ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Phạm Thị Trang
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ,
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. MAI HẢI ĐĂNG
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân, mọi tham
khảo trong khóa luận đều được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên cơng trình, bài
viết, thời gian, địa điểm cơng bố.
Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, hay gian trá, em xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Sinh viên
Phạm Thị Trang
2
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật về quản lý chất
thải y tế, Thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội”, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến Thầy giáo, TS. Mai Hải Đăng đã tận tình hướng dẫn em trong suốt q trình
viết Khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô trong Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm em học tập. Với
vốn kiến thức được tiếp thu trong q trình học khơng chỉ là nền tảng cho q
trình nghiên cứu khóa luận mà cịn là hành trang quí báu để em bước vào đời
một cách vững chắc và tự tin.
Cuối cùng em xin được kính chúc Q Thầy, Cơ dồi dào sức khỏe và thành
công trong sự nghiệp cao quý.
Em xin trân trọng cảm ơn.
Sinh viên
Phạm Thị Trang
3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
2
LỜI CẢM ƠN
3
MỤC LỤC
4
MỞ ĐẦU
6
1. Tính cấp thiết của đề tài
6
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
7
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài.
10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
11
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
11
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
11
7. Kết cấu của khóa luận
12
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI
Y TẾ
13
1.1. Một số khái niệm
13
1.1.1. Chất thải y tế
13
1.1.2. Quản lý chất thải y tế và pháp luật về quản lý chất thải y tế
16
1.2. Phân loại chất thải y tế
18
1.2.1. Theo WHO
18
1.2.2. Theo pháp luật Việt Nam
20
1.3. Nguồn phát sinh chất thải y tế
22
1.4. Tác động của chất thải y tế đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng
23
1.4.1. Đối với môi trường
23
1.4.2. Đối với sức khỏe con người
24
1.5. Sự cần thiết của pháp luật về quản lý chất thải y tế
26
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ
CHẤT THẢI Y TẾ, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
HIỆN NAY
28
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý chất thải y tế
28
2.1.1. Trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảo vệ môi trường đối với cơ sở y tế. 28
4
2.1.2. Quy định về phân loại, thu gom, lưu giữ, tái chế chất thải y tế.
31
2.1.3. Quy định về vận chuyển, xử lý chất thải y tế.
38
2.1.4. Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật quản lý chất thải y tế
42
2.2. Thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
45
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ
60
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật
60
3.2. Một số kiến nghị
62
KẾT LUẬN
66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
68
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói rằng vấn đề môi trường hiện nay là một trong những vấn đề
được đặt ra hàng đầu thu hút sự quan tâm của các quốc gia và cộng đồng trên thế
giới và phần lớn các vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển. Nhưng
giống như Trái Đất cần phải chuyển động khơng ngừng thì con người cũng như
tất cả mọi sinh vật khác khơng thể đình chỉ tiến hố và ngừng sự phát triển của
mình. Vì thế tất cả chúng ta cần hiểu con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa
môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển nhưng cần giữ sao cho phát
triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường.
Trong thế giới phẳng hiện nay, với vị trí là nước nằm ở khu vực Châu Á –
một trong những khu vực trung tâm của thế giới, Việt Nam đã được chứng kiến
sự phát triển nhanh chóng của các nước láng giềng và trong khu vực suốt thời
gian qua; đồng thời cũng nhìn thấy được những bài học to lớn về môi trường của
những nước đi trước. Những năm gần đây, cùng với sự hội nhập chung thế giới,
tốc độ đô thị hóa, cơng nghiệp hóa ở Việt Nam tại các thành phố, các khu đô thị
đã gia tăng mạnh mẽ và đang có xu hướng tiếp tục gia tăng trong những năm tới
kéo theo vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng.
Tính đến nay, có rất nhiều loại chất thải khác nhau phát sinh từ các hoạt
động của con người mà xu hướng ngày càng tăng lên về số lượng cũng như mức
độ nguy hại, bao gồm: chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải xây
dựng,… và một trong những loại chất thải nguy hiểm hơn cả là chất thải y tế. Tại
Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo
vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
nêu lên các nhiệm vụ chung cần phải làm trong giai đoạn phát triển kinh tế quan
trọng đưa đất nước đổi mới. Một trong những nhiệm vụ cấp thiết chính là
“phịng ngừa và hạn chế các tác động xấu tới môi trường” và phải “…Tăng
cường kiểm sốt ơ nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là chất thải
nguy hại trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ y tế, nghiên cứu khoa học…”.
6
Với tính chất phức tạp, khả năng lây nhiễm cao và gây ảnh hưởng lớn tới
sức khỏe cộng đồng nên việc tiếp xúc với chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật
hoặc tổn thương trực tiếp. Các chất thải y tế có thể chứa đựng các yếu tố truyền
nhiễm, là chất độc hại trong chất thải y tế, các loại hóa chất, chất phóng xạ,… vì
vậy các nhân viên tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những người có nguy cơ
nhiễm bệnh tiềm tàng cao nhất. Những người làm việc trong cơ sở y tế cho đến
cộng đồng cũng có thể lây nhiễm mầm bệnh từ chất thải y tế do sự sai sót trong
khâu quản lý.
Hà Nội là nơi có mạng lưới hệ thống y tế tập trung gồm nhiều bệnh viện
trung ương lớn cũng như rất nhiều cơ sở khám chữa bệnh tư nhân. Bởi thế, đi
cùng với quy mô, số lượng bệnh nhân, chất lượng khám chữa bệnh cũng là khối
lượng chất thải y tế lớn được thải ra thường xuyên, là nguồn chất thải vô cùng
nguy hiểm đối với con người và mơi trường. Do đó việc phát sinh và thải bỏ chất
thải y tế nếu khơng được kiểm sốt chặt chẽ sẽ gây nguy hại đến môi trường
xung quanh và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân. Về mặt pháp luật,
các quy định về trách nhiệm quản lý của các bộ ngành, các cơ quan chức năng
còn lỏng lẻo, trong nhiều năm hệ thống pháp luật vẫn chưa đủ mức răn đe, biện
pháp áp dụng của pháp luật chưa triệt để, nghiêm minh. Hà Nội là trung tâm
chính trị văn hóa xã hội của cả nước, được coi là tấm gương đi đầu của cả nước
trên các “mặt trận” thế nhưng việc áp dụng hệ thống pháp luật, quản lý bằng
pháp luật đối với vấn đề ô nhiễm chất thải y tế còn nhiều bất cập khi thực hiện.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản lý chất thải y tế
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội” có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, các cơng trình nghiên cứu liên quan đế hệ thống
pháp luật quản lý chất thải nói chung, pháp luật quản lý chất thải y tế nói riêng,
là lĩnh vực tương đối mới so với các lĩnh vực pháp luật khác.
