Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tim hieu ve tho tu tuyet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.62 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Khái luận về thơ tứ tuyệt- ĐÀO THÁI SƠN Thơ tứ tuyệt là một thể thơ có từ xa xưa và ngày nay các nhà thơ vẫn tiếp tụng sử dụng nó để sáng tác, ký thác tâm sự của mình. Với sức sống mãnh liệt như thế nhưng cho đến nay tên gọi của nó vẫn chưa được ngã ngũ, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về tên gọi đứa con của nghệ thuật này. Theo Dương Quảng Hàm thì tứ là bốn , tuyệt là đứt “ lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt la ngắt lấy bốn câu trong bài thơ bát cú mà thành”. Theo cách hiểu này còn có cả Trần Trọng Kim và Trần Đình Sử, nhưng Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức còn giải thích thêm “ Tuyệt là cắt , là dứt nhưng là dứt câu, dừng bút để trọn một ý bài thơ, sau khi viết câu thơ thứ bốn. Bởi vì một câu chưa thành thơ, hai câu mới thành một vế đối liên, ít nhất bốn câu mới có vần, khi đó mới thành bài thơ”. Cách hiểu của các vị trên đây về thơ tứ tuyệt coi như là cơ bản được nhiều người chấp nhận nhất. Bên cạnh đó thì một số người lại giải thích bằng một cách hiểu khác. Theo Bùi Kỷ thì “ Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiến thâm, ẩn hiện, chinh kỳ, khởi phục, đủ cả cho nên gọi tuyệt” . Còn Phan Văn Nhiễm thì lại hiểu tuyệt là tuyệt vời “ thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú, tức là bài thơ hay tuyệt vời, vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được đầy đủ ý tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường”. Có thể nói các nhà nghiên cứu ai cũng có lý cho cách phân tích biện giải của mình. Điều đó càng chứng tỏ sự phong phú, phức tạp và rất kỳ diệu của thơ tứ tuyệt. Nếu hiểu theo cách thứ nhất thì ta có một số cách cắt bốn câu của một bài bát cú để thành một bài tứ tuyệt như sau ( theo niêm luật của một bài bát cú) Cắt bốn câu đầu thành bài thơ ba vần và hai câu cuối phải đối nhau : “ Xông pha bốn cõi bể chông gai / Vùng vẫy mười phương bụi cát bay / Phép nước gọi là tơ chỉ buộc / Sức này nào quản búa rìu lay”.Cắt bốn câu giữa thành một bài thơ hai vần và cả bốn câu phải đối nhau : “Lởm chởm vài hàng tỏi / Lơ thơ mấy khóm gừng / Vẻ chi là cảnh mọn / Mà cũng đến tang thương”. Cắt bốn câu dưới thành bài thơ hai vần và hai câu đầu phải đối nhau : “ Vắt vẻo sườn non trạo / Lơ thơ mấy ngọn chùa / Hỏi ai là chủ đó / Có bán tớ xin mua”. Cắt hai câu đầu và hai câu cuối thành bài thơ ba vần và cả bốn câu không phải đối nhau, cách này nhiều người sử dụng nhất : “ Từ thuở thuyền đưa khách thuận dầm / Trông chừng bến cũ biệt mù tăm / Cảm thương chiếc lá bay theo gió / Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm”. Cắt câu 1-2 và câu 5-6 thành bài thơ ba vần và hai câu cuối phải đối nhau : “ Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi / Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi / Tép miệng năm ba con kiến gió / Nghiến răng chuyển động bốn phương trời” Nếu hiểu thơ tứ tuyệt theo cách thứ hai và mở rộng thêm thì một bài thơ không dứt khoát phải làm theo cổ tuyệt hay luật tuyệt mới gọi là tứ tuyệt, mà chỉ cần một bài thơ ngắn có bốn câu làm theo thể thơ gì cũng được, miễn hay là tứ tuyệt. Cách hiểu này không phải không có lý mà còn có sự thông thoáng, mở rộng. Chẳng hạn khi ta đọc một bài lục bát bốn câu của Đồng Đức Bốn “ Chăn trâu cắt cỏ trên đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều/ Mải mê theo một cánh diều / Củ khoai nướng cả buổi chiều thành tro” hoặc một bài khác của Trần Lê Thanh Loan “ Thượng Đế cho em vài sợi nắng / Dệt tơ xuân cho cánh én an bình / Và bất giác én xa miền rung cảm / Đưa em về với cõi Phúc Sinh” thì rõ ràng đây là những thi phẩm rất “ tứ tuyệt” ! Có thể nói rằng một bài thơ hay cần phải súc tích, không cần phải dài dòng kể lể mà phải có sự cân đối, lời ít ý nhiều, với đặc tính này thì thơ tứ tuyệt rất đảm bảo. Thơ càng ngắn thì sức khái quát phải càng cao mới tạo ra được một tiểu vũ trụ của nó. Một bài thơ tứ tuyệt hay phải lựa chọn được những khoảnh khắc dồn nén của đời sống tinh thần, những hiện thực của tâm trạng, những phút thăng hoa của tâm linh…Phải dồn nén biểu cảm để tính khái quát của triết lý đạt tới cao độ. Thơ tứ tuyệt nên gợi không nên tả và điều đó cần được nghe nhìn qua những cánh cửa như : quá khứ – hiện tại, tình – cảnh, sống – chết, thực – mộng, động - tĩnh…và thông qua đó người đọc sẽ cảm nhận được nét bản chất một quy luật hay một chân lý cuộc sống. Cụ thể hơn một bài thơ tứ tuyệt hay cần phải đảm bảo ba vấn đề chính đó là thi đề, thi tứ và thi ý. Thi đề là đề tài của bài thơ. Với thơ tứ tuyệt thì thi đề cần phải trang trọng, vĩnh hằng, con người trong đó thường nhỏ bé, hữu hạn trước cái vũ trụ không cùng. Thi tứ là vấn đề biểu hiện xuyên suốt bài thơ được tạo bởi thứ ngôn ngữ khái niệm, khái quát chấm phá và điều này là vấn đề tất yếu để lượng thông tin nghệ thuật trong từng câu chữ đạt đến sự vi diệu của nó. Tứ thơ tứ tuyệt thường thông qua các phạm trù lấy tối tả sáng, lấy động tả tĩnh, lấy không gian tả thời gian và song đó là nhân vật trữ tình hữu hạn chìm sâu trong vô hạn để từ đó trào dậy giá trị nhân bản của nhân sinh. Thi ý là ý của thơ, đối với tứ tuyệt thường có hai tầng, tầng nổi và tầng chìm được sắp xếp một cách hài hòa theo thứ tự : khai – thừa-chuyển – hợp Nói tóm lại thơ tứ tuyệt không xa lạ với người yêu thơ. Về quan niệm thơ tứ tuyệt là gì còn tùy vào quan điểm phân tích của mỗi người khác nhau, miễn sao hợp lý là được. Làm thơ tứ tuyệt không khó lắm, nhưng để có một bài tứ tuyệt hay là cả một công trình nghệ thuật. Làm thơ đã vậy cảm nhận được nó cũng.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> không phải là chuyện dễ dàng gì. Chính vì vậy mà xưa nay không ít cuộc tranh luận xảy ra về một vấn đề được coi là cũ. Au đó cũng là chuyện ngàn đời của thế giới văn chương. Tiền bất kiến cổ nhân/ Hậu bất kiến lai giả/ Niệm thiên địa chi du du Độc thương nhiên nhi lệ hạ/ Đăng U châu đài ca – Trần Tử Ngang Tạm dịch : trước không thấy người xưa, sau không thấy ai tới, nghĩ về cõi trời đất vô cùng, lòng đau thương nước mắt rơi Nghiệm văn đạo quán 8/11/2010 Đào Thái Sơn Thơ tứ tuyệt trong văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX Công trình nghiên cứu Thơ tứ tuyệt Việt Nam từ thế kỷ X-XIX của TS. Nguyễn Kim Châu (cán bộ giảng dạy môn Ngữ văn, khoa Khoa học xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ) gồm ba chương, đi từ xác định khái niệm và tìm hiểu cơ sở căn rễ văn hóa của quá trình hình thành, phát triển đến khảo sát chuyên sâu cả hai bình diện nội dung và các đặc điểm nghệ thuật. Khác với hướng tìm hiểu tách bạch giữa thơ tứ tuyệt chữ Hán và chữ Nôm, công trình này trước hết lại nhằm tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa các đặc điểm chung của toàn bộ dòng thơ tứ tuyệt từ quan niệm nghệ thuật đến tiến trình phát triển. Với thực tế diện mạo thơ tứ tuyệt mười thế kỷ, tác giả không phân chia theo các giai đoạn văn học sử thông thường mà chủ ý khảo sát theo thế kỷ, theo trình tự phát triển của chính đặc điểm nội tại của dòng thơ tứ tuyệt (thế kỷ X đến XII, thế kỷ XIII đến XIV, thế kỷ XV, thế kỷ XVI đến XIX). Ở hai chặng đường đầu, thơ tứ tuyệt mới chỉ được viết bằng chữ Hán, nội dung chuyển dần từ cảm quan Phật giáo tới chính trị, triết học và đời sống thế tục. Từ thế kỷ XV đến XIX, thơ tứ tuyệt có cả hai bộ phận chữ Hán và chữ Nôm. Phối hợp điểm nhìn lịch đại và đồng đại, tác giả đã chú ý đúng mức đến việc khảo sát, phân tích trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, áp dụng với cả hai bộ phận thơ chữ Hán và Nôm. Khác biệt với thơ tứ tuyệt chữ Hán, bộ phận thơ tứ tuyệt chữ Nôm đã tạo nên bảng màu rực rỡ, mới mẻ cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Thơ Nôm tứ tuyệt của Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… đi sâu diễn tả thế giới cảm xúc trữ tình, bao quát từ thơ xướng họa, đề vịnh đến các chủ đề tình yêu con người, thiên nhiên, cuộc sống và cả tiếng thơ trào phúng, châm biếm, đả kích. Trên phương diện nghệ thuật, việc thống kê và phân tích số liệu, chí ít tác giả đã chỉ ra ba đặc điểm về cú pháp (khả năng kiến tạo các kiến trúc đối xứng bằng phép lặp lại, sự vắng mặt của các yếu tố ngôn ngữ chỉ chủ thể và việc vận dụng hư từ có số lượng áp đảo so với thơ chữ Hán). Bên cạnh đó, tác giả đặc biệt chú ý đến lối thơ thất ngôn xen lục ngôn, tức thể thơ tứ tuyệt bát cú nhưng lại có xen câu thơ sáu chữ. Trên cơ sở phân tích cấu trúc câu thơ tứ tuyệt xen lục ngôn theo nhịp 2/2/2 hoặc 3/3 (thay vì theo nhịp 2/2/3 của thơ Đường truyền thống), vấn đề tỉ lệ thanh bằng/ trắc và hiện tượng câu thơ sáu chữ có thể rơi vào dòng đầu hoặc dòng cuối của bài thơ, tác giả xác định lối thơ này “đã phá vỡ qui tắc hài thanh của thơ Đường luật” và “phá vỡ tiết tấu của bài thơ”… Từ quan sát cụ thể, chi tiết: “Không thể phủ nhận rằng dù tăng cường số âm trắc trong câu 6 đến mức tối đa thì, về tổng thể, số âm bằng trong bài thơ tứ tuyệt thất ngôn xen lục ngôn vẫn chiếm ưu thế. Tuy nhiên, sự xuất hiện với tỷ lệ khá cao các âm tiết trắc đã giúp cho những câu thơ sáu chữ của Nguyễn Trãi có thể vượt thoát khỏi tính đơn điệu trùng lặp, đều đặn của các câu thơ bảy chữ, tạo được sự chú ý nơi người đọc nhờ vào âm điệu có phần vang, mở, sống động trên cái nền “gam thứ” trầm đều của bài thơ Đường luật…” (tr.258), tác giả đi đến hệ luận: “Câu thơ sáu chữ trong thơ Nôm tứ tuyệt của Nguyễn Trãi đã xa rời tính cổ điển, qui phạm của thơ Đường luật để trở thành tiếng nói, cách nói đậm đà truyền thống dân tộc trong thơ ca bác học. Nó đã mang lại sinh khí mới cho bài thơ Đường luật vốn thiên về sự tĩnh tại, trầm lắng, cân bằng… Sự phá vỡ tính cân đối, hài hòa về niêm luật, tiết tấu vốn hết sức chuẩn mực của thơ Đường luật khiến cho câu thơ sáu chữ vấp phải một thử thách quan trọng do đặc trưng thể loại quy định đó là các câu thơ trong bài thơ tứ tuyệt luôn có tính độc lập tương đối về liên kết hình thức trong khi vẫn liên kết chặt chẽ về nội dung. Đối với bài thơ bát cú thất ngôn xen lục ngôn, sự xuất hiện của câu sáu chữ thường sẽ tìm thấy mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc, đối xứng với câu thơ tiếp theo trong cặp đối liên (cặp câu thực và luận). Thực tế cho thấy tỷ lệ sử dụng các câu sáu chữ trong phần thực và luận của bài bát cú rất cao và điều này có nghĩa là các nhà thơ Việt Nam buộc phải chấp nhận phép đối của thơ Đường luật khi sử dụng câu sáu chữ. Vì thế, các cặp câu sáu chữ trong bài bát cú thất ngôn xen lục ngôn vẫn gợi được sự cân đối hài hòa về thanh điệu, tiết tấu và liên kết chặt chẽ với các câu thơ khác trong bài. Trong khi đó, đối với bài thơ tứ tuyệt thất ngôn xen lục ngôn, việc sử dụng phép đối liên không phải là điều bắt buộc. Cho nên, trong khi quan hệ chặt chẽ về ý nghĩa, mỗi câu thơ tứ tuyệt vẫn có tính độc lập tương đối của nó. Điều này càng khiến cho sự xuất hiện của câu sáu chữ thêm đơn lẻ, nó không thể gắn bó chặt chẽ về mặt hình thức với các câu bảy chữ khác trong bài. Có lẽ vì vậy mà sau nhà thơ tiên phong đầy nhiệt tình và dũng cảm Nguyễn Trãi, các nhà thơ thời Hồng Đức ở cuối thế kỷ XV và Nguyễn Bỉnh Khiêm ở.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> thế kỷ XVI đều không sử dụng câu sáu chữ trong bài tứ tuyệt mà chỉ sử dụng trong bài bát cú thất ngôn xen lục ngôn… Dù sinh mệnh nghệ thuật có phần ngắn ngủi nhưng những câu thơ 6 chữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi nói chung và các bài tứ tuyệt thất ngôn xen lục ngôn nói riêng thực sự đã là những hiện tượng nghệ thuật độc đáo và đáng trân trọng” (tr.263-265)… Qua ba chương sách, tác giả đi đến kết luận và nhấn mạnh đặc điểm nội dung và hình thức thể thơ tứ tuyệt như một đặc sản của thơ Việt: “Nhờ việc tận dụng hiệu quả của từ ngữ giản dị nhưng hàm súc, của phép lặp từ, lặp cấu trúc trong đối liên và tiểu đối, của thủ pháp tỉnh lược mạnh các yếu tố chỉ chủ thể, các động từ, hư từ,… câu thơ tứ tuyệt có thể đạt được yêu cầu nén chặt thông tin để mỗi chữ đều có sức nặng, sức ám ảnh, đều thực sự tuyệt vời. Mặt khác, tứ tuyệt rất ngắn, các thông tin dễ lướt qua nhanh chóng trong quá trình tri giác nghệ thuật ở người tiếp nhận. Vì vậy, trong khi sử dụng câu chữ, ngoài việc nén chặt thông tin để đáp ứng nhu cầu “ý tại ngôn ngoại”, tác giả còn cần phải tính đến hiệu quả khắc sâu một số yếu tố ngôn ngữ đóng vai trò trung tâm trong việc kiến tạo tứ thơ hay có khả năng nhấn mạnh âm điệu, cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Với nhu cầu này, phép lặp là một giải pháp tích cực. Tuy nhiên, người xưa lấy cái hơn về ý chứ không lấy cái hơn về lời. Sự giản dị của lời thơ, sự chân thành của tình cảm mới chính là một trong những nguyên nhân quan trọng giúp các bài thơ tứ tuyệt có được sức sống lâu bền trong tâm hồn người đọc” (tr.271-272). Với việc vượt qua sự mô tả các quá trình phát triển thể loại thuần túy văn học sử và hướng đến khảo sát các vấn đề nội dung và nghệ thuật từ điểm nhìn thi pháp hình thức, cấu trúc ở cấp độ thể thơ và câu thơ, có thể nói công trình nghiên cứu Thơ tứ tuyệt trong văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX của TS. Nguyễn Kim Châu đã góp phần đi sâu lý giải, khẳng định thành tựu một thể thơ độc đáo trong nền thơ dân tộc. La Sơ NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH VIỆT HÓA THƠ TỨ TUYỆT 1. Bakhtine cho rằng: "Thể loại đang sống trong hiện tại nhưng bao giờ cũng nhớ tới cái quá khứ của mình, nguồn gốc của mình. Thể loại, đó là ký ức sáng tạo của nhân loại trong tiến trình văn học. Chính điều ấy làm cho thể loại và khả năng của nó có thể thống nhất được một cách đầy đủ và liên tục trong sự phát triển. Điều đó cắt nghĩa vì sao muốn nhận biết đúng đắn một thể loại cần phải tìm nguồn gốc của nó" (Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki, Nhà xuất bản Nhà văn Xô Viết Matxcơva - 1962, trang 162). Đi tìm dấu hiệu hiện đại hóa thơ tứ tuyệt trước hết cần phải biết hình tính, đặc tính ban đầu của nó ra sao để đối sánh. Trên đại thể, thơ tứ tuyệt khởi nguyên từ Trung Quốc. Về thời điểm xuất hiện, có người cho nó ra đời sau luật thi, là sự cắt đôi của một bài luật thi nên còn gọi là tiệt cú. Nhiều người lại cho rằng nó ra đời trước luật thi. Nhưng một chữ "trước"thôi cũng có hai luồng ý kiến: 1.1. Một loại ý kiến nói tứ tuyệt có mầm mống từ Kinh thi (ra đời cách đây 2.500 năm, vào khoảng thế kỷ VI trước Công nguyên) tức thuộc nguồn văn chương bình dân. Song theo PGS Nguyễn Khắc Phi thì mỗi bài trong Kinh thi