Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo
Trƣờng Đại Học sƣ Phạm TP.Hồ Chí Minh
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TẢN ĐÀ
Luận án thạc sĩ khoa học ngữ văn
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 5.04.33
Ngƣời hƣớng dẫn:
PGS. TS Trần Hữu Tá
Ngƣời thực hiện:
Vũ Hào Hiệp
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2000
Chân thành cảm tạ
GS. Hoàng Nhƣ Mai
PGS. TS Trần Hữu Tá
PGS. TS Phùng Quý Nhâm
TS Huỳnh Nhƣ Phƣơng
TS Lê Tiến Dũng
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài: ...................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu: ................................................................................................ 2
3. Lịch sử vấn đề: ........................................................................................................... 2
4. Phạm vi đề tài: ......................................................................................................... 12
5. Phƣơng pháp tiếp cận:.............................................................................................. 12
6. Đóng góp của luận án : ............................................................................................ 13
7. Cấu trúc của luận án:................................................................................................ 14
B. NỘI DUNG ............................................................................................................. 15
CHƢƠNG I: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG. NHỮNG SỰ KIỆN
ẢNH HƢỞNG ĐẾN CẢM HỨNG SÁNG TÁC. ................................................................... 15
1. Cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng. ......................................................................... 15
2. Những sự kiện ảnh hƣởng đến cảm hứng sáng tác. ................................................. 27
a. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội: ...................................................................................... 27
b. Những sự kiện văn chƣơng: ..................................................................................... 34
CHƢƠNG II: CẢM HỨNG DÂN TỘC TRONG THƠ TẢN ĐÀ .............................. 43
1. Những xúc động trƣớc cảnh trí quê hƣơng. ............................................................. 54
2. Hƣớng về dân tộc để tự hào, nhắc nhở truyền thống anh hùng. .............................. 61
3. Kêu gọi tình đồn kết dân tộc, biểu lộ lịng thƣơng dân của nhà nho “Ái quốc bằng
đạo đức”. .................................................................................................................................. 64
4. Tình cảm thủy chung, hồi bão và lịng tin với dân tộc và đất nƣớc. ...................... 66
5. Nỗi “sầu non nƣớc”, niềm tiếc nuối và sự cô đơn vô hạn........................................ 69
6. Một thái độ phê phán xã hội của nhà nho yêu nƣớc ................................................ 76
7. Hƣơng vị đất nƣớc đậm đà trong thơ ca. ................................................................. 79
CHƢƠNG III: CẢM HỨNG LÃNG MẠN TRONG THƠ TẢN ĐÀ ......................... 92
I. Tản Đà - nhà nho tài tử cuối cùng và là "đêm trƣớc của chủ nghĩa lãng mạn" đối với
thơ Việt Nam hiện đại. ............................................................................................................. 95
II. Những biểu hiện của cảm hứng lãng mạn trong thơ Tản Đà ................................ 103
a. Cái "tôi"ngông:....................................................................................................... 103
b. Cái "tôi" xê dịch. .................................................................................................... 109
c. Cái "tơi" đa tình của ngƣời tài tử. .......................................................................... 117
d. Cái "tôi" sầu: .......................................................................................................... 125
e. Hiếu lạc: ................................................................................................................. 130
C/ KẾT LUẬN ........................................................................................................... 137
THƢ MỤC THAM KHẢO........................................................................................ 140
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việc nhận chân và đánh giá một tác gia văn học không dễ một sớm một chiều có thể
khẳng định chính xác. Đối với một tác gia phức tạp về tƣ tƣởng và sáng tác, điều đó càng cần
có thời gian. Thi sĩ Tản Đà thuộc loại đó. Chính nhà thơ Xn Diệu, ngƣời nối gót Tản Đà
trong làng thơ, đã từng phát biểu: "...Sau khi đã viết về Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hƣơng, Cao Bá Quát Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng, Nguyễn Đình Chiểu, Đào Tấn, nghiền
ngẫm tất cả là trong khoảng 25 năm (từ 1958), hôm nay tôi xin viết về tác giả quá cố khó nhất
so với tám tác giả trƣớc kia, là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu... "(1).
Vấn đề Tản Đà vẫn cịn đó, cịn bỏ ngỏ, và “hiện tƣợng Tản Đà” của giai đoạn văn
học giao thời (1900 - 1930) cịn là nỗi bức xúc tìm kiếm và cố gắng để giải thích rốt ráo của
nhiều ngƣời. Trong đó, những vấn đề về tƣ tƣởng nghệ thuật, cảm hứng nghệ thuật... là
những vấn đề còn cần đƣợc tiếp tục lý giải.
Thế nhƣng, những câu hỏi cần đƣợc giải quyết cho thấu đáo đối với một "đối tƣợng
khó" nhƣ Tản Đà lại khiến chúng tơi bị kích thích, muốn nhập cuộc, và ƣớc gì góp phần thỏa
đáng vào cơng việc đi tìm chân dung đích thực của nhà thơ.
Điều mong ƣớc có những cơng trình thỏa đáng, những chuyên luận trọn vẹn nghiên
cứu về Tản Đà cũng nhƣ một số tác gia thuộc tạng nhƣ ông là tâm trạng chung của nhiều thế
hệ ngƣời nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học. Đặc biệt do có sự u quí nhà thơ, sự hấp
dẫn bởi đề tài "cảm hứng nghệ thuật trong thơ Tản Đà" đã khiến chúng tôi chọn đề tài với
lòng khấp khởi. Thêm nữa, sự cảm thông sâu xa của kẻ hậu sinh trƣớc những trăn trở, những
nỗi niềm kín đáo khơng có ngƣời tri kỷ của thi sĩ đã khiến chúng tôi quyết tâm nhập cuộc và
(1)
Tìm hiểu về Tản Đà, trích tuyển tập Tản Đà. tr 13. NXB Văn học - Hà Nội. 1956
1
muốn tìm kiếm thêm về tản Đà. Hƣớng đi tìm về những cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ
trong một cõi đi, về rất cô đơn ấy là việc rất muốn làm của ngƣời viết luận án vậy.
Dò theo bƣớc chân xê dịch vừa nhƣ bắt buộc, lại vừa nhƣ dạt dào cảm hứng cứa Tản
Đà; lắng nghe những tâm tƣ tình cảm của ơng, cố gắng đồng cảm đƣợc những nỗi đau và cả
những niềm vui nhỏ trong tâm hồn thi nhân... có thể chăng chúng ta sẽ phát hiện đƣợc những
cảm hứng có thể gọi là tập trung nhất của thi sĩ? Đề cập đến phạm trù "cảm hứng" của Tản
Đà ngƣời nghiên cứu sẽ phải làm một thao tác lội ngƣợc dòng để "đồng cảm" đƣợc với ngƣời
xƣa. Trên con đƣờng tìm kiếm đó, chắc hẳn chúng tơi sẽ phải nói ngay lời khiêm tốn: những
điều sẽ trình bày dƣới đây chỉ là những "lời q góp nhặt", những cơng việc mị mẫm tìm tịi
khó tránh khỏi va vấp.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Xác định những vấn đề chủ yếu đã làm nên cảm hứng sáng tác của Tản Đà. Tìm ra
những quan hệ giữa thân thế, sự kiện lịch sử - xã hội và văn chƣơng với tƣ tƣởng và sáng tác
của ông.
- Bƣớc đầu xác định những cảm hứng chính yếu trong thơ Tản Đà: Cảm hứng dân tộc,
cảm hứng lãng mạn; những biểu hiện của hai nguồn cảm hứng đó.
3. Lịch sử vấn đề:
Phải nói "hiện tƣợng Tản Đà " trong văn học là một vấn đề nghiên cứu hấp dẫn nhƣng
khó lý giải, do tồn bộ những gì biểu lộ nơi sáng tác của ông là thật sự phức tạp. Nhiều
ngƣời, nhiều thế hệ nghiên cứu - phê bình đã từng có những ý kiến tƣơng phán nhau.
Trƣớc năm 1945, các cơng trình nghiên cứu đã thể hiện sự khá khác nhau về việc
nhân định tứ tƣởng, tình cảm và sự đóng góp của Tản Đà cho văn học.
