Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.87 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 6 KĨ NĂNG HỌC TẬP MÔN ĐỊA LÝ BẰNG SƠ ĐỒ TƯ DUY Ở TRƯỜNG THCS TRẦN ĐẠI NGHĨA I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tại nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của ban chấp hành Trung ương khóa VIII về những giải pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiến tiến và phương tiện hiện đại vào dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh”. Việc đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các bộ môn nói chung, phương pháp dạy học nói riêng được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết trong xu thế hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay, giáo dục nước nhà đang từng ngày đổi mới, nhằm đào tạo những con người vừa có thể thích ứng với hoàn cảnh, vừa có khả năng tác động để có thể thay đổi hoàn cảnh theo quy luật phát triển của lịch sử. Nhưng sự thay đổi này, cuối cùng phải thể hiện được trong bài giảng của từng giáo viên (GV) bộ môn; không được như vậy, những tư tưởng, quan niệm về giáo dục, dù tiến bộ đến đâu nữa cũng mãi mãi dừng lại ở dạng thuần túy lý thuyết. Môn Địa Lý có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo con người ở trường trung học nói chung và bậc học trung học cơ sở nói riêng. Để giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất các kiến thức chúng ta, những nhà sư phạm nhất thiết phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy học, luôn tạo cái mới trong mỗi tiết học, có như vậy các em mới yêu thích môn học, sẽ nhớ lâu thông qua các hình ảnh trực quan sinh động có như vậy chất lượng giáo dục và đào tạo mới được nâng lên. Hiện nay Sơ đồ tư duy (SĐTD) đang được sử dụng rộng rãi trong dạy học ở trường phổ thông, SĐTD là một phương tiện rèn luyện cho HS phương pháp tư duy tích cực, giúp học sinh (HS) hoàn thiện phương pháp tư học nhằm biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo và học tập suốt đời. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Lịch sử vấn đề Con người đã sử dụng SĐTD hàng thế kỷ, nhằm hổ trợ cho việc học tập, tư duy, ghi nhớ, thảo luận, giải quyết vấn đề, báo cáo,…nhưng Tony Buzan được coi là cha đẻ của SĐTD hiện đại từ năm 1960. Ông hiện là tác giả của hơn 50 đầu sách, được dịch ra trên 50 thứ tiếng và xuất bản trên 125 quốc gia. Phương pháp tư duy của ông được dạy và sử dụng ở khoảng 500 tập đoàn, công ty hàng đầu thế giới; hơn 250 triệu người sử dụng phương pháp Mind Map của Tony Buzan; khoảng hơn 3 tỷ người đã.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> từng xem và nghe chương trình của ông (ông đã từng sang Việt Nam năm 2007 để nói chuyện về lĩnh vực nghiên cứu của mình).. Tony Buzan sinh năm 1942, chuyên gia hàng đầu thế giới về nghiên cứu hoạt động của bộ não và là cha đẻ của Mind Map. Theo triết lý của Tony Buzan, SĐTD được hiểu là cách mở ra sức mạnh tư duy, và tạo ra những đột phá trong suy nghĩ của mỗi người. Ông đã nghiên cứu chuyên sâu về bộ não, trí nhớ và tìm ra quy luật khi xây dựng sơ đồ thành nhiều nhánh, giúp bộ não ghi chép vắn tắt các sự kiện một cách hệ thống. Theo Tony Buzan, những cách ghi chép cũ bắt buộc người ta đọc từ trái sang phải, từ trên xuống dưới trong khi người đọc thường đọc cả trang không theo một trật tự tuyến tính nào cả, ví thế ông cải tiến nó. Với phương pháp cải tiến của Tony Buzan SĐTD sẽ có cấu tạo như một “cái cây” ở giữa sơ đồ là một ý tưởng chính (từ khóa hay hình ảnh trung tâm), nối với nó là các nhánh lớn (nhánh cấp 1) thể hiện những vấn đề liên quan với từ khóa. Các nhánh cấp 1 được tiếp tục vẽ ra thành nhiều nhánh nhỏ (nhánh cấp 2), rồi nhánh nhỏ hơn (nhánh cấp 3), cũng có thể là nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện dàn ý của chủ đề kiến thức ở mức độ sâu hơn, nhưng cũng phải có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm của người dạy (hay người học) một cách đầy đủ và rõ ràng nhất. Trên thế giới việc sử dụng SĐTD đã được nghiên cứu, hệ thống hóa và áp dụng phổ biến. Ở Việt Nam , phương pháp này mới được áp dụng từ.