Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) giúp học sinh lớp 5 khắc phục những thiếu sót khi học về số thập phân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.51 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GD&ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÚP HỌC SINH LỚP 5 KHẮC PHỤC NHỮNG THIẾU
SÓT KHI HỌC VỀ SỐ THẬP PHÂN

Người thực hiện: Lê Thị Hoa
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn Thọ
Xuân
huyện Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Tốn

Những sáng kiến nào phân loại chưa đúng thì xem danh mục này để phân
loại
Phụ lục phân loại các mơn học và chủ đề

THANH HỐ NĂM 2017


MỤC LỤC

Mục
1

Nội dung
Mở đầu

Trang


1

1.1

Lí do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2


2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

3

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

3

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo

12

2

dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3

Kết luận, kiến nghị


13

3.1

Kết luận

13

3.2

Kiến nghị

14


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Chương trình Tốn của Tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Tốn
học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát
triển nhân cách học sinh. Mơn Tốn ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển
năng lực trừu tượng hoá, khái quát hố, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú
học tập, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng
viết các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc
khoa học, linh hoạt sáng tạo. Toán học với tư cách là một bộ phận khoa học
nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống
sinh hoạt và lao động của con người. Mơn tốn là ''chìa khố'' mở cửa cho tất cả
các ngành khoa học khác, nó là cơng cụ cần thiết của người lao động trong thời
đại mới. Vì vậy, mơn tốn là bộ mơn khơng thể thiếu được trong nhà trường, nó
giúp con người phát triển tồn diện, nó góp phần giáo dục tình cảm, trách

nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước.
Việc nâng cao chất lượng dạy - học mơn Tốn là một u cầu rất thiết thực
và vô cùng quan trọng. Rất nhiều các nhà nghiên cứu giáo dục, các thầy cô giáo
đã quan tâm, nghiên cứu và tìm ra nhiều phương pháp để nhằm nâng cao chất
lượng dạy – học toán. Tuy nhiên, nếu dạy học toán mà chúng ta chỉ quan tâm
đến việc dạy cho các em biết cách làm toán, giải tốn mà khơng chú tâm đến
việc khắc phục và phịng ngừa những thiếu sót, sai lầm mà các em thường mắc
thì việc nâng cao chất lượng dạy học tốn khó mà đạt hiệu quả cao.
Ở lớp 5, học sinh không chỉ học về số tự nhiên, phân số mà các em còn
được học cả về số thập phân. Số thập phân là một trong những khái niệm mới rất
quan trọng trong chương trình Tốn 5. Để học tốt được phần này, các em phải
huy động tất cả những kiến thức và kĩ năng mà các em đã được học ở các lớp
dưới về số tự nhiên, phân số, đo đại lượng … Có thể nói đây là sự kết tinh tất cả
các kết quả của quá trình dạy số học ở tiểu học. Chính vì vậy, khi học về nội
dung này, đặc biệt khi học về các phép tính với số thập phân rất nhiều học sinh
gặp khó khăn. Không chỉ những đối tượng học sinh đại trà mà ngay cả những
đối tượng học sinh khá, giỏi cũng mắc sai lầm, thiếu sót với nhiều nguyên nhân
khác nhau.
Là một giáo viên với lịng tâm huyết nghề nghiệp, tơi đã băn khoăn, trăn
trở suy nghĩ rất nhiều: cần phải làm thế nào để góp phần hạn chế và từng bước
đẩy lùi thực trạng nói trên? Chính vì những trăn trở đó mà trong q trình dạy
học, tơi đã dành thời gian ghi chép lại các sai lầm, thiếu sót của học sinh. Từ đó
tìm ra những ngun nhân, phân tích kĩ tình hình để thấy được nguyên nhân nào
là từ phía giáo viên, nguyên nhân nào là từ phía học sinh để tìm cách khắc phục.
Trong quá trình khắc phục những thiếu sót đó cho học sinh, tơi đã rút ra được
Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 khắc phục những thiếu sót khi học
về số thập phân.
Với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao hiệu
quả, chất lượng dạy – học, tôi mạnh dạn xin được trình bày những kinh nghiệm
đó của mình.

1


1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm ra những ngun nhân, phân tích kĩ tình hình để có những biện pháp tích
cực góp phần hạn chế và từng bước đẩy lùi những sai lầm, thiếu sót của học sinh
trong q trình học về số thập phân.
- Giúp giáo viên có kế hoạch đầu tư bồi dưỡng học sinh lòng say mê học tốn từ
đó các em có lịng kiên trì tìm tịi sáng tạo rèn tính kiên nhẫn tỉ mỉ góp phần
nâng cao hiệu quả các môn học khác.
- Nghiên cứu nhận thức đúng quy luật của tư duy từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy học sinh thường mắc khuyết điểm thiếu sót
khi học số thập phân để giải quyết khó khăn trên tơi đã chọn học sinh lớp 5 để
hướng dẫn và có những biện pháp thích hợp để giúp các em khắc phục những
thiếu sót đó.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Nghiên cứu tài liệu, giáo trình, các văn bản
của bộ giáo dục và đào tạo, các tài liệu liên quan
-Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ phương pháp quan sát
+ phương pháp điều tra khảo sát thực tế
+ phương pháp phân tích số liệu
+ phương pháp thống kê xử lí
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Số thập phân được đưa vào chương trình tốn 5 nhằm đáp ứng những nhu
cầu mới về toán học và thực tiễn mà ở tập hợp số tự nhiên khơng cịn đáp ứng

đầy đủ được. Chẳng hạn trong phép chia hai số tự nhiên, không phải lúc nào ta
cũng tìm được thương đúng là một số tự nhiên. Hay khi ta đo độ dài, khối
lượng… của một vật, các số đo cũng không hẳn đã là một số tự nhiên. Vậy để bổ
sung cho những thiếu sót đó, người ta đưa số thập phân vào dạy tiếp ở chương
trình tốn 5 khi mà học sinh đã được học xong cơ bản về số tự nhiên.
Xét về nội dung, số thập phân trong chương trình tốn 5 chỉ là những kiến
thức mở đầu, cơ bản và đơn giản của tập hợp các số hữu tỉ nhưng lại là những
kiến thức nền tảng cho quá trình học tập tiếp theo của mơn tốn và các mơn học
khác ở tiểu học cũng như ở các cấp học khác sau này. Vì thế những kiến thức về
số thập phân mà các em được học ở lớp 5, sẽ có một ý nghĩa rất quan trọng
trong học tập cũng như trong đời sống thực tiễn của các em.
Thế nhưng đối với học sinh tiểu học, do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên nhận
thức của các em còn nhiều hạn chế, khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa chưa
cao, sự chú ý của các em chủ yếu là chú ý không chủ định, nhiều em còn ham
chơi, lười suy nghĩ nên trong học tập nói chung và trong mơn tốn nói riêng
(trong đó có phần về số thập phân) các em vẫn cịn có nhiều thiếu sót cần phải
được quan tâm khắc phục.

