BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
VŨ VĂN KHOÁT
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC TÍNH SINH HỌC CỦA LỒI
DẦU ĐỒNG (Dipterocarpus tuberculatus Roxb) VÀ CÀ CHÍT (Shorea
obtusa Wall) PHÂN BỐ TRONG RỪNG KHỘP Ở TÂY NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Hà Tây-2007
1
MỞ ĐẦU
Năm 1943, nước ta có khoảng 14.325.000ha rừng, với độ che phủ 43,70%
diện tích đất trong cả nước. Đến năm 1990, chỉ còn lại 9.175.600ha, với độ che
phủ 28%. Cho tới năm 2000, nhờ những nỗ lực to lớn trong hoạt động phục hồi
rừng và trồng rừng, độ che phủ đã lên tới 33,20%, với tổng diện tích là
10.915.292ha. Tới năm 2006, thì tổng diện tích là 12.873.850ha với độ che phủ
là 38,8% [2].
Số liệu diễn biến tài nguyên rừng từ năm 1990 tới nay cho thấy đã có
chiều hướng tăng đáng kể. Tuy nhiên, chất lượng rừng vẫn còn xa mức ổn định
và đang tiếp tục chịu những áp lực lớn. Khai thác trái phép, bừa bãi, không tuân
thủ các nguyên tắc lâm sinh đang gây thiệt hại lớn vốn rừng, làm cạn kiệt tài
nguyên rừng. Canh tác nương rẫy đang làm cho diện tích rừng bị thu hẹp lại và
nạn cháy rừng xảy ra ngày càng nhiều hơn. Vì vậy diện tích rừng có tăng nhưng
chưa đạt hiệu quả phịng hộ mơi trường. Suy thối tài ngun rừng kéo theo suy
thoái tài nguyên đa dạng sinh học, mất rừng làm cho đất đai xói mịn, rửa trơi.
Theo Vũ Biệt Linh và cộng sự (1998) [10] thì ở Việt Nam có khoảng
500.000 ha rừng thưa ở các lập địa khơ hạn (rừng khộp). Hồ Viết Sắc (1998)
[15] thì cho rằng diện tích rừng khộp có khoảng 700.000 ha, riêng ở khu vực
Easup và phía bắc tỉnh Đak Lak đã có khoảng 400.000 ha rừng khộp. Trong giai
đoạn từ năm 1975 đến năm 1990, rừng khộp hầu như đã bị khai thác cạn kiệt,
trong giai đoạn này gỗ khai thác chính của tỉnh Đak Lak chủ yếu là từ rừng
khộp. Các lồi cây họ Dầu hiện chỉ cịn gặp nhiều trong các khu bảo tồn vì trong
những năm qua do khai thác quá mức, chiến tranh tàn phá mà diện tích cây họ
Dầu đã suy giảm nghiêm trọng. Theo Viện điều tra quy hoạch rừng (1994) [24],
ở thời điểm năm 1959 diện tích các loại rừng có cây họ Dầu ở Đơng Nam Bộ
chiếm 49% diện tích tồn vùng, đến năm 1968 đã giảm xuống còn 36%, năm
1982 giảm còn 18% và năm 1992 chỉ còn 8%. Xét ở quy mô quốc gia, tài
2
nguyên cây họ Dầu nói chung và tài nguyên di truyền của từng cây họ Dầu nói
riêng đã bị suy kiệt mạnh.
Với diện tích khoảng hơn nửa triệu ha, rừng khộp là một nguồn tài nguyên
đặc biệt của Tây Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung. Rừng khộp có
những lồi cây gỗ lớn có giá trị, tài ngun lâm sản ngoài gỗ như dầu nhựa, dược
liệu… và tài nguyên động vật khác. Rừng khộp giữ vai trò phòng hộ mơi trường
và bảo vệ đất Tây Ngun, các lồi cây rừng khộp có tính thích nghi cao với khơ
hạn và lửa rừng, khó có thể tìm ra lồi cây nào khác thay thế. Về ý nghĩa khoa
học, rừng khộp là hệ sinh thái rừng độc đáo chỉ có ở Tây Nguyên và làm phong
phú thêm tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng nhiệt đới Việt Nam.
Việc tìm hiểu các đặc tính sinh học cơ bản của các lồi cây gỗ trong thảm
thực vật rừng đóng vai trò to lớn trong việc đánh giá, bảo tồn và phát triển nguồn
tài nguyên thực vật nói riêng và hệ sinh thái rừng nói chung. Nghiên cứu, tìm
hiểu các đặc điểm về sinh thái học và lâm học của loài cây bản địa là hết sức cần
thiết, nhưng cũng là cơng việc khó khăn và tốn nhiều sức người, sức của. Đây là
cơng việc lâu dài và có tính nghiên cứu cơ bản về lâm học.
Trong những năm qua đã có những nghiên cứu về rừng khộp và đạt những
kết quả nhất định. Tuy nhiên, những nghiên cứu về những loài cây chủ yếu của
rừng khộp chưa nhiều mà mới dừng lại ở phân loại, cấu trúc quần thụ một cách
định tính, các nghiên cứu về sinh học các lồi cây họ dầu thường tập trung vào
các loài thường xanh ở rừng mưa nhiệt đới, riêng các loài họ dầu rụng lá chiếm
ưu thế trong rừng Khộp thì cịn rất ít các nghiên cứu về từng loài cụ thể.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và lý luận, đề tài: “Nghiên cứu một số
đặc tính sinh học của lồi Dầu đồng (Dipterocarpus tuberculatus Roxb) và
Cà chít (Shorea obtusa Wall) phân bố trong rừng khộp ở Tây Nguyên” được
chọn nghiên cứu.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
1.1.1. Những nghiên cứu về rừng khộp
- Cấu trúc quần thụ
Ogawa và cộng sự (1961) thực hiện nghiên cứu bước đầu về thảm thực
vật của Thái Lan đã chia rừng khộp thành ba kiểu quần thụ chính [28]:
(1) Quần thụ Cà chit-Cẩm liên thường phân bố ở sườn đồi dốc, những nơi
có nhiều đá sỏi, granít-gneiss hoặc bazan. Đất nói chung lẫn sỏi, cát và laterit.
Đặc trưng bằng ưu thế hai loài Shorea obtusa và Shorea siamnensis với thảm cỏ
dày, rải rác có các lồi Cycas siamnensis, Zizyphus và Cratoxylum. Hai lồi cuối
là những lồi cây bụi có gai đặc trưng cho khô hạn.
(2) Quần thụ Dầu đồng-Dầu trà beng phân bố trên những diện tích lượn
sóng nhẹ ở độ cao thấp hơn quần thụ Cà chí-Cẩm liên.
