HÀNH TRÌNH THAM QUAN DI SẢN MIỀN TRUNG
Nhờ sự hỗ trợ, tạo điều kiện của Nhà trường, các Phòng Ban, Ban lãnh
đạo Khoa, lớp chúng tơi đã có chuyến tham quan thực tế di sản miền Trung,
được ghé thăm và tìm hiểu nhiều khu di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh của
khúc ruột miền Trung thân yêu như: các địa Danh nổi tiếng ở Huế, Nghĩa trang
liệt sĩ đường 9, Phong Nha – Kẻ Bàng, Thành cổ Quảng Trị…Nhờ chuyến đi
này, chúng tôi được biết thêm nhiều điều bổ ích và lý thú. Chuyến đi cịn là sợi
dây gắn kết các thành viên trong lớp lại với nhau và rút ngắn khoảng cách của
sinh viên với các giảng viên. Giúp mọi người hiểu nhau hơn. Chuyến đi đã để lại
trong tơi một kỉ niệm sâu sắc khó phai.
Trước khi khởi hành một ngày, nhìn trên gương mặt của các bạn ai ai cũng
háo hức, nơn nóng mong đến ngày xe lăn bánh. Ngày hôm sau, lớp chúng tôi đã
tập trung ở trường để sáng mai khởi hành sớm, tất cả các thành viên của đoàn đã
chuẩn bị sẵn sàng để khởi hành. Ngồi trên xe, nhìn qua cửa kính, tơi thấy những
cánh đồng lúa trĩu bơng, những ngọn núi cao xanh bát ngát và những dịng sơng
mênh mong êm đềm trơi, ở đây tơi cịn được thấy những ngọn đồi núi nằm cạnh
biển khơi, điều này tạo cho miền trung một phong cảnh hùng vĩ, uy nghi và
hiểm trở.
Điểm tham quan đầu tiên trong chuyến hành trình là mảnh đất Quảng
Bình, đến thăm tượng đài mẹ Suốt bên bờ Nhật Lệ. Thị xã Đồng Hới (nay là
thành phố Đồng Hới - Quảng Bình) nhỏ bé có con sơng Nhật Lệ oằn mình dưới
bom đạn, đã in dấu trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam trong những ngày
đầu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Nơi đây có mẹ Suốt, người chèo
đị chở bộ đội qua sông trong những ngày chiến đấu ác liệt, đã trở thành biểu
tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một tấm gương tiêu biểu của người
phụ nữ Việt Nam anh hùng. Ngày 11/10/1968, trong lúc làm nhiệm vụ, mẹ Suốt
đã anh dũng hy sinh bởi một trận bom đạn của kẻ thù.
1
Mẹ Nguyễn Thị Suốt sinh năm 1906 tại xóm Vạn chài làng, Phú Mỹ (nay
thuộc thôn Mỹ Cảnh, xã Bảo Ninh, thành phố Đồng Hới). Từ thuở nhỏ phải đi ở
nuôi thân, cuộc đời của mẹ là những tháng ngày đi ở đợ hết nhà giàu này đến
nhà giàu khác, làm thuê làm mướn suốt năm, suốt tháng mà vẫn khổ cực. Cách
mạng Tháng Tám thành công chặt đứt xiềng xích nơ lệ, giải phóng q hương,
giải phóng dân tộc và giải phóng chính cuộc đời mẹ. Nhưng chưa kịp vui mừng
thì thực dân Pháp lại xâm lược nước ta lần nữa. Cũng như đồng bào cả nước, mẹ
phải tiếp tục cuộc đời lầm than, cay đắng.