2


2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM

Để đáp ứng nhu cầu phát triển chung của đất nước, toàn ngành giáo dục
cũng đang nỗ lực tìm ra những biện pháp tốt nhất để nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục, như là: Đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học;
đổi mới cách thi cử, cách đánh giá học sinh; Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên; tổ
chức các hội thảo, các chuyên đề để giáo viên có cơ hội được học hỏi lẫn nhau;
tăng cường các thiết bị và đồ dùng dạy học vv…Những cách làm đó thực sự đã

và đang đem lại kết quả đáng mừng cho chất lượng dạy – học trong giai đoạn
hiện nay của chúng ta.
Đối với riêng bậc học tiểu học thì hiện nay một số trường tiểu học trong cả
nước đang thực hiện Dự án mô hình trường học mới Việt Nam. Những nội dung
về kiến thức tốn nói chung và của phần số thập phân nói riêng trong tài liệu
hướng dẫn học được đánh giá là đảm bảo tính vừa sức.
Tuy nhiên có một thực tế luôn tồn tại mà mỗi giáo viên chúng ta đều phải
cơng nhận, đó là: ở bất cứ trường nào, lớp nào thì trong mỗi lớp cũng thường có
nhiều các đối tượng học sinh với những trình độ hiểu biết, khả năng nhận thức,
tiếp thu khác nhau. Do đó, trong các giờ học nói chung và trong giờ học tốn nói
riêng thì vẫn khơng sao tránh khỏi có những học sinh mắc những thiếu sót, sai
lầm.
Qua khảo sát thực tế ở lớp 5B (lớp do tôi phụ trách), ngay khi mới bắt đầu
dạy về khái niệm về số thập phân – là những bài học đầu tiên của chương, tôi đã
nhận thấy các em học sinh trong lớp cũng mắc những sai lầm, thiếu sót như các
em học sinh của những năm học trước và những sai sót đó rơi vào tất cả các đối
tượng học sinh kể cả học sinh khá, giỏi.
Kết quả khảo sát 30 học sinh lớp 5B như sau:
Viết phân số thập Viết số thập phân Viết hỗn số chứa
Đọc số thập phân phân thành số thành phân số phân số thập phân
thập phân
thập phân
thành số thập phân
Đúng
Sai
Đúng
Sai
Đúng
Sai
Đúng

Sai
25em
5em
23em
7 em
21em
9 em
22 em
8 em
83,33% 16,67% 76,67% 23,33%
70%
30%
73,33% 26,67%
Nguyên nhân của những thiếu sót thì cũng có rất nhiều và tơi xin được trình
bày những thiếu sót và ngun nhân của những thiếu sót đó ở phần sau.
2.3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
*. CÁC GIẢI PHÁP

Để khắc phục những sai lầm, thiếu sót cho học sinh khi học về số thập phân,
tơi đã chọn một số giải pháp sau:
- Tiến hành phân loại đối tượng học sinh trong lớp.
- Nắm bắt những nội dung sai sót của học sinh. Từ đó đi tìm nguyên nhân và
biện pháp khắc phục.
- Nghiên cứu kĩ sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo để nắm bắt được
những yêu cầu và mức độ cần đạt của từng loại đối tượng học sinh, đề ra yêu
cầu phù hợp trong mỗi tiết dạy.
3


- Lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy – học sao cho

phù hợp với đối tượng.
Các giải pháp trên được tôi kết hợp lồng ghép vào trong mỗi tiết dạy, bài dạy
mà tơi trình bày ở phần tổ chức thực hiện dưới đây.
*. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

a. Củng cố giúp học sinh nắm vững kiến thức khi học bài Khái niệm số
thập phân.
Mặc dù dạy theo mơ hình trường học mới VNEN thì bài “Khái niệm về số
thập phân” được dạy trong 5 tiết. Ở 3 tiết đầu, học sinh bắt đầu nhận biết khái
niệm ban đầu về số thập phân có một hai, ba chữ số ở phần thập phân bằng cách
dựa vào các phân số thập phân có mẫu số bằng 10,100,1000và tử số bé hơn mẫu
số đã học, giáo viên hướng dẫn cho học sinh viết các phân số thập phân có mẫu
số là 10,100,1000 từ quan sát các băng giấy rồi từ phân số thập phân giáo viên
giới thiệu với học sinh cách ghi các phân số đó bằng một loại số mới : số thập
phân.
Ví dụ

1
được viết thành 0,1.
10
4
10
7
100

được viết thành 0,4.
được viết thành 0,07.

…………………
và giáo viên hướng dẫn học sinh cách đọc các số thập phân đó.