2
Trong 30 năm đầu thế kỷ XX, nhắc đến những tay cự phách trong làng báo, ngƣời ta
nói đến bộ ba Vĩnh - Quỳnh - Hiếu (Nguyễn Văn Vĩnh - Phạm Quỳnh - Nguyễn Khắc Hiếu).
Hai ngƣời đầu đƣợc sự bảo trợ đắc lực của thực dân Pháp, riêng Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
"nơm na phá nghiệp kiếm ăn xồng" đã tự lực để trở thành nhà báo chuyên nghiệp. Là ngƣời
cùng thời, Nguyễn Văn Vĩnh (chủ bút tờ Đông Dƣơng tạp chí từ năm 1913) sớm để ý và trân
trọng tài năng thiên phú của Tản Đà, dành cho ông mục "Một lối văn xuôi mới" trên báo cảm hứng văn chƣơng đối với Tản Đà ngay thời kỳ đầu xuất hiện đã phát lộ cái mới mẻ, độc
đáo. Trong khoảng hơn mƣời năm, cái mới mẻ và độc đáo ấy đã biểu lộ thành tinh hoa một sự
nghiệp thi ca, qua hai tập thơ Khối Tình Con I (1916) và Khối Tình Con II (1918).
Phạm Quỳnh, do "ghen ăn ghét ở" với tài năng đƣợc bộc lộ một cách khác thƣờng của
Tản Đà, và chính do việc Tản Đà khơng giống mình (một tay bỉnh bút khét tiếng mị dân,
chễm chệ ngồi chủ bút Tạp chí Nam Phong - một tờ báo làm tay sai cho thực dân Pháp).
Phạm Quỳnh đã phê phán, mỉa mai cay độc cái "ngông nghênh, lồ lộ " từ cảm hứng phơi bày
cái Tôi" thẳng tuột của thi sĩ. Trên tờ Nam Phong (số 11/1918) không những Phạm Quỳnh
phê phán cuộc đời Tản Đà chìm đắm vào những giấc mộng lớn, mộng con nên thơ chỉ tồn
"mộng" đến "mị"; mà cịn châm biếm "thân không bằng mộng, nên mộng cho cam thân"
trong Giấc mộng con, trong thi hứng thoát ly của Tản Đà. Dù trọng tài Tản Đà (có lúc khen)
nhƣng Phạm Quỳnh khơng hiểu và cố tình khơng hiểu một tâm hồn phóng khống, một cảm
hứng bay bổng của thi nhân mở đầu cho một chủ nghĩa lảng mạn kiểu mới.
Cảm hứng nghệ thuật của Tản Đà là cảm hứng phát xuất từ nột thi sĩ có cốt cách nhà
Nho, từ tồn bộ di sản văn hóa quá khứ, và ràng buộc với di sản đó. Từ đó, thơ Tản Đà đã ít
nhiều chịu tác đông từ một môi trƣờng sống đang chuyển mình xa rời những gì từng gắn bó
với cái cũ. Cho nên khi nói với Lƣu Trọng Lƣ, Tản Đà đã từng phê phán Phan Khôi (ngƣời
đƣợc coi là mở đầu cho Thơ Mới) rằng: "Cái việc của anh nhà Nho chạy theo Tây học ấy (chỉ
Phan Khôi) chỉ đáng coi nhƣ là một việc lập dị mà thôi". Và đến năm 1936, sự đối kháng
3
quan điểm về thơ cũ và thơ mới giữa Tản Đà và Lƣu Trọng Lƣ đã không thể tránh khỏi.
Nhƣng đó là về hình thức của thơ. Tản Đà phát biểu trong cuộc nói chuyện với họ Lƣu...
Khơng phải đợi đến ông Phan Khôi, ngƣời làm thơ mới nhận thấy cái sự quan hệ của thi -thể.
Xƣa kia, ngƣời ta đã từng phóng túng, và để ý đặc biệt đến cái hình thức của nó."(1). Điều
đem ra chế giễu nhau của làng thơ mới và làng thơ cũ dƣờng nhƣ chủ yếu là hình thức của
thơ, và Tản Đà từng đại diện cho thơ cũ để lên tiếng coi trọng "thi - thể", những ràng buộc về
hình thức bài thơ. Lƣu Trọng Lƣ kể tiếp về ý kiến của thi sĩ Tản Đà trong bài viết trên "...
Thơ là nhƣ gạo và nhân. Cái thể thơ là nhƣ lá bọc ở ngồi. Bánh muốn ra hình gì cũng tùy ở
khn lá bên ngồi...". Tản Đà đã khơng hiểu hết Thơ Mới, bởi Thơ Mới là "mới cả nội
dung". Thế nhƣng chính sự đổi mới cảm hứng, thi hứng trong tác phẩm của ông đã là sự
chuẩn bị cho Thơ Mới; cũng là cái mà trƣớc đó Phạm Quỳnh đã từng mỉa mai: đƣa cái "Tôi"
lừng lững, lột trần cho mọi ngƣời xem, xê dịch cùng khắp, đi ở cõi trần và đi cả lên trời, vào
những mộng rồi mị...
Ngƣời ta đã nhìn ra và cơng nhận cái mới trong cảm hứng của thi nhân Tản Đà. Đó là
sự "cá tính hóa cảm hứng" mà phong trào Thơ Mới từng thừa nhận ảnh hƣởng, nhất là với cái
"Tôi" vừa thật thà, sống động; vừa bay bổng trong nguồn cảm hứng lãng mạn thốt ly khỏi
ơng.
Trƣớc năm 1945, đánh giá về cảm hứng hay những vấn đề có liên quan đến cảm hứng
sáng tác của Tản Đà, dƣờng nhƣ ngƣời ta chỉ mới dừng lại ở sự phát hiện. ca ngợi nhƣng
chƣa đào sâu vào những cảm hứng đó.
Năm 1939, nhà phê bình văn học Lê Thanh có nhận định về sự biểu hiện cảm xúc của
Tản Đà "... Với những câu chuyện sống quá, ông là một thi sĩ thƣờng. Nhƣng khi ơng nói nhớ
mà khơng biết nhớ ai, ơng thƣơng mà không biết thƣơng ai, ông than mà không biết than về
cái gì, thì ơng là thơ sống, và thơ của ông là chất trong nhƣ lọc với những cảnh tƣợng không
(1)
Bài viết của Lƣu Trọng Lƣ. 1939, tr 5 đến 12. số Tao Đàn đặc biệt về Tản Đà
4
rõ rệt, những hình ảnh lờ mờ, ơng vẽ những bức tranh tuyệt bút; với những tƣ tƣởng lâng
lâng, với những cảm giác mơ mộng, ông làm nên những câu thơ tuyệt mỹ..."(1). Tác giả đã ca
ngợi Tản Đà với những cảm hứng "cách tân" trong thơ, những bản đàn lòng du dƣơng đã đáp
ứng đƣợc những mong đợi của con ngƣời thời đại. Điều mà Lê Thanh ca ngợi trên đƣợc nhà
nghiên cứu Phạm Thế Ngũ sau này tóm tắt lại về Tản Đà: Ta thấy ở tình cảm Tản Đà một biệt
thái là cái khuynh hƣớng thoát ly. Nếu lãng mạn là một cơn khủng hoảng tinh thần thì quả tới
đây ngƣời Việt Nam mình mới thật biết sự lãng mạn..."(2). Phạm Thế Ngũ đã nêu rõ ý nghĩa
"luồng gió mới" mà Tản Đà tạo nên đƣợc cho văn học lúc ấy là "tính chất lãng mạn" của thơ
ca, là "chủ nghĩa lãng mạn" mà Thơ Mới sau đó coi là nội dung bao trùm cho một giai đoạn
thơ "tiền chiến" (trƣớc 1945).
Trong số những ý kiến có liên quan đến cảm hứng của Tản Đà trong sáng tác, chúng
tôi để ý đến điều Trƣơng Tửu đề cập(3). Ơng Trƣơng Tửu có nói "Thơ Tản Đà ln ln có
hai màu sắc, hai ý vị đi nối tiếp nhau: bi quan và lạc quan. Hai thứ đó đi theo nhau liên
miên... ban cho thơ Tản Đà một phong thể kỳ diệu và một hƣơng thơm phức tạp". Điều đó
khiến ta hiểu vì sao có lúc thơ Tản Đà tràn ngập sức sống, hồi bão hành động; có lúc lại
buồn bã tức bực, ủ ê, chán nản.. và thơ chính là những tâm trạng cuộc đời, luôn biến đổi.