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> năm 2006, nhưng chưa được nghiên cứu đầy đủ và ứng dụng đại trà trong dạy – học. 2. Khái niệm về sơ đồ tư duy Chúng ta thường ghi chép thông tin bằng các kí tự, đường thẳng, con số. Với cách ghi chép này, chúng ta chỉ sử dụng một nửa bộ não – não trái, mà chưa hề sử dụng kĩ năng nào bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mộng. Nói cách khác, chúng ta vẫn thường đang sử dụng chỉ 50% khả năng bộ não của chúng ta khi ghi nhận thông tin. SĐTD giúp chúng ta sử dụng tối đa khả năng của bộ não..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> Sơ đồ tư duy (Bản đồ tư duy, hay lược đồ tư duy,…) là một hình thức ghi chép bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời những từ khóa hình ảnh, đường nét, màu sắc với sự tư duy tích cực, nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa kiến thức của một chủ đề, cách giải một dạng bài tập,…Có nhiều cách lập SĐTD như dùng bút chì, giấy bìa, phấn màu, bảng đen, hoặc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) để thiết kế (Mind Manager, M. Powerpoint…) SĐTD là một sơ đồ mở, không yêu cầu khắt khe như bản đồ địa lý hay bản đồ lịch sử. Người sử dụng có thể vẽ thêm hoặc lượt bớt đi các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau thể hiện qua màu sắc, hình ảnh, từ khóa. Cùng một chủ đề có thể thể hiện ý tưởng và tư duy của người dạy và người học. Cơ chế hoạt động của SĐTD luôn chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh cấp 1, cấp 2…). Đóng vai trò là công cụ trực quan nối các từ khóa và hình ảnh liên quan với nhau, SĐTD sẽ hổ trợ tích cực GV và HS khi dạy – học các bài nghiên cứu kiến thức mới, bài ôn tập, sơ kết, tổng kết, hoặc củng cố, hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài, chương, phần… 3. Các bước tạo lập sơ đồ tư duy Để tạo sơ đồ tư duy, chúng ta có thể sử dụng nhiều chương trình, phần mềm khác nhau, nhưng đơn giản và hiệu quả là Mind Manager. Phần mềm này đã được nhiều GV sử dụng. Khi xây dựng và sử dụng SĐTD, cần thực hiện các bước sau: Bước 1: Vẽ phác họa SĐTD trên giấy: Sử dụng giấy bìa, giấy A4, bút, viết, bảng…để phác thảo sơ đồ bằng chủ đề trung tâm, các nhánh cấp 1,.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> cấp 2, cấp 3…có liên quan, liên tưởng sơ đồ bằng các hình ảnh, sử dụng từ khóa, kí hiệu, những gợi ý ấn tượng… Bước 2: Tạo lập SĐTD trên máy tính dựa theo các ý tưởng đã phác họa, bắt đầu bằng từ khóa và các nhánh cấp 1. Cụ thể hóa bước này, trước tiên chọn cụm từ trung tâm là tên bài dạy, một mục kiến thức hay một nội dung báo cáo… với kích cỡ chữ to và đậm, đặt cơ sở cho việc vã các nhánh kiến thức có quan hệ với nhau.. Tiếp đó vẽ các nhánh cấp 1 là nội dung chính (ý chính) của chủ đề trung tâm. Ở đây, tùy theo số lượng nhánh cấp 1, chúng ta cần bố trí sao cho cân đối chung quanh hình ảnh (từ khóa) trung tâm.. Ví dụ, khi hướng dẫn HS tổng kết bài 1: Vị trí, hình dạng và kích thước của Trái Đất, chúng ta chọn từ khóa TRÁI ĐẤT xung quanh từ khóa là 4 nhánh cấp 1, gồm : Vị trí Trái Đất; Hình dạng; Kích thước; Hệ thống kinh tuyến, vĩ tuyến. Bước 3: Vẽ bổ sung các nhánh cấp 2, cấp 3, cấp 4,…và những chi tiết hổ trợ. Đây là sự lặp lại của bước 2, các cụm từ ở nhánh cấp 1 bây giờ đóng vai trò là từ khóa (trung tâm) của nhánh đó. Các nhánh cấp 2, 3, … được vẽ từ nhánh cấp 1 chính là nhánh con của nhánh con trước đó. Ở.