(3) Quần thụ hỗn hợp rừng khộp với thành phần các lồi Dầu đồng, Dầu
trà beng, Cà chít và Cẩm liên. Bốn lồi này hỗn giao đều với nhau và khơng có
lồi ưu thế rõ rệt
Kutintara (1975) nghiên cứu các kiều quần thụ và mối quan hệ với môi
trường của rừng khộp ở huyện Hot, tỉnh Chiangmai phía bắc Thái Lan đã phân
rừng khộp ở vùng này thành 6 kiểu ưu hợp dựa vào tầm quan trọng của loài ưu
thế [27]:
(1) Ưu hợp Cẩm liên-Cà chít: kiểu ưu hợp này chiếm ưu thế ở đất có tầng
mỏng lẫn đá trên sườn dốc ở vùng có độ cao thấp, Cẩm liên là cây chiếm ưu thế
quan trọng nhất.
(2) Ưu hợp Dầu đồng-Cà chít: phân bố ở vùng đất thấp, có hàm lượng kali
cao với có hoặc khơng có tầng lateric hóa.
4
(3) Ưu hợp Dầu đồng-Dầu trà beng.
(4) Ưu hợp Dầu đồng-Thơng nhựa.
(5) Ưu hợp Dầu trà beng-Cà chít thấy ở độ cao lớn trên đất có hàm lượng
kali thấp.
(6) Ưu hợp Dầu trà beng-Thông nhựa xuất hiện ở độ cao lớn.
Bunyavejchevin (1983) nghiên cứu cấu trúc quần thụ của rừng khộp ở
miền Bắc, Tây bắc và miền Tây Thái Lan đã chia thành 5 kiểu ưu hợp dựa vào
các loài ưu thế chính [24]:
(1) Ưu hợp Cẩm liên, được chia thành hai kiểu phụ: kiểu phụ dạng cây bụi
và kiểu phụ dạng cây vừa.
(2) Ưu hợp Cà chít chiếm ưu thế trên các lập địa dốc nhẹ đến dốc vừa ở
nơi cao hơn ưu hợp Cẩm liên. Đất dưới kiểu ưu hợp này biến động từ đất sét cát
đến đất thịt cát, hàm lượng chất hữu cơ và nitơ thấp. Ưu hợp này cũng chia thành
hai kiểu phụ: kiểu cây bụi và kiểu cây vừa.
(3) Ưu hợp Dầu trà beng-Cà chít chiếm lĩnh các sườn dốc ở cùng một độ
cao với ưu hợp Cà chít, một vài lâm phần có thể ở độ cao cao hơn. Kiểu ưu hợp
này có thành phần loài phong phú hơn và thường ở trên đất sét với hàm lượng
chất hữu cơ và nitơ cao và tỷ trọng hạt thấp.
(4) Ưu hợp Dầu đồng-Cà chít phân bố ở độ cao thấp hơn trên các lập địa
chứa hydro cũng là mơi trường thích hợp cho kiểu ưu hợp này. Cây trong kiểu
ưu hợp này lớn hơn các kiểu ưu hợp khác. Đất thường là sét, có hàm lượng
calcium cao nhưng chất hữu cơ và nitơ thấp.
(5) Ưu hợp Thông-Cây họ dầu cấu tạo bằng các cây vừa đến lớn phân bố
từ độ cao vừa đến cao. Đất cát với hàm lượng calcium cao ở tầng mặt. Kiểu ưu
hợp này có thể chia thành 4 kiểu phụ, trong đó có kiểu ưu hợp phụ Dầu đồng-Cà
chít-Thơng nhựa ở độ cao vừa, dốc mạnh.
5
Nghiên cứu về cấu trúc, tốc độ hình thành khoảng trống và chu kỳ tầng tán,
tác giả Siripa Nilroungo (1986) đã tiến hành nghiên cứu tại Trạm nghiên cứu môi
trường Sakaerat, Pak Thong Chai, Nakhon Ratchasima từ tháng 212/1985 trên 4 ô
tiêu chuẩn (1ha/ô) tại 4 ưu hợp cho kết quả như sau [30]:
Cấu trúc theo chiều thẳng đứng được chia làm hai tầng cho cả 4 ưu hợp.
Chiều cao của tầng thứ nhất lần lượt lớn hơn 10,5 m, 13 m, 10,5 m và 14 m ở ưu
hợp 1, 2, 3 và 4. Những loài ưu thế ở tầng thứ nhất tương ứng cho ưu hợp 1, 2, 3
và 4 là Shorea floribunda, Shorea obtusa, Shorea obtusa và Shorea siamensis. Ở
tầng thứ hai là Shorea floribunda, Shorea obtusa, Shorea obtusa and Shorea
floribunda lần lượt cho ưu hợp 1, 2, 3 và 4. Năm loài cây quan trọng là Shorea
floribunda, Quercus kerrii, Pterocarpus macrocarpus, Shorea obtusa and Xylia
xylocarpa đối với ưu hợp thứ nhất (Shorea floribunda-Quercus kerrii) trong khi
Shorea obtusa, Shorea siamensis, Pterocarpus macrocarpus, Xylia xylocarpa,
Mangifera caloneura đối với ưu hợp 2 (Shorea obtusa-Shorea siamensis);
Shorea obtusa, Pterocarpus macrocarpus, Sindora maritima, Dipterocarpus
intricatus, Morinda coreia đối với ưu hợp 3 ( Shorea obtusa-Pterocarpus
macrocarpus); và Shorea siamensis, Shorea floribunda, Quercus kerrii,
Pterocarpus macrocarpus, Sindora maritima với ưu hợp 4 (Shorea siamensisShorea floribunda).
Trữ lượng tính cho mỗi ha tại ưu hợp 1, 2, 3 và 4 lần lượt là 98, 82, 110 và
105 m2. Tỷ lệ cây chết trung bình là 0,38%, 0,88%, 0,58% và 0,77% tương ứng
tại ưu hợp 1, 2, 3 và 4, lỗ trống do cây chết tạo ra là 0,360,73%, 0,500,10%,
0,511,02% và 0,420,84% cho mỗi ha ở ưu hợp 1, 2, 3 và 4. Chu kỳ của tầng
tán trong rừng được tính từ tỷ lệ hình thành khoảng trống là 122244 năm,
81162 năm, 79158 năn và 100199 năm đối với ưu hợp 1, 2, 3 và 4.
- Tái sinh
6
Nghiên cứu về tái sinh rừng khộp tại Sakaerat -Pak Thong Chai-Nakhom
Ratchasina trên 4 ưu hợp (subcommunity type): (1) Shorea floribunda - Quercus
Kerrii; (2) Shorea obtusa - Shorea siamesis; (3) Shorea obtusa - Pterocarpus
macrocarpus; (4) shorea floribunda - Shorea siamensis. Tác giả Duangdao
Faidang (1988) đã tiến hành điều tra những cây có đường kính ≤ 4,5 cm và xác
định các chỉ tiêu là tên lồi, mạng hình phân bố, đường kính sát gốc tại 3 thời
điểm [25], lần đầu tiên đo vào cuối mùa mưa (10/1986), lần 2 đo vào đầu mùa
mưa năm sau (4/1987), lần 3 đo vào cuối mùa mưa năm sau (9/1987) và đưa ra
kết luận như sau:
Các chỉ số về sinh trưởng cũng như số lượng cây tái sinh tăng nhanh vào cuối
mùa mưa và giảm dần vào mùa khơ.
Sinh trưởng của những lồi cây ưu thế tái sinh tại hai ưu hợp của Cà chít
(Shorea obtusa) cũng như hai ưu hợp còn lại là tương tự nhau.
Tại lần đo đếm thứ nhất và 3 có tổ thành cây tái sinh giống nhau và khác với
lần đo đếm thứ 2.
Lồi cây tái sinh ưu thế có sự sai khác với tầng cây cao. Như tại ưu hợp
Shorea obtusa- Shorea siamesis thì cây tái sinh ưu thế tại lần 1 và 3 là Shorea
obtusa, Cratoxylum formosum và lần 2 là Shorea obtusa, xylia xylocarpa; tại ưu
hợp Shorea obtusa- Pterocarpus macrocarpus thì cây tái sinh ưu thế tại lần 1 và
3 là Shorea obtusa, Pterocarpus macrocarpus và lần 2 Shorea obtusa, Albizia
odoratissima.
1.1.2. Những nghiên cứu về cây họ Dầu
Tác giả Cronquist (1981) phân chia họ Dầu (Dipterocarpaceae Blume)
thành 3 phân họ sau [12]:
7
* Dipterocarpoideae: bao gồm các loài gặp ở vùng nhiệt đới châu Á và
Malesia, đặc trưng bởi bao phấn đính gốc, lá đài cùng phát triển thành cánh, bầu
2 hoặc 3 ngăn, mỗi ngăn chứa 2 nỗn.
* Monotoideae: có các lồi của nhiệt đới châu Phi và Mađagaxca, có các
bao phấn lắc lư, lá đài ít phát triển cùng và chỉ đơi khi thành cánh, bầu có 2 ngăn
và ít khi 4 ngăn với 12 noãn mỗi ngăn.
* Pakaraimoideae: đặc hữu của vùng cao Guayana, nhiệt đới Nam Mỹ,
gần gũi với họ phụ Monotoideae nhưng có cánh hoa ngắn hơn lá đài và khơng có
cuống hoa lưỡng tính, bầu có 4 tới 5 ngăn, mỗi ngăn có 2 hoặc 4 nỗn.
Tác giả Ashton (1982) đã mơ tả cây họ Dầu châu Á là cây có nhựa, kích
thước từ nhỏ tới lớn, thường có bạnh vè [23]. Lá đơn, mọc cách, lá kèm phát triển
để bảo vệ chồi và cành lá non có lơng bao phủ. Hoa tự chuỳ, cánh hoa dài hơn lá
đài và có lơng tơ ở các mức độ khác nhau, có 3 hoặc 5 cánh đài phát triển thành
cánh trên quả. Bao phấn thường có hai túi phấn, bầu 3 ngăn, mỗi ngăn mang 2
noãn. Đặc trưng của cây họ Dầu châu Á là sự có mặt của ống nhựa trong gỗ.
Kostermans (1985) mô tả cây họ Dầu châu Á thường có 15 nhị và chúng
sắp xếp thành 2 vòng [26], 5 nhị vòng trong và 10 nhị vịng ngồi. Vịi nhị ngắn,
thường phẳng. Bao phấn thường có 4 ngăn và nhẵn.
1.1.3. Những nghiên cứu về Dầu đồng và Cà chít
- Phân loại, hình thái
Theo Roxb, Dầu đồng có tên khoa học là Dipterocarpus tuberculatus thuộc chi
Dipterocarpus Gaertn, họ Dipterocarpaceae Blume [4].
Theo Wall (1914) Cà chít có tên khoa học là Shorea obtusa thuộc chi Shorea
Roxb, họ Dipterocarpaceae Blume [4].
Theo kết quả nghiên cứu về hình thái hoa của Dầu đồng, tác giả Presert
Sornsathapornkul và Jintana Bupabanpot (2002) thì Dầu đồng thuộc hoa đầy đủ
8
[29]. Chùm hoa có tới 4 nhành, 5 cánh đài và 5 cánh tràng, nhị từ 28 tới 68 và
mọc vòng quanh nhuỵ. Bầu nhuỵ chia thành 3 thuỳ, mỗi thuỳ mang 2 noãn.
-Tái sinh
Sự phát triển của hoa Dầu đồng được tác giả Presert Sornsathapornkul và
Jintana Bupabanpot (2002) nghiên cứu tại rừng khộp [29], trạm bảo tồn gene
Inthakil, huyện Maetaeng, tỉnh Chiangmai trên 10 cây có hoa nhiều và khả năng
đậu quả cao và cho kết quả: mùa ra hoa từ giữa tháng 2 tới cuối tháng 3, hoa phát
triển trong khoảng từ 15 tới 20 ngày, hoa bắt đầu nở từ 8 tới 9 giờ đêm và quá
trình thụ phấn diễn ra tới sáng hôm sau, khả năng thụ phấn thành công thấp và
chỉ đạt 5,6%.
1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về rừng khộp
- Thảm thực vật
Thành phần rừng khộp xét về loài đơn giản hơn nhiều so với rừng thường
xanh. Cho đến nay đã ghi nhận được 68 họ, 204 chi và 309 loài thực vật, Vũ Biệt
Linh và cộng sự (1988) [10]. Trong đó có 98 lồi cây gỗ, 46 lồi cây bụi, gỗ
dạng bụi và dây leo thân gỗ, 168 loài cỏ và cây nửa bụi nhỏ. Có 54 lồi cho gỗ to
và trung bình, quan trong nhất có 4 lồi đặc trưng chỉ mọc trong rừng khộp đó là:
Dầu trà beng, Dầu đồng, Cẩm liên và Cà chít. Một số lồi cây gỗ họ Dầu và
khơng họ Dầu có số lượng cá thể ít hơn, đang chú ý là: Gõ đỏ (Sindora
chochichinenensis), Căm xe (Xylia dolabriformis), Trắc (Dalbergia bariensis),
Chiêu liêu (Terminalia sp).
Theo tác giả Ngô Tiến Dũng (2004) [7], thảm thực vật Vườn Quốc gia
Yok Đôn được phân loại như sau: kiểu rừng kín thường xanh; kiểu rưng thưa
nửa rụng lá; kiểu rừng thưa cây lá rộng rụng lá (rừng khộp).
9
Với kiểu rừng khộp: phân quần xã này rất đặc trưng, độc đáo và bao trùm
nhất Vườn Quốc gia, các họ thực vật chủ yếu trong phân quần xã này không
nhiều và phải kể đến họ Dầu là nhiều nhất, ngồi ra cịn sự xuất hiện của họ Đào
lộn hột, họ Đậu, họ Mã tiền.
Đặc điểm cơ bản của phân quần này là rừng thưa, lá rộng, rụng lá và cấu
trúc đơn giản về tầng thứ, nghèo về tổ thành loài, mật độ thấp và được chia thành
4 ưu hợp:
* Ưu hợp Cà chít (Shorea obtusa) - Dầu đồng (Dipterocarpus
tuberculatus) - Cẩm liên (Shorea siamensis): với ưu hợp này thì rừng khơng có
cấu trúc tầng thứ, mật độ cây thưa, lồi ưu thế là Cà chít, chiều cao trung bình là
20m, phân bố trên khắp Vườn.