Khi giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, mẹ đã 60 tuổi. Với tình
yêu quê hương tha thiết, theo tiếng gọi của cách mạng, của Bác Hồ, mẹ Suốt đã
xung phong nhận một cơng việc tưởng như bình thường nhưng vơ cùng nguy
hiểm: Chở đị ngang qua sơng Nhật Lệ. Đây là một trong ba nhiệm vụ quan
trọng của tổ 3 phòng: phòng chữa cháy; cấp cứu, chuyển tải thương binh và giao
thơng đi lại. Đưa đị, phục vụ nhân dân qua lại, mẹ là người lái đị có trách
nhiệm. Mặc dầu đã có tuổi, đến lượt trực đị, bất kể đêm khuya, mẹ ln có mặt.
Khi phục vụ chiến đấu mẹ càng tích cực khẩn trương. Cán bộ, bộ đội cần đi
cơng tác bất kể giờ nào, mẹ đều vui lịng chở ngay; kể cả lúc nửa đêm, cho đến
trường hợp báo động mẹ cũng không ngần ngại.
Ngày 7/2/1965 (tức là ngày mồng 6 tết ất Tỵ) không lực Hoa Kỳ ồ ạt tấn
công bắn phá thị xã Đồng Hới và các vùng lân cận (chúng đã huy động 160 lần
chiếc máy bay phản lực hiện đại). Đây là trận oanh tạc lớn mở màn cho cuộc
chiến tranh leo thang phá hoại của giặc Mỹ đối với nhân dân ta nói chung, Đồng
Hới nói riêng. Thị xã Đồng Hới như rung chuyển trong khói lửa đạn bom của kẻ
thù. Biến căm thù thành hành động cách mạng, cả thị xã Đồng Hới và làng cát
nhỏ Bảo Ninh đã dũng cảm kiên cường chiến đấu với máy bay Mỹ.
Trên sông Nhật Lệ, những cột nước đen ngòm tung lên dữ dội bởi đạn
bom. Bất chấp cả những lần máy bay bổ nhào, phóng róc két, bắn đạn 20 ly
ngăn chặn, mẹ Suốt vẫn hiên ngang cầm chắc tay chèo chở bộ đội sang sông,
2
vận chuyển đạn từ bờ ra tàu chiến của ta để ta đánh trả quân thù. Những chuyến
đò của mẹ cũng là đường dây thông tin liên lạc giữa thị xã Đồng Hới với Bảo
Ninh. Dưới làn mưa bom bảo đạn của kẻ thù, mẹ cùng chiếc đò ngang đưa đón
cán bộ, bộ đội, nhân dân qua lại đơi bờ.
Khơng hình ảnh nào đẹp hơn một bà mẹ đã ngồi 60 tuổi mà vẫn bất chấp
hiểm nguy, hiên ngang ngẩng cao đầu trước hàng loạt đạn bom của Mỹ luôn
khống chế và ngăn chặn. Những người đã từng qua đò của mẹ trong những giờ
phút nóng bỏng đó vơ cùng khâm phục trước lòng quả cảm, gan dạ của một bà
mẹ đã biến căm thù thành hành động phi thường. Cho đến nay, những người đã
từng trực tiếp chiến đấu và chứng kiến sáng 7/2/1965 vẫn không thể lý giải và
hiểu nổi vì sao giữa dịng Nhật Lệ nước sơi, đạn bỏng mà mẹ Suốt vẫn anh dũng
xông pha và hồn thành nhiệm vụ xuất sắc đến thế.
Chiến cơng của mẹ Suốt cùng bao chiến công thầm lặng khác của quân và
dân Đồng Hới đã lập nên một kỳ tích vang dội: Chỉ trong hai ngày 7 và
8/2/1965, quân dân Đồng Hới đã bắn rơi 14 máy bay Mỹ. Từ ngày 14/2 đến
28/4/1965, 5 tàu chiến Mỹ bị bắn chìm, bắn cháy tại biển Nhật Lệ - mở đầu cho
thắng lợi rực rỡ của quân và dân ta.
