Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

tieu luan lich su dia phuong tinh Binh Duong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.19 MB, 37 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Trường Đại Học Thủ Dầu Một Khoa Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn ….. …... Huỳnh Tấn Lập Tiểu luận học phần lịch sử địa phương. ĐÌNH TÂN TRẠCH. Sinh viên thực hiện: Huỳnh Tấn Lập Nghành: sư phạm lịch sử Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Kim Ánh. Bình dương ngày 5 tháng 11năm 20.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Trường Đại Học Thủ Dầu Một Khoa Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn …... …... Huỳnh Tấn Lập Tiểu luận học phần lịch sử địa phương. ĐÌNH TÂN TRẠCH. Sinh viên thực hiện: Huỳnh Tấn Lập Nghành: sư phạm lịch sử Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Kim Ánh. Bình dương ngày 5 tháng 11năm 20.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Nhận xét của giảng viên ....................................................................................................... ....................................................................................................... ....................................................................................................... ....................................................................................................... ....................................................................................................... ....................................................................................................... ....................................................................................................... ....................................................................................................... ....................................................................................................... ....................................................................................................... ........................................................................................................ MỤC LỤC.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Mở đầu__________________________________________________6 Chương 1 khái quát sơ lược về xã Bạch Đằng_________________9 1.1 vị trí địa lí_____________________________________________9 1.2 khí hậu_______________________________________________9 1.3 Thổ nhưỡng__________________________________________9 Chương 2 Quá trình hình thành và trùng tu đình Tân Trạch_____10 2.1 Quá trình hình thành___________________________________10 2.2 Quá trình trùng tu đình Tân Trạch______________________________17 Chương 3 kiến trúc và việc thờ phụng trong đình Tân Trạch____20 3.1 Kiến trúc của đình_____________________________________20 3.2 Thờ phụng của đình Tân Trạch__________________________25 Chương 4 Sơ lược về lễ hội của đình_______________________34 Kết Luận________________________________________________36 Tài liệu tham khảo________________________________________36. Lời cảm ơn.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo nhà trường cùng quý thầy cô đã tổ chức cho tôi tiếp cận được học phần lịch sử địa phương để tôi thấy được tầm quan trọng của việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử của địa phương nơi chính mình được sinh ra để càng ngày càng yêu quê hương đất nước mình hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn cô th.s Nguyễn Thị Kim Ánh đã giảng dạy em học phần này và đã giúp em về phương pháp để em hoàn thành bài tiểu luận về đình Tân Trạch này. Tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đở của cán bộ ủy ban nhân dân xã Tân Trạch, trưởng làng Tân Trạch bác sáu GIÀU , trưởng ban Qúy Tế bác sáu Nhánh, bác giữ đình kiêm luôn tổ chức các việc lễ hội ở đình bác ba THUỂ đã giúp đở con trong quá trình con hoàn thành bài tiểu luận.. Mở đầu.