7
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của các cá nhân về đề tài chất thải y tế
dưới lĩnh vực khoa học môi trường và bảo vệ môi trường được xem xét trên các
khía cạnh khác nhau như ảnh hưởng của chất thải y tế tới môi trường và cộng
đồng, quản lý chất thải rắn nguy hại tại các bệnh viện,… Về cấp Bộ, có đề tài
“Nghiên cứu thực trạng, tình hình quản lý và ảnh hưởng của chất thải y tế của 6
bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh lên môi trường và sức khỏe cộng đồng, đề xuất các
giải pháp can thiệp” của PGS.TS Đinh Hữu Dung được thực hiện từ năm 20012003, cơ quan chủ trì đề tài là Trường Đại học Y Hà Nội, cấp quản lý đề tài là
Bộ Y tế đã nghiên cứu các chỉ điểm đánh giá tình trạng vệ sinh mơi trường, sự
nguy hại của chất thải y tế đến tình hình sức khỏe, bệnh tật và tử vong; các công
nghệ xử lý chất thải y tế. Dựa trên các kết quả điều tra thực tế, tác giả đã bàn
luận đến các thực trạng ô nhiễm của chất thải y tế lên môi trường và quản lý chất
thải y tế hiện nay, tình hình tiếp xúc chất thải bệnh viện đối với dân cư của vùng
tiếp giáp, tình hình sức khỏe của người dân tiếp giáp bệnh viện, từ đó đề xuất các
giải pháp về quản lý chất thải y tế. Một số cơng trình nghiên cứu khác dưới dạng
Luận văn thạc sỹ hay các bài nghiên cứu trên tạp chí cũng đã nghiên cứu về quản
lý chất thải y tế như:
- Tác giả Nguyễn Ngọc Quý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại
học Quốc gia Hà Nội với đề tài: “Quản lý chất thải rắn y tế nguy hại tư nhân tại
Hà Nội” năm 2012 đã tổng quan về chất thải y tế và ảnh hưởng của chất thải rắn
y tế nguy hại đến môi trường và cộng đồng tại Việt Nam. Tác giả cũng nghiên
cứu hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế nguy hại tư nhân tại tại quận Hai Bà
Trưng và quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý chất thải rắn y tế tại quận Hai Bà Trưng và quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội.
- Tiếp đó tác giả Đinh Viết Cường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên –
Đại học Quốc gia Hà Nội với: “Nghiên cứu, xây dựng kế hoạch quản lý chất thải
rắn y tế cho các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh” năm 2014 đã phân
tích, nghiên cứu và đánh giá tình hình phát sinh (khối lượng và thành phần), thu
8
gom, xử lý và thực trạng công tác quản lý chất thải rắn y tế tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Ninh Bình và Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức - Hà Nội. Trên cơ sở đó
tác giả đề xuất xây dựng và quản lý chất thải rắn y tế cho bệnh viện tuyến trung
ương và tuyến tỉnh.
Dưới góc độ pháp lý, các cơng trình nghiên cứu phần lớn tập trung nghiên
cứu về các vấn đề pháp luật liên quan đến quản lý chất thải nguy hại như:
- Tác giả Lưu Việt Hùng, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội với đề
tài: “Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại Việt Nam” năm 2009 đã
nghiên cứu nhu cầu điều chỉnh pháp luật, các khái niệm, yếu tố tác động đối với
hoạt động quản lý chất thải; phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về
việc quản lý chất thải rắn từ đó tìm ra những sai sót, vướng mắc, các vấn đề phát
sinh, các vi phạm pháp luật, dẫn đến nhu cầu điều chỉnh pháp luật. Đề xuất
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện, cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý
chất thải rắn thông thường nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
- Hay năm 2011 tác giả Bùi Đức Nhật, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội đã nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về phí mơi trường đối với chất thải rắn ở
Việt Nam” nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về phí và pháp luật về
bảo vệ mơi trường nói chung và phí bảo vệ mơi trường đối với chất thải rắn nói
riêng; nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống của pháp luật Việt Nam về phí
bảo vệ mơi trường đối với chất thải rắn. Từ đó đưa ra các yêu cầu hồn thiện quy
định của pháp luật bảo vệ mơi trường về phí bảo vệ mơi trường đối với chất thải
rắn và các giải pháp để hoàn thiện các quy định này.
- Tác giả Lê Phương Linh, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội với đề
tài: “Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà
Nội” năm 2012 phân tích, nghiên cứu, đánh giá những quan điểm lý luận chung
về chất thải nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói
chung; từ đó xem xét, đánh giá một số quy định pháp luật hiện hành về quản lý
chất thải nguy hại cũng như thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội, tìm ra những
tồn tại, hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này; đề xuất các giải pháp nhằm
9
nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý chất thải nguy hại tại Hà Nội và trên cả
nước hiện nay và trong thời gian sắp tới.
Ngồi ra cịn rất nhiều bài báo, bài phân tích, bài nghiên cứu đăng trên các
tạp chí chuyên ngành về quản lý chất thải y tế như bài viết “Quản lý chất thải từ
các bệnh viện ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng trong tương lai” của tác
giả Nguyễn Thị Kim Thái đăng trên trang thông tin của Tổng cục môi trường;
bài phỏng vấn đối với Phó Cục trưởng Cục Quản lý mơi trường y tế Trần Đắc
Phu về “Thực trạng và một số giải pháp quản lý chất thải của ngành y tế” đăng
trên trang web của Tổng cục mơi trường,…
Các cơng trình nghiên cứu trên dù đứng dưới nhiều góc độ nhiều khía
cạnh khác nhau để phân tích và nghiên cứu nhưng đối với các quy định của pháp
luật về quản lý chất thải y tế vẫn cần tiếp tục phải nghiên cứu và hoàn thiện theo
hướng rõ ràng, cụ thể thống nhất và trong phạm vi khóa luận này sẽ nghiên cứu
cụ thể trên địa bàn Hà Nội.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích của khóa luận làm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chất thải
y tế, nghiên cứu các quy định của pháp luật quản lý chất thải y tế và đánh giá
thực trạng pháp luật quản lý chất thải y tế nguy hại trên địa bàn thành phố Hà
Nội hiện nay. Trên cơ sở đó khóa luận đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả pháp luật quản lý chất thải y tế trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Để đạt được những mục đích trên, khóa luận có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu thực trạng, đánh giá những quan điểm lý luận chung về chất
thải y tế và pháp luật quản lý chất thải y tế trên địa bàn thành phố Hà Nội nói
riêng và Việt Nam nói chung.