Sang đến tiết thứ 4, thứ 5 dựa trên những kiến thức đã nắm được ở 3 tiết đầu,
chúng ta chuyển sang hướng dẫn học sinh viết số thập phân từ các hỗn số mà
phần phân số là phân số thập phân.
Sau khi học sinh trao đổi các ví dụ xong, đến phần hoạt động thực hành, cũng
với việc làm đó nhưng để học sinh tự luyện tập thực hành thì ta sẽ thấy ngay có
rất nhiều học sinh bị lúng túng, nhiều em thuộc đối tượng yếu kém sẽ gặp khó
khăn ngay từ bước đầu, chẳng hạn viết các hỗn số thành số thập phân đã có
nhiều em lúng túng.
Ví dụ: Hỗn số 4

3
được viết thành 4,3 nhưng nhiều em lại viết thành 4,03
10

hoặc 0,43 …
Đặc biệt khi viết các số thập phân thành phân số thập phân học sinh bị sai
nhiều kể cả học sinh khá. Lí do là các em không xác định được quan hệ giữa số
các chữ số phần thập phân của số thập phân và số chữ số ở mẫu số của phân số
thập phân cần viết. Các em không biết cơ sở để xác định điều đó.
Ví dụ: Viết số thập phân thành phân số thập phân
Ta có: 0,04 =
nhau như 0,04 =

4
100

nhưng học sinh lại viết thành các kết quả sai khác

4
4

hay 0,04 =
10
1000

4


Cũng ở tiết thứ 4, thứ 5 này dựa trên những kiến thức đã nắm được ở 3 tiết
đầu, chúng ta chuyển sang hướng dẫn học sinh nắm cấu tạo của số thập phân,
phần này tưởng chừng đơn giản nhưng nếu đi sâu, đi sát chúng ta cũng sẽ thấy
vẫn cịn một số học sinh khơng nắm vững về cấu tạo của số thập phân. Chẳng
hạn khi nêu phần nguyên, phần thập phân của số 7,48 có em đã nêu: “Phần
nguyên là 7 còn phần thập phân là 48”. Nếu hiểu cấu tạo của số thập phân đến
nơi đến chốn em phải nêu: “ phần nguyên là 7 đơn vị, phần thập phân là 48
phần trăm”.
Để khắc phục những thiếu sót trên cho học sinh, khi dạy bài khái niệm số
thập phân, ở phần ơn bài, tơi thường dự đốn trước trong lớp có những đối
tượng học sinh nào có khả năng không nắm vững tôi sẽ gọi các em đó lên để
kiểm tra qua một vài ví dụ cụ thể. Nếu các em không nhớ tôi sẽ dành thời gian
hướng dẫn lại cho các em để các em nhớ mà theo kịp các bước giải tiếp theo.
Còn đối với những học sinh chưa thành thạo khi viết các phân số thập phân
thành số thập phân mà nguyên nhân chủ yếu là do các em không xác định được
ở phần thập phân phải có bao nhiêu chữ số, tơi phải dạy cho các em cách dùng
mẹo ( vì các em chưa học về chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà
thương tìm được là một số thập phân và cũng chưa được học về hàng của số
thập phân ). Tôi hướng dẫn các em đếm ở mẫu số của phân số thập phân đó có
bao nhiêu chữ số 0 thì ở phần thập phân của số thập phân đó sẽ có bấy nhiêu chữ
số và tơi cũng lưu ý các em về các chữ số ở trên tử số sẽ được viết như thế nào
trong số thập phân bằng cách gạch chân các chữ số đó.
Ví dụ: - Phân số thập phân


5
có 2 chữ số 0 ở mẫu số thì ta sẽ viết được số
100

thập phân là 0,05 (số 0,05 có 2 chữ số ở phần thập phân mà tử số đã có một chữ
số 5 nên còn thiếu một chữ số là 0 ở trước chữ số 5) – GV gạch chân để đánh
dấu chữ số trên tử số cho học sinh rõ như sau: 0,05
Hay ở phân số thập phân

37
có 3 chữ số 0 ở mẫu số thì ta sẽ viết được số
1000

thập phân là 0,037 (số 0,037 có 3 chữ số ở phần thập phân mà tử số đã có hai
chữ số là 37 nên còn thiếu một chữ số là 0 ở trước 37 ) - GV gạch chân: 0,037
Đối với những học sinh không nắm được cấu tạo của số thập phân thì kinh
nghiệm giảng dạy cho thấy có một số rất ít các em do khả năng tư duy còn chậm
số còn lại là do các em chưa thật tập trung chú ý trong khi thảo luận hay thầy, cô
giáo hướng dẫn bài. Bởi vậy, lúc này tôi cũng phải chia những em này thành 2
nhóm đối tượng. Với những em tư duy chậm tôi cho các em nhắc đi nhắc lại
nhiều lần cấu tạo của số thập phân rồi khuyến khích các em tự lấy ví dụ sau đó
u cầu các em chỉ ra đâu là phần nguyên, đâu là phần thập phân của số thập
phân đó. Bằng cách ấy, chỉ một vài lần là các em đã nắm được.
Còn đối với những học sinh không nắm được bài do mất tập trung thì trong
thực tế giảng dạy ta thấy có rất nhiều nhưng sự mất tập trung đó nhiều khi
khơng biểu hiện ra bên ngồi khiến giáo viên khơng thể nhận biết được, các em
vẫn ngồi đó, nhìn chăm chú nhưng đầu óc các em lại đang để ở tận đâu đâu. Với
những học sinh này thì giáo viên trong quá trình dạy học ở lớp phải phát hiện để
nắm được và thường xuyên phải chú ý đến các em, thỉnh thoảng phải gọi các em

5


nhắc lại những điều cô vừa giảng xem các em có trả lời được khơng để rèn cho
các em về tính tập trung trong giờ học.
Ví dụ khi nêu cấu tạo của số thập phân 60,892 cần yêu cầu học sinh nêu rõ các
chữ số ở phần nguyên, các chữ số ở phần thập phân: Số 60,892 có hai chữ số
phần nguyên là 6 và 0, ba chữ số phần thập phân là 8,9 và 2 số này có phần
nguyên là 60 đơn vị, phần thập phân là

892
( 892 phần nghìn)
1000

b. Bổ sung kiến thức kĩ năng học sinh cịn thiếu sót khi học bài Hàng của số
thập phân, đọc, viết số thập phân.
Hàng của số thập phân là cơ sở để học sinh biết cách đọc, viết, phân tích cấu
tạo số một cách chắc chắn vì vậy nó rất quan trọng và giáo viên nào cũng biết
điều đó nhưng để dạy cho tất cả học sinh đều nắm vững được thì lại khơng phải
là chuyện dễ. Việc khơng nắm vững được về hàng của số thập phân thể hiện rất
rõ khi các em làm bài tập về đọc, viết số hoặc các bài tập về viết số thập phân
thành phân số thập phân.
Ví dụ khi viết số thập phân gồm có khơng đơn vị, năm phần nghìn. Có nhiều
học sinh lúng túng không viết được và đã viết bừa là 0,5 hoặc 0,05.
Để giúp học sinh viết đúng số thập phân giáo viên cần hướng dẫn học sinh
nắm vững cấu tạo của số thập phân theo từng phần, thứ tự các hàng trong từng
phần.
Hay khi yêu cầu học sinh chuyển số thập phân thành hỗn số có chứa phân
số thập phân chẳng hạn như 8,06 = 8