Sau trận chiến đấu ác liệt ấy, con đò mẹ Suốt lại tiếp tục đưa đón cán bộ,
bộ đội sang sơng trong những ngày đánh Mỹ. Với những chiến công của mẹ,
ngày 1/1/1967, mẹ Nguyễn Thị Suốt đã được Đảng và Nhà nước ta phong tặng
danh hiệu Anh hùng ngành Giao thông vận tải trong chống Mỹ cứu nước. Chiến
tranh ngày càng ác liệt, bị thua đau ở miền Nam, đế quốc Mỹ lại tăng cường
đánh phá miền Bắc và Đồng Hới lại tiếp tục hứng chịu cảnh đạn bom. Ngày
11/10/1968, trong lúc làm nhiệm vụ, mẹ Suốt đã anh dũng hy sinh bởi một trận
bom đạn của kẻ thù. Mẹ Suốt đã trở thành đề tài xúc động và hào sảng cho biết
bao tác phẩm văn học - nghệ thuật, về một người phụ nữ, một người mẹ chỉ với
mái chèo và trái tim yêu nước, thương nhà mà quyết sống mái với quân thù, tiêu
biểu trong đó là bài thơ "Mẹ Suốt” của nhà thơ Tố Hữu, người được Giáo sư Hà
3
Minh Đức xem là "miêu tả thành cơng hình ảnh người mẹ trong thơ Việt Nam
hiện đại":
“Một tay lái chiếc đị ngang
Bến sơng Nhật Lệ, qn sang đêm ngày
Sợ chi sóng nước tàu bay
Tây kia ta đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua”.
Hình ảnh mẹ Suốt sống mãi trong lịng nhân dân Quảng Bình và nhân dân
cả nước. Bến đị mẹ chèo năm xưa nay đã trở thành một di tích lịch sử tiêu biểu
ở Quảng Bình trong thời kỳ chống Mỹ với tên gọi thân thương, kính trọng: Bến
đị mẹ Suốt.
Năm 1980, để tưởng nhớ và thể hiện sự cảm kích về một người mẹ anh
hùng của quê hương, UBND thị xã Đồng Hới đã cho xây dựng bia đài mẹ Suốt
nằm giữa trung tâm của bến đò. Đến năm 2003, vào dịp cả nước ta mừng lễ
Quốc khánh 2/9, tượng đài mẹ Suốt và quần thể khu tưởng niệm được cắt băng
khánh thành. Tượng cao 7m (tính cả bệ), khn mặt hướng ra sơng Nhật Lệ,
cách bến đị xưa hơn 50m. Đây là địa chỉ tham quan du lịch, nơi sinh hoạt văn
hóa của nhân dân thành phố và du khách gần xa khi đến với Quảng Bình và bày
tỏ lịng ngưỡng mộ, cảm kích trước một người mẹ bình thường nhưng rất đỗi
anh hùng.
Trong chuyến hành trình, chúng tơi đã có mặt tại động Phong Nha - Di
sản văn hóa thế giới nằm trong Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng tại huyện
Bố Trạch - tỉnh Quảng Bình. Chúng tơi ngược dịng sơng Son đi thuyền vào
trong động. Sự kỳ ảo của động Phong Nha khiến tôi cảm thấy như mình bị lạc
vào thế giới thần tiên của đá, của nước. Những nhũ thạch, những kiến tạo địa
chất, sự xâm thực đã ăn mịn, rửa trơi đá vơi trong hàng triệu năm đã dần hình
thành nên 1 hang động ăn sâu vào núi đá vôi tuyệt đẹp.
4
Điểm tới tiếp theo trong cuộc hành trình là thành cổ Quảng Trị. Không
gian của thị xã Quảng Trị — đặc biệt là ở Thành cổ - khiến người ta có cảm giác
ln phảng phất khói hương tưởng nhớ những người đã khuất. Đồn chúng tơi
nghe anh hướng dẫn tại đây kể lại rằng, trong trận đánh 81 ngày đêm năm xưa
tại Thành cổ, 14.000 cán bộ, chiến sĩ và đồng bào hy sinh với vơ vàn câu chuyện
về lịng dũng cảm, sự hy sinh quên mình của rất nhiều chiến sĩ tuổi đôi mươi.
