Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tu tuong HCM ve xay dung Dang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.29 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH</b>
<b>LÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH</b>


<i><b>Th S. Phạm Mỹ Hạnh</b></i>
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN). Suốt cả cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn kiên định quan điểm
và lập trường xây dựng ĐCSVN theo chủ nghĩa Mác - Lênin và rèn luyện ĐCSVN
theo hướng đó. Đó là "Đảng của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, nghĩa là
những thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong
sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân".


Vì vậy muốn xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, theo Người, trước tiên là
phải tuân thủ theo các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đó là nguyên tắc tập
trung dân chủ. Hồ Chí Minh lý giải vấn đề tập trung trong Đảng là : Thiểu số phải
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, tất cả đảng viên phải chấp hành vơ điều
kiện Nghị quyết của Đảng. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải chú ý thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người nói : “ Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất
cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình...".


Ở Hồ Chí Minh, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện
chứng giữa dân chủ và tập trung, tập trung phải trên cơ sở dân chủ và dân chủ phải
dưới sự chỉ đạo của tập trung. Có dân chủ trong Đảng mới có dân chủ ở ngồi xã hội
song dân chủ khơng phải là vơ chính phủ.


Về "ngun tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, theo quan điểm của
Người, chỉ có tập thể lãnh đạo mới huy động được tất cả trí tuệ của đội tiên phong
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của tồn dân tộc, vì " một người dù
khơn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ trông thấy, xem
xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả
mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy cần phải có nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh
nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trơng thấy rõ mặt khác của vấn đề đó,


góp kinh nghiệm và xem xét của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi
mặt và có thấy rõ khắp mọi mặt thì vấn đề mới giải quyết chu đáo khỏi sai lầm”.
Nhưng theo Người, “ tập thể lãnh đạo" mới chỉ là một vế. Người cho rằng : " Tập thể
lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đơi với nhau". Bởi lẽ "... Nếu
khơng có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này uỷ cho người kia, người kia
uỷ cho người nọ, kết quả là khơng ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng khơng xong.
Tục ngữ có câu " Nhiều sãi khơng ai đóng cửa chùa" là như thế".


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

sửa chữa. Được như vậy thì trong Đảng sẽ khơng có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vơ
cùng.


Thứ hai là tư cách đảng viên và vấn đề cán bộ. Vấn đề tư cách của người đảng
viên, Hồ Chí Minh đề cập thường xuyên trên tất cả các mặt, nhưng bao giờ Người
cũng coi đạo đức là gốc của người cộng sản: Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ
cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng cá nhân mà vì
lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Có thể nói cả cuộc đời Hồ Chí
Minh là tấm gương sáng ngời về phấn đấu, rèn luyện cho đạo đức của người cộng sản
- Đó là cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm mà bất cứ
một người đảng viên nào cũng phải phấn đấu học tập và noi theo.


Còn về vấn đề cán bộ, Hồ Chí Minh coi “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc",
" muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Yêu cầu của Hồ Chí
Minh đối với cán bộ cách mạng là : Có đạo đức cách mạng - Đây là yêu cầu đầu tiên
cần phải có của người cán bộ; Có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối chủ
trương của Đảng, có trình độ chun mơn và nghiệp vụ giỏi; Có mối liên hệ mật thiết
với nhân dân; Luôn luôn học hỏi lý luận Mác - Lênin, học tập nâng cao trình độ
chun mơn kỹ thuật. Phải có phong cách cơng tác tốt, chống bệnh chủ quan, tác
phong quan liêu, đại khái...


Đồng thời với những quan điểm về cán bộ, Hồ Chí Minh cũng nêu ra những


yêu cầu đối với cơng tác cán bộ. Đó là phải " hiểu và đánh giá đúng cán bộ". Muốn
vậy phải có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh
vực, hồn tồn cơng minh, khách quan; Phải " khéo dùng cán bộ", tức là đặt người
đúng việc, kết hợp cán bộ trẻ với cán bộ già; Chống chủ nghĩa biệt phái, địa phương
cục bộ trong chính sách cán bộ, tránh đầu óc phe phái họ hàng; Phải " chiêu hiền đãi
sĩ", " cầu người hiền tài", " có gan cất nhắc cán bộ". Xem xét kỹ trước khi cất nhắc
cán bộ, nhưng sau khi đề bạt cần phải kiểm tra giúp đỡ.


Thứ ba là tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh, sức mạnh của Đảng chính là bắt nguồn từ mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và
nhân dân. Đảng ở trong dân, dân trong Đảng. Sự nghiệp cách mạng là của dân, do
dân và vì dân. Mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng đều bắt nguồn từ sức mạnh của
nhân dân được Đảng dẫn lối chỉ đường. Đảng là người đại diện trung thành và đầy đủ
nhất lợi ích sống cịn và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Đảng lấy phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân làm mục đích cao nhất của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

phần tham gia xây dựng ĐCSVN trong sạch vững mạnh trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, theo tơi Đồn TNCS Hồ Chí Minh phải làm tốt mấy nhiệm vụ sau :


- Tiếp tục truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Tuyên
truyền nâng cao nhận thức cho TN và nhân dân về Đảng, tích cực tham gia chống lại
những tư tưởng phản động, góp phần xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng.


