TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN
KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI:
THẾ GIỚI LỒI VẬT QUA CÁCH NHÌN
CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
GVHD
: ThS. TRẦN THỊ SÁU
SVTH
: NGUYỄN THỊ HUYỀN
LỚP
: D11NV02
MSSV
: 1156010023
NIÊN KHĨA : 2011 - 2015
Bình Dương, tháng 5 năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu
trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các cơng trình khác.
Sinh viên
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới quý thầy cô
trường Đại học Thủ Dầu Một nói chung, q thầy cơ trong khoa Ngữ văn nói riêng
đã tận tâm truyền đạt tri thức và giúp đỡ em trong suốt thời gian em học tập tại
trường, đồng thời giúp em có những kiến thức q báu để hồn thành bài khóa luận
một cách tốt nhất.
Em cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn tới cô Trần Thị Sáu- người đã quan
tâm và hướng dẫn em thực hiện khóa luận này, góp ý giúp em rút ra những kinh
nghiệm quý báu trong quá trình viết bài.
Trong thời gian nghiên cứu và tìm hiểu khóa luận, do nhiều nguyên nhân nên
những vấn đề mà em trình bày trong bài khóa luận mới chỉ là sơ lược và cịn rất
nhiều thiếu sót. Em kính mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cơ để
em có thể rút ra những kinh nghiệm và hồn thiện kiến thức hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc các thầy cô trường Đại học Thủ Dầu Một, đặc
biệt là các thầy cô trong khoa Ngữ văn, cô giảng viên hướng dẫn, thật dồi dào sức
khỏe và nhiều niềm tin để thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến
thức cho thế hệ mai sau!
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .........................................................................................1
II. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................4
III. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................5
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................10
V. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................10
5.1 Phƣơng pháp tiểu sử .........................................................................................10
5.2 Phƣơng pháp so sánh ........................................................................................10
5.3 Phƣơng pháp thống kê- phân loại ...................................................................11
5.4 Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp tài liệu ..................................................11
VI. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................11
6.1 Đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................................11
6.2 Phạm vi nghiên cứu ...........................................................................................11
VII. Cấu trúc đề tài .................................................................................................12
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................13
CHƢƠNG 1..............................................................................................................13
NHÀ VĂN NGUYỄN NHẬT ÁNH VÀ ĐỀ TÀI VỀ LOÀI VẬT.......................13
1.1 Tiểu sử nhà văn Nguyễn Nhật Ánh .................................................................13
1.2 Quan niệm về nghề văn và công việc sáng tác ................................................16
1.3 Đề tài về loài vật trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh. ..................................20
1.3.1 Khái quát chung về đề tài loài vật trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh ..20
1.3.2Tóm tắt một số truyện về đề tài lồi vật trong truyện của Nguyễn Nhật
Ánh
.....................................................................................................................22
1.3.2.1 Tơi là Bê tô ...................................................................................................22
1.3.2.2 Chúc một ngày tốt lành...............................................................................23
CHƢƠNG 2..............................................................................................................25
CÁC KIỂU LOÀI VẬT TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH ......25
2.1 Thế giới loài vật đa dạng, phong phú trong truyện Nguyễn Nhật Ánh .......25
2.1.1 Các con vật nghịch ngợm ..............................................................................25
2.1.2 Các con vật có vai trị trợ thủ ........................................................................28
2.1.3 Các con vật có vai trò địch thủ ......................................................................29
2.1.4 Các con vật dũng cảm ....................................................................................31
2.1.5 Các con vật mộng mơ, triết lí ........................................................................33
2.1.6 Các con vật khác.............................................................................................34
2.2 Thế giới nội tâm của loài vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh .....................36
2.2.1 Đời sống tình cảm ...........................................................................................36
2.2.1.1 Đời sống tình cảm với con ngƣời ...............................................................36
2.2.1.2 Tình cảm với đồng loại ...............................................................................40
2.2.2 Những triết lý về cuộc sống ...........................................................................46
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ ĐÓNG GÓP MỚI VỀ NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN VỀ ĐỀ TÀI LOÀI VẬT CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH .....................51
3.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ......................................................................51
3.2 Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật ........................................................53
3.3 Ngơn ngữ và giọng điệu ....................................................................................58
3.4.1 Ngôn ngữ .........................................................................................................58
3.4.2 Giọng điệu .......................................................................................................64
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................69
2
- Năm 2006: Tác phẩm “Kính vạn hoa” dẫn đầu trong cuộc bầu chọn “10
cuốn sách được yêu thích nhất” do ban văn học thiếu nhi hội Nhà văn Việt Nam,
ban Văn hóa nghệ thuật đài tiếng nói Việt Nam, Nxb. Kim Đồng, Nxb. Trẻ và Ủy
ban dân số, gia đình và trẻ em phối hợp tổ chức.
- Giải thưởng văn học của Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh trao tặng với tác
phẩm “Tôi là Bê tô” năm 2007.
- Giải thưởng Văn học của Hội nhà văn Việt nam, giải sách hay của Hội
Xuất bản Việt Nam (năm 2009), giải thưởng văn học ASEAN (năm 2010) với
truyện dài “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”.
- Năm 2012, hai tác phẩm “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” và “Lá nằm
trong lá” được độc giả của công ty phát hành sách FAHASA bình chọn là hai trong
mười tác phẩm được yêu thích nhất trong năm. Đây cũng là hai tác phẩm duy nhất
của Việt Nam trong danh sách này. Bốn tác phẩm “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”,
“Kính vạn hoa”, “Cơ gái đến từ hơm qua” và “Mắt biếc” lọt vào mười tác phẩm
được yêu thích nhất trong cuộc bình chọn “Sách việt tơi u” do Hội nhà văn
TP.HCM và thành đoàn TP.HCM tổ chức.
- Mới đây nhất, năm 2013, “Kính vạn hoa” và “Cho tơi một vé đi tuổi thơ”
là hai tác phẩm được chọn vào cuốn “105 tác phẩm được đọc nhiều nhất ở các
nước trên thế giới” do Nxb Ten- books (Nhật Bản) phát hành.
Dù thể hiện ngịi bút của mình ở thể loại nào (Truyện ngắn, truyện
dài, hay tạp văn, thơ...), Nguyễn Nhật Ánh đều được độc giả đón nhận nồng nhiệt.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc trong “Nguyễn Nhật Ánh: Hoàng tử bé trong thế giới
tuổi thơ” kể lại: Khi Nguyễn Nhật Ánh thực hiện chuyến đi xuyên Việt tới nhà sách
Thăng Long, đường Tràng Tiền, Hà Nội, độc giả xếp hàng dài cả cây số dưới nắng
nóng trong suốt ba tiếng đồng hồ để được gặp ông. Sự kiện Nguyễn Nhật Ánh đến
Hà Nội chẳng khác gì ngơi sao ca nhạc: các cửa hàng vốn chẳng liên quan gì đến
sách cũng bày sách của Nguyễn Nhật Ánh ra bán, các bãi giữ xe tăng giá gấp đôi,
các phương tiện truyền thông quây kín… Sự kiện này được các bạn fan của Nguyễn
Nhật Ánh gọi là “Huyền thoại phố Tràng Tiền”. Sự đón nhận nồng nhiệt ấy của độc
giả là minh chứng cho vị trí đặc biệt của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh trong nền văn
3
học Việt Nam. Một số tác phẩm về đề tài động vật của ơng cịn trở thành “Cơn sốt”
trên thị trường sách Việt Nam, đặc biệt là sách dành cho thế hệ trẻ.
Ba tác phẩm truyện dài mà chúng tôi chọn khảo sát ít nhiều cũng đều đã
khẳng định được giá trị tự thân của nó bằng những giải thưởng, hoặc sự đón nhận
nồng nhiệt từ phía độc giả. Với tác phẩm “Tôi là Bê-tô”, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh
đã đạt giải thưởng văn học của Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh trao tặng. Cuốn sách
“Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ” đoạt giải Vàng cuộc thi Sách đẹp 2013 do Hội
Xuất bản Việt Nam tổ chức. Tác phẩm “Chúc một ngày tốt lành” trong đợt in đầu
tiên với 40,000 bản thì 38,000 bản trong số đó đã được các đơn vị phát hành đặt
mua hết ngay từ khi sách chưa được in. Vì thế, Nhà xuất bản Trẻ đã phải in nối
thêm 15,000 bản để kịp đáp ứng đủ nhu cầu của đọc giả. Đây được cho là một trong
những hiện tượng của Văn học Việt Nam giữa tình trạng sách đang ế ẩm.