6
6
nhiều học sinh lại viết là 8,06 = 8
100
10

Từ những ví dụ trên có thể nhận thấy rõ ràng là các em chưa thật sự nắm vững
về hàng của số thập phân nên khơng biết phân tích về vị trí của chữ số đó thuộc
hàng nào trong số thập phân đã cho để mà đọc, viết cho đúng.
Để khắc phục những thiếu sót đó của học sinh, trước hết tơi củng cố cho học
sinh nắm vững lại hàng của số thập phân bằng cách đưa ra các ví dụ về số thập
phân rồi bắt các em phân tích cấu tạo của số đó, trong q trình phân tích cấu
tạo học sinh sẽ nắm vững hơn về các hàng của số thập phân.
Ví dụ số thập phân gồm có khơng đơn vị, năm phần nghìn được viết là 0,005
Vì phần nguyên gồm 0 đơn vị, phần thập phân gồm có 0 phần mười, 0 phần
trăm và 5 phần nghìn). Phải giúp học sinh hiểu được hàng nào khuyết khơng nêu
trong cấu tạo số thì hàng đó có giá trị bằng 0 và viết bằng chữ số 0.
Tương tự như vậy số thập phân có: Chín đơn vị, bốn phần mười, sáu phần
nghìn được viết là 9,406
( Vì phần nguyên gồm 9 đơn vị, phần thập phân gồm 4 phần mười, 0 phần trăm
và 6 phần nghìn.
Mặt khác tơi lại u cầu các em phải thực hiện lại các bài tập chuyển đổi từ số
thập phân ra phân số thập phân bắt đầu từ dạng bài dễ sau đó nâng dần lên đồng
thời mỗi lần học sinh chuyển đổi tôi lại chỉ cho học sinh thấy mối liên quan của
phần thập phân trong mỗi số thập phân với mẫu số của phân số thập phân.
Chẳng hạn như ở ví dụ trên 8,06 = 8

6
ta thấy chữ số 6 đứng ở hàng phần
100


trăm trong số thập phân nên phân số của hỗn số viết từ số thập phân trên phải
6


mẫu số là 100. Bằng những cách làm đó, tơi thấy việc dạy học sinh nắm vững về
hàng của số thập phân để làm tốt các bài tập về đọc, viết và phân tích số thập
phân thực sự rất hiệu quả. Nhiều em tư duy chậm cũng dần dần hiểu ra và tự tin
hơn trong khi làm bài.
c. Giúp học sinh khắc phục những thiếu sót khi học bài số thập phân bằng
nhau và bài so sánh hai số thập phân
Trong bài Số thập phân bằng nhau, trước tiên học thảo luận để tìm các cạp
phân số bằng nhau rồi viết thành hai số thập phân bằng nhau. Sau đó, là hướng
dẫn học sinh những cách làm để có được những số thập phân bằng nhau và giáo
viên yêu cầu học sinh phải nhớ những cách làm đó ( phần thảo luận trong tài liệu
hướng dẫn học). Mặc dù học sinh đã nhớ cách làm nhưng khi vận dụng thực
hành làm các bài tập thì vẫn khơng ít em mắc sai lầm. Ví dụ ở bài tập số 1(trang
89 – Tài liệu hướng dẫn học Toán 5 tập 1A) người ta yêu cầu: Bỏ các chữ số 0 ở
tận cùng bên phải phần thập phân để có các số thập phân viết dưới dạng gọn
hơn có học sinh đã thực hiện như sau:
8,0600 = 8,6
Hay: 79,030 = 79,3
Lí do sai sót ở đây là có một số em chưa thật sự hiểu cụm từ “tận cùng bên
phải” là như thế nào nên cứ thấy những chữ số 0 có ở bên phải dấu phẩy là các
em bỏ đi.
Hay với bài tập 2 (trang 90 – Tài liệu hướng dẫn học Toán 5 tập 1A), người ta
yêu cầu: Viết thêm vào bên phải phần thập phân của số thập phân sau đây để
các phần thập phân của chúng có số chữ số bằng nhau( đều có ba chữ số) có
những em đã làm như thế này:
17,2 = 17,2000

hay 80,01 = 80,01000
Yêu cầu của bài này là phần thập phân có 3 chữ số nhưng nhiều em lại quên
những chữ số đã có ở phần thập phân nên khơng tính vào và cứ thế điền tiếp 3
chữ số 0. Đây là một việc làm thể hiện sự máy móc, ít tư duy của những học
sinh kém linh hoạt. Bởi vậy, khi dạy đến bài này để khắc phục tình trạng học
sinh hiểu bài một cách máy móc thì ngay ở phần ghi nhớ tơi đã giải thích cặn kẽ
để các em hiểu rõ các cụm từ quan trọng như: “bên phải phần thập phân” hay
“ tận cùng bên phải phần thập phân” là như thế nào trong một số thập phân cụ
thể để học sinh dễ hiểu, dễ nhận biết hơn. Mặt khác, khi cho học sinh làm bài
tập, tôi yêu cầu học sinh phải đọc thật kĩ các yêu cầu của bài và gạch chân dưới
một số cụm từ quan trọng nhằm trợ giúp cho những học sinh tư duy kém linh
hoạt tránh được nhầm lẫn.
Mặt khác trong khi lưu ý học sinh giáo viên phải giải thích cho học sinh rõ
ở ví dụ trên 8,0600 = 8,6 chữ số 6 trong số đã cho ở hàng phần trăm nhưng khi
các em viết thành 8,6 thì chữ số 6 lại ở hàng phần mười nên giá trị của chữ số 6
đã bị thay đổi, từ đó các em hiểu và viết đúng: 8,0600 = 8,06.
Đối với bài So sánh hai số thập phân, học sinh phải nắm vững kiến thức về
cấu tạo của số thập phân và hàng của số thập phân đã học ở những phần bài
trước để vận dụng khi thực hiện so sánh. Vì vậy khi dạy bài này ngay từ hoạt
động đầu tài liệu đã đưa ra một vài ví dụ về số thập phân dưới dạng số đo độ dài
7