* Ưu hợp Dầu đồng (Dipterocarpus tuberculatus)-Cà chít (Shorea
obtusa): quần xã này Dầu đồng chiếm tỷ lệ cao nhất, thỉnh thoảng có thể thấy
những quần thể Dầu đồng thuần loài.
* Ưu hợp Cẩm liên (Shorea siamensis)-Chiêu liêu đen (Terminamia
alata)-Căm xe (Xylia xylocarpa): rừng có cấu trúc tầng tán không rõ ràng.
* Ưu hợp Chiêu liêu đen (Terminamia alata) - Cẩm liên (Shorea
siamensis): quần xã này thường phân bố ở những nơi chuyển tiếp từ rừng bán
thường xanh và rừng khộp.
- Cấu trúc quần thụ
Thái Văn Trừng (1970) đề nghị chỉ nên chia ra 2 ưu hợp khác nhau về
hình thái và lồi cây [20]:
Ưu hợp cây thấp: Cẩm liên, Cà chít, Chiêu liêu.
Ưu hợp cây cao chủ yếu là các loài thuộc chi Dipterocarpus.
10
Trần Văn Con (1990) nghiên cứu về cấu trúc tổ thành rừng khộp ở Tây
Nguyên đã dùng phương pháp mô phỏng cấu trúc tổ thành lồi rừng khộp bằng
phương trình entropie có dạng [5]:
h = H’(1-exp(-ks))
của Stocker và Bergmann (1977) và đã phân biệt được 5 kiểu ưu hợp chính dựa
theo các lồi ưu thế chính có tầm quan trọng nhất (>30%) và 16 kiểu ưu hợp phụ
dựa theo các loài ưu thế phụ (>1030%), cụ thể tại bảng 1.1.
Bảng 1.1. Cấu trúc tổ thành rừng khộp ở Tây Nguyên
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Kiểu ưu
hợp
I1
2
3
4
II 1
2
3
4
5
III 1
2
3
4
IV 1
2
V1
Lồi ưu thế (10,1-100%)
Chính (30,1-100%)
Phụ (>10-30%)
Cc
Dđ, Cl
Cc
Tb
Cc
C
Cc
Cx
Dđ
Cc
Dđ
Cc, Cl
Dđ
C, Cc
Dđ
Cc, Tb
Dđ, Cc
Tb
Dđ
Tb
Cl
Tb,Cc
Tb,Dđ
C
Cc, Cl
C
V
Cl
Cx
Loài hỗn hợp
(<10%)
C,Cx
C, Dđ
Cl, Dđ
Cl, Dđ
Cl, Tb
Tb
Cl
Tb, C, Cl
Cl
Cx
Dđ
Tác giả Nguyễn Văn Thêm (2003) nghiên cứu về đặc điểm lâm học của
rừng khô hạn ở khu vực Sơng Cái - tỉnh Ninh Thuận chỉ ra có hai kiểu rừng bán
khô hạn [17]: kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới với ưu thế cây họ Dầu
(Dipterocarpaceae), kiểu rừng thưa cây lá rộng - cây lá kim hơi khô nhiệt đới
11
với ưu thế thông hai lá (Pinus merkusii) và cây họ Dầu (Dipterocarpaceae). Hai
kiểu rừng này phát sinh trong điều kiện khí hậu bán nhiệt đới mưa mùa. Khí hậu
chia thành 2 mùa khô và ẩm rõ rệt và mùa khô kéo dài tới 6 tháng.
Kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới với ưu thế cây họ Dầu phân
bố ở độ cao 200 700 m so với mặt nước biển.
Thành phần thực vật gồm 20 loài: Dầu trà beng (Dipterocarpus
obtusifolius), Cẩm liên (Shorea siamensis), Cà chít (Shorea obtusa), Sao đen
(Hopea odorata), Thị rừng (Diosperos sylvatica), Căm xe (Xylia xylocarpa),
Bằng lăng (Lagestroemia sp), Chiêu liêu ổi (Terminalia corticosa), Kơnia
(Irvingia malayana), Trâm (Eugenia sp), Bình linh (Vitex pubescens), Xoài rừng
(Magifera duperena), Lành ngạnh (Cratoxylon formosum), Xoay (Dialium
cochinchinensis), Cẩm lai (Dalbergia mammosa), Thẩu tấu (Apososa
microcalyx), Sổ lá lớn (Dillenia pentagyna), Me rừng (Phyllanthus emblica),
Gáo (Anthocephalus indicus), Gõ mật (Sindora cochinchinensis). Trong đó 4
lồi cây họ dầu (Dầu trà beng, Sao đen, Cà chít, Cẩm liên) chiếm 50,7% tổng số
cá thể.
Mật độ cây tái sinh trung bình là 8.400 cây/ha trong đó Dầu trà beng, Cẩm
liên, Cà chít chiếm 75% (6.300 cây/ha). 52,4% cây tái sinh có nguồn gốc từ hạt
còn lại nguồn gốc từ chồi. 40% cây tái sinh có chất lượng kém hay khơng có
triển vọng tạo rừng.
- Tương quan H/D
Đối với rừng khộp, xuất phát từ giả thuyết cho rằng: lúc còn non cây rừng
khộp phát triển chiều cao mạnh để vượt khỏi phạm vi nguy hiểm của lửa rừng,
sau đó chiều cao phát triển chậm lại để phát triển đường kính. Do đó tỷ số H/D là
một hàm giảm theo thời gian. Giả thuyết này có thể biểu diễn bằng phương trình
tích phân sau:
(dH/dD) D = b với b là hằng số.
12
Giải phương trình này ta có: H = a + b lnD. Số liệu thực nghiệm cho thấy quan
hệ H/D các cây ưu thế trong rừng khộp là:
H = 8,475D – 11,0085 với r = 0,639
Vũ Biệt Linh và cộng sự (1988) [10].
- Tương quan Dt/D1.3
Giữa đường kính tán cây (Dt) và đường kính ngang ngực (D1,3) của rừng
khộp có quan hệ tương quan bậc nhất khá chặt. Số liệu thực nghiệm cho thấy: Dt =
2,839 + 0,1027 D1,3 với hệ số tương quan r = 0,96, Vũ Biệt Linh và cộng sự
(1988) [10].
- Cấu trúc chất lượng cây rừng khộp
Chất lượng của cây rừng khộp được xem xét theo các chỉ tiêu: hình dáng
thân cây, tỷ lệ lợi dụng kinh tế, mức độ rỗng ruột… đã phân thành ba cấp chất
lượng từ tốt đến xấu là A, B và C.