Sức hấp dẫn của những cuốn sách về thế giới loài vật trong truyện của
Nguyễn Nhật Ánh nằm ở chính thế giới động vật qua cách nhìn của ơng- một thế
giới sinh động và phong phú. Chúng ta nhận ra trong truyện là một hệ thống nhân
vật với đủ sắc thái và cung bậc của tính cách được thâu tóm khá trọn vẹn. Thế giới
động vật được tạo nên bởi các câu chuyện nhẹ nhàng, giàu tính nhân văn. Dẫu ngắn
gọn giản dị, nhưng các truyện về đề tài này đã có một tác dụng kì diệu, chạm khắc
vào thời gian, vào lịng người chân dung những con vật tinh nghịch thông minh, thơ
ngây như con trẻ. Thế giới lồi vật qua cách nhìn của Nguyễn Nhật Ánh hết sức
đáng yêu. Từ những con vật thân quen: chó, mèo, gà, chuột... nhà văn đã thổi vào
đó một sự sống tươi non mang hơi thở, tâm hồn, khát vọng trẻ thơ.
Như vậy, một trong những thành công của Nguyễn Nhật Ánh là mảng truyện
viết về lồi vật. Ở mảng truyện này vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu nào
mang tính chun sâu, hệ thống toàn diện. Việc nghiên cứu những tác phẩm của
Nguyễn Nhật Ánh về đề tài loài vật là một việc làm quan trọng và thiết thực. Tuy
nhiên, trong lí luận và phê bình văn học, các đề tài nghiên cứu có liên quan hầu hết
ít đề cập đến vấn đề về thế giới động vật trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh, còn
rất nhiều vấn đề cốt lõi cũng như các kiến giải mới cần được đào sâu và mở rộng
hơn nữa.
6
quả là khu vực văn học thiếu nhi còn nhiều thiếu sót. Từ tình hình chung đó, dẫu
được đánh giá là cây bút tiêu biểu của nền văn học thiếu nhi, Nguyễn Nhật Ánh và
các tác phẩm của ông vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Trên Tạp chí sách số tháng 6 năm 2002, nhà phê bình Nguyễn Hồng Sơn
nhật xét Nguyễn Nhật Ánh là “nhà ảo thuật” quen thuộc nhân vật của mình. Chính
vì thế, ơng rất dễ dàng thâm nhập vào thế giới riêng của các em. Những câu chuyện
loanh quanh trong một nhóm bạn cụ thể, lại dùng ngôn ngữ, thổ ngữ địa phương,
nhưng vẫn chinh phục và mê hoặc được độc giả nhỏ tuổi ở khắp mọi vùng miền
trong cả nước. Các em đọc sách và lại quên mình đang đọc sách, cứ ngỡ như đang
can dự vào cuộc sống có thật ở giữa đời thường.
Giữa năm 2007, nhà xuất bản Trẻ ấn hành cuốn “Tôi là Bêtô” của Nguyễn
Nhật Ánh. Trong dịp này, một số nhà nghiên cứu, nhà văn đã có bài phê bình về
cuốn sách. Nhà nghiên cứu Phong Lê, trên tờ nhật báo Thanh Niên (ngày
27/5/2007), tỏ rõ sự hồ hởi: “Đã lâu lắm, tôi mới lại được đọc một truyện thú như
thế”. Theo ông, cái hay của “Tôi là Bêtô” nằm ở lối kể tự nhiên về những chuyện
đời thường mà không tẻ nhạt, lại gợi được nhiều ý tưởng và triết lí hồn nhiên. Trên
tờ nhật báo đó, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cũng dành cho cuốn sách những lời
khen ngợi qua việc ghi nhận về thủ pháp nhân cách hóa khơng những được nhà văn
sử dụng mà ơng cịn kể về con vật đó bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất với một
thứ ngôn ngữ gần gũi, giản dị khiến cho người đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật
chính của câu chuyện. Mặt khác, màu sắc triết lí trong mỗi câu chuyện nhỏ cũng
góp phần làm nên giá trị thấm mĩ cho tác phẩm.
Trên báo “Kiến thức ngày nay” (số 613/2007), Lã Thị Bắc Lý xem “Tôi là
Bêtô” là một thành công mới của Nguyễn Nhật Ánh. Điểm mạnh ở thiên truyện này
là xây dựng nhân vật và cách kể chuyện lôi cuốn, ngôn ngữ giàu chất thơ. Trong
báo Lao động cuối tuần, số ra 28-06-2009, nhà thơ Trần Đăng Khoa lại nhận xét
“Có lẽ chỉ có Nguyễn Nhật Ánh mới mê hoặc được bạn đọc của mình như thế. Bởi
thế, tơi mới gọi ơng ta là một gã phù thủy đại bợm. Kinh lắm! Hãi lắm! Khơng tin
ư? Thế thì bạn hãy cứ mở sách của lão ra coi thử. Lão đang thả bùa mê đấy. Thả
bùa mà chẳng thấy bùa đâu!”.[9]
7
Năm 2010, tác giả Lê Phương Liên có bài viết về Nguyễn Nhật Ánh tựa đề
“Có một Nguyễn Nhật Ánh “say” viết truyện thiếu nhi” trên VnExpress ngày 2810-2010 đánh giá cao khả năng sáng tác truyện của Nguyễn Nhật Ánh khi ông đã
qua tuổi ngũ tuần “Ở tuối năm mươi- sáu mươi có những người sẽ sống một cuộc
sống đẹp với những dư âm trong trẻo của tuổi thơ, sự đằm thắm của tuổi xuân và
những suy nghĩ chiêm nghiệm q như vàng. Có lẽ tác giả “Kính vạn hoa” khơng
hề muốn tự dễ dãi với bản thân mình, anh đang mong sáng tạo những trang văn
mới” [13].
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Bắc Lý “Cảm nhận về văn học thiếu nhi
Việt Nam đầu thế kỷ XXI” trên báo Văn học quê nhà tháng 10 năm 2011 khẳng
định: Văn học thiếu nhi Việt Nam được tạo đà từ một thành tựu rực rỡ bước sang
thế kỷ XXI tràn đầy sức sống, vừa hội nhập với thế giới, vừa giữ gìn và phát huy
những nét truyền thống của nguồn mạch dân tộc. Trong đó, Nguyễn Nhật Ánh là
một trong những nhà văn giao thời giữa hai thế kỷ, nổi lên từ những năm cuối thế
kỷ XX nhưng vẫn giữ được phong độ và cảm hứng sáng tạo trong thế kỷ mới. Tác
giả khẳng định, với thành công đặc biệt của “Kính vạn hoa” cùng với gần ba mươi
tập sách viết cho lứa tuổi hoa học trò, Nguyễn Nhật Ánh được bình chọn là tác giả
tiêu biểu nhất của văn học thiếu nhi Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX. Sang đầu
thế kỉ XXI, Nguyễn Nhật Ánh đột ngột “chuyển hướng” sang lối kể chuyện hoang
đường, kì bí (Ví dụ như bộ truyện dài nhiều tập “Chuyện xứ Lang-bi-ang”). Sự
tưởng tượng của Nguyễn Nhật Ánh được dựa trên nền tảng vững chắc, đó là tâm lí
trẻ thơ. Có lẽ trẻ thơ ở Mĩ, ở Anh, ở Nhật Bản và ở đâu cũng thế. Sự phiêu lưu mạo
hiểm của chúng bất chấp mọi rào cản. Chẳng thế mà Tom Sawyer (Mark Twain) đã
có những cuộc phiêu lưu thật liều lĩnh để săn tìm kho báu; Dim (Xtivenxơn) cũng
có chuyến đi nguy hiểm nhưng thật tuyệt vời ra Đảo giấu vàng; Oliver Twist
(Charles Dickens) đã bỏ cửa hàng đóng áo quan để chạy trốn đến Luân-đôn… Và
ở Chuyện xứ Lang-bi-ang, Nguyễn Nhật Ánh để cho hai chú bé Kăply và Nguyên bí
mật lên Đồi phù thủy- nơi mà bất cứ ai dám “liều lĩnh mò lên ngọn đồi đều rớt hết
ráo xuống vực”, mà đó lại là cái vực “sâu khơng đáy” để khám phá sự bí ẩn bao
trùm hàng ngàn năm đối với người làng Ke thì cũng khơng có gì là lạ… . Cùng với
8
“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, “Lá nằm trong lá”, “Có hai con mèo ngồi bên
cửa sổ”… Nguyễn Nhật Ánh đã thể hiện sức viết bền bỉ của mình.