với đơn vị đo là mét và yêu cầu học sinh so sánh. Để thực hiện được yêu cầu học
sinh nêu phần nguyên, phần thập phân và phân tích cấu tạo của số đó nhằm củng
cố lại kiến thức cho các em giúp các em vào bài mới tốt hơn.
Kinh nghiệm cho thấy khi thực hành so sánh hai số thập phân có khơng ít
học sinh mắc sai sót. Chẳng hạn như có em so sánh 25,29 < 24,299. Khi u cầu
em đó giải thích cách làm em đã trả lời: vì 25,29 là số có 4 chữ số cịn 24,299 là
số có 5 chữ số. Trường hợp này cho thấy em đã nhầm lẫn với so sánh hai số tự

nhiên và cịn nhiều trường hợp sai sót khác nữa.
Để học sinh biết cách so sánh 2 số thập phân và để tránh được những thiếu
sót khi thực hành so sánh thì ngay sau hoạt động cơ bản tơi thường yêu cầu các
em tự lấy các ví dụ về hai số thập phân có phần ngun khơng bằng nhau hoặc
có phần nguyên bằng nhau nhưng ở phần thập phân khác nhau, rồi yêu cầu học
sinh tự so sánh 2 số thập phân đó. Sau đó, tơi cho học sinh cả lớp nhận xét về
các ví dụ bạn vừa tìm và cách so sánh của bạn. Với cách làm này, học sinh vừa
nhanh hiểu bài lại vừa có cơ hội để đánh giá bạn và cũng là để kiểm tra lại việc
nắm kiến thức của mình.
Trong phần so sánh số thập phân, dạng bài tập khó nhất đối với các em là: Xếp
các số thập phân theo thứ tự từ bé đến lớn hoặc từ lớn đến bé. Với dạng bài tập
này, cùng một lúc các em phải so sánh nhiều số nên bị rối đâm ra lúng túng và
dẫn đến nhiều em sắp xếp bị sai. Vì vậy, khi dạy đến dạng bài này GV phải định
hướng cho học sinh biết cách quan sát các số đã cho để tìm ra các số có phần
ngun bằng nhau thì xếp nó vào một nhóm (ghi ra giấy nháp). Sau đó yêu cầu
học sinh so sánh phần nguyên của các nhóm với nhau để biết nhóm nào xếp
trước, nhóm nào xếp sau theo yêu cầu của đề bài. Sau cùng mới hướng dẫn học
sinh tiếp tục so sánh phần thập phân của các số trong mỗi nhóm để biết trong
nhóm đó số nào xếp trước, số nào xếp sau. Cách làm này đã có hiệu quả rất tốt,
đặc biệt là đối với những học sinh có khả năng tư duy chậm thì nó sẽ giúp các
em khơng bị rối và hiểu ra được phương pháp làm, giúp các em hoàn thành bài
tập nhanh chóng và hiệu quả hơn.
d. Ơn tập, rèn kĩ năng về các phép tính với số thập phân
* Về cộng, trừ số thập phân
Khi học về phép cộng, phép trừ số thập phân, những sai lầm mà học sinh
thường mắc đó là:
- Đặt tính khơng thẳng hàng sai nhiều nhất là trong trường hợp cộng ( trừ)
một số tự nhiên cho một số thập phân. Chẳng hạn với phép tính 69 – 7,85 có em
đã đặt tính như sau:
69

hay
69
7,8 5
7,8 5
- Quên không nhớ trong trường hợp cộng, trừ có nhớ.
Ví dụ với phép tính 50,81 – 19,256 có học sinh đã làm như sau:
50,81
19,256
31,566
- Quên viết dấu phẩy ở kết quả, chẳng hạn:
68,72
29,91
38 81
8


Những trường hợp thiếu sót ở trên thì ngun nhân chủ yếu vẫn là do các em
chưa thật thành thạo về đặt tính và tính. Vì vậy, để giúp các em khắc phục
những thiếu sót này thì khơng có cách nào khác là phải cho học sinh luyện tính
tốn thật nhiều với nhiều dạng bài khác nhau rồi tùy từng trường hợp sai sót của
các em mà nhận ra các em còn vướng mắc chỗ nào để giúp các em khắc phục.
Chẳng hạn với những em cịn đặt tính khơng thẳng hàng, trước hết giáo viên cần
phải kiểm tra lại xem học sinh có nắm được về các hàng của số thập phân đó
hay khơng. Nếu học sinh nắm được các hàng mà chỉ do sơ suất nên nhầm lẫn thì
giáo viên chỉ cần nhắc các em về tính cẩn thận. Cịn nếu do em đó chưa nắm
vững về các hàng của số thập phân nên mặc dù đã thuộc quy tắc là những chữ số
ở cùng hàng đặt thẳng cột với nhau nhưng những chữ số đó thuộc hàng nào các
em vẫn khơng rõ thì đương nhiên em đó vẫn đặt tính sai và tính sai kết quả. Lúc
này, buộc giáo viên phải hướng dẫn lại cho em về các hàng của số thập phân rồi
gọi em đó lên bảng thực hiện đặt tính lại. Khi đặt tính xong, giáo viên yêu cầu

