các bước tiến hành nghiên cứu
Thu thập thơng tin, kế
thừa các tài liệu, số
có
Điều tra thực địa liệu đã
lâ
q
p
Tổng hợp và xử lý số liệu
Phân tích đánh giá
Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật
chọn tạo giống và xây d ựng rừng
giống và vườn giống hữu tính
20
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.4.2.1. Phương pháp kế thừa
- Số liệu khí hậu, thủy văn của các Trạm khí tượng thủy văn gần địa điểm
nghiên cứu nhất; đất đai, địa hình, tài nguyên rừng kế thừa số liệu của Phịng Nơng
nghiệp huyện.
- Số liệu về dân sinh, KT-XH của Phịng Nơng nghi ệp huyện.
2.4.2.2. Phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn
a) Đối với tổ thành loài tầng cây cao
Nghiên cứu đặc điểm lâm học quần thể Sồi phảng được thực hiện trong rừng
tự nhiên tại tỉnh Nghệ An và tỉnh Phú Thọ. Theo phương pháp điều tra ô tiêu chu ẩn
(OTC) điển hình tạm thời, số lượng: 5 OTC tại Nghệ An và 4 OTC tại Phú Thọ.
2
Mỗi OTC có di ện tích 1.000m (25x40m). Trên mỗi OTC, tiến hành thu thập số
liệu thành phần loài cây (c ả tên địa phương và tên khoa học), các chỉ tiêu sinh
trưởng gồm D1.3, HVN, HDC của tất cả các lồi trong OTC có D 1.3 ≥ 6cm.
- Tên lồi xác định tên địa phương tại hiện trường, sau đó tra tên khoa học, cây
chưa biết tên lấy mẫu tiêu bản để giám định theo phương pháp chuyên gia.
- Chiều cao vút ngọn và chiều cao dưới cành đo bằng sào đo cao kết hợp với
máy đo cao Laze.
- Chu vi thân cây được đo tại vị trí 1,3m bằng thước dây có khắc vạch đến
mm, sau đó quy đổi ra đường kính.
- Đường kính tán đo bằng thước dây theo 2 chiều Đông Tây - Nam Bắc và lấy
trị số trung bình theo phương pháp trung bình cộng.
b) Đối với tổ thành lồi tầng cây tái sinh
Trong mỗi ơ tiêu chuẩn điển hình tạm thời lập 5 ơ dạng bản (ODB) có di ện tích
2
25m (4 ơ ở 4 góc và 1 ơ ở trung tâm OTC), xác định tên các loài cây tái sinh và đo
đếm các chỉ tiêu sinh trưởng bao gồm đường kính gốc (D 00) hoặc (D1.3), chiều cao vút
ng ọn (HVN), chất lượng cây con, nguồn gốc tái sinh (chồi, hạt), số lượng cây, tỷ lệ cây
có triển vọng... của những cây có D1.3<6cm. Cây tái sinh tri ển vọng là
21
cây thuộc lồi mục đích, phát triển tốt, có chiều cao lớn hơn lớp cây bụi thảm tươi
tại khu vực đó.
2.4.2.3. Phương pháp chọn cây trội
Cây trội được chọn trên tồn bộ diện tích lâm phần rừng giống đã chuyển hóa và
ngồi lâm ph ần, chọn lọc cây trội lấy giống được thực hiện theo tiêu chuẩn ngành 04
TCN 147-2006 - Tiêu chuẩn công nhận giống cây trồng lâm nghiệp và Quy phạm kỹ
thuật xây dựng rừng giống, vườn giống (QPN15-93) của Bộ Nông nghiệp và Phát tri ển
Nông thôn , sử dụng phương pháp 5 cây so sánh (so sánh với 5 cây cùng lồi gần nhất).
Tiêu chí chọn cây trội theo chỉ tiêu chất lượng gồm: độ thẳng thân, độ nhỏ cành, hình
thái tán lá theo phương pháp cho điểm (Lê Đình Khả, 1998) [17].