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> ví dụ trên, sau khi thực hiện bước 2 (từ khóa là TRÁI ĐẤT và các nhánh cấp 1 (4 nhánh), ta vẽ bổ sung 1 nhánh cấp 2 nằm trong Vị trí Trái Đất (nhánh cấp 1); 2 nhánh cấp 2 nằm trong Hình dạng (nhánh cấp 1)… Bước 4: Chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện SĐTD. Ở bước này, tùy theo ý tưởng. Ta vẽ trang trí màu sắc, font chữ, tích hợp thêm hình ảnh,tạo ghi chú hoặc liên kết File đính kèm (kênh chữ, kênh hình,…). Cần lưu ý, SĐTD là một sơ đồ mở, nên mỗi người có thể vẽ, chỉnh sửa theo cách riêng của mình sao cho vừa truyền tải được nội dung kiến thức, vừa giúp người học ghi chép ý chính, hình dung rõ vấn đề trình bày. 4. Một số biện pháp rèn luyện cho học sinh kỹ năng học tập môn Địa lý bằng sơ đồ tư duy a. Sử dụng SĐTD hướng dẫn học sinh lập đề cương Giáo viên áp dụng biện pháp này khi hướng dẫn học sinh tự học ở nhà, chuẩn bị bài mới nhằm rèn luyện tính tự giác, chuyên cần, chủ động của học sinh trong học tập. Để tăng tính hiệu quả, sau khi kết thúc một bài dạy trên lớp, giáo viên chiếu lên màn hình bài tập về nhà, định hướng cho HS phác thảo đề cương của bài sắp học bằng SĐTD về những nội dung liên quan như: biểu tượng, khái niệm, thuật ngữ, các sự vật, hiện tượng Địa lý…Làm theo giáo viên, chắc chắn học sinh sẽ từng bước làm quen và dần lập được kế hoạch học tập và đề cương bài học trên giấy bằng SĐTD, giúp việc chuẩn bị bài và hệ thống hóa kiến thức tốt hơn. b. Sử dụng SĐTD định hướng cho học sinh tập trung vào những nội dung cơ bản trong bài học Chúng ta áp dụng biện pháp này khi chuẩn bị bài mới, kết hợp với nguyên tắc nêu vấn đề, nhằm tạo “động cơ học tập”, tập trung sự chú ý của học sinh vào chủ đề sẽ học. c. Sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học kiến thức mới nhằm rèn luyện học sinh các kỹ năng học tập, ghi chép và tóm tắt bài học hiệu quả Kiến thức môn Địa lý ở trường phổ thông là sự tổng hợp của nhiều yếu tố tự nhiên. Đòi hỏi mỗi giờ học giáo viên phải lựa chọn các phương pháp, biện pháp dạy học có hiệu quả, SĐTD chính là một biện pháp tối ưu hỗ trợ GV trong quá trình dạy học, nó giúp học sinh hiểu và ghi nhớ kiến thức vững chắc hơn. Căn cứ vào đặt trưng của từng nội dung, cũng như mỗi hoạt động dạy học, chúng ta có thể sử dụng SĐTD để cung cấp kiến thức mới (…), hoặc hướng dẫn HS khai thác kênh hình địa lý (…), hay tổ chức hoạt động nhóm, phát hiện và giải quyết vấn đề…Một ưu điểm nổi bật của SĐTD là cho phép người sử dụng đính kèm nhiều dạng file khác nhau như Word, powerpoint, phim tư liệu, flash,…Do đó, học sinh không chỉ có cái nhìn tổng quan về từng mục, từng ý cơ bản, được trực quan sinh động “cái cây”, nội dung kiến thức và “từ khóa” có các “nhánh cây” đi.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> kèm, mà còn tham gia tích cực vào quá trình tìm hiểu, trao đổi, thảo luận và giải quyết vấn đề. Sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học trên lớp còn rèn luyện học sinh các kỹ năng đọc hiểu tài liệu, thu thập, phân tích, tổng hợp, xử lý thông tin, những kỹ năng nghe giảng, trình bày, theo dõi và ghi chép dàn ý bài giảng đầy đủ, logic. Học tập Địa lý bằng SĐTD sẽ giúp sẽ giúp các em ghi nhớ bài học bền vững hơn, vì theo các chuyên gia giáo dục nếu áp dụng phương pháp dạy học truyền thống (đọc – chép) thì 90% tri thức của học sinh được tiếp nhận qua tai, 10% qua mắt sau một thời gian ngắn sẽ rơi vào tình trạng mệt mỏi, giảm sự chú ý, nhưng nếu các em vừa được nghe, vừa được nhìn thông qua hình ảnh, kết hợp với các hoạt động thì kết quả ghi nhớ kiến thức đạt hơn 90%. Quan sát cái “cây” kiến thức của giáo viên trên màn hình, người học sẽ nhanh chóng ghi được các ý tưởng, dễ dàng xắp xếp lại thông tin, đồng thời có thể bổ sung những suy nghĩ, quan điểm đánh giá của cá nhân, tăng khả năng hiểu bài và ghi nhớ ngay tại lớp. d. Sử dụng SĐTD hỗ trợ cho việc củng cố kiến thức, hoặc dạy các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết Thông