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 1 .Lý do chọn đề tài Tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Tân Uyên, một huyện lị của tỉnh Bình Dương có lịch sử hơn 300 năm với vị trí nằm phía đông của tỉnh Bình Dương. Huyện Tân Uyên có 22 đơn vị hành chính, gồm: 19 xã: Tân Định, Bình Mỹ, Tân Bình, Tân Lập, Tân Thành, Đất Cuốc, Hiếu Liêm, Lạc An, Vĩnh Tân, Hội Nghĩa, Tân Mỹ, Tân Hiệp, Khánh Bình, Phú Chánh, Thường Tân, Bạch Đằng, Tân Vĩnh Hiệp, Thạnh Phước, Thạnh Hội, 3 thị trấn: Uyên Hưng, Tân Phước Khánh, Thái Hòa. Trong đó có 2 cù lao là lá phổi của Tân uyên là Cù lao rùa và cù lao Bạch Đằng .Tân Uyên đặc biệt là nơi có các di chỉ khảo cổ học như là di chỉ khảo cổ cù lao Rùa , Vườn Dũ, Gò Đá, Phú Chánh.Bạch Đằng tự hào là nơi có nhiều đình, miễu nhất Bình Dương như đình Tân Trạch, Điều Hòa, Bình Hưng…và còn 3 ngôi đình khác cũng ở cù lao Bạch Đằng .Vì thế tôi là con dân của vùng đất Tân Uyên anh hùng trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với các anh hùng liệt sĩ ở đây.Với chiến khu D gắn liền với vị thi tướng rừng xanh Huỳnh Văn Nghệ. Từ các điều lý thú trên tôi muốn tìm hiểu về vùng đất mà tôi đã sinh ra về văn hóa, con người ở đây nhưng với kiến thức và trình độ của sinh viên năm 3 đại học chuyên nghành sử tôi xin tìm hiểu và viết một bài tiểu luận nhỏ về ngôi đình trên cù lao Bạch Đằng quê hương tôi. Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa giúp địa phương có những chính sách phù hợp đề bảo tồn và tu bổ di tích lịch sử của địa phương chúng ta..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là tìm hiểu lịch sử hình thành , kiến trúc cách bố trí việc thờ phụng trong đình và tìm hiểu về lễ hội tiêu biểu ở đình Phạm vi nghiên cứu là ngôi đình Tân Trạch ở cù lao Bạch Đằng từ khi hình thành và qua thời gian trùng tu cho đến thời nay. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Các thư tịch cổ viết về đình Tân Trạch Lịch sử đình Tân Trạch do ban quý tế đình Tân Trạch hoàn thành 8/2003 Bản danh sách câu đối Việt -Nho do các vị khách đến viến thăm và tham dự lễ xuân kỳ ở đình viết tặng đình . 4. Nguồn tư liệu Nguồn sử liệu thành văn từ bảo tàng và các thư tịch cổ của đình. Nguồn sử liệu điền dã từ chuyến đi thực tế ở đình Tân Trạch và đình ở Tân Trạch. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp lịch sử, phương pháp logic để tổng hợp khái quát nét cơ bản của đình Tân Trạch và quá trình hình thành của đình và kế thừa những đề tài nghiên cứu lịch sử trước đó. 6 .Đóng góp của đề tài Khái quát tổng thể quá trình hình thành ,trùng tu và bố trí của ngôi đình Tân Trạch và lòng biết ơn các vị anh hùng liệt sĩ trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> 7. Bố cục của đề tài Chương 1 Khái quát sơ lược về xã Bạch Đằng Chương 2 Quá trình hình thành và trùng tu đình Tân Trạch Chương 3 Kiến trúc và việc thờ phụng trong đình Tân Trạch Chương 4 Sơ lược về lễ hội của đình.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Chương 1 khái quát sơ lược về xã Bạch Đằng 1.1 vị trí địa lí Bạch Đằng là một xã thuộc Tân Uyên được sông Đồng Nai bao bọc gọi là Cù Lao qua quá trình hình thành và bị chia cắt về vị trí hành chính nên cù lao Bạch Đằng là xã có nhiều đình nhất trong các xã Tân Uyên nói riêng và Bình Dương nói chung. Bạch Đằng có 6 đình như đình Tân Trạch, An Chữ, Điều Hòa, Bình Hưng,Thạnh Phước và còn một ngôi đình khác. Bạch Đằng có 2 ngôi nhà cổ là nhà ông Đỗ Cao Thứa( Thạnh Phước, Bạch Đằng, Tân Uyên ) và nhà ông Nguyễn Văn Đằng(Thạnh Phước, Bạch Đằng, Tân Uyên). Ngoài ra còn có di tích khảo cổ ở cù lao này. 1.2 khí hậu Cù lao Bạch Đằng được bao bọc bởi con sông đồng nai có khí hậu mát mẻ là lá phổi của huyện Tân Uyên. Cù lao có khí hậu nhiệt đới thích hợp cho việc trồng lúa nước và các loại cây ăn quả. 1.3 Thổ nhưỡng Là vùng bình nguyên trẻ bị phong hóa mạnh bởi khí hậu và theo các quy luật địa lý địa hình trở nên bằng phẳng chịu ảnh hưởng của dáng đất móng đá vừa được phù sa của sông Đồng Nai bồi đắp. Vì khí hậu và điều kiện như thế nên ở Bạch Đằng thích hợp cho việc trồng cây ngắn ngày và cây ăn quả đặc biệt là bưởi Bạch Đằng là nổi tiếng nhất..