+ Độ thẳng thân (Đtt) được cho điểm theo 5 cấp (1 - 5 điểm)
Cây rất cong
: 1 điểm
Cây cong
: 2 điểm
Cây hơi cong
: 3 điểm
Cây thẳng
: 4 điểm
Cây rất thẳng
: 5 điểm
+ Độ nhỏ cành ( Đnc) được cho điểm theo 5 cấp (1 - 5 điểm)
Cành rất lớn (> 1/3 đường kính thân cây ở vị trí gốc cành)
: 1 điểm
Cành lớn (<1/4 - 1/3 đường kính thân cây ở vị trí gốc cành)
: 2 điểm
Cành trung bình (<1/6 - 1/5 đường kính ở vị trí gốc cành)
: 3 điểm
Cành nhỏ (<1/9 - 1/7 đường kính thân cây ở vị trí gốc cành)
: 4 điểm
Cành rất nhỏ (<1/10 đường kính thân cây ở vị trí gốc cành)
: 5 điểm
+ Hình thái tán (Ht) được cho điểm theo 5 cấp (1 - 5 điểm)
Tán rất lệch ngọn hình dù
: 1 điểm
Tán lệch ngọn hình dù
: 2 điểm
Tán trịn khơng đều ngọn hình dù
: 3 điểm
Tán trịn đều ngọn hình dù hơi nhọn
: 4 điểm
đều hình tháp (rất phát triển)
: 5 điểm
22
Số cây trội được lựa chọn là 100 cây, trong đó tại tỉnh Nghệ An chọn 60 cây
trội và tại tỉnh Phú Thọ chọn 40 cây trội
2.4.2.4 Phương pháp theo dõi đặc điểm vật hậu
Mỗi vùng ch ọn 5 cây trong rừng tự nhiên, quan sát v ật hậu, chọn những cây
có D
1.3
lớn hơn 30cm, nằm trong quần thể tự nhiên. Nội dung quan sát gồm thời
gian bắt đầu và kết thúc của các pha: ra chồi, ra lá non, ra nụ, nở hoa, kết quả và quả
chín. Ngồi ra, cịn mơ t ả hình thái quả, hạt theo phương pháp chuyên gia.
2.4.2.5. Phương pháp bố trí thí nghiệm cụ thể
a) Thí nghiệm 1: Phương pháp xử lý hạt giống
Hạt giống sau khi thu hái được gieo ngay trên cát ẩm (khơng cần qua xỷ lý
nước ấm, vì hạt giống Sồi phảng có khả năng nảy mầm ngay sau khi thu hái).
b) Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che sáng đến sinh trưởng cây
con trong giai đoạn vườn ươm
Bố trí thí nghiệm theo phương pháp Tuốc-Sky với 5 công thức che sáng khác
nhau. Hạt giống sau khi nảy mầm và có 1 - 2 lá thì cấy vào bầu, cây con được cấy
vào bầu polyetylen kích thước 10x15cm, hỗn hợp ruột bầu đồng nhất gồm: 89% đất
rừng tầng A kết hợp với 10% phân chuồng hoai và 1% phân NPK (5:10:3). Mỗi
cơng th ức thí nghiệm có 108 cây chia làm 3 lần lặp, mỗi lần lặp có 36 cây. Định kỳ
theo dõi trong v ườn ươm 8 tháng, thời gian thu thập số liệu là sau 4, 6, 8 tháng .
Gồm các công thức sau:
+ Công th ức 1: Không che (đối chứng)
+ Công th ức 2: Che sáng 25%
+ Công th ức 3: Che sáng 50%
+ Công th ức 4: Che sáng 75%
+ Công th ức 5: Che sáng 100%
Vật liệu thiết kế để che sáng được làm bằng phên nứa lấy từ rừng tự nhiên; giàn
che được thiết kế theo công thức thực nghiệm của Nguyễn Hữu Thước (1964) [28], với
khoảng cách khác nhau, tương ứng với kích thước đã tính tốn theo công th ức 2.1.
A=
Trong đó:
A là tỷ lệ cần che bóng
2
(x + a) là diện tích cần che bóng
a là bề rộng của nan
x là khoảng cách giữa các nan
Luống cây và giàn che được bố trí theo hướng Đơng - Tây. Chỉ tiêu thu thập
gồm đường kính gốc (D00), chiều cao (Hvn) và tỷ lệ sống.
c) Thí nghiệm 3: Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón thúc đến khả năng sinh
trưởng của cây con trong vườn ươm
Chế độ bón thúc phân được bố trí gồm 3 cơng th ức thí nghiệm khác nhau:
+ Công th ức 1: Tưới nước lã
+ Công th ức 2: Tưới phân NPK
+ Công th ức 3: Tưới phân chuồng ngâm
Các cơng th ức thí nghiệm được bố trí tương tự như các cơng th ức che sáng
gồm 108 cây chia làm 3 lần lặp, mỗi lần lặp 36 cây; thành phần ruột bầu như trên.