có nhiều chương (ít nhất 3 chương), các chương sau lặp lại chương đầu chỉ thay đổi chút ít dù mỗi chương phổ biến bốn câu. Có điều không có bài nào bốn câu đứng độc lập. Đến đời Hán Ngụy hình thức thơ bốn câu vẫn được duy trì, chỉ có điểm khác là số chữ ở mỗi câu, từ bốn chữ trong Kinh thi đã nâng lên năm hoặc bảy chữ. Sang thời Lục Triều, hình thức thơ bốn câu lại càng phổ biến, trong thơ ca dân gian cũng như thơ ca bác học. 1.2. Loại ý kiến khác cho rằng thơ tứ tuyệt xuất hiện từ thời Lục Triều (281 - 618) có lẽ căn cứ vào thực tế định vị của thơ tứ tuyệt giai đoạn này. Nhưng nói như GS Phan Ngọc "Thể loại nào cũng phải đạt đến cách nhìn riêng của nó, lúc đó mới có phong cách". Xét ở phương diện lịch sử - văn hóa, theo thiển ý chúng tôi, đến thời Lục Triều tứ tuyệt mới có phong cách, ít ra cũng đã thành tên gọi. Cơ sở xã hội, cơ sở triết lý xác nhận phong cách thơ tứ tuyệt. Thời Lục Triều là thời kỳ hỗn loạn chưa từng có trên đất nước Trung Hoa, nội họa, ngoại hoạn xảy ra liên tiếp, mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp rất kịch liệt, đời sống nhân dân cực khổ điêu đứng. Chỉ trong khoảng 160 năm thôi, ở miền Nam Trung Quốc có bốn triều đại nối tiếp nhau (từ năm 420 589), sâu xa hơn đó còn là sự khủng hoảng của tư tưởng thống trị đương thời. Trong hiện thực đen tối, trong cuộc đời bể dâu gắn với những biến cố thăng trầm hưng phế ấy, con người, nhất là thi nhân bằng chiêm nghiệm, linh nghiệm hướng mình vào lẽ được mất, chính tà, đúng sai... và thoát mình vào.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> những lẽ huyền vi của tạo hóa, của cuộc đời, của cõi heo hút buồn thương số phận, mà thơ tứ tuyệt sinh thành dường như để chứng nghiệm những điều ấy. Tuy nhiên, phải đến đời Đường (618 - 904) nghĩa là cách đây khoảng 1.300 năm, thơ tứ tuyệt mới được "luật hóa"nghiêm ngặt, đó là thể thơ chỉ gồm bốn câu năm chữ (ngũ ngôn tứ tuyệt), bốn câu bảy chữ (thất ngôn tứ tuyệt) được cấu trúc lại và đẩy lên đỉnh cao, cắm một mốc son chói sáng và tạo ra sự lan tỏa ảnh hưởng đến nền văn học nước khác, mà rõ nhất là văn học Việt Nam. Rực rỡ đến mức âm ba của nó dội vào tâm lý tiếp nhận thơ tứ tuyệt bao giờ cũng gắn liền với định ngữ: Tứ tuyệt Đường thi hoặc gọi tứ tuyệt hiện đại mang âm hưởng Đường thi và như thế vô tình lại đặt tứ tuyệt vào thể loại có nguồn gốc bác học (hiểu theo nghĩa khi nó đã thành tên gọi, theo nghĩa sự tiến hóa lên đến đỉnh cao của thể loại này). Trong sáng tác và tiếp nhận, người ta vẫn theo cách làm của tứ tuyệt đời Đường và thưởng thức theo ý vị của Đường thi mà thôi. Có thể kiểm chứng điều này ở chỗ tứ tuyệt Trung Hoa (sau Đường thi), tứ tuyệt cổ điển Việt Nam dùng niêm luật quá nhiều, điển tích quá nhiều, từ ngữ ước lệ quá nhiều. Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng tính chất quy phạm phản ánh sự hoàn thiện trong tính toàn vẹn của nó, nghĩa là khi đã quy phạm thì không được thừa, không được thiếu. Thể loại nào (không loại trừ tứ tuyệt), cũng có những quy phạm tác động vào văn học như một sức mạnh lịch sử hiện thực, sự phá vỡ quy phạm của tứ tuyệt hiện đại không có nghĩa là gạt tính quy phạm ra ngoài lề, mà mục tiêu hướng tới phải thiết lập một quy phạm mới theo cách của thời hiện đại, vì quy phạm cũ không đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống và thơ thời hiện đại. Nói như GS Trần Đình Sử : "Thể loại là một mô hình đời sống được đúc kết lại mà mô hình cuộc sống hiện đại đã thay đổi thì thể loại cũng thay đổi theo". Điều này cho thấy ngược dòng thời gian tìm nguồn gốc một thể thơ như tứ tuyệt không phải không có ích cho ngày hôm nay. 2. Thơ Đường nói chung, thơ tứ tuyệt nói riêng đã vượt thời gian, không gian hội nhập vào dòng chảy văn học nước Việt. Quá trình tiếp nhận tinh hoa văn hóa Trung Quốc và biến đổi nó để trở thành một thứ tài sản tinh thần quý báu của dân tộc ta đã được ghi nhận. Thơ Đường là niềm tự hào của dân tộc Trung Hoa, nhưng từ lâu đã là tài sản văn hóa chung của nhân loại. Nhắc lại điều ấy cũng không thừa vì chúng ta không "lạm dụng"tài sản chung ấy. Trong thực tế, những hình ảnh của thơ ca nước ngoài một khi đã vào thơ Việt thường đều Việt hóa. Toàn bộ văn học chữ Hán (trong đó có thơ) khẳng định sự độc lập của đất nước, ca ngợi non sông. Đó là văn học của con dân đất Việt, văn học vì trách nhiệm người dân, bầy tôi với sự tôn vinh của dân tộc. Điều này đã khẳng định dấu hiệu Việt hóa nội dung thơ ca, mà tứ tuyệt Việt Nam là một bộ phận. Theo GS Lê Đức Niệm, thơ Đường vào Việt Nam sớm nhất là bài Mẫn nông của Lý Thân. Chúng tôi lại thấy một sự trùng hợp ngẫu nhiên đầy lý thú - bài thơ này lại là một bài tứ tuyệt: Sứ hòa nhật đương ngọ Hãn trích hòa hạ thổ Thùy tri bàn trung xan Lạp lạp giai tân khổ Bài dịch thơ Đường đầu tiên ở Việt Nam này như sau: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẽo thơm một hạt, đắng cay muôn phần Bài thơ biến thành bài ca dao Việt Nam tự bao giờ không hay, vì nó đã được Việt hóa theo điệu lục bát - "điệu tâm hồn"người Việt và hiển nhiên, không ai còn nghĩ đó là bài thơ Đường vì nó mang đậm hồn thơ Việt. Ngay cả tứ tuyệt trung đại Việt Nam không phải là một kiểu "thơ dịch"rập khuôn hoàn toàn Trung Quốc mà đã Việt hóa nội dung như trên đã nói..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Hai học giả Bùi Văn Nguyên-Hà Minh Đức thì dựa vào thư tịch cổ để xác định: "Đến cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI, chúng ta mới có một dòng thơ ca viết bằng chữ Hán, nhưng chứa đựng nội dung dân tộc". Tứ tuyệt ở Việt Nam xuất hiện khá sớm khi có văn học thành văn. Những bài thơ nổi tiếng như Nam quốc sơn hà, Thuật hoài, Tụng giá hoàn kinh sư... đều là tứ tuyệt. Theo nhà phê bình Đinh Quang Tốn, giá trị tác phẩm có hai loại: Giá trị thời đại và giá trị nghệ thuật, mà những tác phẩm tứ tuyệt trên có giá trị thời đại lại không nhiều, nếu không nói là hiếm. Điều này cần bàn thêm nhưng rõ ràng là dường như cảm hứng sử thi thật ít đến với tứ tuyệt từ xưa đến nay. Lướt qua cánh đồng văn học, thời thơ Lý-Trần của ta đa phần là tứ tuyệt. Thơ văn Lý - Trần (3 tập đã công bố) có đến 200 bài tuyệt cú bên cạnh hơn 300 bài thất luật, phần còn lại là các thể khác. Chứng tỏ hai thế kỷ nhà Trần, thơ ta đi theo trào lưu thể loại thơ Đường Tống là chủ yếu. Non 1000 năm văn học nước nhà, các nhà thơ Việt Nam đều hầu hết có thơ tứ tuyệt. Không chỉ ở Trung Quốc mà các tài thơ Việt Nam đều thích làm thơ tứ tuyệt. Thêm một xác quyết về vị trí thơ tứ tuyệt trong hai nền văn học. Ở Việt Nam, các nhà thơ theo trường phái cổ điển thường vẫn tuân thủ nghiêm túc "Đường luật" khi sáng tác thơ tứ tuyệt chữ Hán hay chữ Nôm. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của thơ Nôm (bắt đầu từ đời Trần, Hậu Lê) dần dần những cách luật của thơ Đường ít nhiều bị phá vỡ. Trường hợp câu thơ thất ngôn xen lục ngôn trong thơ Nguyễn Trãi là một dẫn dụ. Có ý kiến lại cho cha ông ta đã "nhào nặn"để sáng tạo ra một thể thơ độc đáo: Thơ song thất lục bát mà hai câu thất bắt nguồn từ thơ Trung Hoa còn hai câu lục bát chính là thơ Việt Nam thuần túy (ca dao). Xem ra nhận định này chưa chứng minh được, nghĩa là thiếu cơ sở chắc chắn. Chỉ xét phần giao là hai câu thất đã thấy khác nhau. Câu thơ thất ngôn Trung Hoa theo nhịp chẵn trước lẻ sau (4/3 hoặc 2/2/3), còn câu thơ Việt ở đây là lẻ trước chẵn sau (3/4 hoặc 3/2/2) khác nhau hoàn toàn, thực ra nhịp 3/4 là nhịp trùng khớp với nhịp hát nói. Riêng về vần thì thơ Trung Hoa chủ yếu vần chân (cước vận), không hề có vần lưng (yêu vận) trong thi pháp Trung Hoa như câu thất thứ hai. Ngay cả vần chân "cách hiệp vần không giống cách hiệp vần của tiếng Hán, vần của thơ chữ Hán rất chặt, vần Việt Nam chấp nhận một phạm vi xê dịch rộng theo độ mở, miễn là duy trì dòng hay âm sắc". GS Phan Ngọc phân tích có lý hơn: "Nếu ta nhìn thơ song thất như một tổng thể hữu cơ thì hai câu thất ở đây là một loại thất ngôn của tổng thể này... Nói cách khác đi thất ngôn ở đây là thất ngôn của lục bát". "Lối cắt mạch của câu hát trong song thất lục bát không phải do đặc điểm gì xuất phát từ tính cách Việt Nam, mà là do quan hệ với hai câu lục bát ở sau". Nêu một ví dụ cụ thể như thế để thấy trong thực tế có sự tiếp biến, song nhận ra nó không phải dễ. Bất cứ một sự vơ vào máy móc nào cũng đều phản khoa học. Quá trình Việt hóa thơ tứ tuyệt cũng có nghĩa dân tộc hóa bằng nội lực. "Cái nội lực chính là bản lĩnh dân tộc, tinh thần dân tộc, kiên trì bền bỉ để giữ bản sắc của mình, thuần duỡng, bản địa hóa những yếu tố ngoại nhập, bổ sung phong phú thêm bản sắc dân tộc". Thơ tứ tuyệt nhiều thế kỷ qua đã trở thành thể thơ truyền thống của Việt Nam. Các nhà thơ dù viết về vấn đề gì với những tâm trạng phức tạp thế nào thì vẫn nằm trong "văn mạch dân tộc"như Xuân Diệu đã khẳng định. Ngày nay thơ tứ tuyệt đã được hiện đại hóa, cung cấp một cái nhìn mở rộng về thể tứ tuyệt. Đó là thể thơ bốn câu, nhưng số chữ trong mỗi câu có thể dài ngắn tự do, có thể là lục bát, có thể tám chữ, bảy chữ, sáu chữ, năm chữ, bốn chữ, ba chữ, thậm chí hai chữ... Quá trình hiện đại hóa này không phải bắt nguồn từ mảnh đất hoang, chưa có người cày xới mà ngược lại, hiện đại hóa chỉ là sự tiếp tục đi lên của truyền thống ở những giá trị và tầm cao mới theo yêu cầu và tình hình của thời đại. VÕ VĂN LUYẾN THƠ TỨ TUYỆT Thơ tứ tuyệt đã có từ lâu, trước khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú. Đầu tiên, thơ tứ tuyệt có nghĩa khác với nghĩa hiện tại: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Bài thơ chỉ có 4 câu mà diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi 4 câu thơ đó là tứ tuyệt..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Tuy nhiên, sau khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú (luật thi) vào đời nhà Đường, thì thơ tứ tuyệt lại phải được làm theo quy tắc về niêm, vần, luật, đối của lối thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú. Vì vậy, sau nầy người ta giải thích chữ “tuyệt” là ngắt hay dứt. Nghĩa là thơ tứ tuyệt là do người ta làm theo cách ngắt lấy 4 câu trong bài bát cú để làm ra bài tứ tuyệt. Do đó niêm, vần, luật, đối của bài tứ tuyệt phải tùy theo cách ngắt từ bài bát cú mà thành. Thơ tứ tuyệt có 2 thể là luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng. Mỗi thể đều có một Bảng Luật coi như "công thức" căn bản mà người làm thơ phải tuân theo. 1. TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG (không đối) Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng: BẢNG LUẬT: T - T - B - B - T - T - B (vần) B - B - T - T - T - B - B (vần) B-B-T-T-B-B-T T - T - B - B - T - T - B (vần) Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ). Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. Bài thơ thí dụ để minh họa: 1. Thuở ấy tuy còn tuổi ấu thơ Mà sao vẫn nhớ đến bây giờ Xuân về nũng nịu đòi mua pháo Để đón giao thừa thỏa ước mơ Thứ Lang 2. Dõi mắt tìm ai tận cuối trời Thu về chiếc lá ngậm ngùi rơi Cay cay giọt lệ sầu chan chứa Mộng ước tình ta đã rã rời Thứ Lang 3. Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu Đôi mình cách trở bởi vì đâu Canh tàn khắc lụn hồn tê tái Đối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu Thứ Lang 2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG (không đối) Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng: BẢNG LUẬT: B - B - T - T - T - B - B (vần) T - T - B - B - T - T - B (vần) T-T-B-B-B-T-T B - B - T - T - T - B - B (vần) Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ). Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. Bài thơ thí dụ để minh họa: 1. Đôi mình cách biển lại ngăn sông Dõi mắt tìm nhau nhỏ lệ hồng Ngắm ánh trăng thề thương kỷ niệm Đêm trường thổn thức nhớ mênh mông Thứ Lang 2. Đêm nghe tiếng gió nhớ miên man Mộng ước tình ta đã lụn tàn Thánh thót hiên ngoài mưa rả rích Mi buồn lệ ứa mãi không tan Thứ Lang 3. Rừng phong nhuộm tím cả khung trời Lá úa lìa cành gió cuốn rơi Lối cũ đường xưa em đếm bước.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Miên man kỷ niệm đã xa vời Sau đây là Luật về Điệu thơ: Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai dễ đọc để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu. Điệu thơ gồm có 3 phần chính như sau: 1. Nhịp điệu: thơ ĐL nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa. 2. Âm điệu: nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng. 3. Vần điệu: nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẻ tiếng không có dấu và tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc. Ngoài ra chúng ta nên cố gắng gieo vần chính vận. Sau nầy khi "nhuyễn" rồi chúng ta có thể theo thông vận và theo luật bất luận. Muốn cho bài thơ có âm điệu hay thì tiếng thứ 4 và tiếng thứ 7 của những câu luật trắc vần bằng không nên dùng trùng một thanh bằng. Nghĩa là nếu tiếng thứ 4 không dấu thì tiếng thứ 7 phải dấu huyền và ngược lại. Tuy nhiên nếu không tìm được từ nào khác có ý nghĩa hay hơn thì chúng ta dùng trùng cũng được mà vẫn không bị sai luật thơ. Thơ tứ tuyệt đời Đường Tuệ Lãng. Ở Việt Nam chúng ta, nhắc đến thơ bốn câu là người ta gọi ngay đó là thơ tứ tuyệt. Và nó cũng có tên gọi là thơ tuyệt cú. Đó là những bài thơ bốn câu, mỗi câu năm chữ, hoặc bảy chữ. Loại câu năm chữ gọi là ngũ ngôn tuyệt cú, loại câu bảy chữ gọi là thất ngôn tuyệt cú hay thất ngôn tứ tuyệt. Trong thơ tuyệt cú người ta còn dựa vào luật thơ có quy định bằng, trắc, niêm, đối mà gọi là “luật tuyệt”, để phân biệt với “cổ tuyệt“ là những bài tuyệt cú không làm theo luật thơ Đường luật. (Các nhà thơ đương đại hiện nay, như vậy khi làm thơ bốn câu thì dường như đã làm theo lối “cổ tuyệt“ (!?). Dựa trên kiểu duy danh định nghĩa, người ta chiết tự và hiểu: “Tứ có nghĩa là bốn, tuyệt có nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì “thơ tứ tuyệt” là ngắt lấy bốn câu trong bát cú tạo thành” (GS Dương Quảng Hàm). Kiểu định nghĩa này cũng được cụ Trần Trọng Kim, GS Trần Đình Sử tán thành. Còn GS Bùi Văn Nguyên và GS Hà Minh Đức cũng cho thơ tứ tuyệt là như thế, nhưng giải thích thêm: “Tuyệt là cắt, là dứt, nhưng là dứt câu, dừng bút để trọn một ý bài thơ, sau khi viết câu thơ thứ bốn. Bởi vì một câu chưa thành thơ, hai câu mới thành một vế đối liên, ít nhất bốn câu mới có vần, khi đó mới thành bài thơ”. Nhà nghiên cứu Phan Văn Nhiễm lại hiểu chữ “tuyệt” là tuyệt vời: “Thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú, tức là bài thơ hay tuyệt vời, vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được đầy đủ ý tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường”. Cụ Bùi Kỷ cũng hiểu tương tự như vậy: “Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiển thâm, ẩn hiện, chinh kỳ, khởi phục, đủ cả cho nên gọi tuyệt”. Thực ra sự khác biệt về cách hiểu như thế là theo sự ứng xử của nhà nghiên cứu quen lối phân tích, biện giải, và nó cũng chứng tỏ sự giàu có, phức tạp và kỳ diệu của thơ tứ tuyệt. Cách hiểu đầu tỏ ra hết sức cơ học và chỉ bó hẹp trong phạm vi đồng đại, mất đi tính biện chứng phát triển của tư duy nghệ thuật và các hình thức thể loại. Trong lịch sử văn học thế giới, bất cứ thể thơ nào, bất cứ một “mô hình” lý tưởng nào cũng được sinh thành từ một lịch sử tìm kiếm hình thức biểu đạt dài lâu, đầy vất vả. Nó không hoàn chỉnh ngay để nhà sáng tạo chấp nhận liền và sử dụng như sử dụng một “căn hộ”. Nó phải trải qua, học tập, kết tinh và hoàn chỉnh rồi sau đó lại bị phá đổ để thay thế một “nó” khác, hợp thức, hợp thời, hợp “não trạng” thời đại hơn. Thế nhưng điều ấy không quan trọng. Cái quan trọng làm nên sự sống bất tử, làm nên giá trị và sự lưu ý của đời chính là kiến trúc mỹ học của nó. “Cái đẹp là lĩnh vực duy nhất hợp pháp của thơ ca” (E. Pô). Trước hết cần phải thấy, sự lựa chọn xử lý đề tài, tổ chức hình ảnh bất kỳ ở nhà thơ nào cũng dựa trên một quan niệm nghệ thuật minh bạch. Người Trung Quốc cổ đại quan niệm: văn là tiếng vọng của Đạo (theo I.X Lisêvich). Và thời cổ, con người luôn đặt mình trong mối quan hệ tương thông, tương hợp với thiên nhiên (thiên nhân hợp nhất, thiên nhân tương dữ). Con người luôn chỉ thấy mình là một bộ phận của vũ trụ, một “tiểu vũ trụ” giữa lòng “đại vũ trụ“. Nó không tìm kiếm một hình thức tồn tại chống đối, khẳng định cho nó như sau này mà tìm sự hòa hợp với vũ trụ. Cảm hứng sáng tạo của họ khởi hứng từ vũ trụ, từ thiên nhiên. Con người giữa thiên nhiên, hành động, suy tư của con người đều được thiên nhiên cảm ứng. Người trước chẳng thấy có Người sau thì chưa thấy Ngẫm trời đất vô cùng Riêng lòng đau mà lệ chảy Trần Tử Ngang – Đăng U Châu đài ca Vì thế các nhà thơ Đường có ý thức tìm mọi cách để biến bài thơ của mình thành một sự thật hóa thân và vĩnh cửu đồng vọng đến đời sau. Họ hay viết nhiều về đề tài muôn thuở: sống – chết, vô cùng – hữu hạn, khả biến – bất biến… Khi viết về tình bằng hữu, quê hương, thiên nhiên… thì phương trời, quan hệ con người ấy là một chân trời rộng dùng để chiêm nghiệm và hướng tới một cái gì sâu thẳm của vũ trụ. Khi xử lý.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> đề tài và tổ chức hình ảnh, thơ tứ tuyệt đời Đường luôn đẩy lùi cái cụ thể xuống hàng thứ yếu. Do hạn chế về số chữ, thơ tứ tuyệt đời Đường ít chất tự sự, ít mô tả, sự việc theo trình tự thời gian mà thiên về khái quát, nhưng không chủ quan. Nó lựa chọn sự vật, phản ánh một cách tiêu biểu bản chất của sự vật. Hiện thực trong thơ tứ tuyệt phải bảo đảm được tính chất của một “tiểu vũ trụ”. Nhà thơ vì thế luôn nhấc mình khỏi những ràng buộc bộn bề, phức tạp và không bị khống chế bởi dòng lịch sử. Thơ tứ tuyệt đời Đường đặt vấn đề phản ảnh vào quỹ đạo của vũ trụ, bắt nó vận hành giữa vô biên. Sự chọn lựa chi tiết mang tính điển hình tuyệt cao, hình ảnh thơ vì thế có tính ước lệ cao, đầy biểu trưng. Đặc biệt thơ tứ tuyệt đời Đường làm chủ phạm trù thời gian. Nó thiên về những vấn đề lớn thuộc phạm trù của nhân loại hơn là lịch sử một cá nhân, một số phận, nó nói về kiếp người hơn là cuộc đời một con người. Nhân vật, con người trong thơ tự giải phóng mình khỏi thời gian tuyến tính, khỏi những ràng buộc vụn vặt để chiêm nghiệm sâu hơn những vấn đề nhân thế. Nhưng vì giới hạn chất liệu thể thơ, họ chỉ chọn những thời khắc nhạy cảm, những thời khắc dồn nén tâm trạng, lúc sự vật, lúc con người ánh lên nét bản chất nhất. Một điều đáng nói trong thơ tứ tuyệt nữa là nó luôn phản ánh hiện thực qua tiềm thức. Nó sử dụng phép giả tưởng, đặt sự vật trong thế đối lập để gây liên tưởng cho người đọc và làm bật lên những điều cần thiết nhất. Thơ Đường có chất hoài niệm, nhưng đó là sự hoài niệm lý tính. Vì hạn hẹp của khung âm tiết, thế giới thơ tứ tuyệt là một thế giới các biểu tượng mang tính ẩn dụ. Và để tính ẩn dụ đạt đến một hiệu năng lớn, ngữ pháp thơ tứ tuyệt luôn chịu áp lục dồn nén, nó bị bóc đi chủ ngữ, và cố ý vi phạm ngữ pháp trong phạm trù ngữ nghĩa cụ thể để đạt tới sự gợi mở cao nhất. Một bài thơ tứ tuyệt nhờ thế đều mang lũy thừa ý nghĩa. Chính vì tất cả điều ấy mà thơ tứ tuyệt đời Đường, như thơ hai-ku Nhật Bản, là một thế giới thu nhỏ. “Tuyệt cú không hổ thẹn là một hạt minh châu sáng chói trong kho tàng văn hóa Trung Hoa” (Nhiếp Thế Mỹ). LÊ QUANG ĐỨC. CẤU TRÚC THƠ TỨ TUYỆT Khảo luận của Võ Văn Luyến 1. Cần thấy một điều hết sức phổ quát là khi xây dựng một cái gì, trước tiên người ta bao giờ cũng nghĩ đến cấu trúc của nó; hay nói cách khác, người ta nghĩ cách cấu trúc nó như thế nào để đem lại hiệu quả tối đa. Cấu trúc tác phẩm nghệ thuật cũng thế, tuy rằng nó không chỉ thể hiện trên bề mặt của vật liệu ngôn ngữ mà đằng sau nó, trừu tượng khó nhận ra, ấy là cấu trúc ý tưởng suy nghĩ sao cho hài hòa hình thức lẫn nội dung. Tuy nhiên, vấn đề không phải đơn giản như vậy, nghĩa là cái logic thông thường hình thức nào nội dung ấy và ngược lại (theo kiểu “nồi nào úp vung nấy”) xem chừng chưa ổn. Trong thực tế có những cấu trúc đặc biệt rất nhỏ (điều này ngày nay đã được khoa học chứng minh) nhưng sức chứa của nó rất lớn. Đương nhiên làm được điều này phải có cách thức, có tài năng và nhiều yếu tố khác nữa, không phải ngẫu nhiên mà trong lịch sử văn học có nhiều suy nghĩ khá tương cận về một vấn đề cấu trúc, dù họ ở rất xa nhau, vào những thời điểm rất khác nhau. Dài hay ngắn, lớn hoặc nhỏ là một phương diện rất cơ bản của cấu trúc. Cái cấu trúc này chi phối bởi quy luật phát triển của sự vật, như triết học đã nói rất rõ, không phải từ bé ra to, mà là đơn giản đến phong phú từ những loại có cấu trúc thấp đến những loại có cấu trúc cao. Chính vì thế mà cả V. Hugo và Paul Eluard cùng than phiền rằng mình không có đủ thời gian để viết ngắn. Sekhov từng mơ ước: “Giá tôi có một triệu rúp tôi sẽ viết một truyện ngắn bé bằng bàn tay” vì ông hiểu rằng “ngắn gọn là chị em của thiên tài”. P. Valéry (một người làm thơ dài) thì quan niệm: “không có những bài thơ dài. Bài thơ dài chỉ là những bài thơ ngắn cộng lại”. Chế Lan Viên bằng nội lực mạnh mẽ của người làm thơ lại luận vấn đề “thơ ngắn, nhưng đấy là cái nhỏ bé của nguyên tử – nguyên tử bé như vậy nhưng sự nổ vỡ của nó thì ghê gớm biết bao”. Đúng là cái gì muốn cấu trúc nhỏ lại cần phải có cách thức. Với nhà thơ, những sướng.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> khổ trên cuộc đời trần ai này chỉ cần dùng đến cái bình đựng lệ là đủ. Đó chính là cách thức phản ánh và cũng là thiên tài của nhà thơ. Thơ tứ tuyệt là một hình thức phản ánh cách thức theo kiểu đó. Một hình thức “bé hạt tiêu” nhưng khả năng bao quát những vấn đề hết sức lớn lao của muôn mặt cuộc sống con người và cuộc sống xã hội. Tứ tuyệt – một bài thơ cùng tên của Chế Lan Viên đã có thể khái quát đặc điểm của thể thơ, nói được cái vi diệu của việc “nhặt bốn câu bé bỏng, sãi cánh cả tâm hồn” Uốn cả hồn anh thành tứ tuyệt Kẹt trong hẻm đá , voi quỳ chân Đã đưa ngà được lên trăng sáng Vòi chửa buông xong để uống vần Nhiều người cho rằng, tư duy thơ cũng như hội họa Phương Đông chủ yếu gợi hơn tả nên chỉ dùng hình thức chấm phá nhưng thể hiện được cái thần của sự vật hiện tượng. Theo chúng tôi nghĩ thơ tứ tuyệt còn hơn thế, đó là một cách thu nhỏ thế giới vào trong bốn câu, giống như cảnh sơn thủy được cấu trúc lại trong hòn non bộ. Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Đại cho “thơ tứ tuyệt là một tiểu vũ trụ hoàn hảo về cấu trúc” có lẽ là vì thế. Nói như Trần Mạnh Hảo “tứ tuyệt là thể thơ dồn nén ý và tứ, tình và tứ, ý và nghĩa, tâm và cảm của nhà thơ, như vầng trăng đọng trong mắt kiến, mặt trời trong giọt sương vậy”. Thu nhỏ thế giới bằng cách độc đáo nên cũng thu nhỏ được ngôn ngữ. Cho nên dễ hiểu vì sao “ngôn ngữ càng bé thì lượng thông tin càng lớn” (Chế Lan Viên ). Nhưng lượng thông tin này không chỉ số lượng mà điều đáng nhấn mạnh hơn là năng lượng. Đấy là hiện tượng trữ phát (vừa dự trữ vừa tỏa phát) của tứ tuyệt. Cấu trúc thơ tứ tuyệt nhỏ nhưng lại có ưu thế riêng. Đây là mảnh đất hẹp cần đến người thợ thiên tài mới mong có cách tạo ra sự bội thu. Tuy nhiên công bằng mà nói, ngắn có cái hay của ngắn, dài có cái lợi của dài. Muốn biểu đạt được cái ngổn ngang, bề bộn hoặc dềnh dàng, tuôn chảy không dài không được. Đấy là lẽ tự nhiên. Dầu vậy, dạt dào mà biết kìm nén vẫn sâu hơn. Với thơ thì ít lời vẫn là sự khiêm tốn tài năng. Loại thơ bốn câu như tứ tuyệt có một cấu trúc gọn ghẽ vừa có đặc điểm, vừa có ưu điểm. Có sức ôm chứa thế giới rộng lớn. Thế giới trong thơ tứ tuyệt là thế giới của cuộc sống được biểu hiện cao độ thông qua hình tượng cụ thể, sống động, thường gây ấn tượng và xúc cảm mạnh: Phật có ngàn tay dẹp bất bình Cả ngàn con mắt chiếu vô minh Chỉ đôi tai Phật sao nghe xiết Tiếng khóc giờ đây của chúng sinh (Tiếng khóc giờ đây – Vũ Hoàng Chương) Phật nghìn tay nghìn mắt có thể “dẹp bất bình”, “chiếu vô minh” nhưng làm sao thấu nỗi muôn ngàn khổ đau của chúng sinh rên xiết từ cái họa “tham, sân, si” đưa đến. Biểu tượng cứu khổ, cứu nạn dường sinh ra để ru vỗ chúng sinh an cư với số phận. Người Đức từng nói: “Hãy tự đánh thức mình, bạn sẽ thấy ra thế giới”. Đấy là thế giới đa diện ngổn ngang tâm trạng nhưng đầy “khát vọng được thành thực”: Anh là tháp Bay – on bốn mặt.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Giấu đi ba còn lại là anh Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình (Tháp Bayon bốn mặt – Chế Lan Viên) Cũng trong “cõi ẩn hình”, con người nhiều khi dễ bị dụ dẫn vào những mê lộ siêu hình: Trưa đọc Nam Hoa Kinh Tối nằm không hóa bướm Mừng mình chủ được mình Dậy thổi nồi khoai sớm (Đọc Nam Hoa Kinh – Yến Lan). “Văn hóa đọc” bồi đắp phần lớn nên tri thức, giúp con người qua cái nhìn hữu hạn khao khát vươn đến vô cùng. Tuy nhiên, qua bài ngũ tuyệt này, nhà thơ Yến Lan lại khái quát một triết lý sống: Say mê hết mình nhưng không để mất mình. Hay nói theo ngôn ngữ hiện đại, tiếp nhận thông tin rất quan trọng, nhưng biết “tiêu hóa” thông tin càng quan trọng hơn. Phải chăng điều cần có ở con người là sự minh triết? Dù dưới hình thức nào, thơ luôn là tiếng nói tình yêu của con người ở trong cuộc đời. Với tứ tuyệt, tiếng nói ấy tìm tới những nốt trầm, những dấu lặng cho một tấu khúc “điệu huyền” sắp sửa: Tặng em quyển lịch làm quà Tặng em hết thảy năm xa tháng dài Bốn mùa cầm ở trong tay Thẹn thùng chi, chọn một ngày đi em?! (Tặng em quyển lịch – Vương Thừa Việt) Nếu nói “cái đẹp cứu rỗi thế giới” thì tình yêu là một hằng số của cái đẹp ấy. Tưởng cũ như trái đất lại được ví như“giọt sương hạnh phúc” vẫn làm ta thêm một lần nữa phát hiện ra: Trái đất – giọt sương vũ trụ Lung linh hoa nở mặt trời Tình yêu – giọt sương hạnh phúc Đọng trên đau khổ con người (Giọt sương – Phổ Đồng) Cũng cần thấy rằng sức ôm chứa thế giới không có nghĩa làm phép cộng của sự phản ánh mà biết chọn lấy sự phản ánh như thế nào: Thấy vạn sông hồ, thấy vạn trời mây Rồi lui về chạm một cánh chim trên gác nhỏ Đấy là cái trọng điểm giữa đất trời mà anh chốt giữ Chớ làm sao anh bao quát vạn đề tài? (Chọn một đề tài – Chế Lan Viên).

<span class='text_page_counter'>(11)</span> 2. Thơ tứ tuyệt có gốc là thơ cách luật có cấu trúc hình thức chặt chẽ, nhưng dường như cơ bản tứ tuyệt lại dựa vào cấu tứ nên nghiêng về cấu trúc chìm nhiều hơn, phản ánh nhiều chiều hơn, mà Nguyễn Sĩ Đại gọi là “cấu trúc ma phương“. Chính vì thế nên rất dễ bị phá vỡ quy phạm hình thức cốt đạt được nội dung và điều này giải thích vì sao thơ tứ tuyệt phát triển mạnh trở lại, trong khi thơ bát cú lu mờ dần trong đời sống hiện đại. Thơ tứ tuyệt thực sự là một mô hình lý tưởng được thử thách với thời gian và có tính ổn định cao là vì thế. Một khi hình thức hạn chế thì đòi hỏi cao về cấu trúc nội dung. Hình thức nhỏ thì không thể lấy chất liệu một cách tuỳ tiện được mà phải chọn, phải lọc lấy tinh chất của nó. Muốn vậy cần khái quát hiện thực hơn miêu tả hiện thực. Khái quát chính là nắm bắt hiện thực bằng cái lõi của nó, nghĩa là đòi hỏi ngay lập tức trí tuệ hiển thị trước. Giáo sư Phan Ngọc giải thích “cấu tứ”bằng một cách chiết tự thật độc đáo: chữ “tứ” có gốc từ chữ “tư”, tư là suy nghĩ; cấu tứ có nghĩa là cấu tạo, cấu thành sự suy nghĩ (về một điều gì đó, một cái gì đó). Tứ tuyệt không thể dàn trải, vì chỉ giới hạn trong bốn câu nên “con mắt thơ tứ tuyệt” tập trung ở cái tứ của bài thơ. Cái tứ ấy ngang với một phát hiện, độc đáo, có ý nghĩa khai phóng một nhận thức đối với tác giả và đối với người đọc. Đọc tứ tuyệt người ta dồn sự thích thú ở chỗ ấy. Dường như thơ tứ tuyệt, lí tính đến trước cảm xúc, nói đúng hơn đấy là “lí lẽ của trái tim” bật ra sau những trải nghiệm, chiêm nghiệm, linh nghiệm và trong một sát na (Ksana) đốn ngộ, có người còn gọi là một mô – măng (moment) buộc cái được phát hiện không thể không thốt ra. Tứ tuyệt giàu tính triết lí nên nảy sinh cách thức: dựng thơ tứ tuyệt thường đi ngược lại cách thức thông thường là tìm cách giải trích trước khi nhập khởi. Nghe hơi phi lí nhưng vì ngắn gọn nên phù hợp với phong cách triết luận, mà với triết luận thì thường ý nghĩa đến trước diễn biến, nguyên nhân. Viết tứ tuyệt không dễ, loại thơ suy tưởng triết lí này đòi hỏi người viết phải có năng lực suy nghĩ dồi dào, có tầm tư tưởng của nhà triết học. Sức hấp dẫn của tứ tuyệt thu vào bên trong thấm thía qua sự suy nghĩ phân tích, tất nhiên nhà thơ phải có ý thức kết hợp những suy nghĩ với hình tượng thơ, tránh rơi vào lối suy nghĩ có tính chất tư biện. Cho nên không có gì lạ khi tứ tuyệt “dễ bắt” vào những vấn đề mà nhiều thời đại cùng đề cập đến như vấn đề sống chết, thời gian, chân lí, hạnh phúc. Trong vòng kim cô của kiếp hữu hạn, con người suy cho cùng, luôn sấp mặt với mưu sinh, với hệ lụy vinh nhục: Sống úp mặt xuống đất Chết ngửa mặt lên trời Giàu nghèo hay vinh nhục Cũng trong vòng ấy thôi… (Trăm năm trong cõi – Trần Nhuận Minh) Thời gian trôi đi nhưng năm tháng thì ở lại. Với tình yêu, dường như trong xa cách mới thật sự có ý nghĩa hơn: Em đã đi rồi, hoa cứ thơm Mùi hương bay nhẹ phía bên vườn Tôi sang tìm lại chiều ly biệt Bỗng thấy như mùi hương đậm hơn.