- Xung kích đi đầu thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng; Tổ
chức tốt các phong trào hành động cách mạng, tạo ra môi trường tiên tiến cho TN rèn
luyện, phấn đấu trở thành đoàn viên và đảng viên ĐCSVN. Đồn là nguồn trực tiếp
tham gia cơng tác phát triển đảng, giới thiệu đoàn viên ưu tú, giáo dục và rèn luyện
đảng viên trẻ, cung cấp cán bộ cho Đảng, góp phần xây dựng Đảng về tổ chức.


- Đồn có trách nhiệm tham mưu cho Đảng về cơng tác TN, đồng thời tham gia


góp ý, xây dựng đường lối, chính sách của Đảng, góp ý phê bình đảng viên và cấp uỷ
Đảng...


Có như vậy, Đồn TNCS Hồ Chí Minh mới "tiếp tục khẳng định vai trị hạt
nhân chính trị, nòng cốt trong phong trào TN, xứng đáng là trường học của những
người cộng sản trẻ tuổi, đội dự bị tin cậy của Đảng Cộng sản Việt Nam” như mong
muốn của Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh.


/><b>TƯ TƯỞNG XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG DI CHÚC CỦA HỒ CHÍ MINH</b>


<b>Đã 40 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa. Trước lúc đi xa, Người để lại cho</b>
<b>muôn đời sau một bản Di chúc thiêng liêng. Di chúc đã trở thành di sản tinh</b>
<b>thần vô cùng quý giá, kết tinh những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp,</b>
<b>những nội dung tư tưởng cốt yếu định hướng phát triển lâu dài cho cách mạng</b>
<b>Việt Nam. Đó là những tình cảm thắm thiết và niềm tin vững chắc của Người đối</b>
<b>với nhân loại tiến bộ, mà trước hết là với Đảng ta, nhân dân ta và các thế hệ mai</b>
<b>sau. </b>


Di chúc là một văn kiện lịch sử phản ánh tập trung nhất tư tưởng, đạo đức và
tác phong của Người, thể hiện tinh thần trách nhiệm lớn lao, lo lắng mọi bề đến tương
lai của dân tộc ta, của chế độ xã hội chủ nghĩa và loài người. Tư tưởng trong Di chúc
thể hiện nguyện vọng, ý chí và quyết tâm đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất nước nhà. Với ý nghĩa đặc biệt đó mà “<i>Di chúc của Người hiện nay cũng</i>
<i>như sau này không những chỉ là của nhân dân Việt Nam mà còn dành cho tất cả dân</i>
<i>tộc, các đảng đang đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, dù ở châu</i>
<i>Á, châu Âu hay ở bất cứ nơi nào trên các lục địa</i>”


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

vận dụng sáng tạo nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ.



Nhận rõ tầm quan trọng của việc tổ chức ra đảng tiền phong để lãnh đạo cách
mạng và sự lãnh đạo đúng đắn của đảng là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của
cách mạng, Người đã sáng lập và lãnh đạo Đảng ta. Công lao to lớn của Người là đã
tiếp thu và truyền bá thành công chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, trên cơ sở đó
thành lập Đảng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của quá trình lựa
chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và gắn liền với tên tuổi Hồ Chí Minh. Đây là
sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn, đánh dấu bước ngoặt căn bản căn bản không chỉ
trong lịch sử cách mạng nước ta, mà cả lịch sử cách mạng của ba nước Đơng Dương.
Nhờ uy tín, tài tổ chức, giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo của Người, Đảng ta nhanh
chóng trở thành đội tiền phong duy nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và cả dân tộc - đảng cách mạng duy nhất lãnh đạo cách mạng với đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo.


<i>Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là một tư tưởng chiến lược trong Di chúc</i>
<i>của Người</i>. Hồ Chủ tịch ln chăm lo xây dựng đồn kết, thống nhất trong Đảng.
Người coi việc giữ gìn sự đồn kết, thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình. Với Người, sự đồn kết, thống nhất của Đảng phải được thể hiện trên tất
cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tình hình càng phát triển, nhiệm vụ càng
nặng nề, sự đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động của Đảng càng quan
trọng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hạt nhân
của khối đại đồn kết, nên trong q trình cách mạng, từ khi sáng lập đảng cho đến
trước lúc đi xa, Người rất coi trọng xây dựng khối đồn kết, thống nhất, ln đề cao
vai trò lãnh đạo của Đảng, thường xuyên quan tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng
Đảng, chăm lo giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên về phẩm chất đạo đức cách
mạng nhằm xây dựng đảng ta thành một đảng cách mạng, trong sạch, đồn kết, một
lịng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Với ý nghĩa như
vậy nên trong Di chúc, khi nói về Đảng, Người viết: “Đồn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ
cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình” .Chính “Nhờ đồn kết chặt chẽ, một lịng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ


nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết,
tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Về chỉnh đốn Đảng, Người khơng coi đó là biện pháp tình thế mà là nhiệm vụ
tất yếu, thường xuyên để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, là sự vận động trong
quá trình phát triển. Khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng thái độ
bình tĩnh, sáng suốt, kiên định lập trường, khơng để rơi vào tình trạng dao động, bi
quan; khi cách mạng trên đà thắng lợi, chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo,
chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu; khi Đảng cầm quyền, đảng viên rất dễ đánh mất
mình, ngày hơm qua vĩ đại, khơng nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến
nếu họ khơng trong sáng, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy lại càng cần coi trọng
chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, trước yêu cầu xây dựng đảng ngang tầm với nhiệm vụ lịch
sử mới và trước thực trạng của Đảng ta hiện nay thì nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng vừa là cơ bản, thường xuyên lại vừa rất cấp bách.