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Chương 2 Quá trình hình thành và trùng tu đình Tân Trạch 2.1 Quá trình hình thành Ấp Tân Trạch xưa kia thuộc tỉnh Biên Hòa. Theo địa bạ thời Minh Mạng ( lập trong những năm 1836-1837) thôn Tân Trạch thuộc Chánh Mỹ Trung, thuộc Phước Chánh với một số thông tin như sau: “ Tân Trạch thôn ở xứ Bồ Lao Tân Trạch Đông giáp địa phận thôn Điều Hòa, có lập cột gỗ làm giới Tây giáp hai thôn Bình Chữ, Tân Trúc, có rạch nhỏ làm giới, lại giáp thôn Bình Chữ Trung, có lập cột gỗ làm giới Nam giáp sông lớn lấy giữa dòng sông làm giới Bắc giáp địa phận thôn Bình Hưng, có lập cột gỗ làm giới Thực canh ruộng đất: 91 mẫu 4 sào 12 thước 8 tấc Điền tô điền: 64 mẫu 4 sào và 3 tấc ( 43 sở và các sư chùa Phước Điền ở thôn Bình Hưng đồng canh 8 sào 1 thước 6 tấc). Đất trồng dâu mía là 27 mẫu 12 thước 5 tấc Dân cư thổ 2 mẫu 5 sào Mộ địa 1 khoãnh Rừng chằm 1 khoãnh Năm 1837 vua Minh Mạng đặt thêm huyện Phước Tuy thuộc tỉnh Biên Hòa. Năm 1838 đặt thêm huyện Phước Bình. Năm 1840 gộp thêm 81 sách của đồng bào thượng vào tỉnh..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Năm 1851 bỏ hai huyện Phước Bình và Long Khánh cho quy về phủ Phước Long và Phước Tuy kiêm nhiếp . Huyện Ngãi An nhập về Bình An( THỦ DẦU MỘT) kiêm nhiếp. Năm 1859 quân Pháp tấn công Gia Định 1862 triều đình ký hòa ước ký với Pháp cắt 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho giặc, trong đó có tỉnh Biên Hòa. Năm 1863 pháp chia lại các đơn vị hành chính của tỉnh Biên Hòa lúc ấy Biên Hòa được chia làm 5 hạt. Năm 1874 triều Nguyễn cắt nốt 3 tỉnh miền Tây cho Pháp. Năm 1876 Pháp chia Biên Hòa thành 3 hạt ; hạt Thủ Dầu Một, hạt Biên Hòa và Hạt Bà Rịa. Tân Trạch vẫn thuộc tổng Chánh Mỹ Trung thuộc Biên Hòa. Sau đó đổi Hạt thành Tỉnh sự phân chia ranh giới này kéo dài tới năm 1945 khi cách mạng thánh tám thành công và cho đến khi ký kết hiệp định Gionevo. Năm 1917 địa bàn tỉnh Biên Hòa chia làm mấy tỉnh nhỏ như tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa ,Bà Rịa nhưng làng Tân Trạch vẫn thuộc tổng Chánh Mỹ Trung. Và hiện giờ Tân Trạch thuộc xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Cùng với quá trình khai hoang lập ấp từ cuối thế kỷ XVI làng xã ở Bình Dương hình thành và dần dần những ngôi đình làng được xây dựng. Đình trước hết là nơi thờ cúng Thành Hoàng –vị thần giữ gìn và cai quản làng xóm đồng thời đình còn là nơi diễn ra các sinh hoạt chung của cộng đồng làng như hội họp, lễ hội…ở Nam Bộ nói chung và Bình.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Dương nói riêng vào thời nhà Nguyễn đình còn là trụ sở hành chính của làng nên đình có thể xem là trung tâm chính trị, văn hóa của làng với tầm quan trọng đó nên đình được xây dựng ở vị trí trung tâm, cao ráo, thoáng mát, thuận lợi giao thông thủy bộ. Đình Tân Trạch được xây dựng năm Giáp Dần có diện tích 414,4m2 Đây là nơi ghi dấu của một vùng đất có quá trình phát triển lâu dài một công trình kiến trúc cố bộ gỗ quý và có kích thước lớn cho đến ngày nay.. Khoảng năm 1853 trước âm mưu xâm lược Đông Dương của thực dân pháp vua Tự Đức ban hành hàng loạt sắc phong thần cho các đình làng chủ yếu là ở Nam Bộ nhằm khẳng định chủ quyền dân tộc..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Sắc thần Đình Tân Trạch Nguồn:công văn trung tâm bảo tồn di tích cố Đô Huế gởi ban hội Qúy tế đình Tân Trạch.