Nhận xét về nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và sự thành công của ông trong nghệ
thuật kể chuyện của thiếu nhi, tác giả Thái Phan Vàng Anh đưa ra ý kiến của mình
trong bài viết “Nguyễn Nhật Ánh- Ngƣời kể chuyện của thiếu nhi”, tạp chí Non
nƣớc tháng 12 năm 2011. Theo đó, tác giả cho rằng, đọc truyện Nguyễn Nhật Ánh,
ai cũng thấy mình trong đó. Để chọn một người lớn thật sự biết kể “chuyện của trẻ
em” theo nhiều điểm nhìn, có lẽ ít ai vượt qua Nguyễn Nhật Ánh. Tác giả khẳng
định: Nguyễn Nhật Ánh không chỉ kể chuyện cho thiếu nhi, kể chuyện về thiếu nhi
mà ông còn là người kể chuyện của thiếu nhi. Ba khái niệm “kể chuyện cho thiếu
nhi”, “kể chuyện về thiếu nhi”, “kể chuyện của thiếu nhi” là ba khái niệm hoàn
toàn khác nhau, cần phân biệt một cách rõ ràng. Cách khái qt của tác giả thoạt
nhìn khơng có gì đao to búa lớn, nhưng lại đặt trên một nền tảng tri thức rộng và
sâu, nên chứa đựng trong đó nhiều điều mới mẻ. Gọi Nguyễn Nhật Ánh là “người
kể chuyện của thiếu nhi” nghĩa là, Nguyễn Nhật Ánh là tác giả của những câu
chuyện về thiếu nhi, dành cho thiếu nhi, khi ơng đóng vai người kể chuyện, hay
thậm chí hóa thân thành những vai kể khác. Bởi với thiếu nhi, việc ai thực sự là chủ
thể trần thuật trong truyện kể không quan trọng bằng ai mới là người đem lại những
chuyện kể ấy. Với thiếu nhi, Nguyễn Nhật Ánh như là nàng Scheherazade
trong “Nghìn lẻ một đêm” cùng những câu chuyện bất tận. Nguyễn Nhật Ánh được
coi như là người kể chuyện mang điểm nhìn trẻ thơ, và trở thành “người kể chuyện
của thiếu nhi” chính bởi khả năng hóa thân, nhập vai khéo léo của tác giả.
Trên báo Thanh niên tuần san số 288, ngày 30 tháng 11 năm 2011 có bài
của tác giả Nguyễn Quang Lập. Tác giả nhận xét sự thu hút của văn chương Nguyễn
Nhật Ánh là nhờ có một loại “chất gây nghiện”, trẻ con không mấy ai là không biết
ông: “Trẻ con bây giờ đứa nào không biết Nguyễn Nhật Ánh là đứa đó cực dốt văn.
Xưa có Tơ Hồi, Xn Sách, Trần Đăng Khoa, giờ có Nguyễn Nhật Ánh, chỉ mỗi
Nguyễn Nhật Ánh khơng cịn ai”. Nguyễn Quang Lập cũng khẳng định, vị trí của
Nguyễn Nhật Ánh trong nền văn học thiếu nhi là độc nhất và không thể thay thế
được.
9
Nhà thơ Lê Minh Quốc là một người đồng hương Quảng Nam của Nguyễn
Nhật Ánh, ông cho ra mắt cuốn sách “Nguyễn Nhật Ánh- Hoàng tử bé trong thế
giới trẻ thơ” , NXB Kim Đồng ấn hành năm 2014, để nói về con người Nguyễn
Nhật Ánh với tư cách vừa là một con người bình thường vừa là một nhà văn tài
năng. Đọc “Nguyễn Nhật Ánh- Hoàng tử bé trong thế giới trẻ thơ”, người viết rất
tâm đắc khi phát hiện ra rằng Nguyễn Nhật Ánh là một con người giản dị đời
thường nhưng lại rất thành công trong văn nghiệp. Trong cuốn sách, Lê Minh Quốc
đã kể những câu chuyện nhẹ nhàng về Nguyễn Nhật Ánh từ tuổi thơ cho tới thời
điểm năm 2014. Sách cũng sưu tầm nhiều bài viết của các bạn văn trong và ngoài
nước kèm theo nhiều hình ảnh minh họa, phụ lục thơ, tạp bút, bình luận thể thao, tư
vấn tình cảm và cả những lời tâm huyết của Nguyễn Nhật Ánh về quan niệm sống
và sáng tác. Đó cũng chính là những kiến giải thật sâu sắc và thỏa đáng để trả lời
cho câu hỏi: Vì sao lại gọi Nguyễn Nhật Ánh là “Hồng tử bé trong thế giới tuổi
thơ”.
Từ những điều tìm thấy trong cuốn sách “Nguyễn Nhật Ánh- Hoàng tử bé
trong thế giới trẻ thơ”, tác giả Huỳnh Kim đã giới thiệu cho bạn đọc báo Thanh
niên tìm đến với cuốn sách để hiểu hơn về Nguyễn Nhật Ánh. Bên cạnh đó, anh
cũng đưa ra những đoạn trích hay nhất trong cuốn sách như một lời minh chứng cụ
thể và sinh động nhất cho việc lấy tựa đề bài viết “Giải mã Nguyễn Nhật Ánh”.
Cùng nói về Nguyễn Nhật Ánh và thêm một nhà văn khác cũng viết về đề tài
cho thiếu nhi, tác giả Toàn Quý, báo Tiền phong, số ra ngày 22/04/2014 có bài: “Tơ
Hồi, Nguyễn Nhật Ánh đỉnh đến bao giờ”. Bài viết đề cập đến hai tác giả “đỉnh”
trong thể loại văn học giành cho thiếu nhi. Một là Tơ Hồi với “Dế mèn phiêu lưu
ký” và giá trị nguyên vẹn của nó sau tám mươi năm, hai là Nguyễn Nhật Ánh nhiều
năm giữ vững phong độ tác giả ăn khách. Bài viết như một cái nhìn tổng thể lại
chặng đường sáng tác với những tác phẩm thành cơng nhất của hai tên tuổi nổi bật,
góp phần lớn trong bộ mặt chung của nền văn học thiếu nhi nước nhà.
Vấn đề “Thế giới động vật qua cách nhìn của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh” là
một vấn đề còn khá mới mẻ. Các ý kiến trên đây chủ yếu chỉ nêu đến tiểu sử, tác
giả, những khía cạnh, đặc điểm trong con người, văn phong Nguyễn Nhật Ánh, mà
14
Từ năm 1973, Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gịn, theo học
ngành sư phạm. Ơng đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm cơng
tác Đồn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Trước năm 1975 tại miền Nam, học
sinh phổ thơng thích lập “bút nhóm”, “thi văn đàn” để cùng nâng đỡ, động viên
nhau trong quá trình sáng tác. Mỗi “thi sĩ nhí” trong các bút nhóm, văn đàn này
thường khơng dùng tên thật mà đặt bút danh riêng. Thời ấy, Nguyễn Nhật Ánh đã kí
bằng bút danh “Hoài mộng diễm thư”! Lê Minh Quốc trong cuốn “Nguyễn Nhật
Ánh - Hoàng tử bé trong thế giới tuổi thơ”, NXB Kim Đồng, 2014 đã nhận xét nửa
đùa nửa thật về bút danh “mướt rượt” này: Có thể hiểu Hoài Mộng Diễm Thư là
“mơ màng sách hay”. “Bút danh này như “vận” vào cuộc đời của nhà văn có sách
bán chạy nhất hiện nay. Nếu sách khơng hay thì làm sao bán chạy?” [25;9].
Khả năng cầm bút của Nguyễn Nhật Ánh tỏ lộ khá sớm. Những năm học ở
trường phổ thơng, Nguyễn Nhật Ánh đã có những bài thơ đăng báo. Tác phẩm đầu
tiên in thành sách là tập thơ “Thành phố tháng tư”, nhà xuất bản Tác phẩm mới
năm 1984 (in chung với Lê Thị Kim). Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh còn là tác giả của
rất nhiều bài thơ viết về tuổi học trị, về tình u - những rung động ban đầu của
tuổi mới lớn được nhiều bạn trẻ yêu thích và chia sẻ như: Đừng như cơng chúa
(2011), Có một buổi chiều nào2011), Chuyện cổ tích dành cho người lớn
(2013)… Các tập thơ như Thành phố tháng tư (1984), Đầu xuân ra sông giặt áo
(1986), Thơ tình (1988), Tứ tuyệt cho nàng (1994)… Những rung động trong trẻo
của tuổi mới lớn ngân lên thành những bài thơ tình nhẹ nhàng, đáng yêu, nên
Nguyễn Nhật Ánh không chỉ là nhà văn của tuổi mới lớn mà còn là nhà thơ được
giới trẻ ngưỡng mộ. Như vậy, được biết đến là một nhà thơ trước khi là nhà văn,
nhưng như một duyên nợ, các tác phẩm văn xuôi mới giúp Nguyễn Nhật Ánh khẳng
định vị thế trên văn đàn văn học thiếu nhi Việt Nam và giúp ông chiếm lĩnh cảm
tình của đông đảo bạn đọc. Truyện dài đầu tiên của ơng là tác phẩm “Trước vịng
chung kết”. Hai mươi năm trở lại đây, ông tập trung viết văn xuôi, chuyên sáng tác
về đề tài thanh thiếu niên.