Tại Thành cổ Quảng Trị, không thể không chiêm ngưỡng tượng đài tưởng
niệm các liệt sĩ hy sinh trong trận đánh năm xưa. Tượng đài có hình trịn tượng
trưng nấm mồ cho những người đã mất. Phía dưới của tượng đài là hành trang
người lính gồm nón, ba lơ và một cây thiên mệnh hướng lên trời xuyên qua ba
áng mây. Phía trên cây thiên mệnh có một ngọn nến và ánh hào quang, dưới tầng
mây cuối cùng có gắn hình tượng chung là ba bát cơm tiễn người đã khuất.
Ngồi vịng trịn gắn 81 tờ lịch, thể hiện 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt của các
chiến sĩ giải phóng qn. Trong khn viên Thành cổ có tháp chng lớn được
đặt tại quảng trường nối liền Thành cổ và bờ sông Thạch Hãn thường xuyên
vang lên những hồi chuông ngân dài với ý nghĩa cầu mong linh hồn các liệt sĩ đã
hy sinh được siêu thốt. Góc phía Tây Nam của Thành cổ là Bảo tàng với rất
nhiều chứng tích chiến tranh được lưu giữ và thuyết minh đầy cảm xúc, khiến
chúng tôi tất cả đều bồi hồi xúc động và hình dung ra chiến tranh thật khốc liệt,
thật tàn bạo, và chia ly.
Thành cổ Quảng Trị do vua Gia Long ra lệnh xây dựng từ những năm đầu
thế kỷ 19, trên một khu đất cao với sơng Thạch Hãn ở phía Tây, sơng Vĩnh Định
ở phía Bắc và vùng dân cư đồng bằng Triệu Hải ở Đông và Nam. Dưới thời Nhà
Nguyễn, Thành cổ Quảng Trị là trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của tỉnh
Quảng Trị, là thành lũy quân sự bảo vệ kinh đô Huế. Sau trận chiến năm 1972,
Thành cổ gần như bị san phẳng; chỉ cịn sót lại một cửa hướng Đơng tương đối
ngun hình và vài đoạn tường thành cùng giao thơng hào bên ngồi chi chít vết
bom đạn. Hiện nay, chỉ có vài đoạn tường thành và bốn cổng chính của Thành
5
được phục chế. Dù khơng cịn những dấu ấn xưa, nhưng Thành cổ vẫn là “Đất
tâm linh” của nhiều người dân Quảng Trị nói riêng và Việt Nam nói chung, vì
nơi đây mỗi tấc đất đều thấm máu của các chiến sĩ ta.
Chuyến thăm đến Thành cổ Quảng Trị đã minh chứng sinh động cho bài
học Lịch Sử khi ngồi trên ghế nhà trường của tôi. Làm cho trái tim tôi cảm động
vô cùng, biết ơn vô cùng về sự hi sinh của chiến sĩ và đồng bào ta cho nền Độc
Lập ngày hôm nay. Trong chuyến đi thực tế này tôi đã hiểu thật nhiều về lịch sử
hào hùng của dân tộc ta. Tơi đã tự nhũ với lịng mình phải có cơng lao gì đóng
góp cho sự nghiệp trường tồn của nước nhà dù chỉ là một chút sức lực có thể của
bản thân mình nhằm xứng đáng với máu xương của cha ông ta đã ngã xuống cho
nền Hịa Bình mà ngày hơm nay chúng tơi đang sống.