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> (Hoa ở lại – Thái Vĩnh Linh) Thời gian trong bài thơ đúng là không trôi đi, không biến mất nhờ diệu lý của trái tim neo lại. Và cũng từ diệu lý này, một“nguyên đán” đến trước vạn vật không còn là điều nghịch lý: Xuân của đất trời nay mới đến; Trong tôi, xuân đã đến lâu rồi; Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi Trong vườn thơm ngát của hồn tôi (Nguyên đán – Xuân Diệu) Và hạnh phúc thay, “cây với người” ngỡ như không hề cạn kiệt mà tiềm tàng sức sống sung mãn cho những mùa màng chín tới: Cây nhãn sáu mươi năm chưa lứa quả sau cùng Anh tuổi sáu mươi vừa cho trang giấy gặp Câu thơ bới bới đào đào trắng trinh bùn đất Giấu lòng mình chuyển nhựa ấm nuôi cây (Cây với người – Phạm Ngọc Cảnh) Quả thật, một đời đam mê, sống chết với thơ như Phạm Ngọc Cảnh thêm bài học giá trị cho những ai biết yêu cuộc sống. Sự đam mê này phải chăng còn là ma lực đối với việc thu hút, chiếm lĩnh cái đẹp? Mẹ kiếp! Một triệu thi sĩ giết trăng mà trăng chẳng chết Một tỷ tình nhân lấy trăng ra thề bồi, trăng cứ trơ trơ Mà có khi trăng chết vì con lý ngư vọng nguyệt Mê đôi mắt cá si dại kia, trăng rơi tõm xuống hồ (Lý ngư vọng nguyệt – Chế Lan Viên) Cuộc sống không thiếu sự ngộ nhận bởi tìm tới những lý do to tát để giải thích. Trong thiên lý vạn lý, mấy ai nhận ra “đôi mắt cá si dại kia” có sức mạnh cảm hóa hơn tất cả. Cơ hồ như Chế Lan Viên đem đến cho ta một cảm quan đầy ấn tượng và ám ảnh về một diệu lý của đời. Đi xa hơn, nhà thơ đã định nghĩa nhiều vấn đề của cuộc sống giàu nghĩa biểu trưng, đẩy sự suy nghĩ đến những “bến giác” mang ý vị triết học: Hạnh phúc màu hoa huệ Nhớ nhung màu hoa lau Biệt ly màu rách xé Lãng quên đâu có màu (Màu) Không còn nghi ngờ gì nữa, thơ tứ tuyệt có sức sống phi thường như thế một phần lớn nhờ nó bắt vào những vấn đề muôn thuở của con người. Bản thân những vấn đề này là những vấn đề triết học của đời sống, đồng thời cũng mang ý nghĩa triết học phổ biến. Thực ra, không phải ở những đề tài có tính chất vĩnh cửu mới có thể nâng thơ lên mức suy tưởng “mà bất kỳ đối tượng nào cũng có thể rút ra suy nghĩ. Thực chất của sự suy nghĩ trong tứ tuyệt là biết đi sâu vào bản chất của đối tượng, phát hiện và rút ra ý nghĩa khái.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> quát nhất, xác lập những liên tưởng sâu xa giữa đối tượng và những hiện tượng khác. Suy nghĩ trong một bài thơ tứ tuyệt bộc lộ ở nhiều nhân tố cấu tạo nên nội dung trực tiếp của sáng tác”. Theo cách nói của Bakhtine, ngay cả tư tưởng cũng là một đối tượng miêu tả, nhưng theo cách của con tim. Nhìn sâu vào một vấn đề thì như thế. Ngược trở lại, tính triết lý lại do tính chất “đoản thiên” nghiệt ngã sinh ra những nguyên tắc thẩm mỹ riêng cũng nghiệt ngã không kém. Cấu trúc nhỏ nhìn được thế giới rộng lớn phải tìm ra lối mở cho tứ tuyệt. Kiến trúc tứ là một phương tiện hữu hiệu để khắc phục tính hữu hạn của thể tứ tuyệt như đã trình bày. Nhưng tứ thơ muốn lung linh sinh động, giàu ý nghĩa phải nhờ đến kiến tạo ẩn dụ. Từ góc nhìn hẹp của thể loại, bức tranh đời dễ bị cắt thành những phiến đoạn. Kiến tạo được ẩn dụ là cách phản ánh hiện thực theo cấp số nhân, nhờ thế bức tranh đời được nới rộng, tức là nhảy qua được cái barie của khoảnh khắc tứ tuyệt để vào cõi vô cùng và nhà thơ biết đóng đinh, biết “vĩnh cửu hoá” cái khoảnh khắc ấy. Như cái khoảnh khắc giao thừa chẳng hạn, đấy là khoảnh khắc lặng lẽ mà sâu thẳm những suy tư về cõi nhân sinh đồng hiện đớn đau và hạnh phúc. Biết đâu sợi tóc trong đêm bạc. Lại trùng với lúc nụ thành hoa (Vô đề – Nguyễn Đức Mậu) Hay cái khoảnh khắc “sang thu” được Hữu Thỉnh kiến tạo rất tài tình. Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu (Sang thu) Ẩn dụ ở tứ tuyệt là ẩn dụ xếp chồng do ngữ pháp lỏng lẻo (do yếu tố tỉnh lược gay gắt). Một câu thơ có nhiều cách hiểu nên trong thực tế không dễ theo một cách. Chính vì chỗ đó cho nên người ta tranh luận mãi có khi vì một hình ảnh, một câu thơ bởi đặt trong ngôn cảnh quá phức tạp. Một lối mở khác là việc sáng tạo chữ. Chế Lan Viên phát biểu bằng thơ: Ý ở thế giới này Chữ đẩy sang đời khác Ý lò dò từng bước Chữ làm cho ý hay (Và chữ) Lê Đạt lại cho“chữ bầu lên nhà thơ”. Nhà thơ hiện đại muốn cải tạo tính cổ điển thể loại của tứ tuyệt truyền thống bằng nhiều cách: phả hơi thời sự vào, đa dang hoá thể thơ, đóng dấu cái tôi vào nội dung cảm xúc, trong đó có nỗ lực làm mới chữ. Có thể nói nhà thơ tứ tuyệt “trên con đường tìm chữ cũng là con đường ngộ chữ” (Đỗ Lai Thuý). Nói đúng hơn, nhà thơ hiện đại không có hướng đi tìm chữ để làm sang cho thơ mà thực chất là tìm cách phát nghĩa mới. Kiến tạo lại, sáng tạo lại ngôn từ mà trong đời sống tự nhiên chúng chẳng bao giờ có duyên kết hợp với nhau. Chính biết tạo ra những lối mở bằng những biện pháp nghệ thuật giàu tính sáng tạo như thế nên thơ tứ tuyệt có cấu trúc nhỏ nhưng không tĩnh mà động. Đấy là hướng vận động của tứ tuyệt từ cổ điển ra hiện đại. Đấy cũng là cách tăng cường khả năng nhìn ra thế giới rộng lớn của thơ tứ tuyệt....

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Trong thơ của Bác Hồ có nhiều bài viết về đề tài Đi đường. Đặc biệt trong Nhật ký trong tù có tới gần chục bài (Giải đi sớm, Trên đường đi, Đáp thuyền tới huyện Ung, Mới đến nhà lao Thiên Bảo...). Con đường Bác đi trong Nhật ký trong tù là con đường chuyển lao. Bác bị giải đi từ nhà tù này đến nhà tù khác ở tỉnh Quảng Tây.. Trên con đường đó Bác đã xúc động, đã suy ngẫm thành thơ - trong đó có bài Đi đường: Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non Nguyên tác: Tẩu Lộ Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan Trùng san chi ngoại hựu trùng san Trùng san đăng đáo cao phong hậu Vạn lý dư đồ cố miện gian Dịch nghĩa: Có đi mới biết đường đi khó. Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác. Lên đến đỉnh cao chót vót của rặng núi trùng điệp ấy. Ngoái nhìn lại, muôn dặm non sông đã thu cả vào tầm mắt. (Nhật ký trong tù - Nhà xuất bản Văn học - 1990). Mở đầu bài thơ là một phán đoán: Đi đường mới biết gian lao. Một phán đoán luận lý có nội dung và hình thức rất gần với phán đoán hiện thực (chỉ thêm một chữ “mới”). Đó là một nhận thức, một nhận thức có tính khái quát rút ra từ thực tiễn, rất phù hợp với quy luật của nhận thức: “Thực tiễn - nhận thức - thực tiễn”. Câu thơ tiếp là hình ảnh miêu tả cụ thể khách quan về đường đi gian khó, cũng là sở cứ của câu thứ nhất: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng. Con đường ấy là con đường chuyển lao nhưng cũng là con đường cách mạng, con đường sự nghiệp, con đường đời. Một con người đã trải qua con đường cách mạng dài lâu như Bác vẫn nghiệm lại nhận thức của mình. Một ý thức chủ động lao vào thực tế... Nhận thức và thực tiễn, thực tiễn và nhận thức đã chuyển thành ý chí và hành động... Nếu hai câu đầu là nhận thức về gian lao của đường đi thì hai câu sau lại là kết quả của quá trình trải qua gian lao đó: Núi cao lên đến tận cùng/ Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Đỉnh cao của đường đi cũng là đỉnh cao của gian lao chuyển hóa thành đỉnh cao của cảm xúc và nhận thức. Một hình ảnh thực (Núi cao tận cùng), kết quả thực của tri giác, chuyển hóa thành một thu hoạch của tâm hồn, trí tuệ (thu vào tầm mắt...), câu thơ là một kết luận triết học nhưng trước nhất vẫn là một cảm giác sảng khoái, cảm giác thực của con người khi lên tới đỉnh núi sau một chặng đường dài khó nhọc, được đứng lại nhìn cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp trải rộng dưới chân đến hút tầm mắt. Nhưng cảm giác đó mặc dù rất nhân bản vẫn không hẳn là đích của bài thơ. Đích của bài thơ là một bài học, một quy luật: Muốn có tầm cao về tâm hồn, trí tuệ phải chịu khó vượt qua nhiều gian lao thử thách. Gian lao càng nhiều, thử thách càng cao thì tâm hồn, trí tuệ càng được nâng cao, mở rộng. Đỉnh cao của gian khó chuyển thành đỉnh cao của tâm hồn, trí tuệ, cũng là đỉnh cao của hạnh phúc, hạnh phúc của “đại giác”. Gian khó được coi là cái giá của tầm cao tư tưởng và tâm hồn. Cao Bá Quát xưa cũng viết: “Bất kiến ba đào tráng/ An tri vạn lý tâm”. (Nếu không thấy ba đào hùng tráng, Thì biết sao được tấm lòng muôn dặm)..