Cây con ở các công thức được che sáng bằng lưới nylon đen, độ che sáng 50%.
Định kỳ tưới là 15 ngày một lần. Định kỳ thu thập số liệu là 4, 6, 8 tháng tuổi.
d) Thí nghiệm 4: Đánh giá sinh trưởng rừng giống
- Bố trí thí nghiệm Rừng giống: Rừng giống hữu tính được xây dựng từ hỗn
hợp hạt giống của 50 cây trội (30 cây trội Nghệ An và 20 cây tr ội Phú Th ọ); cây con
khi trồng rừng giống là cây 1 năm tuổi, chiều cao trung bình từ 40 - 50cm, đường kính
gốc trung bình từ 0,5 - 0,6cm, cây khỏe mạnh không sâu bệnh; Rừng giống được trồng
vào tháng 10 năm 2009, diện tích trồng rừng giống là 5ha; hiện trường ban đầu trước
khi xây dựng rừng giống là rừng tự nhiên; xử lý thực bì toàn diện theo băng, phát sạch
dây leo cỏ dại, phát dọn theo băng chặt với kích thước rộng 2m, băng chừa kích thước
rộng 3m, băng bố trí theo đường đồng mức; độ tàn che còn l ại từ 0,25 - 0,4; mật độ
trồng ban đầu là 800 cây/ha (5x2,5m); kích thước hố
24
50x50x50cm, bón lót 4kg ph ân chuồng hoai và 0,2kg NPK/hố; chăm sóc 2 lần/năm
(trong 3 năm đầu), lần 1 vào tháng 3, l ần 2 vào tháng 11 .
- Tiến hành lập 3 ô tiêu chuẩn định vị đại diện cho diện tích rừng giống Sồi
phảng tại Quảng Ninh theo 3 vị trí: Chân, sườn và đỉnh đồi. Diện tích mỗi ơ tiêu
2
chuẩn 1.000m (25x40m), trên mỗi ơ tiêu chuẩn đo đếm các chỉ tiêu:
+ Tỷ lệ sống: Xác định bằng tỷ lệ số cây sống/Số cây trồng ban đầu
+ Đường kính gốc (D00) đo bằng thước kẹp kính chính xác đến mm
+ Chiều cao vút ngọn (HVN) đo bằng thước đo cao có kh ắc vạch chính xác
đến cm
- Xác định độ tàn che bằng phương pháp cho điểm, tức là trong ô tiêu chu ẩn
điều tra theo các tuyến song song cách đều nhau, mỗi tuyến cách nhau 10m, mỗi
tuyến dài 20m. Trên m ỗi tuyến đặt các điểm cách nhau 2m, tại các điểm này ngắm
lên theo phương thẳng đứng, nếu gặp tán cây giá trị tàn che được ghi là 1, nếu gặp
mép tán cây giá tr ị được ghi là 0,5, nếu không gặp tán cây giá trị được ghi là 0. Độ
tàn che của ơ tiêu chuẩn được tính bằng tổng giá trị đo được chia cho tổng số điểm
được đo.
- Định kỳ thu thập số liệu sinh trưởng rừng giống: mỗi năm 1 lần vào tháng 7
hàng năm.
e) Thí nghiệm 5: Đánh giá sinh trưởng vườn giống hữu tính
- Bố trí thí nghiệm Vườn giống hữu tính: Vườn giống hữu tính được xây dựng
từ 50 gia đình (30 gia đình xuất xứ Nghệ An và 20 gia đình xuất xứ Phú Th ọ), được bố
trí theo sơ đồ gồm 12 lặp, mỗi lặp gồm 200 cây của 50 gia đình (1 gia đình gồm 4 cây
con được trồng liền nhau trên một lặp), vị trí của từng gia đình trong mỗi lặp là không
giống nhau mà thay đổi ngẫu nhiên theo phương pháp rút thăm; tiêu chuẩn cây con khi
trồng vườn giống hữu tính là cây 1 năm tuổi, chiều cao trung bình 40 - 50cm, đường
kính gốc trung bình 0,5 - 0,6cm, cây khỏe mạnh khơng sâu bệnh; diện tích trồng vườn
giống hữu tính là 3ha; hiện trường ban đầu và xử lý thực bì như ở rừng giống; mật độ
trồng ban đầu 800 cây/ha (5x2,5m); kích thước hố 50x50x50cm, bón lót 4kg phân