<span class='text_page_counter'>(14)</span>

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Vào ngày 30-12-2009 ban Quý tế đình Tân Trạch có nhận được công văn của trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế như sau: Nguồn: tài liệu này do trưởng ban Quý tế cung cấp.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Mẫu sắc ấn thần phục chế:. Nguồn: mẫu sắc ấn thần phục chế của đình Tân Trạch từ trưởng ban Qúy tế bác Sáu Nhánh cung cấp. 2.2 Quá trình trùng tu đình Tân Trạch.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Điều đặc biệt là việc xác định năm xây dựng ngôi đình có rất nhiều ý kiến không thống nhất với nhau và được các vị bô lão trong đình truy tập lại năm xây dựng đình cho chính xác Dựa theo tài liệu lịch sử đình thần Tân Trạch do ban Qúy tế đình thần Tân Trạch hoàn thành 8/2003 trong quá trình trùng tu đã không thống nhất năm xây dựng ngôi đình nên đề nghị truy tầm lại năm xây dựng cho chính xác đại ý việc trùng tu và truy tầm lại diễn ra như sau: Lúc bấy giờ Ban nghi lễ điều hành sữa đình gồm ông Nguyễn Văn Báu làm trưởng ban,thư ký là ông Giáo Sanh, thủ quỹ là ông Út Ngà cùng các vị phó ban và ủy viên trong ban đã nhờ ông giáo Thọ- chùa Huệ Lâm định nghĩa chứng minh 2 câu: GIÁP DẦN NIÊN KIẾT NGOẠT LƯƠNG THỜI LẠP TRỤ (năm tháng ngày tốt dựng cột) TRONG THU TRUNG HƯỜN KIẾT NHỰT THƯỢNG LƯƠNG ĐẠI KIẾT LỢI (tháng năm mùa thu ngày tốt thượng lương đại kiết lợi) Ông nói: “ đình xây dựng năm Giáp Dần-nay được 52 năm, nhằm năm 1914 dương lịch. Lúc bấy giờ ban nghi lễ không quan tâm năm xây dựng nên khi trùng tu tôn tạo lại ngôi đình hoàn tất, tổ chức lễ khánh thành ông Lê Văn Sanh viết diễn văn khai mạc cũng căn cứ theo lời ông Giáo Thọ để năm xây dựng là năm giáp dần nhằm năm 1914 dương lịch đây là lần trùng tu ngôi đình lần thứ nhất 1966 Nhưng vào tháng 4 năm quý mùi (2003) ban Qúy tế cùng nhân dân trong ấp Tân Trạch thấy ngôi đình xuống cấp ( hư xếp rong, mè, ngói… cần tôn tạo lại. Do đó đã làm đơn xin chính quyền xã Bạch Đằng cho.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> phép tổ chức quyên góp nhân dân trong ấp và mạnh thường quân ngoài ấp cùng nhau đóng góp sữa chữa lại ngôi đình. Các vị trong ban Quý tế bàn bạc niên đại xây dựng ngôi Đình không thống nhất năm xây dựng ngôi đình nên đề nghị truy tầm lại. Sau bao nhiêu ngày truy tầm hỏi thăm các bô lão và Ban Qúy tế các đình Bình Hưng , Điều Hòa và An Chữ…nên có nhiều tư liệu chứng minh niên đại ngôi đình : 1.. Ông HUỲNH VĂN TỬU 155 tuổi ở xóm Gò Ba Động là ông. ngoại của ông DƯƠNG VĂN THƯƠNG hiện đang ngụ tại Điều Hòa. Ông thương nói “năm 1938 lệ Kỳ Yên đình thần ông ngoại là Hương Lễ lo lễ nhạc cho Đình Thần Tân Trạch. 2.. Lệ kỳ yên năm 1943 ông nội của Lê Cao Lập là ông Cả Lê. Văn Ngẫu làm chánh bái còn ba của ông Lê Kim Ngà là xã trưởng đứng chánh tế, bồi tế là hai ông Võ Văn Sớm và ông Nguyễn Văn Giàu . Bốn ông này là Ban Hội Tề của làng Mỹ Quới được sát nhập bởi ba làng : Điều Hòa, Tân Trạch, An Chữ vào năm 1928 ( năm Mậu Thìn). Nếu tính số tuổi của các ông vào thời điểm này (2003) thì: Ông Lê Văn Ngẫu: 121 tuổi Ông Lê KimTuấn:113 tuổi Ông Võ Văn Sớm: 112 tuổi Ông Nguyễn Văn Giàu 110 tuổi Như vậy đình phải xây trước tuổi bốn ông. Để truy tìm niên đại ngôi đình căn cứ nghĩa 2 câu Nho trên 2 cây xuyên chứng tỏ năm xây dựng là năm giáp dần. Nếu tính đến năm 2003 là 90 năm , Giáp Dần trước là 150 năm.Chứng minh là có những cụ trên.