thường, kết thúc mỗi bài học, giáo viên ướng dẫn học sinh củng cố kiến thức bằng một vài câu hỏi. Biện pháp này dễ gây nhàm chán và kém hiệu quả, vì học sinh khó hệ thống hóa kiến thức. Nhưng nếu GV sử dụng SĐTD để hướng dẫn học sinh củng cố, chắc chắn các em sẽ ghi nhớ ngay tại lớp, bởi vì: Về kiến thức, học sinh sẽ ghi nhớ các thuật ngữ, biểu tượng, khái niệm, các sự vật và hiện tượng Địa lý…Việc ôn tập trên SĐTD giúp cho HS có một bức tranh toàn diện về những nội dung đã học và hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức đã tiếp thu. Về kỹ năng, việc ôn tập, sơ kết kiến thức góp phần phát triển tư duy, rèn luyện kỹ năng thực hành bộ môn và cách giải quyết vấn đề của học sinh. Trong giờ ôn tập, học sinh phải tái hiện kiến thức, so sánh, khái quát hóa một hệ thống kiến thức, kỹ năng đã học và vận dụng vào giải quyết các vấn đề học tập cụ thể mang tính khái quát. Về tư tưởng, thái độ, trên cơ sở được ôn tập, củng cố kiến thức hình thành cho HS có niềm tin vào khoa học, có ý thức tìm hiểu cách giải thích khoa học về các hiện tượng sự vật địa lý. Có tình cảm yêu thiên nhiên, con người lao động, tình cảm đó được thể hiện qua sự tôn trọng tự nhiên và các thành quả kinh tế… Tùy vào đối tượng học sinh mà GV lựa chọn biện pháp sử dụng SĐTD hướng dẫn học sinh ôn tập, sơ kết, tống kết, sao cho có hiệu quả như: chiếu SĐTD chỉ có từ khóa lên màn hình sau đó hướng dẫn học sinh dùng phương pháp tái hiện thông tin để hoàn thành các nhánh của sơ đồ.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> đó, hoặc yêu cầu học sinh vẽ trên bảng đen SĐTD của bài vừa học, rồi cho cả lớp nhận xét, bổ sung. Ví dụ, khi sơ kết bài 13: Địa hình bề mặt Trái Đất ta sử dụng SĐTD sau:.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Khi dạy các dạng bài ôn tập, sơ kết, tống kết, GV có thể sử dụng SĐTD theo ba cách: Cách thứ nhất, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà tự lập SĐTD ôn tập trên giấy A3, sau đó khi dạy trên lớp thì thu lại, rồi phân loại, nhận xét, đánh giá, và giới thiệu một số SĐTD được học sinh chuẩn bị tốt để cả lớp tham khảo. Cách thứ hai, GV lập SĐTD mở. Trong giờ sơ kết, ôn tập, GV chỉ vẽ từ khóa và một số nhánh chính, rồi yêu cầu HS tự vẽ các nhánh để bổ sung thông tin. Cuối cùng, cả lớp sẽ có một SĐTD ôn tập tương đối hoàn chính và hợp lý, bao quát. Cách này lôi cuốn sự tham gia của nhiều HS, do các em được tư duy, trao đổi, tranh luận nhiều hơn và giờ ôn tập trở nên sinh động, không tẻ nhạt. Cách thứ ba, GV chia nhóm HS vẽ SĐTD, sau đó chỉ định cho từng nhóm lên trình bày, các nhóm khác nhận xét về các nội dung như: Nội dung cơ bản, cách trình bày SĐTD hợp lý chưa” Cách bố trí, xắp xếp các nhánh thông tin đúng chưa? Sau cùng, GV tổng kết những nội dung ôn tập trên SĐTD. Như vậy, thế mạnh của SĐTD là kiến thức ôn tập được hệ thống hóa đưới dạng sơ đồ, diễn tả mạch lạc lôgic, các mối quan hệ nhân – quả, hay quan hệ tương đương giúp HS nhìn thấy “bức tranh tổng thể” cả phần kiến thức đã học..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> III. KẾT LUẬN Sử dụng SĐTD là một biện pháp quan trọng để cải tiến và đổi mới phương pháp dạy học Địa lý, rèn luyện và phát triển tư duy HS. Thông qua việc sử dụng SĐTD làm cho mỗi tiết học bình thường, HS được suy nghĩ nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn, trên cơ sở đó các em biết cách học, cách suy nghĩ, biết cách làm. Người thầy đóng vai trò tổ chức, điều khiển các hoạt động học tập tự giác, chủ động và sáng tạo của HS. Tuy nhiên, SĐTD chỉ là một phương tiện dạy – học bên cạnh nhiều phương tiện khác. Chúng ta hãy khai thác nó ở những khả năng mà các công cụ khác thể hiện chưa tốt, hay không thể hiện được, không nên lạm dụng nó. ----------------------------------------------------------------.
<span class='text_page_counter'>(11)</span>