học sinh gióng lại những chữ số ở cùng một hàng xem đã thẳng cột hay chưa rồi
mới cho em thực hành tính. Như vậy sẽ giúp các em hiểu được cách đặt tính và
sẽ nhớ rất lâu khơng bị sai sót nữa.
*Hai điểm cần đặc biệt lưu ý cho học sinh khi thực hiện phép tính cộng, trừ số
thập phân là:
- Khi đặt tính, hai dấu phẩy phải đặt thẳng cột với nhau
- Khi cộng( hoặc trừ), nếu một số khơng có chữ số nào đó ở hàng bên phải
phần thập phân thì coi chữ số đó bằng 0. Đặc biệt là ở phép trừ, khi gặp trường
hợp số chữ số ở phần thập phân của số bị trừ ít hơn số chữ số ở phần thập phân
của số trừ, để giúp học sinh tránh nhầm lẫn thì giáo viên hướng dẫn các em viết
thêm chữ số 0 vào tận cùng bên phải phần thập phân của số bị trừ để số chữ số
của phần thập phân của số trừ và số bị trừ bằng nhau rồi mới thực hiện phép tính
trừ.
Hay trong các trường hợp cộng, trừ có nhớ mà học sinh lại qn khơng nhớ
thì tơi thường hướng dẫn học sinh một mẹo như sau: nếu nhớ một thì chấm 1
chấm nhỏ bên cạnh chữ số vừa viết, nếu nhớ hai thì sẽ chấm hai chấm và nếu
nhớ ba, nhớ bốn thì chấm ba , bốn chấm vv … Làm như vậy một phần sẽ hỗ trợ
được các em không phải ghi nhớ trong đầu là nhớ mấy, phần khác là nó ln
hiển thị ngay trước mắt là nhớ bao nhiêu giúp học sinh khơng cịn bị qn nữa.
* Về nhân, chia số thập phân
Kinh nghiệm cho thấy, đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5
nói riêng, khi học đến các phép tính về nhân, chia bao giờ cũng có nhiều học
sinh mắc sai sót hơn là khi học về các phép tính cộng, trừ.
Với riêng về nhân số thập phân, những thiếu sót mà học sinh thường hay
mắc đó là:
- Qn đặt dấu phẩy ở tích.
- Đặt dấu phẩy ở tích sai.
- Nhầm lẫn khi tính tốn, nhất là khi nhân có nhớ, các em hay có thói quen
“nhớ một” như ở phép cộng hai số hạng, trong khi phép nhân có thể nhớ hai,
ba, bốn vv..nhưng do thói quen đó nên khi thực hiện các phép nhân các em hay

nhầm lẫn mà dẫn đến cho kết quả sai.
9


- Khi nhân một số thập phân với 10, 100, 1000,…hay với 0,1; 0,01; 0,001…các
em phải dịch dấu phẩy sang phải hay sang trái một, hai, ba,…chữ số. Nhưng
nếu gặp trường hợp các chữ số ở phần thập phân ít hơn chữ số cần phải dịch
chuyển thì nhiều em cịn lúng túng không biết phải viết thêm các chữ số 0 cần
thiết vào vị trí nào trong phần thập phân của số đó. Ví dụ trong trường hợp: 0,15
× 1000 thì kết quả đúng là 150 nhưng có em lại là chỉ có kết quả là 15 hay 15 x
0,001 thì kết quả đúng là 0,015 nhưng có em lại là chỉ có kết quả là 0,15 hay
1,5…
Tìm hiểu các ngun nhân dẫn đến tình trạng sai sót của học sinh, tôi nhận
thấy: nguyên nhân của việc quên dấu phẩy ở tích là do các em lâu nay chỉ quen
nhân các số tự nhiên nên khi bắt đầu học về nhân các số thập phân thì chưa có
được thói quen nhớ để đặt dấu phẩy. Còn việc các em đặt sai dấu phẩy ở tích thì
do có một số ít các em vì khơng cẩn thận nên viết nhầm vị trí dấu phẩy, cịn
một số em khác là do khơng nắm được cách thực hiện và cũng không nắm vững
các quy tắc về nhân số thập phân nên mới dẫn đến đặt sai dấu phẩy ở tích. Đối
với những em hay tính sai kết quả trong khi nhân thì ngun nhân chính vẫn là
các em đó chưa có được kĩ năng tính tốn thành thạo.
Để khắc phục tình trạng trên, một mặt tôi tập trung đầu tư hơn cho việc
nghiên cứu bài trước khi lên lớp rồi dự kiến trước những sai sót có thể xảy ra để
có biện pháp giúp học sinh khắc phục kịp thời. Đặc biệt, ngay từ khi dạy những
bài ơn tập đầu sách của tốn 5, phần ôn tập về số tự nhiên và các phép tính với
số tự nhiên, tơi đã kiểm tra để nắm bắt xem trong lớp mình cịn có những học
sinh nào chưa thành thạo trong tính tốn, chưa thuộc hết các bảng nhân thì tơi
tăng cường phụ đạo, củng cố, bổ sung những thiếu sót đó cho các em, nhằm
giúp các em có được sự chuẩn bị tốt cho học chương tiếp theo – chương học về
số thập phân.

Mặt khác, do các em làm học theo nhóm các cá nhân trong nhóm sẽ phải
thực hiện các phép tính mà tơi yêu cầu hoặc bài trong tài liệu hướng dẫn học u
cầu. Sau đó, tơi tổ chức cho các em trong nhóm kiểm tra kết quả của nhau, tìm
ra những thiếu sót của bạn trong nhóm mình để báo cáo lại cho cơ giáo. Mục
đích là tạo cho các em khơng khí thi đua làm bài và nhất là để các em cịn giúp
tơi phát hiện kịp thời những em nào cịn hay bị thiếu sót để ngay lúc đó có thể
hướng cho các em, giúp các em khắc phục ngay được những sai sót của mình.
Bên cạnh đó, tơi cịn rất quan tâm đến việc yêu cầu tất cả học sinh trong lớp phải
thuộc làu các quy tắc có trong bài học. Bởi có học quy tắc học sinh mới có cơ sở
để làm bài và nhớ cách làm bài lâu hơn.
Cịn nói về chia số thập phân, đây là phần khó nhất trong trong các phần
học về các phép tính với số thập phân nên khi dạy đến phần này, rất nhiều giáo
viên kêu ca là học sinh làm chậm, làm yếu, làm sai sót nhiều. Trong năm học
vừa qua, tôi đã thống kê ra một số dạng lỗi cơ bản của học sinh khi học về chia
số thập phân như sau:
- Nhiều em ước lượng để tìm thương trong các phép chia số thập phân cịn
rất chậm, có em ước lượng mãi không được. Các bước tiếp theo như nhân nhẩm,
trừ nhẩm để rút số dư cũng có những em chưa thạo nên thường phải viết phép
nhân, phép trừ đó ra giấy nháp để tính phụ ở ngồi nên rất mất thời gian.
10