Nếu như không được trực tiếp đến đây, được tận mắt chứng kiến tất cả
những đau thương, mất mát của một thời – thời của đạn bom, khói lửa, thời của
những người Mẹ xa con, người vợ xa chồng mà khơng biết có ngày gặp lại thì
tơi cũng chưa khi nào hình dung được những mất mát ấy lại lớn và đau thương
đến vậy. Mỗi lần, qua mỗi hành trình chúng tôi đi – đến với những địa chỉ đỏ là
từng ấy lần tôi và các đồng nghiệp của tôi không thể không rơi lệ, giọt nước mắt
để tưởng nhớ về những người đã quên mình để bảo vệ cho Tổ quốc. Thương lắm
khi được biết tại mảnh đất đó thân xác các anh đã khơng cịn ngun vẹn, từng
mảnh, từng mảnh đã hòa cùng cây cỏ, đất trời; Thương lắm với những cánh thư
viết vội cho người thân của các Anh. Hầu hết các Anh đã tiên đoán được cái chết
sẽ đến với mình bất cứ lúc nào, nhưng trong thư vẫn tràn đầy niềm lạc quan, yêu
đời, khuyên người thân đừng buồn khi nghe tin xấu báo về, mà các Anh tự hào
khi được làm điều đó, vì các Anh biết rằng mình đã góp được phần nhỏ bé để
bảo vệ cho Tổ quốc thân yêu, cho người thân được an tồn. Và trong thâm tâm
các Anh ln chắc chắn một điều rằng rồi đây nước nhà sẽ độc lập – ngày ấy sẽ
khơng cịn xa. Tơi đến với Thành cổ và được biết rằng, dưới những thảm cỏ kia
là máu xương của chiến sỹ ta đã đổ xuống trong 81 ngày đêm chiến đấu ở Thành
6
cổ, vì vậy đã có bài hát viết rằng “cỏ xanh non tơ, cỏ xanh non tơ; Xin chớ vơ
tình với người hi sinh”… Xúc động lắm, ngậm ngùi lắm, khi đã có một thế hệ
ln qn bản thân mình vì đồng đội, vì sự độc lập của nước nhà.
Hành trình này, khơng thể khơng kể đến Nghĩa trang liệt sỹ đường 9,
đứng trước nơi đây, tơi thấy mình thật nhỏ bé, nhỏ bé trước những mất mát,
những hi sinh, nhỏ bé trước cả một thế hệ anh hùng đã ra đi để bảo vệ cho nền
độc lập. Muốn lắm, muốn được thắp cho tất cả các Anh những nén nhang thành
kính, nhưng làm sao có thể đi hết được bây giờ? Bởi nơi các anh nằm rộng lớn
quá, bao la q mà thời gian ở nơi này thì có hạn. Thơi thì, xin được thắp nén
nhang trong Tâm để gửi đến các Anh, mong là các Anh được yên nghỉ và linh
hồn các Anh được siêu thốt. Tơi thầm cảm ơn đến những người đã hi sinh và
những người thân của họ. Qua đó, tơi thấy bản thân mình cần thay đổi, thay đổi
để sống tốt hơn, để xứng đáng với những hi sinh, mất mát của một thời. Tơi và
các bạn sinh ra ở thời bình nhưng khơng phải vì thế mà chúng ta được phép chủ
quan, nghĩ rằng mình sống như vậy là đã tốt rồi, mà tơi nghĩ mình phải ln cầu
tiến, phải biết tiếp thu, lắng nghe ý kiến của mọi người, sau đó chắt lọc những ý
kiến đó để hồn thiện bản thân mình hơn.
Chia tay quảng Trị, đồn chúng tơi lên đường đến với mảnh đất cố đơ Huế
đầy mộng mơ. Hồng Thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi đến năm
1833 đời vua Minh Mạng mới hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với
khoảng hơn 100 cơng trình. Hồng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề
khoảng 600m, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4
cửa để ra vào: Cửa chính (phía Nam) là cửa Ngọ Mơn, phía Đơng có cửa Hiển
Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa Hịa Bình. Các cầu và hồ
được đào chung quanh phía ngồi thành đều có tên Kim Thủy. Hồng Thành và
tồn bộ hệ thống cung điện bên trong được bố trí trên một trục đối xứng, trong
đó trục chính giữ được bố trí các cơng trình chỉ dành cho vua. Các cơng trình ở
hai bên được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực. Mặc dù có rất nhiều cơng
7
trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hồng Thành nhưng tất cả đều được
đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các
loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Dù quy mơ của mỗi cơng trình có
khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu “trùng
lương trùng thiềm” (hay còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” - kiểu nhà kép hai mái
trên một nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có
tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình
ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu có màu xanh) hoặc
Hồng lưu ly (nếu có màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mơ típ long-vân
(rồng-mây). Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách
nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm một bức tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ
Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát bửu, hay theo đề tài tứ thời).