Trƣơng Tửu nhìn thây rõ thơ Tản Đà chính là những tâm sự, những trăn trở, là ngƣời bạn
cùng một con đƣờng: "...Thơ Tản Đà là một công việc tự suy tƣởng, tự đàm luận, tự kích
thích của nhà Nho Nguyễn Khắc Hiếu... Thơ là sức mạnh luân lý, một cái gƣơng để tự soi
bóng mình, ở những cảnh ngộ đảo điên của số kiếp...". Cảm hứng lãng mạn và cảm hứng về
đạo lý đã cùng song song trong một con ngƣời. Tình cảm trong thơ Tản Đà có thể là buồn,
nhƣng khơng ủy mị. Đó là cái buồn chung của một giai cấp trên con đƣờng đến tàn cục. Và
cảm hứng ấy đã bắt nguồn ở Tản Đà nhƣ một sứ mệnh tiền định:
Dƣờng nhƣ đồng cảm đƣợc với thi nhân, một ý kiến khác của Trƣơng Tửu đã khiến
chúng ta phải suy nghĩ, "... Tiên sinh khơng chịu để ngịi bút phục tùng hoàn toàn thi hứng.
(1)
Lê Thanh. Thi sĩ Tản Đà. trích Phê bình bình luận văn học. tr 6 của Vũ Tiến Quỳnh, NXB Văn nghệ
tp.HCM. 1994.
(2)
Việt Nam văn học sử giản ƣớc tân biên - tập III. phần về Tản Đà. tr 401. NXB Đồng Tháp. 1997
(3)
Trang Tửu, Cái hay cùa Tản Đà, Tạp chí Tao Đàn, tr 13 đến 26, 1939
5
Tiên sinh cảm bồng bột bao nhiêu lại phô diễn cái tình bồng bột ấy căn cơ bấy nhiêu. Tiên
sinh có thừa thãi hai đức tính cốt yếu làm nên một thi hào: ý thức của thơ và lƣơng tâm của
nhà thơ..." đồng thời ông đánh giá cảm hứng thi ca của Tản Đà chính là thuộc về thế giới
riêng của thi nhân, ngƣời đời không thể bƣớc vào đƣợc:"... Theo một nhận xét rất đích đáng
của thi hào Valéry, những cõi thơ thuần chất giống nhƣ lửa; loài ngƣời chỉ có thể đi qua
khơng thể lƣu trú tại ấy đƣợc. Mà cũng chỉ có một ít ngƣời đặc biệt đƣợc quyền đi qua chốn
ấy thôi. Những ngƣời đặc biệt ấy là các thi nhân... Có thể nói, Tản Đà nhiều tƣởng tƣợng hơn
trí tuệ. Chính cái tƣởng tƣợng này là nguồn gốc của những tia chớp thi tứ của tiên sinh. Nó
dắt tiên sinh đến những cõi thơ thuấn chất, mau chóng và đột ngột. Trong lúc tiếp xúc với
những cõi ấy, trí tuệ tiên sinh nẩy lửa. Tƣởng tƣợng và trí tuệ đồng thời liên minh với nhau,
hịa nhập với nhau, tạo nên các đề hứng ly kỳ của thơ Tản Đà trong đó tình cảm là kẻ đến sau
chót - nhƣng đến để rồi khơng đi nữa. Bởi vậy, thơ Tản Đà có dƣ vị. Nó làm ta ngơ ngác rồi
làm ta nghĩ ngợi trƣớc khi làm ta cảm xúc."(1). Ý thức về thơ và lƣơng tâm nhà thơ luôn là
điều chi phối cảm hứng nghệ thuật của Tản Đà. Thơ ông lay động đƣợc những cảm xúc nơi
ngƣời đọc bởi Tản Đà đã nói hộ cho tâm tƣ con ngƣời thời đại ông. Thơ Tản Đà sống, và Tản
Đà cũng sống với thơ. Những trăn trở đời sống đã khơi nguồn cho cảm hứng. Đó là những
tình cảm, suy nghĩ thật thà, khơng giấu giếm.
Xn Diệu là ngƣời từng yêu thơ Tản Đà, đọc và nghiền ngẫm gần ba mƣơi năm, để
thấy đƣợc cảm hứng sáng tác của Tản Đà dù ở đề tài nào cũng phát xuất từ cái "Tôi" - một
bản ngã đầy cá tính. Trong bài "Cơng của thi sĩ Tản Đà" nhằm tôn vinh nhà thơ lớn, Xuân
Diệu nêu rõ: Tản Đà là thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là ngƣời thứ
nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đàng hoàng bạo dạn, dám giữ một bản
ngã, dám giữ một cái "Tôi"(2). Cảm hứng sáng tác Tản Đà nảy sinh từ những mâu thuẫn của
đời sống. Ông đƣa những nỗi buồn vui, lo âu, hi vọng, khao khát yêu đƣơng vào văn học.
(1)
(2)
Trƣơng Tửu. Cái hay của Tản Đà. tạp chí Tao Đàn, 1939, NXB Văn học tái bản, tr 972, 1998
Ngày Nay. số 166, 1939
6
Cảm hứng của thi nhân trong sáng tác còn là để khẳng định một giá trị tự thân, đó là
cái "tự ái, tự trọng, tự tôn" mà ông gọi là ba đức riêng. Tản Đà coi mình là hào kiệt, hành
động vì một giá trị lớn. Ơng bác bỏ chủ trƣơng ẩn dật, và đi xa hơn lớp tài tử trƣớc. Ơng
quyết tâm bằng ý chí để "quang gánh với đời" nhƣng ơng giữ mình trong sạch, khơng đi cùng
giai cấp tƣ sản.
Trƣớc 1945, cái "Tôi" ấy đã từng đƣợc hoan nghênh, cũng từng bị con mắt soi mói
cho là "tự lột trần" trơ trẽn! (lời mỉa mai Tản Đà của Phạm Quỳnh) Nhƣng dƣờng nhƣ hầu hết
đều đồng tình ca ngợi một tài hoa thi ca, một "luồng gió mới thơm mát" giữa làn ranh giới
thời gian của Thơ Cũ và Thơ Mới. Từ Lƣu Trọng Lƣ đến Hoài Thanh, từ Hoài Thanh đến Vũ
Ngọc Phan đều đã khẳng định vị trí Tản Đà trong nền văn học nƣớc nhà, nhƣng đều coi Tản
Đà là thi sĩ thuộc về thời trƣớc.
Sau 1945, việc đánh giá Tản Đà tiếp tục là đề tài của giới nghiên cứa, phê bình văn
học. Dù đứng trên quan điểm khoa học của chủ nghĩa duy vật nhƣng trong thời kỳ đầu, bởi
chính sự phức tạp của Tản Đà, cái nhìn về Tản Đà chƣa đƣợc thỏa đáng và trọn vẹn. Đó là
những ý kiến của Lê Q Đơn "Thơ Tản Đà có màu sắc lãng mạn phong kiến suy đồi"(1) ; của
Hồng Chƣơng "...Tác phẩm của ơng chủ yếu nói lên cái tâm trạng của giai cấp phong kiến đã
suy tàn mất hết tin tƣởng vào tiền đồ tƣơng lai"(2)
Đặc biệt có ý kiến cho là tƣ tƣởng Tản Đà chịu ảnh hƣởng của ý thức hệ tƣ sản. Đó là
những ý kiến của các ông Minh Tranh, Nguyên Kiến Giang "...Mấy bài văn của cụ Ngô Đức
Kế... Giấc mộng lớn, Giấc mộng con của Tản Đà nằm trong phong trào dân tộc của giai cấp
tƣ sản vẫn còn tiếp tục một cách yếu ớt"
(1)
Lƣợc thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, NXB Xây Dựng, Hà Nội, 1957.