Kết quả nghiên cứu cấu trúc chất lượng của 4 lồi cây chính trong rừng
khộp, Vũ Biệt Linh và cộng sự (1988) đưa ra kết quả tại bảng 1.2 [10]:
Bảng 1.2. Chất lượng cây rừng khộp
Loại cây
Dầu đồng
Cà chít
Dầu trà beng
Cẩm liên
A (%)
35,94
16,84
57,84
18,66
B (%)
34,0
38,03
27,56
33,43
C (%)
30,06
45,13
14,60
47,91
Tỷ lệ rỗng ruột (%)
9,84
16,24
0,87
7,66
Theo Hồ Viết Sắc (1984) thì tỷ lệ rỗng ruột của cây rừng khộp tại bảng 1.3 [14]:
Bảng 1.3. Tỷ lệ rỗng ruật của rừng khộp theo cấp đất
Cấp đất
I
II
III
IV
Rỗng ruột (%)
7,90
9,94
15,72
11,33
13
Bảng 1.4. Tỷ lệ rỗng ruột theo cấp kính
Cấp kính
10
Rỗng ruột (%) 8,93
15
7,36
20
25
30
35
40
45
11,08 10,57 14,38 20,55 23,25 21,05
50
33,3
Về ngoại mạo, Dầu trà beng và Dầu đồng ít cong queo hơn Cà chít và
Cẩm liên. Trên lập địa tốt và khá (I và II) cây ít cong queo và tỷ lệ rỗng ruột
thấp. Xếp theo lồi thì tỷ lệ rỗng ruột giảm dần từ các lồi Cà chít > Dầu đồng >
Cẩm liên > Dầu trà beng.
- Đặc điểm tái sinh
Đặc điểm vật hậu của rừng khộp phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, nhất là
lượng mưa và thời kỳ mưa hàng năm sẽ là nhân tố quyết định sự ra hoa kết quả.
Thời gian ra hoa kết quả của các lồi cây chính trong rừng khộp khơng giống
nhau, Đinh Quang Diệp (1990) [6].
Bảng 1.5. Thời gian ra hoa kết quả của 4 lồi cây chính
Lồi cây
Dipterocarpus obtusifolius
Dipterocarpus tuberculatus
Shorea obtusa
Shorea siamensis
Thời gian (tháng)
Ra hoa
Kết quả
Quả chín
121
13
34
13
24
45
24
45
46
23
34
45
Số lượng quả tối đa trên một cây Dầu đồng khoảng 5 kg. Hầu hết quả của
các cây họ dầu rừng khộp đều có cánh nhưng do kích thước quả lớn nên khơng
phát tán xa được. Hạt thường có chất dầu nên giảm khả năng nẩy mầm rất nhanh
dưới tác động của ánh sáng.
1.2.2. Những nghiên cứu về cây họ Dầu
- Phân loại
Theo Trung tâm tài nguyên môi trường - Viện sinh thái và Tài nguyên
sinh vật (2003) [18] và Nguyễn Hoàng Nghĩa (2005) [12] Việt Nam có khoảng
14
43 loài cây họ Dầu thuộc 6 chi: Anisoptera (Vên vên), Dipterocarpus (Dầu),
Hopea (Sao), Parashorea (Chò), Shorea (Cẩm), Vatica (Táu).
- Phân bố
Theo các nhà nghiên cứu tại Phân viện Điều tra quy hoạch II (1994) đã
phân chia cây họ Dầu tại vùng Đơng Nam Bộ vào 4 nhóm chính [15]:
* Nhóm cây họ Dầu ưa ẩm trên vùng đồi núi thấp: gồm các lồi cây
thường xanh, ít rụng lá hoặc rụng lá một phần như Dầu nước (Dipterocarpus
alatus), Dầu mít (Dipterocarpus costatus), Dầu lá bóng (Dipterocarpus
turbinatus), Sao đen (Hopea odorata), Sến mủ (Shorea roxburghii), Vên vên
(Anisoptera costata).
* Nhóm cây họ Dầu ưa ẩm trên vùng bán bình ngun gợn sóng: các loài
chủ yếu là Dầu song nàng (Dipterocarpus dyeri), Chai thorel (Shorea thorelii),
và Táu trắng (Vatica odorata).
* Nhóm cây họ Dầu trên đất xám xương xẩu: bao gồm những loài cây
rụng lá mùa khô như Dầu đồng (Dipterocarpus tuberculatus), Dầu lơng
(Dipterocarpus intricatus), Dầu trà beng (Dipterocarpus obtusifolius), Cà chít
(Shorea obtusa).
* Nhóm cây họ Dầu trên đất cát ven biển: bao gồm những loài cây họ Dầu
thường xanh và một số lồi rụng lá mùa khơ như Sến mủ (Shorea roxburghii),
Dầu cát (Dipterocarpus caudatus aff condorensis), Vên vên (Anisoptera
costata), Cẩm liên (Shorea siamensis).
Dựa trên chế độ khô ẩm, GS.TS.Thái Văn Trừng (1999) phân chia cây họ
dầu thành 3 vùng phân bố chủ yếu sau [19]:
* Vùng rừng khô cây họ dầu: Đây là loại rừng khộp điển hình thường gặp
ở Tây Nguyên. Phân bố tại đây là những loài chịu được nhiệt độ khơ hạn và lửa
rừng, là những lồi có vỏ dầy, rụng lá vào mùa khơ, có thể mọc thuần loài hay
15
ưu thế tại các ưu hợp. Những loài chủ yếu phân bố tại đây: Cà chít (Shorea
obtusa), Cẩm liên (Shorea siamensis), Sến mủ (Shorea roxburghii), Dầu trà beng
(Dipterocarpus obtusifolius), Dầu đồng (Dipterocarpus tuberculatus), Dầu lông
(Dipterocarpus intricatus).
* Vùng rừng thường xanh/nửa rụng lá mưa mùa: rừng cây họ Dầu mọc
thuần loài hoặc hỗn giao trên đất cát ven biển miền Trung tới Đông Nam Bộ.
Cây họ Dầu ưu thế là Dầu cát (Dipterocarpus caudatus aff condorensis), Sến cát
(Shorea roxburghii), ngoài ra cịn có Dầu nước (Dipterocarpus alatus), Vên vên
(Anisoptera costata), Cẩm liên (Shorea siamensis), Táu duyên hải (Vatica
mangachapoi).
* Rừng kín ẩm thường xanh mưa mùa: tại đây khơng có những lồi rụng
lá và chịu lửa rừng, những loài phân bố tại đây có khuynh hướng mọc thành
đám, thành cụm như lồi Vên vên (Anisoptera costata), Dầu mít (Dipterocarpus
costatus), Dầu song nàng (Dipterocarpus dyeri), Sao đen (Hopea odorata) và
Dầu nước (Dipterocarpus alatus).
- Gây trồng
Cây họ Dầu được gây trồng từ những năm 1920 do nhà lâm nghiệp người
Pháp tên Paul Moral thực hiện với loài Dầu nước và Sao đen tại Trạm thực
nghiệm lâm nghiệp Trảng Bom (Đồng Nai) [12]. Cho tới nay thì nhiều lồi cây
họ Dầu được đem từ rừng tự nhiên ra gây trồng tại nhiều nơi.