- Nghiên cứu, đánh giá một số quy định pháp luật hiện hành về quản lý
chất thải y tế và phân tích số liệu, nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà
Nội để tìm ra những tồn tại, hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý chất
thải y tế tại Hà Nội và trong cả nước hiện nay và trong thời gian sắp tới.
10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận bao gồm:
- Các quy định pháp luật của Việt Nam về quản lý chất thải y tế
- Thực tiễn thi hành pháp luật quản lý chất thải y tế trên địa bàn Hà Nội
Về phạm vi nghiên cứu, Pháp luật Quản lý chất thải y tế được nghiên cứu
ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên để phù hợp với tên gọi của đề tài và
chun ngành nghiên cứu thì khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về
quản lý chất thải y tế nguy hại ở các khía cạnh sau:
Khóa luận tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý chất thải
y tế và pháp luật quản lý chất thải y tế; thực trạng và giải pháp kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được các mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra, trong khóa luận
tác giả đã sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng chủ yếu khi
phân tích cơ sở lý luận và các quy định nội dung của pháp luật về quản lý chất
thải y tế nguy hại.
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình khảo sát thực tiễn
thông qua số liệu báo cáo của các cơ quan nhà nước khác và số liệu từ các báo
cáo nghiên cứu khoa học của các tác giả khác nhau.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm tìm hiểu quy định của pháp
luật về quản lý chất thải y tế nguy hại ở Việt Nam hiện nay với hệ thống pháp
luật quản lý chất thải y tế nguy hại trong các giai đoạn trước đây.
- Phương pháp chuyên gia được sử dụng để khái quát hóa các vấn đề lý
luận cũng như các nhận định và bình luận về các nội dung của những quy định
pháp luật hiện hành về quản lý chất thải y tế nguy hại của Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Những kết quả nghiên cứu của khóa luận là:
11
- Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về quản lý chất thải y tế trên địa bàn
Hà Nội.
- Đề xuất một số phương hướng hoàn thiện nhằm đảm bảo quyền con
người được sống trong môi trường trong lành.
- Kết quả của đề tài dùng làm nguồn tài liệu tham khảo, học tập trong
công tác nghiên cứu và giảng dạy khoa học luật môi trường trong các trường
chuyên luật và các trường giảng dạy pháp luật môi trường.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về quản lý chất thải y tế.
Chương II: Quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý chất thải y
tế, thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
Chương III: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải.
12
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
CHẤT THẢI Y TẾ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Chất thải y tế
Trên thế giới cũng như ở tại Việt Nam, việc định nghĩa “Thế nào là chất
thải y tế?” hay “Chất thải y tế là gì?” đã được các nhà khoa học, các nhà lập
pháp khi nghiên cứu đều nhằm vào mục đích chính là đảm bảo một khái niệm rõ
ràng, cụ thể nhất để mọi thành viên trong xã hội có thể hình dung chính xác về
các loại chất thải y tế, phân biệt với các loại chất thải khác, nhận biết những đặc
tính của chất thải y tế, từ đó ý thức được sự nguy hiểm của chất thải y tế.
Theo WHO, chất thải y tế bao gồm tất cả các chất thải phát sinh từ các cơ
sở chăm sóc y tế, cơ sở nghiên cứu và phịng thí nghiệm. Ngồi ra, chất thải y tế
cịn bao gồm các chất thải có nguồn gốc từ các nguồn phát sinh nhỏ hoặc phân
tán ra ngồi, ví dụ như việc thực hiện các q trình chăm sóc sức khỏe tại nhà
(lọc máu, tiêm isulin,…)1.
Tuy nhiên để phân biệt rõ hơn chất thải y tế với các loại chất thải khác, cụ
thể các loại chất thải phát sinh từ các cơ sở nghiên cứu, các phịng thí nghiệm
phải hoạt động về y tế thì mới được coi là chất thải y tế nên vào năm 2013 WHO
đã chỉnh sửa lại khái niệm: Chất thải y tế bao gồm tất cả các chất thải phát sinh
từ các cơ sở chăm sóc y tế, trung tâm nghiên cứu và phịng thí nghiệm liên quan
đến các hoạt động y tế. Ngoài ra, chất thải y tế cịn bao gồm các chất thải có
nguồn gốc từ các nguồn phát sinh nhỏ hoặc phân tán ra ngồi, kể cả các chất thải
phát sinh trong q trình chăm sóc sức khỏe tại nhà (như lọc máu, tự dùng isulin,
chăm sóc hồi phục…”)2.
WHO (1999), Safe management of wastes from health-care activities, Geneva: “Health-care
waste includes all the waste generated by health-care establishments, research facilities, and
laboratories. In addition, it includes the waste originating from “minor” or “scattered” sources—
such as that produced in the course of health care undertaken in the home (dialysis,insulin
injections, etc.).”
1
2
WHO (2013), Safe management of wastes from health-care activities, Avenue Appia, Geneva,
Switzerland: “The term health-care waste includes all the waste generated within health-care
13
Ở Việt Nam vấn đề tiếp cận chất thải y tế đã được quan tâm từ khá sớm,
năm 1999 trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam đã ban hành riêng bộ quy
chế áp dụng cho việc quản lý chất thải y tế. Theo đó chất thải y tế là chất thải
phát sinh trong các cơ sở y tế, từ hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét
nghiệm, phịng bệnh, nghiên cứu, đào tạo. Chất thải y tế có thể ở cả ba dạng là
dạng rắn (rác thải y tế), dạng lỏng (nước thải) và dạng khí (khí thải từ các cơng
trình, thiết bị xử lý, tiêu hủy chất thải y tế)3. Nhìn chung khái niệm trên tương
đối đầy đủ, chính xác và tương thích với khái niệm về chất thải y tế của WHO tại
thời điểm đó.