<i>Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển, là phương</i>
<i>thức giáo dục, rèn luyện đảng viên và xây dựng đảng, làm cho Đảng ta thường xuyên</i>
<i>trong sạch, vững mạnh.</i> <i>Đây là một luận điểm quan trọng của Người, góp phần làm</i>
<i>phong phú thêm lý luận xây dựng đảng</i>. Người cho rằng, tự phê bình và phê bình
trước hết là để soi vào mình và người khác giúp mình thấy rõ mình hơn nhằm phát
huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm; để tư tưởng và hành động đúng hơn, tốt hơn,
tiến bộ hơn; để xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người yêu cầu “Trong
Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”..
Muốn thực hiện nguyên tắc này, theo Người, mỗi đảng viên phải tự phê bình mình
trước, sau đó mới phê bình người khác. Người nhắc nhở, cán bộ trọng trách càng cao,
đảng viên trách nhiệm càng lớn càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Bên
cạnh tính kiên quyết trong thực hiện ngun tắc tự phê bình và phê bình, Hồ Chủ tịch
rất coi trọng cái tâm trong sáng khi phê bình “phải có tình đồng chí thương u lẫn


nhau”.


Hồ Chí Minh là người kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tham ơ,
lãng phí. Người coi đó là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Người yêu cầu “phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”. Để thực hiện tốt điều đó, trước hết đội ngũ cán bộ, đảng viên
phải thật sự trong sạch, vững mạnh, có đủ trí tuệ và năng lực lãnh đạo, được nhân dân
tin yêu, xứng đáng là tấm gương, là ngọn cờ lãnh đạo cách mạng. Đồng thời đảng
phải không ngừng đổi mới và chỉnh đốn đội ngũ. Chính vì vậy, điều dặn dò trước lúc
đi xa của Người là “Trước hết nói về Đảng”. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên
phải đồn kết, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vô tư, để xứng đáng là đội
quân tiên phong và người lãnh đạo xuất sắc trong mọi hoàn cảnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng thì cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” là thể hiện trách nhiệm và tình cảm của Đảng đối với
Bác. Đó là những cuộc vận động liên quan đến vận mệnh của Đảng, của chế độ, của
dân tộc. Vì vậy, xây dựng, chỉnh đốn đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng và cũng là
nguyện vọng, trách nhiệm của toàn dân.


Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, trong những năm qua, từng tổ chức
đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đã không ngừng phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo,
đổi mới phương thức lãnh đạo, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các Nghị quyết
của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Trịn 40 năm tồn Đảng, toàn dân thực hiện Di chúc của Người. Đây là dịp để mỗi
người, nhất là cán bộ, đảng viên tự xem xét lại mình một cách cặn kẽ trong việc thực
hiện Di chúc của Người như thế nào. Để tiếp tục thực hiện Di chúc thiêng liêng của
Người, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã nguyện làm theo lời dạy của Người về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh, lãnh đạo
nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng


nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo sự chuyển biến về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm
theo tấm gương đạo đức của Người; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức và các
tệ nạn xã hội, góp phần hiện thực hóa điều mong muốn cuối cùng của Người là:
“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hồ bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”. Nhìn lại chặng đường 79 năm xây dựng và phát triển của đảng
và của cách mạng nước ta, chúng ta tự hào về đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại. Càng
tự hào, chúng ta càng phải quyết tâm làm theo lời căn dặn trước lúc đi xa của Bác:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”.



<b>TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG –</b>


<b>NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THỜI ĐẠI MỚI</b>
<i><b>Từ một người yêu nước, Nguyễn Ái</b></i>


<i><b>Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa</b></i>
<i><b>Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước</b></i>
<i><b>trong thời đại mới - con đường giải phóng dân</b></i>
<i><b>tộc theo quỹ đạo cách mạng vơ sản. Bằng</b></i>
<i><b>những hoạt động thực tiễn của mình, Hồ Chí</b></i>
<i><b>Minh đã bền bỉ, dẻo dai và kiên nhẫn trong</b></i>
<i><b>việc tìm kiếm con đường, biện pháp để thực</b></i>
<i><b>hiện mục tiêu "</b><b>độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do</b></i>
<i><b>cho đồng bào tôi"</b><b>.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Thành công lớn nhất của Hồ Chí Minh trong những năm 30 - 40 của thế kỷ


XX là đã kịp thời tổ chức, xây dựng một chính đảng kiểu mới ở Việt Nam, một lực
lượng tiền phong cách mạng, sát cánh cùng “quần chúng nông dân lạc hậu tiến hành
thắng lợi cuộc chiến tranh cách mạng". Hồ Chí Minh và những đóng góp của Người
trong cách mạng Việt Nam đã làm biến chuyển cả một giai đoạn lịch sử. Đồng thời,
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong 76 năm qua đã để lại
những bài học lịch sử vô giá.