Phƣơng pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội. 1962
Về giai cấp tứ sản Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội, 1959
(2)
7
Ông Tầm Dƣơng
(1)
đã cho rằng căn bản ý thức Tản Đà nằm trong ý thức hệ tƣ sản,
một bộ phận khá lớn nằm trong ý thức hệ phong kiến, lại một tiểu bộ phận khác là tƣ tƣởng
tiểu tƣ sản... rồi chứng minh tƣ tƣởng tƣ sản tản Đà đẻ ra "tinh thần dân tộc có tính chất cải
lƣơng", "tinh thần đại chúng", "tinh thần lãng mạn "... và qua thái độ "hô hào thực nghiệm
phát triển kinh tế - của Tản Đà. Nhƣng có phải thực chất ý thức tƣ tƣởng Tản Đà là đại diện
cho tƣ sản?.
Cũng ở miền Bắc thời kỳ đầu sau 1954, ơng Nguyễn Đình Chứ đánh giá Tản Đà bằng
việc đi sâu vào đặc điểm nội dung đồng thời đƣa ý kiến khá dè dặt về tƣ tƣởng Tản Đà" Tản
Đà căn bản là nhà thơ lãng mạn thoát ly... Bên cạnh tƣ tƣởng thốt ly cịn có tƣ tƣờng u
nƣớc và ý thức lo đời" và nhận xét "Tản Đà khơng chỉ có lãng mạn tiêu cực mà cịn có một
nét lãng mạn tích cực" (2).
Ở miền Nam trƣớc 1975, khơng ít ý kiến đã đánh giá cao Tản Đà. Tiêu biểu, đó lả của
ông Trịnh Vân Thanh (3), dành nhiều trang ca ngợi công của thi sĩ Tản Đà đối với văn học dân
tộc. Ơng phân tích cái mới của Tản Đà trong giai đoạn giao thời đó, sự phong phú của những
cảm hứng nghệ thuật Dù chƣa đi sâu khai thác và chỉ ra căn bản ý thức hệ của nhà thơ, nhƣng
ơng đã có những cảm nhân riêng đáng tham khảo. Về Tản Đà, tác giả có nhận định:
"Ơng Vũ Ngọc Phan đã cho rằng Tản Đà vì khơng đƣợc thỏa mãn về đƣờng vật chất
nên đâm ra bi quan, chán đời, ngơng. Cịn ơng Phạm Quỳnh lại cho rằng "thân khơng bằng
mộng, nên mơng cho cam thân", đó là cái lý do khiến Tản Đà thích sống trong "mộng mị". Ta
thấy những lời phê bình trên quá khắt khe hời hợt, nếu khơng muốn nói là hồn tồn sai lệch.
Ta có thể kết luận cái ngơng và mộng của Tản Đà chỉ là một lối thoát để vơi bớt nỗi sầu nhân
thế, để khỏi phải nhìn thấy thực tại quá não nề trong kiếp sống nhiều thƣơng đau, đổ vỡ. Cái
ngông của Tản Đà chỉ là một phƣơng cách để thốt ra ngồi cuộc sống q gị bó, khắt khe.
để vƣơn lên hồn thơ đƣợc siêu thoát.. "
(1)
Tản Đà - Khối mâu thuần lớn, NXB Khoa học. Hà Nội, 1962.
Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, phần về Tản Đà. tập IV. NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1962.
(3)
Giảng luận Việt văn, phần về Tản Đà. tr 888. NXB Hồn thiêng. Sài gòn, 1971.
(2)
8
Cũng ở miền Nam trƣớc đây, ông Phạm Văn Diêu(1) hết lời ca ngợi Tản Đà về tài
năng vận dụng những đặc sắc của ngôn ngữ để diễn đạt nghệ thuật: "Nói đến thơ ca, ơng quả
thật là một thiên tài. Dù là ở thể cách nào mặc lòng, điều mà ta nhận thấy vẫn là cái tính chất
phong phú trong mỹ cảm đẹp đẽ, kỳ tuyệt trong văn tự. Hình ảnh lại dễ dàng hào hoa, âm
điệu êm ả, tiêu dao dồi dào, gây thành những rung động tràn lan man mác đi sâu vào lịng
ngƣời... ".
Nhìn chung, ở miền Nam các cơng trình nghiên cứu có nêu lên những biểu hiện tƣ
tƣởng, xác định vị trí, sự cống hiến của Tản Đà trong nền văn chƣơng Việt Nam; đề cập đến
cái mới của nội dung và hình thức nhƣng mức độ còn hạn chế Sau năm 1975, đặc biệt trong
hơn mƣời năm đổi mới gần đây, đứng trên quan điểm mới để nghiên cứu Tản Đà đã có nhiều
cơng trình đánh giá cao mặt tích cực của nhà thơ. Tản Đà đƣợc coi là thi sĩ quan trọng nhất
trong giai đoạn thơ cũ chuyển sang thơ mới ở những năm 30; ngƣời chuẩn bị cho Thơ Mới,
đem đến cho thơ đầu thế kỷ XX một luồng gió mới bằng lối cảm nghĩ độc đáo, tài hoa, bằng
một cảm hứng chân thực của cái "Tôi".
Cũng với Tầm Dƣơng, nhân 100 năm ngày sinh và 50 năm ngày mất của Tản Đà, ơng
đăng trên Tạp chí Văn học(2) và phân tích thơ Tản Đà có những nét mới dƣới góc độ thi pháp.
Thi pháp đƣợc biểu hiện qua các thủ pháp thơ ca, các phƣơng tiện, phƣơng thức, phong cách,
ngôn ngữ... là những yếu tố góp phần tạo nên cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.
Ngƣời ta lật giở lại những nghiên cứa, phê bình về Tản Đà trƣớc đó, đặc biệt là những
vấn đề mang tính chất cốt lõi nhƣ tử tƣởng sáng tác, sự quan hệ giữa ý thức hệ chủ yếu của
Tản Đà đối với cảm hứng sáng tác. Những cây bút nghiên cứu, phê bình có cơng trình đáng
kể trong giai đoạn này là các ơng Trần Đình Hƣơu, Văn Tâm, Trần Ngọc Vƣơng, Nguyễn
Khắc Xƣơng (con trai Tản Đà)...
(1)
(2)
Việt Nam văn học giảng bình, NXB Tân Việt, Sài gịn. 1961.
Tạp chí Văn học. số 3, 1989, bài viết "Hữu - Vô tƣơng tác trong thi pháp Tản Đà"
9
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hƣợu(1) đã tổng kết: Trong tác phẩm của Tản Đà có nhiều
dấu vết của hình thức trung gian của những dấu nối của văn học Đơng và Tây. Điều đó làm
cho Tản Đà có vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Giá trị tiêu biểu cho một thời
đại dù thời đại đó ngắn ngủi: Thời cận - hiện đại".
Khơng đi sâu đánh giá cái gọi là "cảm hứng nghệ thuật" của Tản Đà, nhƣng giáo sƣ
đã cho phép chúng ta có một cơ sở nhận định để tìm kiếm những cảm hứng chủ đạo trong
sáng tác của Tản Đà. Đó cịn là việc khẳng định Tản Đà nhƣ là một mẫu "nhà Nho tài tử" đặc
biệt và đầy cá tính; một nhà Nho tài tử sống và sáng tác nhƣ một nhà văn chuyên nghiệp
trong xã hội tƣ sản. Tản Đà không là mẫu nhà Nho hành đạo - ẩn dật, khơng sống "một lịng"
theo "tâm, chí, đạo" mà là "tài tình". Tản Đà cũng khơng nhƣ kiểu nhà Nho giữa sự bế tắc
thân thế buông lời than vãn "tài tử đa cùng", "tài mệnh ghét nhau"... Theo Trần Đình Hƣơu,
Tản Đà là nhà nho tài tử cuối cùng cho đẳng cấp của mình.