Bên trong hồng thành có các di tích: Ngọ Mơn, Điện Thái Hoà và Sân Đại
Triều Nghi,Thế Tổ Miếu, Cửu Đỉnh… Nhưng do thời gian hạn chế nên đoàn chỉ
tham quan một số cơng trình tiêu biểu. Cửa Ngọ mơn là cổng chính phía nam
của Hồng thành Huế được xây dựng vào năm Minh Mạng 14 (1804) là cổng
lớn nhất trong 4 cổng chính của Hồng thành Huế. Điện Thái Hịa là cung điện
nằm trong khu vực Đại Nội của kinh thành Huế. Điện cùng với sân chầu là địa
điểm được dùng cho các buổi triều nghị quan trọng của triều đình như: lễ Đăng
Quang, những buổi đón tiếp sứ thần chính thức và các buổi đại triều được tổ
chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng tháng. Trong chế độ phong kiến
cung điện này được coi là trung tâm của đất nước. Điện được xây dựng vào năm
1805 thời vua Gia Long. Năm 1833 khi vua Minh Mạng quy hoạch lại hệ thống
kiến trúc cung đình ở Đại Nội, trong đó có việc cho dời điện về phía nam và làm
lại đồ sộ và lộng lẫy hơn. Hiển Lâm Các được xây dựng vào năm 1821 và hoàn
thành vào năm 1822 thời vua Minh Mạng nằm trong khu vực miếu thờ trong
hoàng thành Huế, cao 17m và là cơng trình kiến trúc cao nhất trong Hồng
Thành. Đây được xem là đài kỷ niệm ghi nhớ cơng tích của các vua nhà Nguyễn
và các quan đại thần có công lớn của triều đại. Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn là
8
chín cái đỉnh bằng đồng đặt ở trước Hiển Lâm Các đối diện với Thế Miếu, phía
tây nam Hồng thành Huế. Tất cả đều được đúc ở Huế vào cuối năm 1835, hồn
thành vào đầu năm 1837. Mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một vị hoàng đế
của triều Nguyễn, chúng có trọng lượng khác nhau và hình chạm khắc bên ngồi
đỉnh cũng khác nhau. 9 đỉnh đó là: Cao Đỉnh, Nhân Đỉnh, Chương Đỉnh, Anh
Đỉnh, Nghị Đỉnh, Thuần Đỉnh, Tun Đỉnh, Dụ Đỉnh, và Huyền Đỉnh. Ngồi ra,
cịn có một kì đài hay cịn gọi là Cột cờ, nằm chính giữa mặt nam của kinh thành
Huế thuộc phạm vi pháo đài Nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều đình. Kỳ
Đài được xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng
kinh thành Huế. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài được tu sửa vào các năm 1829,
1831 và 1840. Trong lịch sử, kỳ đài thường là nơi đánh dấu các sự kiện quan
trọng và sự thay đổi thể chế chính quyền ở Huế.