<i>1. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành tổ chức cách mạng chân</i>
<i>chính - đại biểu cho lợi ích giai cấp, nhân dân và dân tộc</i>


Vận dụng một cách sáng tạo và thành công những luận điểm của học thuyết
Mác-Lênin về Đảng Cộng sản vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận
thức sâu sắc rằng: Mục đích trước mắt của những người cộng sản là tổ chức những
người vô sản thành giai cấp, và “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc” (1). Vì vậy, trong q
trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vơ
sản kiểu mới ở Việt Nam, từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy
cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng) làm
gốc, phải có Đảng vững bền” (2) và “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng” (3).


Đầu năm 1930, như một tất yếu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng của
phong trào cách mạng cả nước về sự cần thiết phải có “Đảng cách mạng, để trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi” (4), Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Xây dựng một Đảng cách
mạng chân chính với sứ mệnh lịch sử như vậy, Hồ Chí Minh đã tiên lượng và chuẩn
bị chu đáo để Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền. Sau đó, để thực hiện được
nhiệm vụ và mục tiêu đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, kiên định
con đường đã lựa chọn: Độc lập dân tộc và CNXH.


Cùng với việc giành được chính quyền, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền,


trực tiếp lãnh đạo cách mạng trong điều kiện có chính quyền. Trong điều kiện lịch sử
mới, Đảng vẫn luôn là đội tiền phong của giai cấp công nhân, tiêu biểu cho trí tuệ,
đạo đức, danh dự và lương tâm của cả dân tộc. Không thay đổi bản chất của Đảng,
khơng thay đổi mục đích, lý tưởng của mình là: giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng nhân loại, song đã có sự thay đổi căn bản về điều kiện và phương
thức hoạt động của Đảng. Trước những thử thách mới, với vị thế và quyền lực mới,
Đảng cũng đồng thời đứng trước vấn đề mới, đó là làm thế nào để quyền lực cùng
những đặc quyền khơng làm tha hố Đảng, khơng làm biến chất đảng viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>2. Thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng luôn trong sạch vững</i>
<i>mạnh, ln là bộ chỉ huy tối cao của tồn dân tộc </i>


Sau thành công của cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng sản từ hoạt động bất
hợp pháp chuyển sang hoạt động hợp pháp. Nhiều cán bộ, đảng viên nắm giữ những
cương vị chủ chốt trong các cơ quan công quyền của Đảng và Nhà nước. Tâm lý thời
bình và vị thế mới đã khiến một số “cán bộ ta lập trường chưa vững chắc, tư tưởng
chưa thông suốt. Do đó mà mắc nhiều khuyết điểm, mắc nhiều bệnh. Đó là chủ nghĩa
cá nhân, là đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích
chung của dân tộc. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh nêu rõ, phải chỉnh huấn, phải
chỉnh đốn lại nội bộ Đảng. Phải thông qua chỉnh đốn Đảng để tăng cường xây dựng
Đảng, để cán bộ ngồi


/><b>TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CẦM QUYỀN</b>


<i><b>Nguyễn Huy Ngọc</b></i>
(ĐCSVN)- Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo
Đảng ta vượt qua bao thử thách để trở thành một chính đảng Mác-Lênin vững mạnh.
Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng và từ khi Đảng ra đời cho đến khi Người đi
xa, Hồ Chí Minh ln ln khẳng định, ln làm cho tồn Đảng qn triệt: Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, Đảng phải luôn luôn giữ vững


và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.


Ngay trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” viết năm 1927 Người đã chỉ rõ
“Đảng muốn vững thì phải lấy chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có
trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”(1).


Trong Chính cương vắt tắt, Sách lược vắn tắt, được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã khẳng định “Đảng là đội tiên phong
của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân
cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo
làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”(2)


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tác phẩm này Người đã nhấn mạnh về tính đảng - tức là bản chất giai cấp công nhân
của Đảng.


Năm 1951, khi Đảng ra hoạt động công khai và đổi tên thành Đảng Lao động
Việt Nam, Người khẳng định bản chất giai cấp công nhân của một Đảng cầm quyền
và chỉ rõ trong điều kiện lịch sử mới quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động và của cả dân tộc là một. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, cho nên Đảng cũng là Đảng của dân tộc.


Cũng có người ngại nói Đảng của dân tộc và sợ trái với bản chất giai cấp công
nhân, Đảng luôn luôn là Đảng của giai cấp công nhân theo hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân nhưng khi đã trở thành Đảng cầm quyền, khi Đảng thực sự là người vừa
đại diện cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, vừa đại diện cho lợi ích cả dân tộc, được
cả dân tộc thừa nhận thì việc khẳng định Đảng cũng là Đảng của dân tộc là hoàn toàn


đúng, theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, là Đảng của giai cấp công nhân nên Đảng củng
phải đặc biệt chú trọng đến thành phần công nhân trong công tác đảng viên và công
tác cán bộ. Nhưng Đảng cũng tránh “chủ nghĩa thành phần” mà hẹp hịi khơng dám
kết nạp và đề bạt những người ưu tú xuất thân từ các thành phần xã hội khác. Hồ Chí
Minh thường xuyên nhấn mạnh bản chất giai cấp công nhân của Đảng làm chi mọi
đảng viên du xuất thân cho đúng để suy nghĩ và hành động theo hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân. Nhưng Người cũng ln ln nhắc nhở tồn Đảng về sự thống nhất
lợi ích của Đảng và của dân tộc. Trong lời khai mạc lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành
lập Đảng, Người đã chỉ rõ “Đảng ta vĩ đại vì ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân,
của dân tộc, Đảng ta khơng có lợi ích gì khác”.