- Quên không viết dấu phẩy vào thương trước khi lấy chữ số đầu tiên ở phần
thập phân trong phép chia một số thập phân cho một số tự nhiên hay trong phép
chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà còn dư muốn chia tiếp ta đánh dấu
phẩy vào thương và thêm 0 vào bên phải số dư để tiếp tục chia nhưng nhiều em
cũng đã quên.
- Khi chia một số thập phân cho 10; 100, 1000… hay 0,1; 0,01; 0,001…các
em phải dịch dấu phẩy sang trái hay sang phải một, hai, ba,…chữ số. Nhưng nếu
gặp trường hợp các chữ số ở phần nguyên hay phần thập phân ít hơn chữ số cần

phải dịch chuyển thì cũng có rất nhiều em lúng túng làm sai.
Ví dụ: 13,7 : 1000 = 0,0137 thì có em lại chỉ có kết quả là 0,137
- Nhiều em quên viết chữ số 0 vào thương trong những phép chia có chữ số
0 xen giữa ở thương.
- Một số em xác định sai số dư trong phép chia số thập phân.
Trên đây mới chỉ là những sai sót cơ bản và nguyên nhân dẫn đến những sai
sót đó cũng có rất nhiều. Chẳng hạn như:
+ Các em chưa nắm vững thủ thuật chia (ngay từ khi chia các số tự nhiên).
+ Chưa thuộc các quy tắc trong mỗi bài học.
+ Hay nhầm lẫn giữa chia dạng bài này sang dạng bài kia.
+ Cẩu thả, vội vàng trong khi chia vv…
Để khắc phục tình trạng trên thì cũng như đối với các phép tính khác, trước
tiên, tôi phải nắm bắt được các đối tượng học sinh trong lớp xem cịn có những
em nào mắc nhiều thiếu sót để phụ đạo thêm cho các em, nhằm củng cố cho các
em vững về các thủ thuật chia (trong đó có cả các phép tính nhân nhẩm, trừ
nhẩm). Sau đó trên lớp, trong phần kiểm tra bài cũ, tơi tăng cường gọi các em đó
lên bảng thực hiện các bài tập về nhà đồng thời kiểm tra việc học thuộc quy tắc
của bài học trước đó để các em nắm kiến thức chắc chắn hơn. Trong phần giảng
bài, tơi chú trọng đổi mới phương pháp và hình thức dạy học sao cho phù hợp
với bài dạy và các đối tượng học sinh trong lớp.
Đối với những học sinh hay bị nhầm lẫn trường hợp này với trường hợp kia
thì tơi tổ chức cho các em thực hành tính tốn nhiều. Mặc dù cho học sinh thực
hành tính tốn nhiều nhưng cách làm của tơi là khơng ơm đồm một lúc nhiều
dạng, mà phải phân chia ra nay một dạng, mai một dạng sau đó mới cho luyện
tập tổng hợp để tránh các em bị rối.
Đối với những học sinh cẩu thả, vội vàng hay quên viết dấu phẩy vào
thương thì trên lớp, tơi thường nhắc nhở các em nhẩm lại quy tắc trước khi tính
tốn và u cầu các em kiểm tra lại bài cẩn thận sau khi làm xong. Đối với
những em hay quên viết chữ số 0 vào giữa thương trong trường hợp thương có
chữ số 0 thì tơi hướng dẫn rõ hơn cho các em là mỗi lần lấy thêm một chữ số để

chia thì bao giờ cũng viết được ở thương một chữ số và tơi thường ra thêm một
số ví dụ để các em thực hành luyện tập nhiều cho nhớ. Hoặc có em làm sai, tơi
u cầu chính em đó giải thích lại cách làm của mình để nhận ra lỗi sai mà sửa
chữa.
Còn trường hợp xác định sai số dư trong phép chia số thập phân thì tơi thấy
nhiều đối tượng học sinh khá,giỏi trong lớp cũng bị mắc chứ khơng chỉ có học
sinh trung bình và yếu kém. Để khắc phục cho học sinh về trường hợp này, tôi
11


thường hướng dẫn học sinh khi thực hiện phép chia, sau mỗi lần nhân nhẩm, trừ
nhẩm thì các số dư còn lại phải được viết đúng hàng, đúng cột. Sau khi chia
xong, để biết số dư là bao nhiêu, tôi chỉ cần hướng dẫn học sinh dóng thẳng dấu
phẩy ban đầu của số bị chia xuống là đọc ngay được số dư cần tìm, dấu phẩy ở
số dư cũng thẳng cột với dấu phẩy ban đầu của số bị chia( tránh nhầm những
trường hợp là đã chuyển dấu phẩy ban đầu đi một, hai chữ số).
Ví dụ: Tìm dư trong phép chia, nếu chỉ lấy đến hai chữ số ở phần thập phân của
thương:
33,14 58
33 1
0,57
4 14
8

Dóng thẳng cột của dấu phẩy ở số bị chia xuống, ta thấy phần nguyên dư 0,
hàng phần mười dư 0, hàng phần trăm dư 8 . Vậy số dư trong phép chia trên
là : 0,08.
+ Trong phép chia số thập phân, có thể xác định được số dư của mỗi bước
chia, còn số dư của phép chia lại phụ thuộc vào việc xác định thương. Có nghĩa
là: giá trị của số dư phụ thuộc vào số chữ số ở phần thập phân của thương. Nếu

phần thập phân của thương có bao nhiêu chữ số thì phần thập phân của số dư có
bấy nhiêu chữ số.
Ví dụ: Phép chia
22,44 18
44
1,24
84
12
Với thương là 1,24 thì số dư là 0,12
Ví dụ: Phép chia
22,44 18
4 4 1,246
84
120
12
Với thương là 1,246 thì số dư là 0,012
Ngồi cách làm này, tơi cũng cịn hướng dẫn cho học sinh lấy thương nhân
với số chia rồi lấy số bị chia trừ đi kết quả vừa nhân được sẽ ra số dư. Để cho
chắc chắn hơn thì tơi lại hướng dẫn học sinh lấy thương nhân với số chia rồi
cộng với số dư đó xem nếu ra đúng số bị chia thì số dư đó em đã tìm đúng.
Bằng những cách làm đó, tơi thấy đa số học sinh cịn non, yếu trong phép
chia đã khắc phục được những thiếu sót của mình khi học về phép chia số thập
phân. Các em khơng cịn ngại khi phải thực hiện chia nữa, các bước tiến hành
chia đã nhanh hơn, kết quả chia đã chính xác hơn, rất ít em cịn bị qn viết dấu
phẩy ở thương, đặc biệt học sinh khơng cịn lúng túng khi tìm số dư nữa. Bản
thân tơi cũng rất hài lòng với kết quả đạt được của các em.
2.4 HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG.