Cho tới năm 2007, khi ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế mới thay
thế năm 1999, khái niệm chất thải y tế đã được thay đổi: chất thải y tế là chất
thải ở thể rắn, thể lỏng, thể khí và được thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất
thải y tế nguy hại và chất thải thông thường 4. Cơ sở y tế được quy định bao gồm
các cơ sở khám, chữa bệnh, nhà hộ sinh, trạm y tế, cơ sở nghiên cứu y dược, y tế
dự phòng; cơ sở đào tạo cán bộ y tế; cơ sở sản xuất, kinh doanh dược phẩm, vắcxin, sinh phẩm y tế. Tuy khái niệm về chất thải y tế đã được chỉ ra tại các văn
bản quy chế nhưng đến năm 2009 thì khái niệm về chất thải y tế mới được đưa
vào Luật Khám bệnh, chữa bệnh, cụ thể bao gồm chất thải rắn, chất thải lỏng,
chất thải khí, chất thải hóa chất, chất thải phóng xạ được thải ra trong q trình
khám bệnh, chẩn đốn, điều trị, chăm sóc người bệnh và sinh hoạt của người
bệnh trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh5.
facilities, research centres and laboratories related to medical procedures. In addition, it includes
the same types of waste originating from minor and scattered sources, including waste produced in
the course of health care undertaken in the home (e.g. homedialysis, self-administration of insulin,
recuperative care)”
Bộ Y tế, Quy chế Quản lý chất thải y tế (ban hành kèm theo Quyết định số 2575/1999/QĐ-BYT
ngày 27 tháng 8 năm 1999 về việc ban hành quy chế quản lý chất thải y tế), Hà Nội, Điều 1 khoản
2.
3
Bộ Y tế, Quy chế Quản lý chất thải y tế (ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày
30 tháng 11 năm 2007 về việc ban hành quy chế quản lý chất thải y tế), Hà Nội, khoản 1 Điều 3
4
5
Quốc hội (2009), Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Hà Nội, Điều 63 khoản 1.
14
Và cho tới thời điểm gần đây nhất, trong lần ban hành Thông tư liên tịch
số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT ngày 31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài
nguyên môi trường quy định về quản lý chất thải y tế thay thế các quy chế quản
lý chất thải y tế trước đó đã một lần nữa thay đổi về khái niệm chất thải y tế
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Chất thải y tế được hiểu là chất thải phát
sinh trong quá trình hoạt động của các cơ sở y tế, bao gồm chất thải y tế nguy
hại, chất thải y tế thông thường và nước thải y tế 6. Riêng chất thải y tế phóng xạ
đã được tách ra quy định riêng với tên gọi “chất thải sinh học y tế” nằm trong
“chất thải phóng xạ sinh học” được định nghĩa là các chất thải sinh học có chứa
hoặc nhiễm bẩn các nhân phóng xạ với mức độ lớn hơn mức thanh lý, có khả
năng thối rữa hoặc gây bệnh phát sinh từ các hoạt động khám, chữa bệnh tại các
cơ sở y tế, phịng thí nghiệm y học và từ nhà xác7. Nhìn chung, tại lần sửa đổi bổ
sung khái niệm này, khái niệm chất thải y tế trong pháp luật Việt Nam đã có sự
thay đổi khác biệt so với các lần quy định trước, nhấn mạnh sự có mặt của nước
thải y tế và quy định chi tiết riêng đối với việc quản lý các chất thải phóng xạ
phát sinh từ các hoạt động y tế, nay gọi chung là “chất thải sinh học y tế”.
Mặc dù trong chất thải y tế gồm chất thải y tế nguy hại, chất thải y tế
thông thường và nước thải y tế nhưng tỷ lệ chất thải y tế nguy hại chỉ chiếm
phần nhỏ trong số chất thải y tế. Theo WHO, trong chất thải y tế thì có khoảng
75 – 90% lượng chất thải là chất thải y thế không nguy hại hoặc chất thải y tế
thông thường, được phát sinh chủ yếu từ các khu vực hành chính, nhà bếp, dịch
vụ dọn dẹp tại các cơ sở y tế và cũng có thể chất thải phát sinh trong việc bảo trì,
tu sửa vật chất của cơ sở y tế. Do đó chỉ có khoảng 10 – 25% lượng chất thải y tế
là chất thải y tế nguy hại có khả năng gây ra các tác hại tới sức khỏe và môi
Bộ Y tế - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT
ngày 31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên môi trường quy định về quản lý chất thải y tế, Hà
Nội, Điều 3 khoản 1
6
Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư số 22/2014/TT-BKHCN ngày 25 tháng 08 năm 2014
của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về quản lý chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua
sử dụng, Hà Nội, Điều 2 khoản 3.
7
15
trường8. Tuy nhiên không thể chủ quan đối với việc chất thải y tế chủ yếu là chất
thải y tế không nguy hại được, bởi nếu không được quản lý tốt, các chất thải loại
này cũng có thể là chất thải nguy hại do có nguy cơ lây nhiễm từ sự phát thải của
các nguồn bệnh hoặc các chất bài tiết của bệnh nhân gây bệnh.
Vì vậy, chất thải y tế là loại chất thải cần phải được quan tâm, quản lý và
xử lý một cách triệt để.
1.1.2. Quản lý chất thải y tế và pháp luật về quản lý chất thải y tế
Ở phần trên tác giả đã đề cập đến khái niệm về chất thải y tế, và để hiểu rõ
hơn về vấn đề pháp luật quản lý chất thải y tế, trong mục này tác giả sẽ đề cập
tới khái niệm về “quản lý chất thải y tế”, tổng hợp và đưa ra khái niệm chung
“pháp luật về quản lý chất thải y tế”.