Thực tiễn lịch sử của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế đã chỉ rõ, đã
là Đảng Cộng sản thì Đảng nào cũng phải coi trọng việc giữ vững bản chất giai cấp
công nhân. Đảng Cộng sản ra đời và hoạt động ở một nước mà kinh tế cịn kém phát
triển, giai cấp cơng nhân hiện đại cịn ít như ở Việt Nam thì việc khơng ngừng nâng
cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng lại càng quan trọng. Trong mọi giai đoạn
và mọi thời kỳ cách mạng, bản chất công nhân, sự vững mạnh của Đảng cũng phải
được thể hiện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.


Về đường lối chính trị. Người coi Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp
công nhân và khi đã trở thành Đảng cầm quyền thì Đảng đồng thời là đội tiên phong
chính trị của cả dân tộc.


Đường lối chính trị là vấn đề cốt tử đầu tiên quyết định vận mệnh của Đảng và
cả vận mệnh của dân tộc. Hồ Chí Minh đã xác định cho Đảng ta một đường lối chính
trị đúng đắn; làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong Cương lĩnh đầu tiên, Người viết
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng
sản”(3).



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Trung thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta qua mọi giai đoạn
và mọi thời kỳ cách mạng đều coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Để xác định được đường lối đúng, Đảng luôn luôn coi trọng việc
giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh bằng nhiều hình thức đồng
thời xuất phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam để vận dụng sáng tạo trên tinh thần độc
lập tự chủ, tự lực, tự cường. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta bắt nguồn từ
đường lối đổi mới đúng đắn, có ngun tắc của Đảng ta. Bí quyết thành cơng đầu tiên
của Đảng ta là khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận trong toàn Đảng, trước hết là
trong cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, bám sát thực tiễn để bổ sung, phát triển và hoàn
thiện đường lối theo mục tiêu con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


Từ khi bắt đầu thành lập Đảng cho đến khi từ giã cuộc đời, khi hoạt động bí
mật cũng như khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đều đặc biệt
quan tâm đến việc giáo dục và xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tổng kết
lịch sử Đảng và toàn bộ cuộc đời hoạt động của mình, trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã
dành phần quan trọng nói về truyền thống đồn kết của Đảng: “Nhờ đồn kết chặt
chẽ, một lịng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên
từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng
hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là truyền thống cực
kỳ quí báu của Đảng ta và của dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến chi bộ cần
phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con người của mắt mình” (4).


Đồn kết thống nhất trong Đảng, theo Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự đồn kết có
ngun tắc trên cơ sở mục tiêu lý tưởng của Đảng, trên nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Đảng là tập trung dân chủ. Đây là sự đoàn kết để tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng tiên phong của giai cấp cơng nhân. Đồng thời đây cũng là sự đồn kết
có lý, có tình. Trong Di chúc, khơng phải ngẫu nhiên mà Người đã nhấn mạnh đó là
cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Suốt cả
cuộc đời Người đã hành động như vậy. Người là trung tâm của sự đoàn kết thống


nhất trong Đảng. Nhân dân ta ai cũng nhớ câu nói nổi tiếng của Người: Đồn kết,
đồn kết, đại đồn kết, thành công, thành công, đại thành công.


Những lời căn dặn của Người trong Di chúc cịn có giá trị lâu dài đối với mọi
thế hệ: Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân.


Từ khi thành lập Đảng cho đến khi qua đời Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
cơng tác cán bộ và như Người đã viết trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”: Công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Người đòi hỏi cán bộ nào
cũng phải vừa “hồng” vừa “chuyên”, giữa “hồng” và “chuyên” không được xem nhẹ
mặt nào nhưng luôn luôn phải lấy đức làm gốc, người cán bộ phải vững về chính trị,
giỏi về chun mơn, phải lời nói đi đơi với việc làm. Vì vậy, cán bộ phải hiểu biết lý
luận cách mạng và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

dưới đây: Hiểu biết cán bộ; khéo dùng cán bộ; cất nhắc cán bộ; thương yêu cán bộ;
phê bình cán bộ”.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là một nguồn tài sản vô giá của
Đảng ta và của cả dân tộc ta, đã soi sáng và chỉ đạo Đảng ta vượt qua muôn vàn thử
thách hơn 77 năm qua, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi có
ý nghĩa lịch sử và thời đại. Tư tưởng của Người về Đảng tiếp tục là bó đuốc soi
đường cho Đảng ta trưởng thành, phát huy được thời cơ, khắc phục được nguy cơ
trong thời kỳ mới, để đưa nước ta phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh.



<b>XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH DƯỚI ÁNH SÁNG</b>



<b>TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH</b>


<i><b>Nguyễn Ngọc Phương</b></i>
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng


có vững cách mạng mới thành cơng”. Suốt q trình
lãnh đạo cách mạng, nhất là trước mỗi bước ngoặt lịch
sử, Người luôn nêu bật nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Hiện nay, cách mạng nước ta đã chuyển sang
thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH-HĐH) theo định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công


bằng, dân chủ, văn minh” theo đúng nguyện ước của Bác Hồ. Vì vậy, càng địi hỏi
chúng ta phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh đốn, xây dựng Đảng vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

cần thiết cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Kết hợp nâng cao trình độ lý luận, nhận
thức với tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nước ta và tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm của thế giới để tiếp tục hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách đúng
đắn, sáng tạo, đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi.


Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: Muốn Đảng mạnh, phải thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Cần nhận thức rõ dân chủ là bản chất của Đảng, Nhà
nước và chế độ ta. Chúng ta phải nắm vững ngọn cờ dân chủ, nêu cao dân chủ, không
để các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc chống phá ta.
Đảng ta cần hoàn thiện cơ chế dân chủ trong Đảng để phát huy trí tuệ của toàn Đảng,
tạo sự đồng thuận và động viên được nhiệt tình, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng


viên. Đồng thời, trên cơ sở phát huy dân chủ, phải thực hiện thật nghiêm vấn đề tập
trung, tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động, làm cho mỗi tổ chức Đảng đủ sức
mạnh để biến chỉ thị, nghị quyết, biến ý kiến nguyện vọng của đại đa số thành hiện
thực. Về phương thức lãnh đạo, phải đặc biệt coi trọng mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng với quần chúng nhân dân; xây dựng tác phong sâu sát, gần gũi nhân dân; trên
mọi lĩnh vực cần nêu cao vai trò đầu tàu gương mẫu của đảng viên; thực hiện đúng tư
tưởng của Bác “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “nói đi đơi với làm”.


Một vấn đề vừa cơ bản vừa cấp thiết hiện nay là chống tham nhũng, lãng phí,
làm trong sạch bộ máy Nhà nước. Bởi vì, tham nhũng, hối lộ là căn bệnh của quyền
lực. Đảng và Nhà nước đã có nghị quyết, có luật về phịng, chống tham nhũng và
bước đầu hình thành bộ máy chống tham nhũng từ Trung ương xuống cơ sở; song kết
quả đạt được chưa đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân
dân. Trên cơ sở kinh nghiệm của Đảng ta và các nước trên thế giới cũng như tư tưởng
của Bác Hồ là phải dựa vào dân để chống tham nhũng, những người được chọn làm
công tác chống tham nhũng phải là người thật sự trong sạch, cơng tâm, có uy tín
trước quần chúng, phải có cách chống tham nhũng thật sự dựa vào dân, huy động
tồn dân tham gia phịng, chống tham nhũng; đồng thời phát động phong trào toàn xã
hội làm theo lời Bác, sống “cần kiệm, liêm chính”, “cần kiệm xây dựng đất nước”,
huy động toàn dân tham gia chống “giặc nội xâm”.


Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân
ta nhất định sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để lãnh đạo nhân dân thực
hiện thành công nhiệm vụ vẻ vang nhưng mn vàn khó khăn đó. Việc qn triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với yêu
cầu mới của cách mạng là nhiệm vụ then chốt, quyết định.



TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ MÁU THỊT



GIỮA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Đảng ta do Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện đã xuất phát từ học
thuyết Mác - Lê nin, từ tinh hoa văn hóa phương Đơng và phương Tây, từ chủ nghĩa
u nước truyền thống, từ thực tiễn phát triển của thế giới và Việt Nam mà hình
thành nên đường lối cách mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đi lên chủ nghĩa xã hội và đang thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Một nhân tố quyết định sự thắng lợi
đó là Đảng ta đã phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện được
mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân.


<b>1. Gắn bó máu thịt với nhân dân là vấn đề thuộc bản chất cách mạng của</b>
<b>Đảng.</b>


Xuất phát từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ kinh
nghiệm của thế giới và từ thực tiễn đất nước ta, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm
sáng tạo về Dân và về Đảng - tổ chức tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc
và của toàn dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, dân tộc ta.


<b>Quan niệm về Dân của Hồ Chí Minh.</b>


Một là, dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Người nói: "Trong bầu trời
khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân” (1)."ở trong xã hội, muốn thành cơng phải có ba điều kiện là: thiên
thời, địa lợi và nhân hòa.


Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng
địa lợi, mà địa lợi khơng quan trọng bằng nhân hịa.



<b>Nhân hịa là thế nào </b>


Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hịa là quan trọng hơn hết”
Hai là, dân là gốc của nước, củacách mạng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh,
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: cơng nơng là gốc của cách mệnh". Trong quá trình phát
triển của cách mạng, Người thường nhắc nhủ: “dân chúng đồng lòng, việc gì cũng
làm được. Dân chúng khơng ủng hộ, việc gì cũng khơng làm nên”. "Nước lấy dân
làm gốc”. "Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"


Ba là, dân là chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người nói: "Chế
độ của ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”, bao nhiêu lợi ích đều vì
dân", "bao nhiêu quyền hạn đều là của dân". ‘Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung
ương do dân bầu cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã, do dân tổ chức". Dân bầu ra
người đại diện và có quyền kiểm sát, giám sát và bãi miễn khi không làm trịn sự uỷ
thác. Người cịn nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là nhờ ở dân
hết”. “Công việc đổi mới là trách nhiệm của dân”, Nhà nước muốn điều hành, quản lý
xã hội có hiệu lực, hiệu quả nhất định phải dựa vào dân. Người yêu cầu : “Đem tài
dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân ...”