Những việc làm của tôi ở trên thật ra cũng không có gì là lạ lẫm đối với tất

cả giáo viên chúng ta, chỉ có điều cách áp dụng của mỗi người có thể khác nhau.
Với tơi, tơi nhận thấy từ những biện pháp thực hiện như trên, trong năm học
12


2016 – 2017 này, tôi đã giúp cho học sinh lớp 5 do tôi phụ trách khắc phục được
rất nhiều những thiếu sót trong khi học về số thập phân và các phép tính với số
thập phân. Đặc biệt là đối với đối tượng học sinh hoàn thành bài chậm, từ chỗ
các em rất ngại học tốn, sợ phải tính tốn với những con số lớn thì nay các em
đã mạnh dạn, tự tin hơn, khơng cịn rụt rè, che đậy mỗi khi cô đến bên cạnh
kiểm tra. Nhiều em đã tích cực xung phong lên bảng để làm bài. Trong lớp tơi
có những em được đánh giá là hay có nhiều thiếu sót trong học tốn thì giờ đây
các em đã tiến bộ rất nhiều, nhất là những học sinh có năng lực tiếp thu rất
chậm, học đến lớp 3 có em vẫn cịn phải đưa ngón tay ra để thực hiện các phép
tính cộng, trừ thì nay các em đã rất tiến bộ trong phần học về số thập phân. Các
phép tính về số thập phân tuy em chưa tính nhanh như các bạn trong lớp nhưng
làm đến đâu là chắc đến đó. Bản thân em phấn khởi và các bạn trong lớp cũng
phấn khởi vì sự tiến bộ của em. Với những em rất hay quên, hay sai trong tính
tốn thì đến nay hầu hết các bài tập các em đều làm đúng mà tốc độ làm bài
cũng nhanh hơn rõ rệt. Có những em lười học quy tắc, nắm kiến thức khơng
chắc lại có phần bị hổng kiến thức thì nay đã chăm chỉ hơn, biết cách cần phải
học những gì, phải làm thế nào để nắm vững được kiến thức hơn.
Với bản thân, khi giúp học sinh khắc phục những thiếu sót trong khi học về
số thập phân, tơi cũng thấy mình thu hoạch được rất nhiều điều bổ ích, đó là:
+ Nắm được một số những lỗi sai cơ bản mà học sinh lớp 5 thường mắc khi
học về số thập phân để tích thêm những kinh nghiệm cho công tác giảng dạy
trong những năm học sau.
+ Đã chỉ ra được những nguyên nhân dẫn đến học sinh thường hay lúng
túng, vướng mắc khi học về số thập phân.
+ Đã tìm ra được một số biện pháp khắc phục những thiếu sót cho học sinh

khi học về số thập phân và đã áp dụng bước đầu thấy có hiệu quả.
+ Khi thực hiện cơng việc giúp học sinh khắc phục những thiếu sót đó, bản
thân tôi được mở rộng thêm tầm hiểu biết và là cơ sở để sau này tơi tiếp tục đi
tìm hiểu, đúc rút thêm nhiều kinh nghiệm quý báu ở những lĩnh vực khác.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Phần học về số thập phân trong chương trình tốn 5 được đánh giá là tương
đối phù hợp, đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh. Tuy nhiên trong một lớp
học bao giờ cũng có nhiều đối tượng học sinh với các khả năng, trình độ hiểu
biết, khả năng tư duy khác nhau. Do đó, khơng phải tất cả các em đều có thể học
tốt được phần này, nhiều em gặp phải khó khăn là điều khơng thể tránh khỏi. Vì
thế là một giáo viên, chúng ta phải có trách nhiệm tìm tịi, nghiên cứu để tìm
cách giúp đỡ các em. Điều đó địi hỏi chúng ta phải thực sự u thương học
sinh, có lịng nhiệt tình, thật sự tâm huyết với nghề.
Trên cơ sở kết quả đạt được của học sinh, bản thân tôi đã rút ra được một số
điều cần phải lưu ý như sau:
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải xác định chính xác năng lực,
trình độ của học sinh. Từ đó phân loại học sinh theo hướng phân hóa đối tượng.
Chú trọng nhiều đến đối tượng học sinh trung bình và học sinh yếu kém.
13


- Cần đầu tư cho việc nghiên cứu bài và các hình thức tổ chức dạy học để
giờ học thật sự sinh động, hấp dẫn.
- Khi hướng dẫn học sinh khắc phục những sai sót thì cần phải nắm được
những sai sót và nguyên nhân dẫn đến sai sót đó của học sinh để tìm cách khắc
phục.
- Vì đặc điểm của học sinh tiểu học là nhanh nhớ nhưng lại cũng chóng
qn nên trong q trình dạy học, giáo viên nên biết kết hợp ơn lại những kiến
thức cũ có liên quan để giúp học sinh vừa có dịp củng cố lại kiến thức cũ đồng

thời chuẩn bị tốt cho các em tiếp thu kiến thức mới.
3.2 Kiến nghị
* Đối với giáo viên: Tích cực tự học tự bồi dưỡng , nghiên cứu kĩ tài liệu hướng
dẫn học trước khi đến lớp và cần dạy học sinh với lòng nhiệt tình, tận tụy nhất.
* Đối với Phịng Giáo dục: Hằng năm tổ chức các hội nghị chuyên đề để báo
cáo các đề tài có tính ứng dụng cao trong học tập để giáo viên học tập.
Trên đây là một số kinh nghiệm nho nhỏ mà tôi đã áp dụng trong thực tế
giảng dạy và thấy thực sự có hiệu quả. Tuy nhiên trong trình bày chắc chắn sẽ
khơng tránh khỏi những sai sót rất mong nhận được sự góp ý của Hội đồng khoa
học và của bạn bè, đồng nghiệp.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu trưởng

Đỗ Thị Phương

Người viết

Lê Thị Hoa

14


15





×