Quản lý chất thải y tế đảm bảo môi trường tại các cơ sở y tế và môi trường
xung quanh là vấn đề đã được đặt ra tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Tại
Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh phải có trách nhiệm phân loại, thu gom và xử lý chất thải y tế theo đúng
quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường9. Tại Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 cũng đưa ra các yêu cầu về việc bảo vệ môi trường tại các bệnh
viện, cơ sở y tế bao gồm: đối với nước thải y tế phải thực hiện thu gom, xử lý
đúng quy chuẩn môi trường; đối với các chất thải rắn y tế cần phân loại trực tiếp
tại nguồn, thu gom, vận chuyển, lưu giữ và xử lý đảm bảo đạt quy chuẩn; các
chất thải có mang mầm bệnh lây nhiễm, khí thải phải được xử lý loại bỏ mầm
bệnh đạt đúng quy chuẩn kỹ thuật; các cơ sở y tế có sử dụng chất phóng xạ phải
đáp ứng các yêu cầu về an toàn bức xạ hạt nhân; chuẩn bị các trang thiết bị
8
WHO (2013), Safe management of wastes from health-care activities, Avenue Appia, Geneva,
Switzerland: “Between 75% and 90% of the waste produced by health-care providers is
comparable to domestic waste and usually called “non-hazardous” or “general health-care waste”.
It comes mostly from the administrative, kitchen and housekeeping functions at health-care
facilities and may also include packaging waste and waste generated during maintenance of healthcare buildings (Figure 2.1). The remaining 10–25% of health-care waste is regarded as “hazardous”
and may pose a variety of environmental and health risks (see Chapter 3)”
9
Quốc hội (2009), Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Hà Nội, Điều 63 khoản 2.
16
phịng ngừa, ứng phó các sự cố mơi trường do chất thải y tế 10. Vì vậy, quản lý
chất thải y tế chính là các hoạt động trong q trình giảm thiểu, phân định, thu
gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải y tế và giám sát quá trình thực hiện. 11
Quá trình giảm thiểu, phân định chất thải y tế là các hoạt động như giảm
lượng chất thải y tế tại nguồn, sử dụng các sản phẩm có thể tái chế, tái sử dụng;
hoạt động quản lý, kiểm sốt chặt chẽ các q trình thực hành và phân loại chính
xác chất thải nhằm mục đích hạn chế tốt đa sự phát sinh của chất thải y tế. Thu
gom chất thải là quá trình tập hợp chất thải từ nơi phát sinh và vận chuyển các
chất thải y tế về khu vực lưu giữ, xử lý ban đầu chất thải y tế (là quá trình khử
khuẩn hoặc tiệt khuẩn các chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao) trong khn viên
cơ sở y tế. Khi đó q trình vận chuyển chất thải y tế là quá trình chuyên chở từ
nơi lưu giữ trong cơ sở y tế cho đến nơi lưu giữ, xử lý tiêu hủy chất thải của cơ
sở xử lý chất thải y tế cho cụm cơ sở y tế, cơ sở xử lý chất thải y tế nguy hại tập
trung hoặc cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung có hạng mục xử lý chất thải y
tế 12, sử dụng các công nghệ cao nhằm làm mất khả năng gây nguy hại của chất
thải đối với sức khỏe của con người và môi trường.
Quản lý chất thải y tế là hoạt động quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến
việc bảo vệ sức khỏe con người và mơi trường xung quanh. Quản lý có chặt chẽ,
nghiêm túc thì mới hạn chế được những tác động xấu của chất thải y tế gây ra.
Cũng vì thế mà đối với pháp luật trên thế giới hay pháp luật Việt Nam cũng đều
có những văn bản riêng quy định về việc quản lý chất thải y tế. Đến nay chưa có
khái niệm cụ thể nào về “pháp luật quản lý chất thải y tế” là gì, nhưng dựa trên
10
Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Hà Nội, Điều 72
Bộ Y tế - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYTBTNMT ngày 31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên môi trường quy định về quản lý chất thải y
tế, Hà Nội, Điều 3 khoản 3.
11
Bộ Y tế - Bộ Tài nguyên và môi trường (2015), Thông tư liên tịch số: 58/2015/TTLT-BYTBTNMT ngày 31 tháng 12 năm 2015 quy định về quản lý chất thải y tế, Hà Nội, Điều 3, khoản 5 khoản 6.
12
17
việc phân tích và tổng hợp các thơng tin trong phạm vi hiểu biết của mình, tác
giả xin phép đưa ra định nghĩa như sau:
“Pháp luật về quản lý chất thải y tế là hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật do các chủ thể là các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban
hành quy định về các hoạt động quản lý chất thải bao gồm quá trình giảm thiểu,
phân định, thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải y tế và giám sát quá
trình thực hiện nhằm hạn chế những tác động xấu của chất thải y tế tới môi
trường và sức khỏe con người, đảm bảo cho con người được hưởng quyền sống
trong môi trường trong lành”.
1.2. Phân loại chất thải y tế
Chất thải y tế là loại chất thải có nhiều thành phần phức tạp nên được
phân chia thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên cũng có nhiều cách phân loại và
cách giải thích về chất thải y tế khác nhau, dưới đây là hai cách phân loại: một
cách phân loại theo WHO và một cách theo pháp luật Việt Nam.
1.2.1. Theo WHO13
Theo WHO đã phân chia chất thải y tế thành hai loại chính:
Chất thải y tế thơng thường (Non-hazardous or general health-care waste)
là các chất thải không được tiếp xúc với các tác nhân truyền nhiễm, hóa chất độc
hại hoặc các chất phóng xạ và các vật sắc nhọn không gây nguy hiểm. Hơn một
nửa trong số tất cả các chất thải không nguy hại từ các bệnh viện là giấy, các
tơng và nhựa, trong khi phần cịn lại bao gồm thực phẩm không sử dụng, kim
loại, thủy tinh, vải, nhựa và gỗ; chiếm khoảng 75 – 90% lượng chất thải y tế.
Chất thải y tế nguy hại (Hazardous health-care waste) bao gồm 6 nhóm là
chất thải vật sắc nhọn, chất thải lây nhiễm, chất thải bệnh phẩm, chất thải dược
phẩm, chất thải hóa học và chất thải phóng xạ, từng loại đặc tính của chất thải
nguy hại được ghi nhận như sau:
13
WHO (2013), Safe management of wastes from health-care activities, Avenue Appia, Geneva,
Switzerland, 2.1 – 2.8.