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm trịn phận sự mà nhân dân
đã giao phó cho”


Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khái niệm "Dân" trong Tư
tưởng Hồ Chí Minh thể hiện và được sử dụng là toàn dân tộc, bao gồm mọi người
thuộc các dân tộc (đa số và thiểu số) sống trên dải đất Việt Nam, khơng phân biệt nịi
giống, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, chỉ trừ những kẻ phản bội, tay sai cho đế quốc,
đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của dân tộc, đi ngược lại độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.


Tất nhiên, Hồ Chí Minh khơng coi “dân”, “nhân dân” là một khối đồng nhất,


mà là một cộng đồng, bao gồm nhiều dân tộc, giai cấp, tầng lớp. Các nhóm xã hội ấy
có lợi ích chung và lợi ích riêng, có vai trị và thái độ khác nhau đối với sự phát triển
xã hội và cách mạng. Cơng nhân, nơng dân và trí thức ln ln được Hồ Chí Minh
coi là lực lượng cách mạng to lớn nhất, là nền tảng của khối đoàn kết dân tộc, đoàn
kết toàn dân. Điều này được thể hiện rõ trong các bài nói và viết của Người, trong
Chính cương, Điều lệ, trong các văn kiện của Đảng do Người chỉ đạo xây dựng nên,
như trong Chính cương của Đảng lao động Việt Nam (tháng 2-1951) đã ghi rõ:
“Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa là chính quyền dân chủ nhân dân
nghĩa là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc
và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước tiến bộ; những tầng lớp nhân dân ấy chuyên chính
với đế quốc xâm lược và bọn phản quốc, cho nên nội dung chính quyền đó là nhân
dân dân chủ chun chính. Chính quyền đó dựa vào mặt trận dân tộc thống nhất, lấy
liên minh công nhân, nông dân lao động, trí thức làm nền tảng, do giai cấp cơng nhân
lãnh đạo”.


Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp do
Người chủ trì biên soạn năm 1959 lại khẳng định: "Tất cả quyền lực trong nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân...”. Có thể nói, trong mỗi thời kỳ cách
mạng, thời kỳ phát triển chế độ dân chủ nhân dân và đi lên chủ nghĩa xã hội, chức
năng, nhiệm vụ cách mạng, tổ chức Nhà nước cũng phát triển và thay đổi theo. ở một
số nước, khi cách mạng tiến lên, một số giai cấp, tầng lớp có lợi ích riêng đối lập với
mục tiêu cách mạng và có khi trở thành đối tượng cách mạng. Còn ở Việt Nam tính
chất cơ bản của Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Cơ sở xã hội - giai cấp của Nhà nước vẫn là khối đại đoàn kết dân tộc,
trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, lao động trí óc do Đảng ta lãnh đạo. Cơ
sở xã hội ấy khơng thu hẹp mà cịn phát triển về chất lượng. Cách mạng không gạt bỏ
một giai cấp, một tầng lớp nào đã đứng trong hàng ngũ Mặt trận dân tộc thống nhất,
mà còn hết sức bồi dưỡng, cải tạo, dìu dắt để mọi giai cấp, tầng lớp và mọi người tiếp
tục đi theo con đường cách mạng do Hồ Chí Minh và Đảng ta vạch ra, tiếp tục góp
phần cống hiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới vì lợi


ích của cá nhân, của cộng đồng và của toàn dân tộc. Khép lại qúa khứ, nhìn về tương
lai, miễn là tán thành đường lối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là một sáng tạo lớn trong quan niệm
về Dân của Hồ Chí Minh và của Đảng ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Hồ Chí Minh đã từng dạy “cách mệnh là công việc của dân chúng”, "Công
nông là gốc cách mệnh". Song "cách mạng phải có tổ chức bền vững, sức cách mạng
phải tập trung, muốn tập trung phải có Đảng lãnh đạo". Ngay trong tác phẩm Đường
cách mệnh, Người đã chỉ rõ: "Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy” (6). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặc biệt
quan tâm đến vấn đề xây dựng Đảng. Trong những năm 1925-1927, Người đã tổ
chức việc đào tạo, huấn luyện cán bộ, chuẩn bị thành lập Đảng, Người chủ trì hợp
nhất 3 tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng xuất hiện. Trong quá trình phát triển của Đảng, mặc dù Đảng ta có lần thay đổi
tên gọi, nhưng bản chất của Đảng không thay đổi và Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta,
dân tộc ta thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giành được những
thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải
phóng dận tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với những thắng lợi vĩ đại đó, nước ta từ một nước
thuộc địa, nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, định hướng xã
hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu
vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu đã bước vào
thời kỳ đẩy


Sở dĩ Đảng ta thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, vì Đảng ta là một
Đảng Mác - Lênin, Đảng của Hồ Chí Minh sáng lập, xây dựng và rèn luyện.