Cũng trong câu chuyện nêu trên, Trần Đình Hƣợu cịn nhận định việc Tản Đà đã đƣa
cái "tơi", đƣa cá nhân đặt một cách thách thức bên cạnh con ngƣời chức năng của xã hội luân
thƣờng, là quan niệm làm ngƣời vẫn ngự trị trong xã hội ta lúc đó. Cá nhân là điểm xuất phát
để bàn về thái độ con ngƣời trong cuộc đời. đó là chất men say ngƣời trong những "Khối
tình" của Tản Đà. Trần Đình Hƣợu khẳng định việc biểu lộ tình cảm yêu nƣớc của Tản Đà
cũng chỉ thành cơng trong thơ. Nói về sự cách tân của cảm hứng sáng tác của Tản Đà, ta thấy
ơng viết: "Với bản tình đa tình và cái tơi trữ tình lan tỏa trong thơ và văn xi của ơng, Tản
Đà góp phần chuẩn bị nhiều hơn cho sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn".
“Nguyễn Khắc Xƣơng trong Tản Đà, thơ và đời”(2), có một ý kiến gợi ý cho ngƣời
đọc khi muốn đặt vấn đề phân tích cảm hứng nghệ thuật của Tản Đà: "Tản Đà là điển hình
cuối cùng của Nho sĩ" quân tử và Nho sĩ tài tử, là điển hình đầu tiên của ngƣời nghệ sĩ
chuyên nghiệp kiểu mới, của nghệ sĩ lãng mạn dân chủ tƣ sản. Nếu có thể nói gì về Tản Đà,
có lẽ cũng chỉ cần nói đơn giản. Đây là con ngƣời phải có của văn học Việt Nam, con ngƣời
có bản
(1)
(2)
Trần Đình Hƣợu, Nho giáo và văn học Việt Nam trong cận đại. NXB Thông tin. 1995
Tản Đà thơ và đời. NXB Văn học. Hà Nôi, 1995
10
ngã và có sự nghiệp". Trong bài viết "Vấn đề Tản Đà dƣới ánh sáng tƣ duy mới"(1), ơng cịn
khẳng định cảm hứng yêu nƣớc của Tản Đà là một trong những cảm hứng chủ đạo, cần đƣợc
đánh giá lại chiều sâu tình cảm và tâm sự khá phức tạp cùa nhà thơ để tìm kiếm những giá trị
mới, bằng quan điểm và phƣơng pháp tƣ duy mới!
Trong phần nghiên cứu về Tản Đà
(2)
, Trần Ngọc Vƣơng đã cố gắng nêu lên những
nhận định mới và có sức khái quát. Cùng theo hƣớng của Trần Đình Hƣợu, ơng xác định Tản
Đà có ý thức hệ Nho giáo, là phần cốt lõi, và là một nhà Nho tài tử. Theo hƣớng đó, Trần
Ngọc Vƣơng nêu rõ "mẫu ngƣời" mà Tản Đà là đại diện, xác định thực chất tƣ tƣởng sáng tác
của Tản Đà. Với cốt cách nha Nho sống giữa thời Nho Giáo suy vi, cuộc đời Tản Đà là bức
tranh nhiều màu sắc và sự phức tạp trong tƣ tƣởng là do chính ơng cố tình tạo ra. Ý thức hệ
Nho gia là bản chất, nếu có mâu thuẫn (nhƣ ý kiến của Tầm Dƣơng: Tản Đà là "Khối mâu
thuẫn lớn"), nó khơng phản ảnh đúng bản chất, mà chỉ xuất hiện trong một cách nhìn dừng lại
ở lằn vơ hiện tƣợng. Ơng lại cho rằng: Tản Đà nhƣ một điện tử quay quanh hạt nhân Nho
Giáo những trên nhiều quỹ đạo "phá cách", và tính thống nhất bộc lộ giữa các mâu thuẫn với
một cái lõi "y cựu" của nó, trong tình hình chung của đẳng cấp nhà Nho vận động đến tàn
cục, trang 350". Trần Ngọc Vƣơng xác định hai đại lƣợng trong nội dung sáng tác, cũng là
hai nét cơ bản nhất trong bút pháp Tản Đà: Nho gia và tài tử. Nhƣ vậy, cảm hứng sáng tác
trong "văn chơi" sẽ viết theo bút pháp ngƣời tài tử và đối với "văn thuyết lý", "vị đời" sẽ viết
theo yêu cầu của Nho Giáo chính thống. Cảm hứng sáng tác của Tản Đà luôn chịu sự tác
động của quan niệm Tản Đà chù trƣơng văn chƣơng là "thiên mệnh", văn chƣơng cần phải
xứng đáng đúng đúng chỗ. đúng chức năng của nó nhƣ xƣa! (trang 363 đến 365)
Theo ý kiến Trần Ngọc Vƣơng, tác phẩm của Tản Đà là tiêu biểu cho văn học cũ tự
phủ định, nhà Nho tự vƣợt lên trên mình, và đó là sự đóng góp cuối cùng để góp phần cho sự
ra đời một nền văn học mới. ông đã cho rằng "mâu thuẫn chủ yếu trong tƣ tƣởng và sáng tác
Tản Đà là mâu thuẫn trong lòng cái cũ, trong ý thức hệ Nho Giáo"; cảm hứng sáng tác của
(1)
(2)
Báo Giáo viên nhân dân, tr 15, số đặc biệt "Nhìn lại một số hiện tƣợng văn học". 1989.
Trích "Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn chung". NXB Giáo dục. 1998.
11
Tản Đà dù say hay tỉnh đều có tính thống nhất. Ý kiến của ông trong chuyên luận cần để ý
thêm là: "Cảm hứng sáng tác không thực sự đến với Tản Đà từ những đề tài thời sự. Về cơ
bản, nội dung sáng tác Tản Đà mâu thuẫn trong những nội dung sáng tác của văn học Nho gia
đã từng mâu thuẫn. Không phải trong Tản Đà là nội dung cũ mâu thuẫn với nội dung mới một
cách gắt gao..." (trang 366).
Nhƣ vậy việc nghiên cứu và đánh giá Tản Đà trong giai đoạn giao thời 1900 - 1930 là
một việc khó. Sự lý giải về Tản Đà gây nhiều tranh cãi, nên việc tìm ra và đánh giá những
cảm hứng nghệ thuật của Tản Đà cũng nên coi là những giả định, những ý kiến mang tính
chát tham khảo. Trƣớc tình hình đó, luận án khơng tham vọng giải quyết rốt ráo vấn đề đã
đƣa ra, mà chỉ đề nghị xem đây là những kiến giải bƣớc đầu về "cảm hứng nghệ thuật trong
thơ Tản Đà" với những gì khả năng ngƣời viết có thể làm đƣợc.
4. Phạm vi đề tài:
Sáng tác của Tản Đà phong phú về nội dung và đa dang về thể loại. Cái nhìn bao trùm
khắp các thể loại sẽ giúp ta thấy đƣợc rõ chân dung Tản Đà. Mấy mƣơi năm qua, phần thơ ca
của Tản Đà luôn đƣợc xem là bộ phận tiêu biểu nhất để quan sát và đánh giá những gì thuộc
về bản sắc, cốt lõi của Tản Đà. Hơn thế, "công của thi sĩ Tản Đà" vốn đã đƣợc xem là phần
thơ ca, đáng đƣa vào kho tàng văn chƣơng Việt Nam thế kỷ XX. Phần thơ ca, trong giới hạn
của đề tài này, chúng tôi sẽ khảo sát qua phong thi, hát nói, hát xẩm, lý, ca trù... và các loại
thơ không định thể của ông. Tuy nhiên, phần văn xuôi của Tản Đà với những tƣơng quan về
nội dung nhất định với thơ ca cũng sẽ đƣợc nhắc đến với ý nghĩa tham khảo, so sánh.
5. Phương pháp tiếp cận:
Trƣớc khi đặt vấn đề nghiên cứa một khía cạnh văn chƣơng Tản Đa. bất kỳ ai cũng
biết Tản Đà là một hiện tƣợng phong phú và phức tạp của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
12
Việc tìm hiểu văn học giai đoạn Tản Đà sống và sáng tác, những vấn đề lịch sử, xã
hội, tƣ tƣởng giai đoạn của Tản Đà là thực sự quan trọng. Điều đó trong luận án sẽ đƣợc sử
dụng nhƣ cơ sở lịch sử - xã hội không thể thiếu.