Các loài cây họ dầu được trồng thử nghiệm nhiều nhất tại vùng Đơng Nam
bộ, đặc biệt là các lồi của rừng ẩm như Dầu song nàng, Dầu nước, Sao đen, Vên
vên, Sến mủ. Tại Đồng Nai, Dầu nước được trồng thuần loài hoặc xen với Điều,
Keo lá tràm tại Xuân Lộc, La Ngà, Mã Đà, Hiếu Liêm; Sao đen được trồng thuần
loài hoặc xen với Điều, Keo lá tràm, Tếch tại Thống Nhất, Long Thành, La Ngà,
Mã Đà, Tân phú và Lâm trường 600. Tại Bình Dương, Sao đen trồng xen với Keo
lá tràm tại Tân Uyên; Dầu nước trồng xen với Xà cừ tại Phú Bình. Tại Bình Phước,
16
Sao đen được trồng xen với Keo lá tràm tại Bình Long, trồng thuần lồi tại Đồng
xồi; Dầu nước được trồng thuần loài tại Thống Nhất, xen với Điều tại Bù Đăng,
Nghĩa trung, Thống nhất, xen với Keo lá tràm tại Bình Long, Nghĩa Trung và Lộc
Ninh, xen với Xà cừ tại Minh Đức. Tây Ninh, Sao đen được trồng xen với điều tại
Dương Minh Châu, với Keo lá tràm tại Dương Minh Châu, với Xà cừ tại Dầu
Tiếng; Dầu nước được trồng thuần loài tại Tân Biên, Dương Minh châu và trồng
xen với Keo lá tràm tại Tân biên. Bà Rịa –Vũng Tầu, Sao đen được trồng thuần
loài tại Xuyên Mộc, xen với Keo lá tràm tại Châu Đức và xen Tếch tại Xuyên
Mộc; Dầu nước trồng thuần loài và xen Điều tại Xuyên mộc. Bình thuận, Sao đen
được trồng xen Điều tại Tánh Linh, xen Keo lá tràm tại Hàm Thuận Bắc; Sến mủ
xen Điều tại Tánh Linh và tại nhiều nơi Dầu nước và Sao đen được trồng làm cây
đường phố.
Những kết quả về gây trồng cho thấy trồng thuần loài các cây họ Dầu cho
sinh trưởng tốt hơn trồng hỗn giao với các loài cây khác. Tuy nhiên đây mới chỉ là
những kết quả đánh giá sơ bộ ban đầu và việc trồng xen với những lồi khác như
Keo, Xà cừ, Điều, Sắn khơng phải là những loài tham gia vào tổ thành cùng với
các loài thuộc họ Dầu trong rừng tự nhiên.
1.2.3. Những nghiên cứu về Dầu đồng và Cà chít
- Phân loại, hình thái, một số tính chất gỗ và giá trị sử dụng
Theo Võ Văn Chi (2003), Dầu đồng là cây gỗ lớn, cao 15÷25 m, đường
kính ngang ngực có thể tới 60 cm, rụng lá theo mùa [4]; cây phân cành sớm, tán
xoè rộng; vỏ thân màu xám xẫm, nứt dọc sâu, thường bong mảng cứng và dày,
vết đẽo vỏ mầu nâu đỏ; cành non thơ, màu hơi đỏ tím, có lơng tơ mềm; lá đơn,
xếp cách và xoắn ốc, mép nguyên, phiến lá rất lớn, nhất là lá ở chồi và cây non,
gân bên 9÷16 đơi, nổi rõ ở mặt dưới lá, gân nhỏ rất sát nhau; cuống lá thô, hơi
dẹt, dài từ 5÷7,5 cm; lá kèm màu đỏ bao chồi, dài từ 4÷5 cm, khi rụng để lại sẹo
vịng quanh cành, mùa lá rụng từ tháng 9 tới tháng 10; hoa tự chùm thưa, mang từ
17
6÷8 hoa, hoa màu đỏ tía, khơng có cuống, hoa đều lưỡng tính, mẫu 5, đài hợp
thành ống bao quả, ống đài khơng dính với quả, hai cánh đài phát triển thành
cánh bao quả; quả hình cầu hay trứng, dài từ 2÷3 cm, nhẵn hay thường có lơng
hình sao, đầu quả gần như có 5 múi, 2 cánh.
Theo Võ Văn Chi (2004), Cà chít là cây gỗ trung bình tới lớn, cao 15÷30 m,
đường kính 30÷70 cm, vỏ mầu đo đỏ, nứt dọc sâu không đều; lá thuân hơi không
cân ở gốc, tù tới tròn ở đỉnh, nhẵn ở mặt trên, có lơng mềm rải rác ở mặt dưới, gân
bên 15÷20 đơi, cuống lá từ 1÷1,4 cm; cụm hoa ở ngọn và ở nách lá, thành chùy dài
6÷16 cm, mang 5÷12 nhánh mang hoa khơng cuống; bầu hình trái xoan, có lơng,
vịi rất ngắn; quả hình dải thn, dài 1,8 cm, có 5 cánh khơng đều [4].
Gỗ mầu nâu đỏ, cứng và rất nặng, có thể chịu được thời tiết khắc nghiệt 10÷15
năm, có thể dùng trong xây dựng, đóng đồ, làm cột điện…
- Phân bố, sinh thái
Theo tác giả Trần Hợp, Hồng Quảng Hà (1997) thì Dầu đồng phân bố
chủ yếu ở rừng thưa [8], khô, rụng lá (rừng khộp), đơi khi mọc thành các quần
thụ thuần lồi, chịu được đất cát khơ nóng và nạn cháy rừng. Cây ưa sáng, mọc
khỏe, sinh trưởng chậm, tái sinh hạt tốt (nếu khơng có lửa rừng) và tái sinh chồi
khỏe. Mùa hoa tháng 12÷1, quả chín tháng 4÷8.
Theo tác giả Võ Văn Chi (2003) [4], ở nước ta Dầu đồng được phát hiện
phân bố tự nhiên từ các tỉnh Kon Tum, Gia Lai (Hậu Bổn, Cheoreo), Đăk Lắc
(Easup, Buôn Đôn, Ealop), Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai (Biên Hồ,
Trảng Bom) và Tây Ninh.
Theo tác giả Trần Hợp, Hoàng Quảng Hà (1997) [8], Cà chít mọc chủ yếu
ở rừng thưa, khơ (rừng khộp) ở khắp Tây Nguyên, thường mọc lẫn với các cây
rụng lá theo mùa trong họ đậu, chịu được hoàn cảnh sống khó khăn, đất cát pha
nhiều sạn sỏi đá, khô cằn và qua nạn lửa rừng. Cây ưa sáng, mọc khỏe và tăng
18
trưởng chậm, tái sinh trồi và hạt đều tốt nếu khơng bị cháy. Mùa hoa tháng 1 ÷ 2,
quả tháng 4 ÷ 6.
Theo tác giả Võ Văn Chi (2004) [4], ở nước ta Cà chít phân bố tự nhiên ở
các tỉnh: Gia Lai (Cheoreo), Đak Lak (Easup, Buôn Đôn), Lâm Đồng (Đà Lạt), Khánh
Hồ (Ba Ngịi), Ninh Thuận, Bình Thuận và Tây Ninh.