18
Chất thải vật sắc nhọn (Sharps waste): Đây là loại chất thải có nguy cơ
gây thương tổn thương cho da như đứt, thủng (ví dụ: kim tiêm, dao mổ, tuýp
thủy tinh vỡ, …). Cho dù chất thải này có bị nhiễm khuẩn hay khơng thì chúng
vẫn được coi như loại chất thải có nguy cơ lây nhiễm và nguy hại cao. Vì vậy
chất thải vật sắc nhọn cần phải được quan tâm và chú ý khi phân loại, thu gom,
lưu giữ và vận chuyển nhằm đảm bảo an toàn cho nhân viên y tế, nhân viên vệ
sinh và môi trường.
Chất thải lây nhiễm (Infectious waste): Là chất thải có chứa các mầm
bệnh như: vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm với số lượng đủ lớn để gây bệnh
cho những người dễ bị cảm nhiễm. Nhóm chất thải này bao gồm: Chất thải từ
các phòng xét nghiệm; phòng mổ, chất thải từ khám nghiệm tử thi, xác động vật
đã bị nhiễm bệnh, có nguy cơ lây nhiễm cao; chất thải từ các bệnh nhân bị nhiễm
bệnh trong khu cách ly.
Chất thải bệnh phẩm (Pathological waste): Là chất thải có chứa các mô,
bệnh phẩm, bộ phận cơ thể hoặc các dịch cơ thể như máu, dịch cơ thể và các
chất thải khác từ phẫu thuật và khám nghiệm tử thi trên bệnh nhân bị bệnh nhiễm
trùng, bào thai con người và xác động vật bị nhiễm bệnh. Chất thải bệnh phẩm
và chất thải giải phẫu có thể bị nhiễm khuẩn hoặc không bị nhiễm khuẩn nhưng
theo khuyến cáo những chất thải này nên được coi là chất thải lây nhiễm.
Chất thải dược phẩm (Pharmaceutical waste): Bao gồm các loại thuốc quá
hạn, thuốc không sử dụng, đổ, vỡ, các loại thuốc đặc trị, vắc xin, huyết thanh mà
khơng cịn cần thiết. Nhóm chất thải cũng gồm cả các dụng cụ, găng tay, chai lọ
chứa đựng chúng.
Chất thải hóa học (Chemical waste): Chất thải này có thể tồn tại dưới
dạng rắn, lỏng, khí được sinh ra trong q trình chuẩn đốn, điều trị, tẩy rửa, khử
trùng, thí nghiệm của bệnh viên,… chất thải này có các đặc tính chủ yếu là ăn
mịn, gây nổ, gây độc tế bào.
Chất thải phóng xạ (Radioactive waste): Gồm các chất thải phóng xạ rắn,
lỏng, khí phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán, điều trị và nghiên cứu. Các tia
như tia X, tia gamma, gây ion hóa các chất trong tế bào và gây độc với gen.
19
1.2.2. Theo pháp luật Việt Nam 14
Trong khái niệm về chất thải y tế được nêu ra tại khoản 1 điều 63 Luật
Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 đã đưa ra cách phân loại chất thải y tế bao
gồm: Chất thải rắn, chất thải lỏng, chất thải khí, chất thải hóa chất và chất thải y
tế phóng xạ. Tuy nhiên dựa vào các đặc điểm lý học, hóa học, sinh học và tính
chất nguy hại, chất thải trong các cơ sở y tế được phân chia thành các nhóm chất
thải lây nhiễm, chất thải nguy hại không lây nhiễm, chất thải thơng thường và
ngồi ra cịn có thêm chất thải phóng xạ từ hoạt động y tế, cụ thể như sau:
- Chất thải lây nhiễm bao gồm:
Chất thải lây nhiễm sắc nhọn là chất thải lây nhiễm có thể gây ra các vết
cắt hoặc xuyên thủng bao gồm: kim tiêm; bơm liền kim tiêm; đầu sắc nhọn của
dây truyền; kim chọc dò; kim châm cứu; lưỡi dao mổ; đinh, cưa dùng trong phẫu
thuật và các vật sắc nhọn khác;
Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn bao gồm: Chất thải thấm, dính, chứa
máu hoặc dịch sinh học của cơ thể; các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly;
Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao bao gồm: Mẫu bệnh phẩm, dụng cụ
đựng, dính mẫu bệnh phẩm, chất thải dính mẫu bệnh phẩm phát sinh từ các
phòng xét nghiệm an toàn sinh học, bao gồm các loại vi sinh vật có khả năng gây
bệnh nặng cho người, có khả năng lây truyền sang người và có biện pháp phịng,
chống lây nhiễm, điều trị hiệu quả trong trường hợp mắc bệnh15;
Chất thải giải phẫu bao gồm: Mô, bộ phận cơ thể người thải bỏ và xác
động vật thí nghiệm.
- Chất thải nguy hại không lây nhiễm bao gồm các loại chất thải: Hóa chất
thải bỏ bao gồm hoặc có các thành phần nguy hại; dược phẩm thải bỏ thuộc
Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên môi trường (2015), Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT
ban hành ngày 31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên môi trường quy định về quản lý chất thải
y tế, chương II, mục 1, điều 4
14
Chính phủ (2010), Nghị định số 92/2010/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2010 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về bảo đảm an tồn sinh học tại phịng
xét nghiệm, Hà Nội, điều 3 khoản 1 điểm c.
15
20
nhóm gây độc tế bào hoặc có cảnh báo nguy hại từ nhà sản xuất; thiết bị y tế bị
vỡ, hỏng, đã qua sử dụng thải bỏ có chứa thủy ngân và các kim loại nặng; chất
hàn răng amalgam thải bỏ; Các bình chứa áp suất chưa bảo đảm rỗng hoàn toàn;
Các thiết bị vỡ, hỏng, đã qua sử dụng có chứa thủy ngân và các kim loại nặng
(nhiệt kế, huyết áp kế…)16.
- Chất thải thông thường: Là các chất thải khơng có yếu tố lây nhiễm, hóa
học nguy hại, phóng xạ, dễ cháy, nổ bao gồm:
Chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trong sinh hoạt thường ngày của con
người và chất thải ngoại cảnh trong cơ sở y tế như chất thải phát sinh từ các
buồng bệnh (trừ các buồng cách ly); chất thải phát sinh từ các công việc hành
chính gồm giấy, báo, tài liệu, vật liệu đóng gói, thùng các tơng, túi nilon, túi
đựng phim; chất thải ngoại cảnh như lá cây, rác từ các khu vực ngoại cảnh.