Một là, Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Song xuất phát từ thực tiễn nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến, một nước
ngoài sự phát triển của phong trào cơng nhân đầu thế kỷ XX, thì phong trào yêu nước
được kế thừa từ truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước tạo nên, phát
triển sơi nổi. Con đường giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội địi hỏi phải có một hệ
tư tưởng khoa học tiên tiến thay thế cho hệ tư tưởng phong kiến lỗi thời, hướng dẫn,
chỉ đạo con đường phát triển. Song hệ tư tưởng ấy phải có một tổ chức tiên phong
cách mạng tập hợp quần chúng nhân dân đông đảo, biến hệ tư tưởng khoa học đó
thành hiện thực. Hồ Chí Minh coi “cơng nơng là gốc cách mạng”, song cơng nơng và
dân chúng nói chung phải giác ngộ, và muốn được giác ngộ, đi từ tự phát đến tự giác,
thì phải có Đảng cách mạng dẫn đường. Đảng như người cầm lái, người cầm lái có
vững, thuyền mới chạy. Và trong tiến trình cách mạng, mọi Cương lĩnh, chính sách,
chủ trương của Đảng đều bắt nguồn từ hệ tư tưởng đó: chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách
mạng càng khó khăn, gian khổ càng phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin. Xa rời hệ
tư tưởng Mác - Lênin thì cách mạng đi vào ngõ cụt và khơng tránh khỏi sự thất bại
thảm hại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta thể hiện ở chỗ Đảng ta lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng; Đảng ta lấy độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
lấy dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu lý tưởng
của mình. Đảng tuân thủ nguyên tắc tổ chức của Đảng là Đảng kiểu mới, Đảng của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, giai cấp công nhân là một bộ phận trong dân tộc. Vấn
đề dân tộc và giai cấp có quan hệ khăng khít với nhau.


Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong
giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc
là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt nam” (7). Trong cách mạng


xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nói : “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là
của dân tộc, không thiên tư, thiên vị” (8). Ngay phạm trù giai cấp công nhân cũng cần
được nhận thức cho đầy đủ. Mác từng nói đến giai cấp công nhân đại diện cho lực
lượng sản xuất tiên tiến nhất của thời đại. Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ mới, nội hàm của giai cấp công nhân cũng phải được mở
rộng đến các lực lượng lao động trí óc rộng lớn, thúc đẩy sự phát triển xã hội.


Trong thực tiễn, Đảng ta gắn bó máu thịt với dân tộc, với nhân dân và được
nhân dân thừa nhận. Toàn bộ nghị lực của Đảng, toàn bộ sự phấn đấu, hy sinh của
các thế hệ đảng viên đều hướng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
dân, giành tự do, độc lập, hạnh phúc cho nhân dân. Ngồi mục tiêu đó, Đảng ta
khơng có mục tiêu nào khác. “Ngồi lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta
khơng có lợi ích gì khác” (9). Trong những khúc quanh co của lịch sử, Đảng ta ln
thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trách nhiệm to lớn đối với nhân dân, đối với
vận mệnh của dân tộc. Trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, Đảng ta ln thể hiện là người chiến sĩ tiên phong, hoàn thành sứ mệnh lịch sử
cao cả mà dân tộc, nhân dân giao cho, giải phóng dân tộc, thống nhất giang sơn về
một mối, bảo vệ từng tấc núi, thước sông, bầu trời, biển cả bao la của Tổ quốc. Trong
cuộc xây dựng đất nước, có những lúc chúng ta đã mắc sai lầm khuyết điểm như chủ
quan, duy ý chí, áp dụng mơ hình của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp, và cả những khuyết điểm sai lầm khác, song Đảng ta thẳng thắn nhận lấy sai
lầm thiếu sót về mình, đã kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm lãnh
đạo nhân dân vượt qua khó khăn thử thách, trụ được trong bão táp và đi lên. Thành
tựu hơn 18 năm đổi mới vừa qua là một bằng chứng hùng hồn Đảng ta thực sự là lực
lượng tiên phong của dân tộc, của nhân dân. Chúng ta quyết tâm đổi mới, phát triển
nền kinh tế thị trường định lướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hịa bình, độc lập và phát triển. Thành tựu vĩ đại của sự nghiệp đổi mới có nhiều
nguyên nhân tạo nên, trong đó nguyên nhân hết sức quan trọng, mang tính quyết định


là đường lối độc lập tự chủ đúng đắn của Đảng ta, đường lối xuất phát từ lợi ích của
nhân dân ta, của dân tộc ta, đường lối của một Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân
-đường lối của Đảng của Hồ Chí Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

nay, chúng ta có quyền nói... tồn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã
thay đổi về căn bản”(10). Chúng ta đang đứng trước vận hội và thách thức mới. Cuộc
đổi mới tư duy lớn mới mang tính bước ngoặt đang phát triển kể từ Đại hội IX đòi
hỏi phải được đẩy mạnh hơn nữa đáp ứng những thách thức mới để bứt lên phía
trước, phá bỏ mọi rào cản, tiến kịp thời đại.


Ba là, một khi Đảng trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền thì Đảng cầm quyền,
dân là chủ, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ. Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Song,
Đảng cầm quyền, dân là chủ: “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (11). Đây là
vấn đề nguyên tắc, là bản chất của chế độ mới. Đảng lãnh đạo chính quyền là nhằm
thiết lập quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân, làm trái
nguyên tắc đó Đảng sẽ thối hóa, biến chất. Bởi vậy, phải xây dựng cơ chế Đảng cầm
quyền mà cái cốt lõi của cơ chế này là mối quan hệ giữa Đảng, nhân dân.


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' /> Tư tưởng HCM về xây dựng đát nước do dân làm chủ
  • 3
  • 660
  • 4
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×