Từ năm 1986 đến nay, Nguyễn Nhật Ánh là phóng viên nhật báo “Sài Gịn Giải
Phóng”, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu
15
nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo “Sài Gịn Giải Phóng” Chủ
nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngồi ra, Nguyễn Nhật Ánh cịn có những bút
danh khác như: Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đơng Phương Sóc, Sóc Phương Đơng,…
Nói về nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, phải nói thêm, ơng chính là “Anh Bồ Câu”
phụ trách chuyên mục Vườn hồng trên báo Thanh niên, chuyên gia trả lời, gỡ rối
cho những thắc mắc của các bạn trẻ về tình u - hơn nhân - gia đình. Độc giả đọc
báo Thanh niên ai cũng yêu mến “Anh Bồ Câu” bởi sự tâm lí, giải đáp vấn đề hợp
lí, hợp tình và cách diễn đạt ngắn gọn dễ hiểu, văn phong hóm hỉnh rất có duyên.
Vào tháng tư năm 1995, Thành Đoàn TNCS thành phố Hồ Chí Minh và Nhà văn
hóa Thanh niên tổ chức cuộc thăm dò trong giới trẻ, kết quả: Trang Vườn hồng
được đọc nhiều nhất và người “giữ vườn” là anh Bồ Câu cũng được chọn là một
trong những nhân vật thu hút giới trẻ nhất. Đài truyền hình NHK của Nhật trong
một phóng sự về tuổi trẻ Việt Nam từng đề nghị được phỏng vấn và giới thiệu anh
Bồ Câu nhưng ơng đã từ chối vì trong thời điểm đó ơng chưa muốn tiết lộ anh Bồ
Câu là ai. Có nhiều độc giả mến mộ đến tịa soạn, tị mị tìm gặp “Anh Bồ Câu”
nhưng tòa soạn chỉ trả lời một cách hài hước “Anh Bồ Câu đang bay, khơng có ở
tịa soạn”, vì vậy rất ít người biết “Anh Bồ Câu” lại chính là nhà văn Nguyễn Nhật
Ánh.
Nhà thơ Lê Minh Quốc từng gọi Nguyễn Nhật Ánh là một con người đa tài.
Ngoài viết văn, làm thơ Nguyễn Nhật Ánh cịn là một cây bình luận thể thao (nhất
là bóng đá) rất đặc sắc với bút danh Chu Đình Ngạn trên báo Sài Gịn giải phóng
chủ nhật. Cách viết dí dỏm, hài hước và những nhận định sâu sắc của ông đã thu hút
rất nhiều fan hâm mộ của môn thể thao vua này. Vì mê tiểu thuyết kiếm hiệp của
Kim Dung, ông thường sử dụng những ngôn từ kiếm hiệp và có những so sánh liên
tưởng khá thú vị giữa võ học và bóng đá làm độc giả nhiều phen phải bật cười và
phục “Chu Đình Ngạn” ở cái tài viết rất sâu sắc mà vẫn hài hước, dí dỏm.
Dù con đường sáng tác còn dài, nhưng nhà văn Nguyễn Nhật Ánh từ lâu đã trở
thành một nhà văn được nhiều người biết đến với hàng loạt những tác phẩm có số
lượng phát hành, tái bản lớn. Trong đó, riêng bộ truyện “Kính vạn hoa” đã phát
hành trên một triệu bản. Nguyễn Nhật Ánh vẫn là tác giả được giới trẻ ngưỡng mộ
17
công việc viết văn với hai từ cao quý là “Sứ mệnh”. Là một nhà văn chuyên tâm
viết cho thanh thiếu niên, tôi nghĩ công việc của tôi là giúp cho các bạn đọc trẻ giàu
có cảm xúc hơn, qua đó sống tốt hơn” [25,90]. Có thể nói, Nguyễn Nhật Ánh là
một nhà văn tâm huyết với nghề, sống hết mình với từng con chữ.
Nguyễn Nhật Ánh ln tự ý thức được đối tượng tiếp nhận, độc giả của mình
là tuổi mới lớn. Đúng như cái tên “tuổi mới lớn” là lứa tuổi khơng cịn là trẻ con
nhưng vẫn chưa trở thành người lớn. Vì vậy mà tâm lý, tính cách của lứa tuổi này
rất đặc biệt, hay nói cách khác là chưa định hình, nên khó nắm bắt. Hơn ai hết,
Nguyễn Nhật Ánh nắm rõ những đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi này. Nói như nhà thơ
Trần Đăng Khoa: “Bí quyết tạo sự thành cơng kì lạ của Nguyễn Nhật Ánh có lẽ là ở
khả năng nắm bắt tâm lí lứa tuổi học trị” [25;104]. Sáng tác cho lứa tuổi này, bên
cạnh những thao tác văn chương thuần kĩ thuật, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã thực
sự đồng cảm về mặt tâm hồn với các em mới có thể tạo ra trước hết là sự tin cậy và
kéo theo nó là sự chấp nhận của bạn đọc. Nhà văn tâm sự: “Muốn viết thành công ở
thể loại này, nhà văn phải tắm mình trong dịng sơng tuổi thơ chứ khơng phải là kẻ
đứng trên bờ nhìn ngắm và miêu tả” [25;50]. Chẳng thế mà Nguyễn Nhật Ánh trở
thành cái tên thân thuộc với các em học sinh mọi lứa tuổi, ơng nói ra “những điều
mà người lớn khơng bao giờ biết tới hay không bao giờ nghĩ đến” (Emme Achara)
[26].
Được biết đến là một nhà văn với những trang viết đượm màu sắc thôn quê,
nhà văn Nguyễn Nhật Ánh từng được phóng viên báo Văn hóa văn nghệ phỏng vấn
trong bài “Nguyễn Nhật Ánh: tơi thấy mình số đỏ” về việc một số ý kiến cho rằng
“Nguyễn Nhật Ánh viết hoài về làng quê sắp cạn chữ rồi, các cuốn sau khơng cịn
hay như trước” [30]. Nguyễn Nhật Ánh không phủ nhận việc viết về làng quê là
một đề tài khơng cịn mới, nhưng lại khẳng định vấn đề quan trọng không phải nằm
ở đề tài mà nằm ở cách khai thác, tiếp cận của nhà văn. Như vậy, có thể thấy
Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn đầy bản lĩnh, khiêm tốn, nhưng vẫn tự tin, biết vị
trí mình đang đứng ở đâu.
Nguyễn Nhật Ánh khơng thuộc tuýp nhà văn hay phát biểu quan niệm của
mình về nghề. Ơng cũng là một nhà văn thích đi làm từ thiện, thích giao lưu kí tặng
18
độc giả hơn là tham gia những bài phỏng vấn để tự kể về mình. Mỗi khi nhắc tới
nghề văn và công việc viết văn, ông thường nhắc tới nghề nghiệp như một cái
“duyên”, một “sự may mắn”, “số đỏ”… Nguyễn Nhật Ánh khẳng định vị trí của bản
thân bằng số lượng độc giả ln u mến, đón nhận các tác phẩm của mình.
Dù gặt gái được nhiều thành cơng trong văn nghiệp, Nguyễn Nhật Ánh vẫn
là một cây bút ln trăn trở, tự đổi mới hồn thiện mình, làm sao viết được những
tác phẩm có giá trị, góp phần giáo dục nhân cách, hướng thiện cho trẻ em, văn
chương cần “mài sắc các ý niệm đạo đức” (chữ dùng của nhà văn). Sự tự hồn thiện
đổi mới mình của ông diễn ra trong một quá trình đầy nghiêm khắc và tâm huyết
đối với nghề. Không hề chủ quan hay coi nhẹ tác phẩm khi viết cho đối tượng là
độc giả nhỏ tuổi, Nguyễn Nhật Ánh chấp nhận nghề, và cũng chấp nhận những áp
lực do nghề mang lại “Theo đuổi công việc viết văn là chấp nhận sống dưới áp lực
thường trực từ nhiều phía. Áp lực của độc giả. Áp lực của sự đổi mới, Áp lực vượt
qua chính mình” [30]. Với Nguyễn Nhật Ánh, mỗi nhà văn đều tự nhiên có một nhà
phê bình trong người, chất lượng văn chương của một nhà văn tùy thuộc vào chất
lượng phê bình của chính nhà văn đó.