Chất thải rắn thông thường phát sinh từ cơ sở y tế có yếu tố nguy hại dưới
ngưỡng chất thải nguy hại như chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn
y tế như chai thủy tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong
gãy xương kín; những chất thải khơng dính máu, dịch sinh học và các chất hóa
học nguy hại.
Và các sản phẩm thải lỏng khơng nguy hại.
- Chất thải phóng xạ từ hoạt động y tế17:
Chất thải phóng xạ từ hoạt động y tế hay chất thải sinh học y tế, là một
trong các nhóm thuộc Chất thải phóng xạ sinh học. Chất thải phóng xạ sinh học
là chất thải sinh học có chứa hoặc nhiễm bẩn các nhân phóng xạ với mức hoạt độ
lớn hơn giá trị nồng độ hoạt độ của các nhân phóng xạ cho phép gây nguy hại
bức xạ đối với con người và môi trường xung quanh. Nguồn chất thải phóng xạ
này có thể ở các dạng rắn, lỏng, khí và được phát sinh từ các hoạt động chuẩn
Bộ Tài nguyên và môi trường (2015), Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm
2015 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về quản lý chất thải nguy hại, Hà Nội, phụ lục I
16
Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư số 22/2014/TT-BKHCN ngày 25 tháng 08 năm
2014 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về quản lý chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã
qua sử dụng, Hà Nội, Điều 2 khoản 3
17
21
đoán, điều trị, nghiên cứu và sản xuất. Chất thải sinh học y tế là các chất thải
sinh học có chứa hoặc nhiễm bẩn các nhân phóng xạ với mức độ lớn hơn mức
thanh lý, có khả năng thối rữa hoặc gây bệnh phát sinh từ các hoạt động khám,
chữa bệnh tại các cơ sở y tế, phịng thí nghiệm y học và từ nhà xác.
Trên đây là hai cách phân loại chất thải y tế trên thế giới và tại Việt Nam.
Nhìn chung, việc phân loại nguồn chất thải y tế giữa Việt Nam so với thế giới tuy
khác nhau về phân nguồn các nhóm chất thải nhưng sự chênh lệch không đáng kể
và đã bao quát được các loại chất thải phát sinh từ các hoạt động cơ sở y tế.
1.3. Nguồn phát sinh chất thải y tế
Chất thải y tế là loại chất thải phát sinh chủ yếu trong quá trình tiến hành
các hoạt động khám chữa bệnh. Trong chất thải y tế, cho dù tỉ lệ thành phần
phần trăm giữa chất thải nguy hại và chất thải khơng nguy hại (hoặc chất thải
thơng thường) có sự chệnh lệch lớn nhưng chất thải y tế nói chung nếu không
được xử lý triệt để sẽ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe con người.
Các nguồn phát chất thải y tế bao gồm18:
Các bệnh viện: bệnh viện trung ương, bệnh viện huyện, bệnh viện trường
đại học
Cơ sở y tế khác: Dịch vụ chăm sóc y tế khẩn cấp, trung tâm y tế và trạm
xá, phòng khám sản khoa, phòng khám ngoại trú, trung tâm lọc máu, dịch vụ y tế
quân sự, bệnh viện hoặc phòng khám tù nhân.
Các phịng thí nghiệm liên quan và các trung tâm nghiên cứu: các phịng
thí nghiệm y tế và y sinh học, trung tâm nghiên cứu y tế.
Trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm động vật
Ngân hàng máu và dịch vụ thu gom máu
Viện dưỡng lão cho người già.
Với số lượng lớn các cơ sở y tế đồng nghĩa sẽ có nhiều nguồn phát sinh
chất thải một lượng lớn chất thải y tế hàng ngày theo các hoạt động y tế.
18
WHO (2013), Safe management of wastes from health-care activities, Avenue Appia, Geneva,
Switzerland, Box 2.3
22
Tất cả các hoạt động trong bệnh viện đều có thể tạo ra chất thải và có khả
năng tác động đến môi trường và ảnh hưởng sức khỏe con người và cộng đồng.
Việc nắm giữ được các nguồn phát sinh của chất thải sẽ giúp các hoạt động quản
lý chất thải y tế được hiệu quả hơn. Khơng có một tài liệu nào trên thế giới có
thể thống kê được hết các chất thải phát sinh từ các hoạt động của cơ sở y tế.
Mỗi cơ sở y tế khác nhau sẽ có các nguồn phát sinh chất thải y tế khác nhau, tùy
thuộc vào từng hoạt động riêng. Đối với các cơ sở y tế có quy mơ càng lớn thì
lượng chất thải phát sinh nhiều và nguồn phát sinh chất thải càng phức tạp.
1.4. Tác động của chất thải y tế đối với môi trường và sức khỏe cộng
đồng19
1.4.1. Đối với môi trường
Tác động đến môi trường đất
Các chất thải y tế khi chôn lấp nếu không được xử lý đúng cách, các
đường ống xả nước thải từ bệnh viện nếu không được quản lý và xử lý thì các vi
sinh vật gây bệnh, hóa chất độc hại nguy hiểm có thể ngấm vào đất làm nhiễm
độc đất khiến cho việc tái sử dụng bãi chôn lấp sẽ gặp khó khăn.
Tác động đến mơi trường khơng khí
Chất thải y tế từ hoạt động của các cơ sở y tế từ khi phát sinh đến khâu xử
lý cuối cùng đều gây ra những tác động xấu đến môi trường khơng khí. Khi chất
thải phát sinh phân loại tại nguồn, trong q trình vận chuyển các vi khuẩn gây
bệnh, hóa chất,… có thể phát tán vào nguồn khơng khí; khi xử lý chất thải y tế
nếu chất thải vứt bừa bãi, tồn đọng sẽ gây ra các mùi khó chịu cho khu vực xung
quanh; nước thải cơ sở y tế gây ơ nhiễm khơng khí do q trình phân tán các
chất độc hại, mùi từ các bể chứa nước thải, đường ống dẫn nước thải từ các nơi
phát sinh đến các nơi tập trung; các chất thải từ lò đốt trong điều kiện không lý
tưởng gồm những chất ô nhiễm như bụi, khí NO2, SO2, các hợp chất hữu cơ bay
hơi như dioxin, chì, thủy ngân, các khí thải từ khâu đốt rác gây ra các mùi ảnh
hưởng đến không khí xung quanh khu vực xử lý.