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Những tư tưởng lớn gặp nhau, nhưng Hồ Chí Minh nói giản dị hơn. Vương Chi Hoán, nhà thơ đời Đường xưa trong bài: Đăng quán tước lâu, cũng có câu: “Dục cùng thiên lý mục - Cánh thượng nhất tằng lâu”. (Muốn tầm mắt nhìn thấu ngàn dặm. Hãy lên cao thêm một tầng lầu). (Thơ Đường tập I - Nhà xuất bản Văn học năm 1987 - tr.111). Nhưng kết quả thu nhận ở đây giành được có vẻ dễ dàng hơn vì đó là thu nhận, dẫu có tính triết học, cũng là của người ngoạn cảnh, còn trong bài Đi đường của Hồ Chí Minh, sự thu hoạch thuộc về người tự xác định mình là “chinh nhân” ở trên “chinh đồ” (Giải đi sớm, Nhật ký trong tù). Người đó là chiến sĩ nhưng cũng là thi sĩ nên đã trải trái tim mình trên suốt chặng đường đi. Người ấy cũng là triết nhân nhưng không hề tư biện, không minh hoạ tư tưởng có sẵn bằng hình ảnh sáo mòn mà suy ngẫm trong sự sống đầy cảm xúc của chính mình. Điều đó làm cho bài thơ triết lý vẫn rung động lòng người và tư tưởng của nó đã đi sâu vào tâm trí người đọc và ở lại đó như một điều tâm đắc, một điều chiêm nghiệm và từ đó trở thành phương châm sống, thành ý chí và hành động của con người. Và đó cũng là một bí quyết thành công, một đặc điểm thi pháp thơ triết lý, thơ suy tưởng của nhà thơ Hồ Chí Minh. Nhưng gần đây có ý kiến khác về nội dung tư tưởng của bài Đi đường. Đó là ý kiến của ông Lê Xuân Đức được ông Trịnh Thanh Sơn tán thành. Trong bài Đọc “Nay ở trong thơ…” của Lê Xuân Đức đăng trên Văn nghệ số 35, 36 (27/8/2005), ông Trịnh Thanh Sơn có khen ý kiến có tính phát hiện của ông Lê Xuân Đức về bài Đi đường trong bài Giang sơn nhìn lại động lòng cố hương. Tôi đã đọc bài của Lê Xuân Đức khi còn đăng trên báo với nhan đề “Cần hiểu đúng bài Tẩu lộ - Đi đường của Bác Hồ”, nay đọc đoạn viết của Trịnh Thanh Sơn về bài đó dưới cái tên mới Giang sơn nhìn lại động lòng cố hương, tôi vẫn giữ ý kiến không đồng ý với cách hiểu mới của ông Lê Xuân Đức cũng như với ý kiến đồng tình của ông Trịnh Thanh Sơn. Ông Lê Xuân Đức viết: “Vạn lý dư đồ là non sông muôn dặm”. Cụm từ “Cố miện gian” trong văn học cổ được dùng để chỉ mối tình Tổ quốc tha hương. Như vậy, câu thơ “Vạn lý dư đồ cố miện gian” có nghĩa là: “Quay đầu nhìn Tổ quốc thêm lưu luyến non sông muôn dặm”… Từ đó, ông Lê Xuân Đức xác định chủ đề bài thơ là “Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình thế nào, tình yêu Tổ quốc vẫn luôn thường trực trong tâm trí Bác. Chính vì Tổ quốc mà Bác đã vượt qua muôn trùng non nước, vượt qua muôn vàn gian lao nguy hiểm làm việc vì nước, vì dân”. Để khẳng định thêm ý kiến của mình, ông Lê Xuân Đức còn dẫn ra một loạt câu thơ nói lên nỗi nhớ Tổ quốc của Bác trong Thu dạ, Tức cảnh, Tân xuất ngục học đăng sơn… Trước nhất, ta hoan nghênh ý thức và công sức suy nghĩ tìm tòi để hiểu thơ Bác của ông Lê Xuân Đức. Đối với tác phẩm văn học, do tính đa nghĩa của ngôn ngữ hình tượng và do quy luật tiếp nhận văn học, việc có những cách hiểu khác nhau, cách hiểu mới về một hình tượng, một câu thơ, một tác phẩm văn học xưa nay là chuyện thường tình. Song tôi thấy cách hiểu của ông Lê Xuân Đức đối với 2 câu thơ của Bác trong Tẩu lộ không đúng, từ đó dẫn đến cách hiểu cả bài thơ cũng không đúng, vì những lý do sau đây: - “Dư đồ” không có nghĩa là giang san Tổ quốc mà chỉ có nghĩa là: “Địa đồ (carte géographique) (Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh trang 223). - Cụm từ “Cố miện gian” không có nghĩa là “giang sơn Tổ quốc” mà chỉ có nghĩa là "trong khoảng giữa cái nhìn ngoái lại". Ông Lê Xuân Đức đã nhầm, cụm từ “cố miện sơn hà” (ngó liếc núi sông) thì mới nói lên niềm trìu mến nước cũ (cũng theo Đào Duy Anh, từ điển Hán Việt trang 111)..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> - Bác Hồ viết bài thơ Tẩu lộ trên đường giải đến Thiên Bảo tức là khi đã ở sâu trong nội địa Trung Quốc cách biên giới Trung Việt đến hơn 100 km thì làm thế nào có thể thấy “giang sơn Tổ quốc” ở giữa khoảng nhìn lại của mình. - Nếu hiểu 2 câu thơ trên là nhớ nước thì làm cho lôgíc hình tượng của bài thơ bị phá vỡ, tư tưởng triết lý của bài thơ bị giảm mất tính nhất quán, tính hệ thống đã được lĩnh hội trong cách hiểu xưa nay mà ông Lê Xuân Đức đã nhắc lại ở phần đầu đầu bài viết của ông: “Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao nhất, đỉnh cùng thì thu được muôn trùng non nước vào tầm mắt… Mục tiêu là thu lại non sông vào trong tầm mắt nhưng phải trải qua hết chặng đường gian khổ này đến chặng đường gian khổ khác” (đã thể hiện một phần trong 2 câu đầu của bài thơ: Đi đường mới biết gian lao, núi cao rồi lại núi trập trùng) chỉ có điều ông hiểu nhầm non + nước thành Đất nước, Tổ quốc, làm cho ý của câu 1+2 và ý câu 3+4, rồi ý câu 3 và ý câu 4 không ăn nhập với nhau phá vỡ lôgíc của tứ. - Việc ông Lê Xuân Đức dẫn thêm 3-4 bài thơ (Thu dạ, Tức cảnh, Mới ra tù tập leo núi…) chỉ chứng minh tình yêu Tổ quốc là một chủ đề lớn trong thơ Bác - điều mà ai cũng biết - chứ không chứng minh được gì cho luận điểm của ông là bài thơ Tẩu lộ có chủ đề tình yêu giang sơn Tổ quốc (Trong bài Mới ra tù tập leo núi, Bác cũng chỉ “trông lại trời Nam” chứ không phải đã thấy “Việt Nam dư đồ” hiện ra trước tầm mắt). Đưa ra một ý kiến mới, một cách hiểu mới và một câu thơ, bài thơ, một tác phẩm đã được mọi người hiểu theo một cách gần như thống nhất, đó là điều cần chú ý, cần xem xét nhưng tất nhiên cách hiểu mới đó phải có lý. Trong trường hợp này, theo tôi, cần hiểu hai câu thơ cuối của bài Tẩu lộ cũng như chủ đề của bài thơ như bây lâu nay mọi người vẫn hiểu. Điều này cũng đã thể hiện trong ngôn ngữ thơ dịch của Nam Trân: Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non Còn dịch như ông Trần Đắc Thọ trong 2 câu cuối của bài thơ mà ông Lê Xuân Đức đã dẫn là một cảm nhận không đúng nguyên tác dẫn đến cách hiểu sai nguyên tác: Đèo cao lên tới vừa xong Giang sơn nhìn lại, động lòng cố hương Theo giáo sư Lê Trí Viễn, lúc đầu dịch Nhật ký trong tù, cũng có người dịch 2 câu cuối ấy như sau: Vượt núi trèo non lên chót vót Trông về muôn dặm nước non nhà (hoặc nước non xa) Nhưng tập thể ban dịch đã bác bỏ bản dịch này vì không đúng tinh thần nguyên tác và sau đó đã chọn bản dịch của Nam Trân, rất đúng rất hay như ta đã biết (Hồ Chí Minh - Tác gia, tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. NXB Giáo dục 1997 trang 349). Về một tác phẩm văn học có thể có những cách hiểu khác nhau nhưng không phải cách nào cũng gần với chân lý như nhau. Có những ý mới, những phát hiện mới, đó là điều đáng khuyến khích, song không phải ý kiến mới bao giờ cũng đúng. Và điều này cũng là điều bình thường trong nghiên cứu văn học..

<span class='text_page_counter'>(17)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×