Tuổi thơ Nguyễn Nhật Ánh gắn bó với làng quê xứ Quảng êm đềm. Là một
người con xa quê, ông luôn nhớ về quê hương với những tình cảm tốt đẹp nhất. Lần
theo kí ức của Nguyễn Nhật Ánh, chúng ta thấy rằng, làng quê nghèo và yên ả của
những năm tuổi thơ đã để lại trong tâm trí ơng những tình cảm thân thương, dịu
ngọt. Hơn bốn mươi năm sống xa quê - hồn cảnh này là một thơi thúc, tạo chiều
sâu cho mảng sáng tác với cảm hứng tình yêu quê hương trong sáng tác của ơng.
Mỗi khi có dịp viết về miền đất và con người Quảng Nam, nguyễn Nhật Ánh ln
tỏ ra say sưa với những tình cảm q hương ngọt ngào, nhất là khi nó gắn liền với
những kí ức tuổi thơ trong trẻo, mộc mạc mà thấm sâu trong lịng ơng. Kỉ niệm tuổi
thơ một thời đã in đậm dấu ấn trên những sáng tác của ông. Có những tác phẩm,
Nguyễn Nhật Ánh viết nặng lịng với q hương như “Người Quảng ăn mì
Quảng”, “Sương khói q nhà”. Ngồi ra, có những tác phẩm viết cho thiếu nhi
không nhắc tới địa điểm nhưng người đọc vẫn thấy phảng phất đâu đó hình bóng
của q hương xứ Quảng, của làng quê tuổi thơ Nguyễn Nhật Ánh. Ông tâm sự “Tôi
19
là nhà văn nên tôi thỏa nỗi nhớ quê của mình theo cách của người hành nghề bằng
con chữ”, “Tuổi thơ đối với tôi là cả một thế giới đầy ám ảnh. Tơi ln ln bắt
gặp mình thổn thức khi nhớ về những ngày thơ ấu. Ấy là khi tôi nhận ra mình đã ở
quá xa sân ga tuổi nhỏ. Và tôi viết những cuốn sách để kéo chúng gần lại” [30]. Có
lẽ vì vậy mà những kỉ niệm, những vùng đất, những gương mặt bạn bè ấu thơ thi
nhau hiện lên trong từng trang viết. Nặng lòng với quê hương, Nguyễn Nhật Ánh
cho rằng đó chính là ngun nhân sâu xa khiến ông trở thành nhà văn chuyên viết
về tuổi thơ, tuổi thiếu thời, về “một thế giới lung linh mà một kẻ tha hương không
nguôi nhớ đến và tìm mọi cách tái tạo trong những trang viết của mình” [30].
Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn tâm huyết với nghề, ý thức về công việc
cầm bút và đối tượng độc giả, nặng lịng với q hương. Ơng cũng được biết đến là
một con người giản dị, gần gũi trong cuộc sống thường ngày. Nguyễn Nhật Ánh
luôn xuất hiện trước mắt độc giả với nụ cười tươi, cặp kính cận quen thuộc. Trẻ em,
thậm chí thanh thiếu niên khắp mọi miền đất nước hâm mộ Nguyễn Nhật Ánh đều
gọi ông bằng cách gọi thân mật “chú Ánh”. Trên mạng xã hội, có rất nhiều trang
mạng được các bạn trẻ lập ra để bàn luận về những tác phẩm của ông, từ những tác
phẩm cũ gắn liền với tuổi thơ một thời đến những tác phẩm mới, hay những tác
phẩm sắp ra mắt như website: Kính vạn hoa fan club, fanpage Nguyễn Nhật Ánh,
Những người thích đọc truyện Nguyễn Nhật Ánh, Hội những người cực yêu truyện
Nguyễn Nhật Ánh... Nguyễn Nhật Ánh khơng phụ lịng các bạn trẻ, tác phẩm nào
của ông viết ra cũng được ngợi ca, trân trọng. Ông mở một tiệm sách ở thành phố
Hồ Chí Minh là tiệm “Kính vạn hoa”. Đây cũng là địa chỉ quen thuộc mà rất nhiều
bạn trẻ thường ghé tới, xếp hàng từng lượt dài để mong gặp “chú Ánh”, xin chữ
kí… Điều đó đã chứng tỏ sức hút của những tác phẩm văn chương Nguyễn Nhật
Ánh và sự mến mộ của thế hệ độc giả dành cho nhà văn này. Mặc dù lịch làm việc
dày đặc, Nguyễn Nhật Ánh vẫn ln quan tâm đến các độc giả của mình, ơng chưa
bao giờ lỡ hẹn hoặc trễ hẹn trong bất kì cuộc hẹn nào với độc giả.
Giải trí và giáo dục là hai chức năng cơ bản, thiết yếu nhất của văn học thiếu
nhi. Là một nhà văn có trách nhiệm, Nguyễn Nhật Ánh đã hồn thành tốt nhiệm vụ
của mình khi thực hiện cả hai chức năng, vai trò của một nhà văn trong việc vừa
21
Ở thể loại truyện này, với hình thức nhân cách hóa lồi vật, rất thích hợp với thị
hiếu và tâm lí bạn đọc nhỏ tuổi. Đó là loại truyện tưởng tượng, sử dụng tưởng
tượng để khái quát cuộc sống thông qua việc miêu tả hình tượng theo nguyên tắc
kết hợp các mặt tự nhiên và xã hội, loài vật và trẻ em. Nhờ sự kết hợp này mà diện
tích nghĩa của hình tượng được nới rộng, người đọc khơng chỉ tiếp nhận bức tranh
đời sống lồi vật mà cịn cảm nhận được cuộc sống của con người.
Trong thể loại truyện viết về đề tài động vật, nhân vật có thể là cả loài vật và
cả con người nhưng nhân vật trọng tâm vẫn là loài vật, và chúng được miêu tả theo
một số nguyên tắc nhất định: nhân cách hóa, cách điệu hóa… vừa phản ánh thế
giới lồi vật, vừa ẩn dụ về cuộc sống con người.
Nhắc đến số lượng phong phú các tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi của
Nguyễn Nhật Ánh, thể loại truyện viết về loài vật bao giờ cũng được các bạn nhỏ
yêu thích. Từ “Xin lỗi mày, tai to” - một tập trong bộ truyện dài “Kính vạn hoa”,
đến bút kí của một chú cún “Tơi là Bê tơ”, truyện dài “Có hai con mèo ngồi bên
cửa sổ”, “Chúc một ngày tốt lành”… . Dẫu đề tài về lồi vật chiếm số lượng
khơng lớn trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh nhưng giá trị của chúng
là không thể phủ nhận. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng từng tâm sự trong bài
phỏng vấn “Nguyễn Nhật Ánh: Tơi thấy mình số đỏ”, báo Lao động, ngày 21-042014, dự định ban đầu của ông trong năm 2015 này sẽ viết một tác phẩm về con
dê: “Vì năm nay là năm mùi và tơi đang có hứng thú viết về các con vật. Tôi đã
từng viết về con chó, con mèo, con heo, con gà… trong các tác phẩm “Tơi là Bê
tơ”, “Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ”, “Chúc một ngày tốt lành”… .Nếu tính
cả các con vật xuất hiện trong bộ truyện “Chuyện xứ Lang Biang” thì có tới
mười một con vật trong mười hai con giáp có mặt trong sáng tác của tơi, trừ con
dê”; “Tơi từng đưa nai, khỉ, nhím, chồn… vào cuốn “Ngồi khóc trên cây” đó chứ.