Theo Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường -Viện Sinh thái và
Tài nguyên sinh vật (2003) [18], Cà chít phân bố ở Mianma, Thái Lan,
Campuchia, Lào và Nam Việt Nam. Ở nước ta, có gặp tại Đak Lak, Lâm Đồng,
Khánh Hòa, Ninh Thuận và Tây Ninh. Cây mọc trong rừng khô rụng lá, giữa độ
cao 200 và 1000 m. Ra hoa tháng 23, có quả tháng 45.
- Cấu trúc quần thụ
* Khi nghiên cứu về cấu trúc tổ thành rừng khộp trên những ưu hợp có
Dầu đồng phân bố, Nguyễn Thành Tân (1997) đã đưa ra kết luận [16]: cấu trúc
tổ thành loài cây trong rừng khộp đơn giản, hiện tượng xuất hiện các loài cây
phổ biến chiếm tỷ lệ lớn ở rừng khộp là tương đối rõ rệt trong các ô tiêu chuẩn.
Tỷ lệ tổ thành của một số loài cây phổ biến tại rừng khộp được ghi tại bảng 1.6.
Bảng 1.6. Tỷ lệ tổ thành của một số loài cây phổ biến tại rừng khộp
Tên lồi
Dầu đồng
Dầu trà beng
Cà chít
Cẩm liên
Chiêu liêu
IV%
1637
1122
1030
923
621
* Quy lật phân bố số cây theo đường kính (N/D)
Để nghiên cứu quy luật N/D cho loài Dầu đồng, Nguyễn Thành Tân
(1997) đã sử dụng hàm Weibull và có nhận xét [16]: hàm Weibull mô phỏng rất
tốt cho quy lật phân bố số cây theo đường kính, thể hiện qua hai tham số và
19
được chọn theo phương pháp tối ưu với khi bình phương nhỏ nhất. Mức độ phù
hợp 100% ở mức ý nghĩa 0,5%, tham số 2,2 phân bố lệch trái, điều này cho
thấy lượng cây tập trung ở cỡ kính nhỏ, chứng tỏ khu vực nghiên cứu những cây
có đường kính lớn đã được khai thác.
* Phân bố số cây theo chiều cao (N/H)
Để mô phỏng quy luật này tác giả đã dùng hàm Weibull và cho kết quả
nắn phân bố tại bảng 1.7 [16]:
Bảng 1.7. Kết quả nắn phân bố số cây theo đường kính
1,3
0,0327
2tính
5,73
2bảng
11,07
II
1,1
0,0742
3,52
9,49
tốt
II
1,0
0,0112
3,78
7,80
tốt
Cấp năng suất
I
Đánh giá
tốt
* Quy luật tương quan giữa chiều cao và đường kính ngang ngực (H/D1.3).
Khi nghiên cứu về tương quan giữa H và D1.3 của Dầu đồng, Nguyễn
Thành Tân (1997) đã dùng hàm logarit để biểu thị tương quan này [16], và cho
kết quả tại bảng 1.8.
Bảng 1.8. Phương trình tương quan H/D1.3 theo cấp năng suất
Cấp năng suất
I
II
III
Phương trình tương quan
H = -15,51 + 9,75 ln D1.3
H = - 9,56 + 6,97 ln D1.3
H = -12,74 + 7,69 ln D1.3
* Quy luật tương quan Dt/D1.3
Theo kết quả nghiên cứu thì tác giả [16] dùng phương trình bậc nhất mơ tả
tương quan giữa Dt và D1.3 cho kết quả tại bảng 1.9.
20
Bảng 1.9. Phương trình tương quan Dt/D1.3 theo cấp năng suất
Cấp năng suất
Phương trình tương quan
r
I
Dt = 1,83 + 0,186 D1,3
0,882
II
Dt = 1,83 + 0,186 D1,3
0,852
III
Dt = 1,83 + 0,186 D1,3
0,817
- Mơ hình hố sinh trưởng và tăng trưởng
Trong nghiên cứu của mình tác giả Nguyễn Thành Tân (1997) đã tiến
hành mơ hình hố quy luật của các chỉ tiêu D1.3, H, V, Pv và dự đoán tăng trưởng
trữ lượng cho kết quả như sau [16]:
* Sinh trưởng về đường kính
Bảng 1.10. phương trình mơ hình hố sinh trưởng đường kính theo tuổi với các
cấp năng suất
Cấp năng suất
I
II
III
Phương trình tương quan
D = 342,819 e -10,56/A^0,35
D = 429,339 e -10,62/A^0,31
D = 1194,419 e -10,71/A^0,23
r
0,99
0,98
0,98
A: tuổi cây
* Sinh trưởng về chiều cao
Bảng 1.11. phương trình mơ hình hố sinh trưởng trưởng đường kính theo tuổi
với các cấp năng suất
Cấp năng suất
I
II
III
Phương trình tương quan
H = 90,413 e -7,62/A^0,35
H = 150,81 e -7,31/A^0,26
H = 146,847 e -7,19/A^0,24
* Tăng trưởng về thể tích
r
0,98
0,98
0,98
21
Bảng 1.12. phương trình mơ hình hố tăng trưởng thể tích theo tuổi với các cấp
năng suất
Cấp năng suất
I
Phương trình tương quan
V = 32,428 e -28,1/A^0,45
r
0,98
II
V = 56,934 e -28,17/A^0,4
0,98
III
V = 89,381 e -27,57/A^0,36
0,98
* Dự đoán tăng trưởng trữ lượng
Bảng 1.13. phương trình mơ hình hố tăng trưởng trữ lượng theo tuổi với các cấp
năng suất
Cấp năng suất
Phương trình tương quan
r
I
Zv = 0,0146 + 0,238 Vi
0,78
II
III
Zv = 0,0129 + 0,231 Vi
Zv = 0,0132 + 0,224 Vi
0,85
0,72
Vi: thể tích cây bình quân
Những nghiên cứu về rừng khộp và cây họ Dầu đã được một số tác giả thực
hiện. Nhìn chung các nghiên cứu có liên quan tới lồi Dầu đồng và Cà chít mới
chủ yếu nặng về phân loại rừng, mơ tả thảm thực vật định tính, cấu trúc quần thụ.
Những nghiên cứu về những loài cây ưu thế của rừng khộp chưa được nhiều tác
giả nghiên cứu tới. Đặc biệt là lồi Dầu đồng và Cà chít, mới dừng lại ở những
nghiên cứu về phân loại, quần thể nơi có Dầu đồng và Cà chít phân bố và một ít
nghiên cứu về sinh trưởng và tăng trưởng mà chưa nghiên cứu sâu về sinh thái,
cấu trúc tổ thành, mối quan hệ giữa Dầu đồng, Cà chít với các lồi cây khác trong
quần thể, đất đai và tái sinh tự nhiên.
22
CHƯƠNG 2
GIỚI THIỆU KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý, địa hình
Vườn Quốc gia Yok Đơn có vị trí địa lý và phạm vi ranh giới sau:
Vĩ tuyến Bắc: 12045’37’’ 130 00’50’’
Kinh tuyến Đông: 107029’36’’ 1070 48’41’’
Ranh giới phía Bắc và phía Đơng là sơng Serepok (bờ Bắc), phía Tây là
biên gới Việt Nam-Campuchia, phía Nam là ranh giới giữa hai huyện Dakmin và
Easup. Cách 48 km theo đường chim bay so với Buôn Ma Thuật.