Ngƣời viết kết hợp hai hƣớng vừa phân tích; vừa giải thích để làm rõ những cảm hứng
nghệ thuật trong thơ Tản Đà. Luận án sẽ chú ý nguồn gốc lịch sử - xã hội của những cảm
hứng sáng tác đố. Một trong những phƣơng pháp chủ yếu là phƣơng pháp lịch sử để xác định
tính chất giao thời, những cảm hứng chủ đạo xuyên suốt thi phẩm Tản Đà trong bối cảnh xã
hội và văn hóa, văn chƣơng đầu thế kỷ XX.
Việc phân tích, đánh giá trong một phạm vi nhất định đặc điểm tƣ tƣởng, sáng tác của
các nhà thơ đi trƣớc và cùng thời với Tản Đà để tìm ra tƣơng quan của đặc điểm tƣ tƣởng ấy
với cảm hứng sáng tác là một thao tác cần thiết. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu sẽ đƣợc sử
dạng để thấy đƣợc những cảm hứng sáng tác của Tản Đà có chỗ giống hay khác những nhà
nho tài tử trƣớc đó, và thơ Tản Đà đã chuẩn bị gì cho thế hệ thỉ sĩ giai đoạn sau.
Đồng thời, sự chọn lọc - đánh giá và hệ thống hóa một cách khoa học tác phẩm thơ
Tản Đà sẽ giúp cho việc tìm và hiểu đúng những cảm hứng chính yếu của nhà thơ.
6. Đóng góp của luận án :
- Luận án cố gắng đƣa ra một hƣớng lý giải, đánh giá về hai cảm hứng nghệ thuật
chính yếu của Tản Đà:
• Cảm hứng dân tộc
• Cảm hứng lãng mạn
Qua những cảm hứng nghệ thuật đƣợc trình bày, khẳng định Tản Đà đã có sự "cách
tân " so với những ngƣời đi trƣớc.
13
7. Cấu trúc của luận án:
A/ Phần mở đầu
B/ Phần nội dung, gồm 3 chƣơng:
I. Cuộc đời và sự nghiệp Tản Đà. Những sự kiện ảnh hƣởng đến cảm hứng sáng tác
II. Cảm hứng dân tộc
III. Cảm hứng lãng mạn
C/ Kết luận
14
B. NỘI DUNG
CHƢƠNG I: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG. NHỮNG
SỰ KIỆN ẢNH HƢỞNG ĐẾN CẢM HỨNG SÁNG TÁC.
1. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương.
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 25/5/1889 (tức ngày 20/4, năm Kỷ Sửu) và mất
ngày 7/6/1939 (cũng nhằm ngày 20/4 năm Kỷ Mão); quê gốc tại làng Khê Thƣợng, huyện
Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Khê Thƣợng là một làng trung du nhỏ mà trù phú bên sông Đà, cách
núi Tản Viên 10 km đƣờng chim bay. Nay Khê Thƣợng nhập với một số xã khác trở thanh xã
Sơn Đà thuộc huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội.
Vốn gắn bó, yêu mến quê bƣơng, nơi chốn nhau cắt rún, nên Nguyễn Khắc Hiệu đã
ghép hai danh từ núi Tản và sông Đà để dùng làm bút hiệu: Tản Đà.
Nguyễn Khắc Hiếu thuộc một dòng họ khoa bảng lâu đời, trƣớc ở làng Kim Lũ, xã
Đại Kim, huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội, có sơng Tơ Lịch chảy qua. Nay nhà thờ tổ
vẫn cịn ở đấy, đƣợc xếp vào di tích liệt hạng, vì có nhiều nhân vệt lịch sử và danh nhân văn
hóa của đất nƣớc nhƣ ông Nguyễn Công Thế (Kiều Quận Cơng - Thƣợng Thƣ Bộ Lễ, có
cơng đấu tranh chống nhà Thanh bảo vệ biên cƣơng); Nguyễn Văn Siêu (cây bút tài hoa mà
Tự Đức từng ca ngợi, cùng với Cao Bá Quát)...
15
Xuất thân từ một gia đình phong kiến quan lại suy tàn, cụ thân sinh Nguyễn Khắc
Hiếu là Nguyễn Danh Kế đã làm ngƣợc lại ý ông cha (không tham gia cử nghiệp), ra ứng thí
và đỗ cử nhân triều Tự Đức. Cụ bắt đầu con đƣờng làm quan từ tri huyện Nam Sang, tri phủ
Lý Nhân, đến án sát Ninh Bình. Nguyễn Danh Kế là một bậc danh nho, làm quan có tiếng
thanh liêm và rất thƣơng dân. Ơng còn mang cốt cách một nhả nho tài tử, nên trong chốn bình
khang đã gặp và lấy một ngƣời làm vợ thứ ba (khi ông làm tri phủ Xuân Trƣờng). Đó lả một
đào nƣơng tài sắc, có nhân cách, phong lƣu, từng làm nhiều thơ; ở phố Hàng Thao - Nam
Định, tên Nhữ Thị Nghiêm (có sách ghi tên Lƣu Thị Hiền), đƣợc gọi là bà Phủ Ba. Cuộc hôn
nhân giữa hai ngƣời tài tử ấy đã sinh ra (Nguyễn Khắc Hiếu. Ông là con thứ tƣ (con út) của
bà Nghiêm, là con trai thứ 11 của ông Kế. Lúc ấu thơ đƣợc gọi là "Ấm Cứu", khi thi ấm sinh
mới đổi là "Ấm Hiếu" - Nguyễn Khắc Hiếu. Có hai ngƣời anh cùng cha khác mẹ: ngƣời anh
cả Nguyễn Tái Tích, ngƣời anh thứ là Nguyễn cổn. Ơng cịn có một ngƣời anh cùng mẹ khác
cha là Nguyễn Mạnh. Bà Phủ ba có hai ngƣời con gái và ngƣời sau tên là Trang (chị của Tản
Đà).
Lần theo bƣớc chân, cuộc đời Nguyễn Khắc Hiếu ta sẽ biết những chặng đƣờng,
những thăng trầm trong văn nghiệp của ông; sự tác động của cuộc sống đến văn nghiệp đó.
Năm Nguyễn Khắc Hiếu lên 3 tuổi, bố mất (l891). Năm lên 4, bà Phủ Ba vì một sự
bất hịa trong gia đình, đem ngƣời con gái út (cô Trang) ra đi và tìm về nghề cũ với tiếng đàn
câu hát, khi Hà Nội, khi Bắc Ninh. Hành động của bà đối với gia đình nhà nho là khơng thể
chấp nhận đƣợc, làm cho Nguyễn Khắc Hiếu từ đây về sau vô cùng đau đớn; vết thƣơng lòng
của tuổi trẻ đã ảnh hƣởng rất nhiều đến cuộc đời ông sau này. Những nỗi buồn thấm thía mà
ta tìm thấy bàng bạc trong lời thơ Tản Đà, có lẽ một phần lớn do nguyên nhân này mà ra!
Tình mẫu tử bị chia ly ngay từ tấm bé đã khiến cho nhà thơ lãng mạn đầu thế kỷ XX lúc nào
cũng thấy đời mình thiếu thốn một tình thƣơng, một nguồn an ủi mà thi sĩ khơng tìm thấy ở
bất cứ đâu! Tâm trạng đau lòng ấy đã khiến trong tác phẩm Tản Đà những bài có giọng cảm
16
thƣơng thân phận ngƣời ca kỹ (Cánh bèo, Đời đáng chán...). Ngƣời anh cả của Nguyễn Khắc
Hiếu là Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng ra làm tri huyện, rồi thăng chức đốc học. Nguyễn Khắc
Hiếu đã đƣợc ông này nuôi dƣỡng, dạy dỗ và rèn luyện theo đƣờng cử nghiệp. Ông Nguyễn
Cổn đỗ tú tài; ông Nguyễn Mạn làm lục sự, giỏi khoa hà lạc lý số và nghề thuốc - chính nhờ
ơng này kèm cặp mà về sau trong những lúc lỡ vận, Tản Đà có tài mọn để kiếm tiền đắp đổi
qua ngày (xem số hà lạc).