Nhưng với những loài vật “dữ dằn” hơn như hổ, tê giác, gấu… thì chắc phải đợi
lúc nào đó tơi viết chuyện đường rừng. Thật ra tôi cũng không phải là nhà bảo vệ
môi trường để nhất định theo đuổi đến cùng đề tài động vật hoang dã. Nhưng nếu
một hơm nào đó tơi viết về đề tài liên quan thì có thể các con vật đó sẽ đi vào các
trang sách của tơi một cách tự nhiên. Thỉnh thoảng nhìn lại, tơi phát hiện ra trong
24
mức có thể chia sẻ từng chuyện vui buồn, lo lắng và chăm sóc, giúp nhau từ miếng
ăn đến “chiến lược” để tồn tại lâu dài. Đan xen vào đó là câu chuyện tình yêu của
mèo Gấu và mèo Áo Hoa, của chuột Tí hon và Út Hoa sống trong một “lâu đài”
(thật ra là một ngơi nhà bình thường) với một gia đình bình thường (Người chồng
làm tài xế, vợ làm bánh, cô con gái học lớp 11), qua con mắt của các con vật trở
thành “Nhà vua Sang Năm”, “Hồng hậu Năm Ngối”, “Cơng chúa Dây Leo”. Câu
chuyện không chỉ đơn thuần xoay quanh “lâu đài” nơi mèo Gấu ở và những biến cố
nho nhỏ của bầy chuột nhắt thường xuyên cắn phá trong nhà mà thể hiện sợi dây
tình cảm giữa các con vật đồng loại và cả khác lồi, của tình cảm giữa con người và
con vật.
Cuốn truyện có độ dày vừa phải, nhưng sinh động, sắc nét, làm hiện lên dáng
vẻ, tính cách của từng loài vật. Truyện hấp dẫn duyên dáng, điểm những bài thơ tình
lãng mạn nao lịng nhưng cũng vơ cùng hài hước, vui nhộn.
Tiểu kết
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là một cây bút thân thiết của thiếu nhi Việt Nam.
Ông là một nhà văn đầy trách nhiệm và tâm huyết với nghề cầm bút. Ý thức về
nghề, về đối tượng độc giả của mình, Nguyễn Nhật Ánh đã hồn thành tốt sứ mạng
của một nhà văn viết cho thiếu nhi.
Những năm gần đây, Nguyễn Nhật Ánh cho ra đời ba tập truyện dài về lồi vật.
Đó là những câu chuyện được viết theo một hướng đi mới trong sáng tác của ơng:
viết về đề tài lồi vật. Tuy vậy, điều đó khơng làm cho ngịi bút của Nguyễn Nhật
Ánh bị khựng mà ngược lại rất thành công và nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ
phía độc giả. Nói một cách văn hoa, Nguyễn Nhật Ánh chính là người đã giúp thiếu
nhi vén tấm màn cách biệt về thế giới loài vật- con người để hai thế giới ấy có điều
kiện hịa nhập, bổ sung cho nhau để nói lên thơng điệp mà nhà văn gửi gắm.
26
nhiều thứ đồ đạc (giày dép, sách vở, đồng hồ) và luôn cả chiếc điện thoại của ba chị
Ni cũng mau chóng trở thành một món “rất thích hợp nằm trong thùng rác” [2;15].
Viết về những trò đùa vui phá phách của các loài vật, Nguyễn Nhật Ánh tỏ ra rất am
hiểu và thông cảm. Đối với thế giới của lồi chó, “bướng bỉnh và phá phách bao
giờ cũng quyến rũ hơn đóng vai ngoan ngỗn” [2;27], trị chơi ưa thích nhất của
chúng là “gặm tất cả những gì có thể gặm, xé tất cả những gì có thể xé” [2;6].
Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng con mắt tinh tường của mình để phát hiện ra những
suy nghĩ của Bê tô “Bạn thử gặm một chiếc giày đi, vừa nhá vừa nhay nhay, vừa lắc
mạnh đầu cho nó nảy qua nảy lại. Thật mê ly. So với cảm giác tuyệt vời này, nhấm
nháp một miếng bít-tết chỉ là thú vui rẻ tiền của bọn mèo bình dân. Miếng bít-tết sẽ
chui tọt vào bụng trong nháy mắt, nhưng một chiếc giày hay một quyển sách thì
khơng vậy. Nó vẫn ở với bạn, cùng chơi với bạn cho đến khi bạn mệt nhồi cịn nó
thì lam nham những dấu răng hoặc rách bươm ra” [2;5]. Vì vậy, Bê tơ khơng hề
coi việc phá hoại thành công những đồ vật trong nhà là một việc làm sai, mà ngược
lại, nó tự hào liệt kê “thành tích” đáng nể của mình: làm hỏng tám cuốn tập, mười
hai cuốn sách, bốn chiếc đồng hồ, năm đôi giày, sáu đôi dép, hàng chục đôi vớ...
của các thành viên trong nhà.
Cùng với nhân vật Bê tô, Lai ca cũng là một chú chó nghịch ngợm và thường
gây rắc rối. Khác với Bi nơ, một chú chó điềm tĩnh mang dáng dấp của một nhà
hiền triết, Laica là một chú chó nghịch ngợm. Đây là điểm tương đồng giữa Bê tô
và Laica, khiến chúng thân với nhau từ ngày đầu tiên. Lai ca dạy cho Bê tơ nhiều
trị của lồi chó. Chẳng hạn, trị “nhảy chồm chồm trong giờ ăn”: Bởi vì Lai ca cho
rằng, bất cứ con cún đần độn nào cũng có thể ăn đàng hồng trong bát ăn của mình,
nên nếu như khơng muốn là một chú cún đần độn thì nhất thiết phải nhảy trong bữa
ăn để kiếm được miếng gì đó. Tuy nhiên, những trị nghịch ngợm mà Lai ca dạy cho
Bê tơ đã không đem lại kết quả tốt đẹp ngay từ lần thực hành đầu tiên trong bữa ăn
gia đình, khiến nó nhận ra “những con cún nhảy chồm chồm trong bữa ăn mới là
những con cún đần độn”. Nhưng dù vậy thì “Laica dĩ nhiên là một đứa bạn hấp
dẫn, cho dù vì hắn mà tơi thường xun bị mắng” [2;27].
27
Nhân vật chú heo Lọ Nồi trong “Chúc một ngày tốt lành” cũng tiêu biểu cho
kiểu con vật nghịch ngợm trong truyện về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh. Kiểu con
vật này là nguyên nhân xoay chuyển cốt truyện theo những rắc rối mà chúng gây ra,
vì vậy, chúng thường đóng vai trị làm nhân vật trung tâm, hoặc nhân vật chính của
câu chuyện. Chẳng hạn, mọi chuyện trong “Chúc một ngày tốt lành” bắt đầu từ cơn
buồn chán bất chợt của Lọ Nồi, nên chú bày trò giả tiếng gà, tiếng chó sau đó lại
dạy cho lũ gà, chó học tiếng heo. Trị chơi này thu hút báo chí, rồi kéo theo khách
tham quan. Nhưng chỉ ít lâu sau, chú heo Lọ Nồi lại buồn chán. Kết quả là tiếng của
các lồi heo, chó, gà được trộn lại thành một thứ ngơn ngữ tổng hợp. Ngơn ngữ đó
được thằng Cu, con bà Đỏ phiên dịch thành tiếng người. Ví dụ như: “un un gô - gô
un un” là “chào buổi sáng”, “chiếp un un” là “anh khỏe không”, “un un” là “khỏe
ạ”, “ăng gô gô” là “chúc một ngày tốt lành”, “un gô gô” là “chúc ngủ ngon”... Dân
làng học thuộc ngơn ngữ mới này để nói chuyện với các con vật. Một lần nữa, khu
vườn nhà bà Đỏ khiến báo chí, dư luận xơn xao, các nhà nghiên cứu vào cuộc...
Có thể thấy, những trị chơi của con vật nghịch ngợm khơng hồn tồn gây
phiền phức, mà đơi khi chúng cịn vơ tình “lập cơng” bởi những trị chơi tưởng như
chỉ để giải trí của mình. Khơng giống như các nhà văn, nhà thơ khác thường coi
việc nghịch ngợm của các con vật là việc xấu và dẫn đến những hậu quả khó lường
và ln miêu tả nó như một thói cần phải tránh xa ngay từ đầu, Nguyễn Nhật Ánh
coi việc nghịch ngợm của loài vật như lẽ tất yếu của bản tính trẻ thơ và chỉ cần
trong phạm vi giới hạn thì sẽ khơng sao cả. Ơng khơng sợ trị phá phách của Bê tơ
mà ngược lại, cịn lên tiếng bênh vực “Một chú cún khơng nghịch ngợm là một chú
cún bỏ đi” [2;7], nhưng cũng nói thêm “một con cún nghịch ngợm quá có khi cịn bỏ
đi sớm hơn” [2;7]. Có lẽ đây là điểm mới ở Nguyễn Nhật Ánh mà chúng ta ít tìm
thấy ở các nhà văn khác. Đến với “Dế mèn phiêu lưu ký” của Tơ Hồi, chúng ta
nhận thấy, chỉ vì nghịch ngợm, trêu ghẹo chị Cốc mà Dế Mèn đã phải trả cái giá rất
đắt (gây ra cái chết cho nhân vật khác) hay trong “Mèo con đi học” của Trần Đăng
Khoa, chú mèo lười biếng đi học đã suýt bị cắt đuôi. Cùng chọn những “tật xấu”
của trẻ thơ và giáo dục các em bằng tấm lòng nhân ái, nhưng Nguyễn Nhật Ánh có
cách xử lý khác. Ơng thơng cảm với trẻ thơ, đứng về phía chúng. Qua đó, chúng ta
30
quan tồn phán xét mọi phát ngơn và hành vi trong cộng đồng chuột nhắt. Dù bất
mãn, nhưng cộng đồng chuột khơng một ai dám chống đối lại lão, ngồi trừ chú
chuột Tí Hon dũng cảm.