Đinh Hữu Dũng (2003), Nghiên cứu thực trạng tình hình quản lý và ảnh hưởng của chất thải rắn
y tế lên môi trường và sức khỏe cộng đồng, đề xuất và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ khoa học,
Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
19
23
Tác động đến mơi trường nước
Nguồn nước có thể bị nhiễm bẩn do các chất độc hại có trong chất thải y
tế. Chúng có thể chứa các vi sinh vật gây bệnh, các kim loại nặng như thủy ngân
từ nhiệt kế, bạc từ quá trình tráng rửa phim X quang. Một số dược phẩm nhất
định nếu xả thải không xử lý có thể gây nhiễm độc nguồn nước ngầm. Bên cạnh
đó, xả thải bừa bãi chất lây nhiễm vào chất thải thơng thường có thể gây nguy cơ
ơ nhiễm nguồn nước.
1.4.2. Đối với sức khỏe con người
Chất thải y tế là chất thải nguy hiểm, có khả năng chứa đựng các loại vi
sinh vật gây bệnh, các chất độc hại như hóa chất, chất gây độc tế bào, chất phóng
xạ,… Các tác nhân gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua các con
đường trực tiếp như qua các vết bị trầy xước, qua đường hô hấp, qua đường tiêu
hóa hoặc qua các con đường gián tiếp như do ơ nhiễm mơi trường trong và ngồi
cơ sở y tế hoặc tiếp xúc với các tác nhân trung gian như thực phẩm hoặc ruồi,
muỗi, chuột,…
Ngoài ra, trong quá trình thu gom, vận chuyển và lưu giữ; chất thải y tế
nguy hại có thể bị rị rỉ, giải thốt, đổ tràn ra môi trường xung quanh. Việc rơi
vãi các chất thải y tế lây nhiễm, đặc biệt là loại chất thải lây nhiễm có nguy cơ
lây nhiễm cao có thể làm lây lan mầm bệnh trong cơ sở y tế và bệnh viện gây
nên đợt bùng phát nhiễm trùng bệnh viện đối với cán bộ, nhân viên trong cơ sở y
tế; bệnh nhân, người nhà bệnh nhân; kể cả việc gây ô nhiễm môi trường đất và
nước tại chỗ.
Việc tiếp xúc với các chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn
thương, có thể do một hoặc nhiều đặc trưng như: chất thải y tế có chứa đựng các
yếu tố truyền nhiễm, các loại hóa dược có thành phần gây độc tế bào nguy hiểm,
các chất chứa đồng vị phóng xạ, các vật sắc nhọn có thể gây tổn thương, các chất
thải có yếu tố ảnh hưởng tâm lý xã hội. 20
Nguy cơ từ chất thải lây nhiễm và các vật sắc nhọn:
Đinh Hữu Dũng (2003), Nghiên cứu thực trạng tình hình quản lý và ảnh hưởng của chất thải rắn
y tế lên môi trường và sức khỏe cộng đồng, đề xuất và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ khoa học,
Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
20
24
Nguy cơ chất thải lây nhiễm gồm vi sinh vật gây bệnh có trong chất thải.
Chúng có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua nhiều đường khác nhau như
vết thương, vết cắt trên da, niêm mạc; hệ thống hơ hấp, hệ thống tiêu hóa... Sự
xuất hiện các loại vi khuẩn kháng kháng sinh và kháng hóa chất khử khuẩn có
thể do nguyên nhân quản lý, xử lý chất thải y tế khơng an tồn. Các vật sắc nhọn
khơng chỉ gây ra vết thương trên da mà chúng còn gây nhiễm trùng vết thương
nếu chúng bị nhiễm bẩn. Trước đây, một khảo sát của Viện Y học lao động và
môi trường ghi nhận 35% số cán bộ, nhân viên y tế bị thương tích do vật sắc
nhọn gây nên và 70% trong số đó bị tổn thương do vật sắc nhọn trong sự nghiệp
y tế. Sự tổn thương do vật sắc nhọn sử dụng trong y tế có khả năng lây truyền
các bệnh nhiễm trùng nguy hiểm như HIV, HBV và HCV. Theo thống kê có
khoảng 80% nhiễm trùng HIV, HBV, HCV nghề nghiệp là do thương tích vì vật
sắc nhọn và kim tiêm. Ngoài ra, việc tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý khơng an
tồn chất thải y tế lây nhiễm bao gồm cả chất nhựa và các vật sắc nhọn có thể có
tác động lâu dài đến sức khỏe của cộng đồng người dân.21
Nguy cơ từ các chất thải gây độc tế bào:
Quá trình tiếp xúc với các chất độc có trong cơng tác y tế có thể xảy ra đối
với các nhân viên y tế khi chuẩn bị hoặc đang trong quá trình điều trị cho bệnh
nhân bằng các thuốc đặc biệt hoặc bằng phương pháp hóa trị liệu. Các phương
pháp tiếp xúc chính là hít phải hóa chất nhiễm độc ở dạng bụi hoặc hơi qua
đường hô hấp, bị hấp thụ qua da do tiếp xúc trực tiếp, qua đường tiêu hóa do ăn
phải thực phẩm nhiễm thuốc, hóa chất có tính độc hại. Mối nguy hiểm cũng có
thể xảy ra khi tiếp xúc với các loại dịch và các chất tiết ra của bệnh nhân đang
được điều trị bằng hóa liệu. Nhiều loại thuốc có tính độc cao gây nên các hậu
quả hủy hoại cục bộ sau khi tiếp xúc với da hoặc mắt. Chúng có thể gây ra chóng
mặt, buồn nơn, đau đầu hoặc viêm da.
Nguy cơ từ chất thải hóa dược phẩm
Nguyễn Võ Hinh (2013), Nguy cơ môi trường ô nhiễm ảnh hưởng sức khỏe do chất thải y tế, bài
viết chuyên đề trên trang ngày 25/03/2015.
21
25