Theo lời kể của Tản Đà (Giấc mộng lớn), lúc lên 5 tuổi ở Nam Định học chữ Hán
(Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi..). Tự thuở ấu thơ đã bộc lộ cái bệnh đa tình bẩm sinh, cái
lịng mê khoa cử cũng từ đấy "do thích nhất trong sách cổ Hán văn là 2 câu: Hoa cù hồng
phấn nữ, tranh khán lục y lang - Đƣờng hoa gái đẹp má hồng, tranh nhau mà ngắm các chàng
áo xanh hơn 10 tuổi thông thuộc Hán văn, 14 tuổi tập làm thơ.
Nguyễn Khắc Hiếu đƣợc ơng phó bảng Nguyễn Tái Tích đặt nhiều hi vọng đỗ đạt cao
để làm rạng rỡ tông môn. Nhƣng ngƣời theo Tây học ngày càng đông. Hán học dần khơng
cịn thích hợp, chữ Quốc ngữ đƣợc đem ra áp dụng trong chƣơng trình giáo dục cùng lúc với
chữ Pháp. Năm 16, 17 tuổi trở đi, Nguyễn Khắc Hiếu làm quen với Quốc ngữ. Ơng Tích về
làm đốc học ở Hà Nội, gặp lúc nhà nƣớc mở trƣờng Tân Quy dạy chữ quốc ngữ cho nho sĩ,
Nguyễn Khắc Hiếu đƣợc theo anh về học ở trƣờng này. Trong dịp học ở Tân Quy, ơng có viết
bài luận "Âu - Á nhị châu hiện thế" khiến cả thầy và bạn hoan nghênh tán thƣởng. Bài này
đƣợc một phóng viên Trung Quốc ở Hà Nội gởi về nƣớc đăng trên một tờ báo. Cùng lúc,
phong trào cổ súy quốc học của Đông Kinh Nghĩa Thục đang sôi nổi, phong trào báo chí
cũng manh nha (ra đời các tờ Đăng Cổ tùng báo, Đại Việt tân báo...), tƣ tƣởng cải lƣơng về
canh tân xẫ hội nổi lên, nhất là ở thành thị.
Lúc theo học trƣờng Tân Quy, vốn là kẻ đa tình, Nguyễn Khắc Hiếu đang ở phố Hàng
Nón thƣờng gặp cô Đỗ Thị bán sách ở phố Hàng Bồ là ngƣời có nhan sắc, biết cả chữ Quốc
ngữ và thơ. Từ giao tế đến trao đổi tâm tình, đã thật là "tình trong nhƣ đã. mặt ngồi cịn e",
17
khách đa tình đã muốn thả lá đề thơ nhƣng cịn ngần ngại. Ngƣời anh rể của ơng là Nguyễn
Thiện Kế (một nhà thơ trào phúng) rất quý mến cậu em vợ, biết chuyện liền đến dạm hỏi Đỗ
Thị cho Nguyễn Khắc Hiếu, mới hay nàng Đỗ và nghiêm phụ chỉ muốn kết duyên với ngƣời
đỗ cử nhân, hàng tri huyện mà thôi: Dùng chức ấm sinh ông Hiếu hăm hở thi vào trƣờng Hậu
Bổ để mong hài lòng ngƣời ngọc. Từ 1909, 1911, 1912, mấy lần ông Hiếu đều thi hỏng, thế
là "duyên trái Hà Thành, thi bay Nam Định". Từ Nam Định về Hà Nội trong nỗi thất bại chua
cay, Nguyễn Khắc Hiếu đã chứng kiến cảnh Đỗ Thị đi lấy ngƣời khác - một cậu cả con quan
Huyện Nguyễn. Đây là sự kiện đau lòng thứ hai có ảnh hƣởng đến tâm hồn của nhà thơ sau
này: thất bại cử nghiệp, thất chí và thất tình! Mối tình tan vỡ đặc biệt cịn ám ảnh thi nhân
mãi về sau, một con ngƣời giàu tình cảm nhƣng lại thiếu vắng tình cảm và đau đớn vì tình
cảm:
Vì ai cho tớ phải lênh đênh
Nặng lắm ai ơi một gánh tình !
Nguyễn Khắc Hiếu tƣởng chừng trở nên điên loạn, đan xót vơ hạn khiến ơng bỏ lên
Hồ Bình. tìm cảnh sơn cƣớc để có thể qn mối sầu tình tan vỡ. Sau ông lại về cố hƣơng,
nhƣng cái sầu trong khung cảnh tĩnh mịch lại nhƣ tăng thêm độ. Để đỡ ƣu phiền, ông rủ
ngƣời bạn là tú tài Nghiêm Phúc Đồng đi thảm chùa Non Tiên, rồi tế Chiêu Quân nhƣ muốn
tỏ lòng đồng điệu với những kẻ đau khổ nhƣ mình:
Cơ ơi, cơ đẹp nhất đời
Mà cơ mệnh bạc thợ trời cũng thua.
Muốn đồng cảm với một tâm hồn tận thuở xa xƣa, thi sĩ lại chạnh lịng bng những
lời ai ốn, trong cảnh ngộ cơ đơn, tâm tƣ tiếc nuối:
Ái ân thơi có ngần này
Thề nguyền non nƣớc hẹn ngày tái sanh.
18
Ông sống "khổ hạnh" 3 tháng ở ấp Cổ Đằng, Sơn Tây; dƣ âm nỗi buồn chƣa dứt! Và
sau những nỗi sầu đau, những dòng thơ bắt đầu một thi nghiệp từ 1913 đã phôi thai cho dấu
ấn của thiên tài. Một bài thơ yết hậu ghi nhận một bút hiệu để mở đầu cho tên tuổi một con
ngƣời:
Văn chƣơng thời nơm na
Thú vui có sơn hà
Ba Vì ở trƣớc mặt
Hắc Giang bên cạnh nhà.
Tản Đà!
Lang thang uống rƣợu, làm thơ thƣởng trăng cũng vợi buồn, Nguyễn Thiện Kế đƣa
Tản Đà về nghĩ ở nhà Bạch Thái Bƣởi - một nhà tử sản dân tộc lúc đó. Ở đây, Tản Đà có dịp
đọc Tân thƣ (qua tiêng Hán từ đó nhen nhóm một hồi bão, một lý tƣởng có chiều mới mẻ,
gạt bỏ con đƣờng cử nghiệp. Thế là, Tản Đà dần tỉnh ngộ giấc mơ "mũ bạc lọng xanh" và
xoay hƣớng sang con đƣờng viết văn làm báo, dựng sự nghiệp tinh thẩn với xã hội. Năm
1915 lấy vợ, sau đó 1916 ơng Nguyễn Tái Tích mất, cuộc sống giục Tản Đà chính thức bƣớc
vào làng văn. Ơng bắt buộc phái lăn thân vào đời, dùng văn thơ để mƣu sinh và nuôi nấng vợ
con.
Đầu tiên, với bút danh Tản Đà, ông gởi đăng những bài luận thuyết văn xi ngắn
trên Đơng Dƣơng tạp chí, khoảng 1915. Ngƣời đọc biết đến cái tên Tản Đà khi thƣởng thức
lối văn tài tử độc đáo và cái giọng ngông của tác giả. Khơng hợp tác chính thức đƣợc trên tờ
Đơng Dƣơng tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, cũng chẳng thể hợp tác với tờ Nam Phong tạp
chí của Phạm Quỳnh, Tản Đà cũng từ chối việc giám đốc trƣờng Hậu bổ gọi ơng vào học (do
mến tài ơng) để có thể ra làm quan. Ông tiếp tục làm văn, sáng tác thơ, viết báo "kiếm ăn
xoàng".
19
Năm 1916, Tản Đà cho in tập thơ đầu tay Khối Tình Con; năm 1917 thêm tập ký sự
Giấc Mộng Con. Tản Đà bắt đầu nổi tiếng. Năm 1918 ba tập Khối Tình bản chính, Khối Tình
bản phụ, Khối Tình Con II (thơ) tiếp tục khẳng định một tài năng.