Về địa hình: tồn bộ bờ trái sơng Serepok là vùng đồng bằng bóc mịn và
bồi tụ ít, chính vì vậy kiểu địa hình chung cho cả vùng điều tra là kiểu địa hình
đồng bằng bóc mịn với dạng các đồi thấp theo các dịng chảy (suối nơng), vừa
thuộc chân các vùng đồi cịn sót lại và vừa có bờ dốc đứng nơi ven sơng. Độ cao
tuyệt đối trung bình của khu vực điều tra nằm dưới 200m với độ dốc trung bình
từ 380, thấp dần từ Đơng sang Tây và từ Nam lên Bắc. Nhìn chung đây là khu
vực tương đối bằng phẳng với các dải đồi thấp xen kẽ với các suối nơng, đơi chỗ
có hơi trũng, tụ nước vào mùa mưa, hoặc vùng bằng phẳng thấp là nơi canh tác
của đồng bào, độ cao tương đối trung bình của khu vực chỉ là 20251m, do đó
cảnh quan rừng và đất rừng ở đây liền một dải rộng, khu vực nghiên cứu có hồn
cảnh sống gần giống nhau.
2.2. Khí hậu
Khí hậu theo mùa ở đây đóng một vai trị rất lớn trong quá trình sinh
trưởng và phát triển của các lồi cây thân gỗ. Khí hậu Vườn Quốc gia Yok Đơn
mang tính chất khí hậu nhiệt đới khơ, có tổng nhiệt độ năm khoảng 93000C, nhiệt
độ trung bình năm 25260C, biên độ dao động nhiệt ngày đêm khá lớn. Chế độ
mưa phân hoá theo mùa rõ rệt với lượng mưa trung bình năm 1.4001.500mm,
phân bố phần lớn từ tháng 4 đến tháng 9, lớn nhất vào tháng 7 và 8 với 284
23
382mm/tháng, còn lại chỉ khoảng 6 7% lượng mưa cả năm rơi vào tháng 12
tới tháng 3 năm sau. Như thế sự phân hố thành mùa khơ nóng đối lập hẳn với
mùa ẩm là đặc điểm khí hậu rất cơ bản của khu vực nghiên cứu.
2.3. Đất đai
Do quá trình bóc mịn triệt để, đá trầm tích cát-bồ kết mà hình thành. Vào
mùa mưa, q trình bóc mịn bề mặt vẫn diễn ra mạnh mẽ làm nền đất mặt
thường bị mỏng dần, trơ cả sỏi cuội. Tuy nhiên, ven theo các con suối, ở đây
tầng đất có dầy hơn làm số lượng loài cây ưa ẩm phát triển mạnh. Đất dọc sơng
Serepok có nước quanh năm làm thành hành lang ven sông với chiều rộng thay
đổi từ 100200m. Đất khá sâu dày từ 100120cm, với lượng mùn trung bình ở
tầng mặt 2,72% và độ sâu từ 2237cm đạt 4,42%, độ chua gần trung tính từ 6
6,6, hàm lượng lân và kali dễ tiêu vào loại trung bình (P2O3 = 1,252,25mg/100g
đất, K2O=8,5015,5mg/100g đất). Thành phần cơ giới cát pha, thành phần sét
vật lý thấp, chỉ chiếm 3,2 13,2%. Đi sâu vào phía Tây, tiếp theo vùng hành
lang là phần đất còn ảnh hưởng của đất phù sa, nhưng địa hình đã bằng phẳng
hơn và đất bị ảnh hưởng của bóc mịn, vùng đất này nhỏ bé, chiếm khoảng 20%
vùng đất điều tra, diện tích đất cịn lại là loại đất feralit vàng, vàng xám phát
triển trên cát kết, bột kết và kết von. Đất ảnh hưởng phù sa hình thành trên một
mặt tương đối bằng phẳng nằm giữa 2 nhánh sông Serepok. So với đất phù sa
nêu ở trên thì đất này hơi chua hơn, pHkcl từ 4,45,2, hàm lượng mùn trung bình
khoảng 2,92% ở bề mặt, nhưng xuống các tầng sâu thì giảm đi nhanh chóng, chỉ
cịn 0,30,6%, thành phần cơ giới từ cát pha tới thịt nhẹ.
2.4. Hệ thực vật
Qua nghiên cứu cho thấy, hệ thực vật ở Vườn Quốc gia Yok Đôn chịu ảnh
hưởng rất lớn của chế độ mưa mùa. Vào mùa mưa, cây cỏ (cây sống hàng năm
hay cây thân củ) phát triển rất mạnh làm thành bụi lớn, có khi lút kín đầu người.
Các dịng chảy và nơi đất trũng, các lồi cây đầm lầy và thuỷ sinh xuất hiện và
24
che hết cả mặt nước nông. Ngược lại, vào mùa khơ chỉ trơ lại các lồi cây gỗ lớn
và lác đác các bụi le bụi mua. Rừng khộp chiếm 7080% diện tích, diện tích
rừng nửa rụng lá rất ít hoặc nằm ở chân hai dãy núi hoặc xen lẫn đám rừng khộp
nơi ven hai bên suối, đất trũng, nơi nhiều cây ít rụng lá xuất hiện các lồi cây họ
đậu để tiến tới rừng thường xanh lá rộng của 2 ngọn núi nằm gọn trong Vườn
Quốc gia.
Hệ thực vật trên diện tích 582 km2 có 566 lồi thuộc 290 chi và 108 họ.
Các họ đa dạng nhất có 16 họ chiếm 14% tổng số họ trong hệ thực vật nhưng có
tới 288 lồi chiếm 50,9% tổng số lồi của hệ thực vật. Các chi đa dạng nhất là 19
chi chiếm 6,5% tổng số chi của hệ thực vật nhưng có tới 115 loài chiếm 20,3%
tổng số loài của cả hệ thực vật. Các cây có nguy cơ bị tiêu diệt có 14 lồi chiếm 2%
tổng số lồi cây trong hệ thực vật.
Hệ cây gỗ Yok Đôn rất đa dạng về yếu tố địa lý với 523 loài được xếp vào
19 yếu tố địa lý khác nhau. Trong đó yếu tố nhiệt đới châu á gồm 342 loài chiếm
60,4% tổng số loài của hệ thực vật. Tiếp theo là yếu tố đặc hữu có 101 lồi chiếm
17,8% tổng số lồi của hệ thực vật, cịn các yếu tố khác khơng đáng kể.
Phổ dạng sống của hệ cây gỗ Yok Đôn được thể hiện như sau: SB = 71,73
Ph + 1,41 Ch + 7,77 HC + 4,59 Cr + 6 Th. Trong đó dạng sống Ph
(Phanerophytes) chiếm ưu thế với 71,73%. Điều này khẳng định rằng hệ cây gỗ
ở đây ổn định và ít bị tác động.