Nhân vật Chuột Cống là đại diện tiêu biểu cho bản tính tham lam, ích kỉ của
con người. Để thỏa mãn bản tính tham lam của mình, lão thường sai phái bọn chuột
nhắt ra phố lùng sục thức ăn mang về, bất chấp nhiều con chuột rơi vào miệng mèo
hoang khi thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm này. Chuột Cống ln cho mình là đúng
và không chấp nhận bất cứ kẻ nào chống lại lão. Lão sai chuột Tí Hon vẽ một bức
tranh con mèo “nằm ngửa, chống cẳng lên trời, rúm ró, tội nghiệp, và đang bị hai
con chuột cầm đuôi lôi đi xềnh xệch như lôi một miếng giẻ ướt” [3,31]và mang bức
tranh láu cá ấy chạy ngang qua chỗ mèo Gấu nằm phơi nắng, khiêu khích nó những
ba lần. Cộng đồng chuột đều lo sợ Tí Hon sẽ khơng thể thốt khỏi móng vuốt của
mèo Gấu, nhất là khi chú lại là một con chuột q, khó lịng chạy thốt thân. May
thay, mèo Gấu lại là một con mèo: “sinh ra là mèo nhưng khơng có chút khối cảm
gì với chuyện bắt chuột” [3;11]. Vì vậy, mèo Gấu bắt Tí Hon cũng bởi tị mị, hơn là
vì bản năng bắt chuột. Khi mèo Gấu trở thành bạn thân của Tí Hon, Chuột Cống lại
càng tức tối, tìm đủ mọi cách hãm hại Tí Hon….
Nhìn lại con vật địch thủ trong cái nhìn đối sánh với nhân vật địch thủ của
các nhà văn khác viết cho thiếu nhi, chúng tôi nhận thấy loại nhân vật này trong
truyện về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh không nhiều. (Lão Chuột Cống là con vật
độc ác duy nhất trong hệ thống truyện về loài vật). Thường thì để xây dựng một câu
chuyện, nhà văn có thể xây dựng hệ thống nhân vật phong phú và có nhiều con vật
địch thủ. Trong cùng một câu chuyện, hoàn tồn có thể có nhiều con vật địch thủ
đặt ra thử thách khiến cho nhân vật chính phải vượt qua nhiều lần để đi tới cái kết
tốt đẹp. Nhân vật Dế Mèn trong “Dế mèn phiêu lưu ký” của Tô Hoài đã phải vượt
qua rất nhiều thử thách của con vật địch thủ. Trong hành trình ấy, chú gặp phải
mn vàn khó khăn, có lúc tưởng như khơng thể vượt qua cùng với người bạn đồng
hành Dế Choắt. Trong hành trình vươn tới một cái kết tốt đẹp, các nhà văn thường
miêu tả một hành trình dài của con vật chính trong truyện, và gặp phải rất nhiều rào
cản của các con vật địch thủ: Chẳng hạn như chú ong Buzz với hành trình đi tìm ý
32
lão Chuột Cống một cách ngây thơ: Trong lâu đài chỉ có một con mèo, Chuột Cống
lại hơ khấu hiệu “Chết quách chúng nó đi” [4;37]; Chuột Cống nói “Mèo là cái gai
trong tim chúng ta” [4;37], nhưng mà theo Tí Hon thì, nếu có một cái gai trong tim
thật thì lũ chuột sẽ chết mất… .
Tí Hon khơng những là một con chuột dũng cảm mà còn là con chuột có tình
cảm. Tình u của Tí Hon và chuột Út Hoa đã đâm chồi từ lúc nào không rõ. Chỉ
biết khi ở bên cạnh Út Hoa, Tí Hon cảm thấy êm đềm, cảm thấy “hạnh phúc đến tức
thở” [4;135] khi Út Hoa bẽn lẽn tặng cho nó một hạt ngô, và vô cùng hành diện khi
thủ thỉ bên tai nàng những câu thơ tình tứ “chơm” được của mèo Gấu “Mùa đơng về
tới cửa rào/ Nhớ tìm áo ấm mặc vào, Út Hoa”[4;135]. .Về sau, tình yêu với Út Hoa
đã trở thành chất xúc tác giúp Tí Hon đủ dũng cảm chống lại Chuột Cống. Dù sự
chống đối ấy cịn có phần rụt rè, nhưng sự dũng cảm của Tí Hon trong cộng đồng
chuột nhắt là khơng thể phủ nhận. Có những lúc, Tí hon tưởng như nó sắp bị đầu
hàng số phận khi bị giáo sư Chuột Cống đuổi theo sau mỗi lúc một gần. Tí Hon hết
quẹo trái đến quẹo phải, chân cẳng cuống cuồng, tim thắt lại khi nghe tiếng thở phì
phị của giáo sư đằng sau. Khoảng cách giữa nó và giáo sư chuột, hay nói cách khác
là khoảng cách giữa sự sống và cái chết dần bị thu hẹp và Tí Hon hồn tồn có thể
đo được điều đó qua riếng rít của giáo sư Chuột Cống đang ở rất gần nó. Nếu như
nơi cư ngụ của cộng đồng chuột nhắt khơng có vơ số những đường ngang ngõ tắt,
có lẽ Tí Hon đã rơi vào tay Chuột Cống từ lâu. Cứ vào lúc con chuột nhắt cảm thấy
chiếc vuốt của Chuột Cống sắp ghim xuống đầu mình, thì nó lại gặp một lối rẽ ngay
trước mặt. Đó là cuộc rượt đuổi khơng cân sức vì Tí Hon là con chuột q, theo như
nhà văn nói thì nó là cuộc rượt đuổi giữa một chiếc máy bay và một chiếc ô tô xẹp
một bánh. May thay, lỗ hổng ánh sáng đã cứu vớt Tí Hon, cịn lão Chuột Cống vì
q béo mập đã bị mắc kẹt. Cái kết của truyện: lão Chuột Cống chết, cộng đồng
chuột được giải thốt, Tí Hon trở thành “người hùng”… là kiểu kết quen thuộc
trong văn học thiếu nhi mà chúng ta đã bắt gặp nhiều trong những truyện về lồi vật
khác, như “Trí khơn của ta đây”, “Nước mắt cá sấu”, “Trí thơng minh của thỏ”...
Nhân vật dũng cảm được đền đáp xứng đáng, đồng thời khẳng định chân lí “Cái
thiện ln chiến thắng cái ác”.
35
là người u lí tưởng. Nhìn chung, các con vật này đều mang đặc điểm đáng yêu, dễ
thương.
Nói về ngoại hình, đây là những con vật mang dáng vẻ xinh đẹp “nữ tính”:
Áo Hoa là nàng mèo tam thể có “chiếc áo nhiều màu” duyên dáng; Út Hoa là chú
chuột “mặc áo hoa giữa một đàn chuột mặc áo xám” [3;37] mà Tí Hon thấy rằng
chú “chưa từng thấy một con chuột nào đẹp như vậy” [3;37]; còn Đeo Nơ là chú
heo có chiếc nơ đỏ trên cổ, dưới con mắt của Lọ Nồi thì Đeo Nơ có một rèm mi dài
và trắng như tơ, mắt nàng trịn như có vẻ ngạc nhiên, rèm mi lúc nào cũng óng ánh
như có nắng chiếu qua. Mỗi khi nàng thong thả cất bước bên kia hàng rào, trông
Đeo Nơ mới uyển chuyển làm sao. Điều đó làm cho Lọ Nồi “ngẩn ngơ” và “nó có
cảm giác mỗi bước đi của nàng làm nở một bông hoa” [2;86].