Đồn dừng chân tại khách sạn cơng đồn Sơng Hương. Khi ăn trưa và
nghĩ ngơi xong khoảng 2h, đoàn bắt đầu đi tham quan 2 lăng: Tự Đức và Khải
Định tại xứ Huế thơ mộng. Lăng Tự Đức rộng và kiến trúc mang đậm chất
phương Đơng. Cịn lăng Khải Định nhỏ hơn, nhưng lộng lẫy sặc sở hơn do kiến
trúc ở đây có sự tiếp xúc và ảnh hưởng nhiều từ văn hóa phương Tây. Hai cơng
trình này phần nào đã mơ phỏng được tính cách của hai vị vua này. Tuy hai cơng
trình này được xây dựng bằng máu xương của nhân dân nên có thể coi là tội ác.
Nhưng ngày nay, nó là địa điểm thu hút khơng ít du khách đến đây tham quan và
trở thành một trong những cơng trình nổi tiếng của xứ Huế. Cơng hay tội cịn
phải coi bạn đứng ở góc độ nào mà nhìn nhận. Cũng giống như vậy, chuyến đi
này đồn phải đi rất nhiều địa điểm trong một khoảng thời gian rất ngắn, cho
nên mọi người cảm thấy rất mệt nhưng bù lại các bạn lại biết thêm được nhiều
điều thú vị từ cảnh vật đến mọi người xung quanh ta. Làm cho các bạn cởi mở
hơn, thấu hiểu và gắn bó với nhau hơn. Ngồi ra, trong chiến đi cịn có các buổi
trị chuyện và chơi đùa làm cho khơng khí chuyến đi vui vẻ và ấm áp hơn.
Chúng ta được học hỏi nhiều hơn từ các thầy cô và bạn bè khơng chỉ trên
phương diện kiến thức mà cịn cách cư xử, cách sống…Sau khi tham quan xong
9
hai lăng Tự Đức và Khải Định, đoàn trở về khách sạn dùng cơm, đồn có
chương trình ngồi thuyền xi dịng sơng Hương thơ mộng nghe ca Huế. Ca
Huế là một loại hình văn nghệ đặc sắc của của xứ Huế có từ lâu đời. Lúc nghe
ca Huế các bạn có thể tặng hoa cho các cơ ca sĩ để thể hiện sự u mến của
mình. Hoa có sẵn trên bàn, sau khi nghe xong thì mới tính tiền, mỗi bơng hoa là
10000. Kết thúc chương trình ca Huế là các bạn thả hoa đăng cầu may nắm bình
an…Ngồi trên thuyền các bạn có thể ngắm được cầu Tràng Tiền – biểu tượng
của xứ Huế. Buổi tối, cầu Tràng Tiền được thắp đèn với nhiều màu sắc khác
nhau trong rất đẹp. Khép lại chương trình ngày hơm nay là đồn về nghĩ ở khách
sạn cơng đồn.
Chuyến đi thực tế “Hành trình khám phá Con đường di sản miền Trung”
khơng chỉ là cơ hội để mọi người được trải nghiệm, đến với những miền đất
mới, trau dồi kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống mà còn là dịp để thắt chặt hơn
nữa tình cảm thầy trị trong khoa. Suốt hành trình, tiếng hát và tiếng cười chưa
bao giờ ngừng. Tất cả vang lên, hòa quyện vào nhau để làm nên một chương
trình thành cơng rực rỡ, đọng lại những ấn tượng không thể nào quên trong mỗi
bạn sinh viên. Qua những chuyến đi thực tế như thế này, chúng tôi được gần gũi,
học hỏi thêm nhiều điều và có cơ hội khám phá một góc khác rất hóm hỉnh, và
tươi trẻ từ những người thầy trong giờ phút ngoài giảng đường. Và những người
thầy, từ sự hòa đồng và nhiệt huyết của mình đã truyền lửa cho những người học
trị, giúp các bạn được thể hiện mình nhiều hơn, thêm yêu đất nước, con người
quê hương.
10
Một số hình ảnh
Phong Nha – Kẻ Bàng
Tượng đài mẹ Suốt
11
Nghĩa trang đường 9
Thành cổ Quảng Trị
12
Ngọ Môn Huế
Lăng Minh Mạng
13