Tản Đà xuống Hải Phòng viết tuồng cho rạp Nguyễn Đinh Kao: vở Tây Thi, Ngƣời
Cá, Thiên Thai. Ông lại lên Hà Nội viết cho rạp Thắng Ý, Sán Nhiên Đài. Từ 1919 đến 1920
dịch Đàn Bà Tàu (truyện có lời bình và thơ), sau là truyện Đài Gƣơng; hai tập thơ giáo khoa
Lên sáu, Lên tám. Ông tiếp tục đọc thêm Tân thƣ (sách Âu Tây bằng chữ Hán), tƣ tƣởng càng
có sự chuyển biến. Tản Đà khơng chỉ muốn là một nhà thơ, nhà văn; ơng muốn gắn bó với
một tờ báo để phát lộ chí hƣớng.
Năm 1920 đi du lịch Huế, Đà Nẵng, trở về viết truyện Thề Non Nƣớc (trong có bài
thơ Thề non nƣớc rất quen thuộc với độc giả). Năm 1921, hội Nông Công Thƣơng (của
Nguyễn Huy Hợi và Nguyễn Thống) mời Tản Đà làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh. Tản Đà sử
dụng tờ báo để tuyên truyền chủ nghĩa hữu ái và thuyết Thiên Lƣơng của ông. Diễn thuyết về
"Đời đáng chán hay khơng đáng chán", thi sĩ nhằm giải thích thái độ "nhập cuộc" của mình.
Cho xuất bản "Thần Tiền" - một tiểu thuyết giàu chất hiện thực, tác giả phê phán thế lực đồng
tiền thao túng xã hội. Đƣợc 6 tháng, từ chức chủ bút Hữu Thanh, lý do để "phụng dƣỡng mẹ
già 80 tuổi "ở quê!.
Năm 1922 ra Hà Nội lập Tản Đà Thƣ Điếm, rồi Tản Đà Thử Cục. Ở đây, ông cho
xuất bản Tản Đà Tùng Văn (tập thơ văn), tập Còn Chơi (tập thơ văn - 1922/1924), Quốc Sử
Huấn Mông (1924), Trần Ai Tri Kỷ (Truyện - 1924), dịch Kinh Thi, Đại Học (1924), dịch Tỳ
Bà Hành (1925). Đến đây Tản Đà đã lộ diện trên văn đàn nƣớc nhà với nhiều tƣ cách: một
nhà thơ, một nhà văn, một cầy bút về sân khấi, một nhà báo chuyên nghiệp... một triết gia. Đã
có một nhân vật tiêu biểu của văn học buổi giao thời - Tản Đà, với tất cả vinh dự và những bi
kịch phải nhận lãnh. Ông là một - hiện tƣợng văn học đầy cá tính" những nói chung là vẫn in
dậm dấu ấn của chính thời đại mình.
20
Phong trào yêu nƣớc từ 1925 dấy lên nhân việc Phan Bội Châu bị bắt đƣa về Huế,
Phan Chu Trinh về Sài Gòn. Tản Đà bộc lộ tinh thần "nhập thế" tích cực hơn bằng hành động
cố gắng cho ra mắt tạp chí An Nam (1926). Đƣợc 10 số, báo bị đình bản, sau đó tờ báo chết
đi sống lại mấy lần làm nhà thơ lao đao khơng ít, chủ yếu do thiếu kém tài chính. Thi sĩ ví cái
lận đận trong cảnh chèo chống tờ An Nam nhƣ hình ảnh thuyền nan giữa ba đào gian khó:
Đƣờng xa gánh nặng xế chiều
Cơn giông biển lớn mái chèo thuyền nan
Những trăn trở vì tờ báo, những u uất qua ngày tháng đã nhƣ một định mệnh và một
nỗi cô đơn khó ai có thể chia sẻ:
Mối đâu bối rối tơ tằm
Lấy ai là kẻ đồng tâm gỡ cùng
Sau Thề Non Nƣớc, tập Còn Chơi và một loạt tác phẩm mang ý đồ "nhập thế" sôi nổi
từ 1920 đến Ỉ927. Những cái nghèo và thời vận một nhà nho cùng với tờ An Nam đã khiến
Tản Đà mệt môi. An Nam tạp chí đình bản vào tháng 3/1927. Và cũng sau tập "Còn Chơi",
nghĩa là từ 1925 trở đi, thơ và những tác phẩm cốt tử của một sự nghiệp thi ca khơng cịn
mấy. Tản Đà thấm thía sự cơ đơn, vắng bóng ngƣời cùng tâm nguyện:
Nghĩ thân thế mềm gan lắm lúc
Nhìn non sơng bạc tóc nhƣ chơi
Trơng ai mỏi mắt phƣơng trời
Nhớ ai đi đứng ăn ngồi thở than
Thi sĩ xếp lại công to việc lớn, làm một chuyến du Nam, thăm cảnh, thăm ngƣời. Ông
gặp gỡ Phan Bội Châu ở Huế, rồi vào Sài Gòn. Tản Đà muốn nhờ thế lực tài chính của Diệp
Văn Kỳ (cũng là một nhà báo) để làm tờ An Nam trong Sài Gòn, in trong Nam lại phát hành
ở Bắc. nhƣng thấy cơng việc phiền hà nên thơi. Tình cảm u nƣớc, tâm sự u hoài bộc lộ rõ
21
hơn qua nhiều chuyến đi. Tản Đà viết cho mấy tờ Đông Pháp, Thần Chung để làm quen với
độc giả Nam Kỳ, xong lại ra Bắc. Ở Hà Nội, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng là Nguyễn
Thái Học đến tìm gặp (1927) nhƣng do hiểu lầm mà cuộc gặp gỡ không đi đến đâu (Nguyễn
Thái Học muốn bàn việc tục bản tờ An Nam của Tản Đà và muốn đề nghị tờ báo làm hậu
thuẫn cho tổ chức chính trị của ông).
Cuối 1927, ông lại cùng Ngô Tất Tố vào Sài Gịn giúp cho tờ Đơng Pháp thời báo của
Diệp Văn Kỳ. Tháng 2/1928 lại bỏ về Bắc, trên đƣờng về có ghé thăm mả gia đình Nguyễn
Huệ ở Phú Phong, làm náo động bọn quan lại Tây, Ta ở đây. Sau lại về quê nhà, tự suy gẫm
một thời gian trong vùng quê Vĩnh Yên, xong lần nữa xuống Hải Phòng do bị bọn quan lại
địa phƣơng làm khó dễ. Có thể nói, đây là thời điểm "khủng hoảng" của thi sĩ Tản Đà sau
những cuộc xê dịch liên tiếp và sự nghèo túng làm gị bó cuộc đời ông. Nhƣng khác với kiểu
nhà nho nhƣ Nguyễn Công Trứ, Tản Đà khơng nói về cảnh nghèo một cách "khẩu khí", mà là
rất thành thật và cay đắng. Trong Giấc Mộng Con, cuộc đời "chênh vênh" của thi sĩ đƣợc nêu
rõ: "vợ dại, con thơ, sự sinh hoạt trông nhờ ở một ngọn bút". Cuộc sống ở Vĩnh Yên là sự
"rút về phòng ngự" sau gần 2 năm lặn lội đƣờng dài, miệt mài một tâm tƣởng cho công cuộc
khơi phục tờ An Nam tạp chí - đứa con cƣng và là mảnh đất cuối cùng có giá trị để thực hiện
lý tƣởng của cuộc đời ông. Giấc Mộng Lớn (1929) là một tự truyện ra đời nhƣ một tâm tình
chân thật của kẻ sĩ, một sự đối diện của cái "Tôi" với cuộc sống không hề giấu giếm. Quyển
tự truyện giúp ta thấy rõ thêm cuộc đời chân thật của một thi sĩ: giữa những long đong nghèo
túng là một bản ngã, một tính cách khác thƣờng. Trong những nẻo đƣờng, những xê dịch của
cuộc đời thật dƣợc phơi bày ấy, ngƣời ta còn thấy kể cụ thể 4 mối tình của thi sĩ - điều mà đối
với một nhà nho có thể là những thầm kín chẳng nói cho ai hay!
Tản Đà lại lên Hà Nội, năm 1930, cho tục bản An Nam tạp chí; nhƣng tờ tạp chí lại èo
uột khó ni mới đƣợc 2 số lại dừng. Nó lại đƣợc phát hành ở Nam Định đầu năm 1931 đƣợc
mấy số, lại đình bản. Lần thứ 3, đó là vào tháng 4/1931, An Nam tạp chí lại xuất hiện ở Hà
22