Không chỉ miêu tả đúng những đặc điểm bề ngồi “nữ tính” của các con vật
này, Nguyễn Nhật Ánh cịn miêu tả đặc điểm tính cách thường là vơ tâm của chúng.
Vì vậy, Áo Hoa qn mất mèo Gấu, sánh vai bên một chàng mèo khác; Đeo Nơ vơ
tư chê bai vết đen xấu xí trên mặt Lọ Nồi “Mặt anh giống như trang giấy bị vấy
mực, trông bẩn bẩn thế nào” [4;198]. May thay, chỉ cịn lại Út Hoa là quan tâm tới
chuột Tí Hon.
Các con vật như Áo Hoa, Đeo Nơ, Út Hoa là con vật có vai trị chi phối và
ảnh hưởng tới tâm lí của nhân vật chính. Nếu thiếu những nhân vật này, tác phẩm sẽ
trở nên khô khan và mất đi tính thú vị. Đặc biệt, những nhân vật này cũng mang
chất thơ lãng mạn, nửa người lớn, nửa trẻ con trong các sáng tác Nguyễn Nhật Ánh.
Đó là một chất thơ mang đậm phong cách của ơng.
Ngồi những nhân vật trung tâm, nhân vật chính thì những nhân vật phụ
khác cũng góp phần vào sự sinh động trong thế giới động vật của truyện Nguyễn
Nhật Ánh. Đó là những nhân vật như: ả mèo Phi Hùng (Tôi là Bê tơ), chị Vện, chị
Nái Xề, gà Cánh cụt, lũ chíp hơi (Chúc một ngày tốt lành), cộng đồng chuột nhắt
(Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ).
Vài chiếc lá không tạo nên một rừng cây, một vài người không thể tạo thành
xã hội, một vài con vật không thể gọi là “thế giới”. Vì vậy, viết về lồi vật, Nguyễn
37
Nguyễn Nhật Ánh cũng nhìn từng con vật dưới góc độ của tình cảm thẩm mỹ, của
cảm xúc thẩm mỹ trong mối quan hệ nhiều mặt với đời sống tinh thần con người.
Trong truyện “Tôi là Bê tô”, thông qua những tâm sự đời thường của một
chú chó, Nguyễn Nhật Ánh đã nói lên tình cảm xúc động giữa lồi chó và con người
mà cụ thể hơn là tình cảm của chú chó Lai ca với bà cố, của Bê tơ, Bi nơ và những
người chủ của mình: “Lồi người yêu thương chúng tôi và chúng tôi đáp lại bằng
một tình cảm cịn sâu sắc hơn. Tình cảm đó khơng cần phải học. Nó như một thứ
bản năng có sẵn trong máu” [2;65]. Nếu như Bê tơ vẫn cịn là một chú chó ngây
thơ, vơ tư thì bạn của chú - Lai ca đã phải chịu nỗi đau khi người chủ của chú bị hen
suyễn và qua đời. Tạo ra hoàn cảnh đặc biệt ấy và đẩy nhân vật vào, Nguyễn Nhật
Ánh đã tạo điều kiện cho Lai ca thể hiện tình u thương vơ bờ bến của mình dành
cho bà chủ.
Lai ca khơng chịu ăn uống gì kể từ khi chủ nó mất. Nó gầy xọp đi, mặt mày
lơ láo đến nỗi khơng nhờ chiếc mũi thì khơng thể nhận ra chú chó Lai ca ngày nào.
Chúng tơi đồng ý với quan điểm của Georger Graham Vest - một luật sư nổi tiếng
người Mĩ từng phát biểu xúc động về lồi chó “Và một khi trị đời hạ màn, thần chết
đến rước linh hồn ta đi,… thì khi ấy vẫn cịn bên nấm mồ con chó cao thượng của ta
nằm gục mõm giữa hai chân trước, đối mắt ướt buồn vẫn mở to cảnh giác, trung
thành và trung thực ngay cả khi ta đã chết rồi”[37]. Sở dĩ đề cập đến ý kiến trên
của Georger Graham Vest bởi vì chúng tôi nhận ra sự tương đồng trong cách miêu
tả về lồi chó của G.Vest và cách miêu tả về hình ảnh chú chó Lai ca của Nguyễn
Nhật Ánh. Khi bà cố mất, Lai ca không chịu ăn uống, nô đùa nữa. Nó chui vào một
xó, “mõm gục giữa hai chân trước như thể cái đầu quá nặng”, “nằm bất động,
khơng buồn chớp mắt” [4;105].
Tình u thương đã chi phối những suy nghĩ hành động của loài vật, của
những chú chó như Bê tơ, Lai ca, Bi nơ. Vì tình yêu thương, chúng như trở thành
những đứa trẻ thơ ưa nũng nịu, chờ đợi những cái vuốt ve yêu thương của chủ nhân.
Vì tình yêu thương, chúng trở nên hi sinh và đầy tin tưởng vào con người. Vì tình
yêu thương bà chủ khi bà qua đời khiến cho Lai ca hồn tồn kiệt sức khơng ăn
uống, khơng thiết sống để rồi cũng tình u thương ấy lại dìu nó dậy mạnh mẽ hơn
38
bất cứ liều thuốc nào. Cũng vì tình yêu thương, loài vật đã đi vào trang văn, trở
thành thực thể sống động, có chiều sâu, tâm hồn và tính cách. Điều đó đã giúp Bê tơ
hiểu ra “Nhưng tơi biết Lai ca khơng lựa chọn hành vi của mình. Đó là một phản
ứng tự nhiên xuất phát từ lòng yêu thương”[4,54]. Tình cảm của Lai ca dành cho
chủ của mình làm chúng tơi liên tưởng đến hình ảnh của chú chó Buck và hành
trình kéo tuyết nơi xứ lạnh trong truyện “Tiếng gọi nơi hoang dã” của nhà văn Mỹ
Jack London. Buck là một chú chó có xúc cảm và biết yêu thương. Sức mạnh yêu
thương là sức mạnh hùng tráng nhất, cũng là bi kịch nhất trong cuộc đời Buck.
Buck và Laica đều chịu nỗi đau mất chủ nhưng nếu như ở Lai ca, qua sự việc nó hồi
sinh sau cuộc điện thoại, thì rõ ràng những điều mà nhà văn thể hiện là một sự lạc
quan. Tiếc là ở Buck, J. London đã để cho nhân vật của mình lên tới đỉnh cao bi
kịch, hồn tồn tuyệt vọng. Buck ngồi nỗi đau khủng khiếp mà nó phải chịu đựng
với cái chết của chủ và hàng loạt những xác người và vật nằm la liệt, cịn là nỗi cơ
đơn bất tận trong khu rừng hoang vắng, sự tận cùng của đau đớn đã kiến Buck bất
lên tiếng tru bản năng. Trong khoảnh khắc, Buck hóa Sói, và bi kịch của nó là bi
kịch khơng thể cứu vãn.
Tương tự như “Tôi là Bê tô”, đọc “Chúc một ngày tốt lành”, chúng ta sẽ
nhận ra tình cảm của những con vật dành cho chủ của mình. Khơng phải u
thương, tơn thờ kiểu Lai ca, bởi vì dẫu sao hồn cảnh cũng chưa đưa Lọ Nồi, Đuôi
Xoăn, Mõm Ngắn… đến sự đau khổ hay mất mát, nhưng trên hết tình cảm của loài
vật dành cho con người vẫn là sự quý mến, biết ơn. Đặc biệt, các loài vật trong
truyện “Chúc một ngày tốt lành” nhìn ra những điểm đồng dạng giữa bản thân và
chủ của nó - thằng Cu. Vì vậy, độc giả có cảm nhận dường như mối quan hệ giữa
những con vật trong truyện và chủ của chúng là những người bạn, thể hiện qua cách
xưng hô: mày - tao (thằng Cu và Lọ Nồi) hoặc cũng có thể là chị - em (nhỏ Hà và
Đeo Nơ). Có thể thấy, với “Chúc một ngày tốt lành”, vị trí của các con vật đã được
nhà văn kéo lại gần hơn so với trước đó: từ chủ- tớ, đã thay đổi thành chị-em và
mày - tao theo kiểu bạn bè. Nói như vậy để thấy rằng, Nguyễn Nhật Ánh không chỉ
yêu thương trẻ em mà còn yêu thương, mà còn dành cả sự bao dung của mình cho
những lồi vật. Nguyễn Nhật Ánh đã thay đổi quan niệm trên - dưới giữa vật và