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> 100 tuổi nói lại cho con chấu nghe là đình này cất trước lâu rồi. Chúng tôi nhân dân ấp TânTrạch tự hào và vinh hạnh còn được ngôi Đình cổ xưa của cù lao Bạch Đằng. Còn 5 ngôi Đình của 5 ấp khác đã bị thiêu cháy nay đã xây dựng lại không còn nguyên gốc. Chúng tôi còn truy tìm hỏi lại các ban Qúy Tế các đình trong cù lao chỉ có đình Bình Hưng có sắc phong của vua Tự Đức vào năm 1867 còn sắc phong đình thần Tân Trạch cũng còn lưu giữ nhưng chữ đã bị nhòa không còn đọc được.Căn cứ các sự kiện trên cùng ở Cù Lao nên việc xây dựng đình thần không cách nhau nhiều các chức sắc trong làng đề nghị huyện và phủ xin sắc phong cùng một lần cho nhiều đình thần trong tỉnh. Như vậy đình thần Tân Trạch xây dựng vào năm giáp Dần 1854 cho đến nay- năm 2003 là 150 năm. Cấu trúc đình thần xây dựng lúc đầu là 54 cột vì thời gian lâu không tu bổ phần vì giặc pháp đóng đồn tại Đình 1945 nên giàn cột phía ngoài đã bị hư 22 cây. Đến năm 1966 tình hình chiến tranh tạm ổn nhân dân trong ấp Tân Trạch kẻ ít người nhiều đóng góp tiền của và công sức trùng tu lại ngôi Đình. 22 cây cột vòng ngoài bị hư được thay thế bằng cột gạch có lan can. Còn bên trong tiền sảnh chánh điện và hậu sảnh 32 cây cột gõ đen hoành từ 1.5m-1.6m một người ôm không giáp tay, các dầu xuyên,trính , kèo chạm trổ phù điêu rồng phụng còn nguyên gốc đây là lần tu sữa lần 2. Nay hoàn thành công tu sữa chúng tôi chiêm bái linh thần và bùi ngùi xúc động tưởng nhớ đến công sức xây dựng của tiền nhân những dòng họ trong ấp Tân Trạch đã bỏ bao mồ hôi tiền của xây dựng nên ngôi Đình vĩ đại tồn tại đế ngày hôm nay..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Chương 3 kiến trúc và việc thờ phụng trong đình Tân Trạch 3.1 Kiến trúc của đình Đình Tân Trạch được xây dựng dưới dạng một quần thể nhiều ngôi nhà ghép lại gồm Tiền điện làm theo kiểu 3 giang,2 chái nằm phía ngoài, Chánh tẩm ( chánh điện) là một ngôi nhà vuông phía sau là nhà hậu.. Ảnh cổng đình. Ảnh sân đình và tiền điện.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Trước đình có tấm bình phong biểu đạt mong ước của làng Tân Trạch về sự hòa hợp âm dương, mưa thuận gió hòa,an bình, ấm no,hạnh phúc.. Ảnh bức bình phong đình Tân Trạch Nguồn: từ đi thực tế đình Tân Trạch.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Ở bên phải sân đình có miễu thờ Cửu Thiên Huyền Nữ và bàn thờ sơn thần thổ địa. Ở bên trái sân đình có miễu thờ ngũ hành nương và bàn thờ thần Nông Trong Tiền sảnh là một số lượng cột gỗ gõ quý một người ôm không giáp tay .Đây là bộ gỗ quý và lớn nhất trong các đình ở Bình Dương. Ở hai bên Tiền sảnh có hai bàn thờ các anh hùng liệt sĩ bên phải là anh hùng chống Mỹ và bên trái là bàn thờ anh hùng chống Pháp. Trong Chánh điện là bàn thờ thành hoàng Bổn Cảnh và các vị thần khác .. Ảnh chánh điện.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Nhà hậu ở phía sau có thờ Tiền Bối và Hậu Bối và nhà ăn là nơi phục vụ, nấu nướng của đình trong các lễ hội. Ở trong chánh Điện và ngoài tiền Điện trên các tấm liễn và các cây cột đều có các câu đối hay là các câu giáo lý của nho giáo khuyên răn con người hay là các câu chữ hán nói về nguồn gốc xây dựng đình..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Trong Bản danh sách câu đối Việt -Nho do các vị khách ở Phú Cường đến viến thăm và tham dự lễ Xuân kỳ ở đình viết tặng đình có các câu văn chữ nho như sau:. 3.2 Thờ phụng của đình Tân Trạch.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Trong hầu hết các ngôi đình của Bình Dương đều thờ thành Hoàng là vị thần giữ gìn và cai quản làng xóm .Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh... Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật. Và gọi ông Thần hoàng là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ đốt tờ giấy vàng, tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ở trong Nam Bộ không có. Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính, nhà văn Sơn Nam trong sách "Thuần phong mỹ tục Việt Nam" đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng" cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ. Tuy nhiên, xét trong sách Việt Nam phong tục, lễ Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục trong gia tộc; còn việc thờ phụng Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục hương đảng, thì rõ là tác giả sách đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau. Điểm đáng chú ý khác nữa, vì là vùng đất mới, nên ở Nam Bộ nhiều đình làng, thần chỉ có tên là Bổn cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bổn cảnh (神隍本境). Theo sách "Minh Mạng chính yếu", quyển thứ 12, năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ xin hạ lệnh cho các địa phương lập thêm thần vị Bổn cảnh. Đây là chức vụ mới, lúc trước không phổ biến. Lê Phục Thiện, người dịch sách trên chú giải: Thành hoàng là vị thần coi một khu vực nào. Bổn cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường hợp, không.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> phải là con người lịch sử bằng xương bằng thịt. Do vậy, đa phần không có tượng mà chỉ thờ một chữ "thần"và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là "Quảng hậu, chính trực, đôn ngưng" (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ). Và ở đình Tân Trạch cũng giống như hầu hết các đình ở Bạch Đằng vị thần mà đình thờ chính là Thần Hoàng Bổn Cảnh.Trong chánh điện không có thờ ảnh mà chỉ thờ một chữ THẦN. Ở. hai bên chữ thần có thờ TẢ BAN nằm phía trái và HỮU BAN nằm phía phải . TẢ BAN và HỮU BAN nguyên là các vị thần hầu cận của thành Hoàng.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Bàn thờ TẢ BAN. Bàn thờ HỮU BAN. Khi vừa bước vào chánh điện hai bên là 2 bàn thờ TIỀN HIỀN VÀ HẬU HIỀN. TIỀN HIỀN VÀ HẬU HIỀN là những người có công lớn đối với làng xã trong việc khai khẩn đất đai, xây dựng xóm ấp, mở mang đường xá, xây trường lập chợ….

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Bàn thờ HẬU HIỀN. Bàn thờTIỀN HIỀN. Nhà hậu của Đình có thờ các thế hệ đã từng ra sức chăm nom và giữ đình là bàn thờ Tiền Bối và Hậu Bối.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Bàn thờ tiền Bối. Bàn thờ hậu Bối. Phía ngoài Tiền Điện là hai bàn thờ các anh hùng liệt sĩ thời chống Mỹ và chống Pháp . Các anh hùng liệt sĩ này đều là con dân của ấp Tân Trạch như anh hùng liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy hy sinh trong kháng chiến chống MỸ và đã được vinh dự lấy tên Anh để đặt tên cho con đường Huỳnh Văn Lũy( phường Phú Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương)..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Danh sách liệt sĩ chống Pháp.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Danh sách liệt sĩ chống Mỹ. Ở phần sân đình bên phải sân đình có thờ Cửu Thiên Huyền Nữ và sơn thần thổ địa. Cửu Thiên Huyền Nữ là một tiên nữ toàn tài cầm, kỳ, thi, họa và được ngọc Hoàng thượng đế giao cho cai quản chín tầng mây. Trong lúc canh giữ của trời Cửu Thiên Huyền Nữ thường xuống hạ giới giúp đỡ phụ nữ làm các nghề đan lát, may vá, thêu thùa…đồng thời trừng trị tà ma,bảo vệ làng xóm, đặc biệt là bảo vệ nữ giới và trở thành thần độ.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> mạng cho phái nữ cho nên Cửu Thiên Huyền Nữ được nhân dân lao động thờ phụng từ khắp nơi từ đền miếu đến tư gia. Tại Tân Uyên hiện có 4 ngôi miếu thờ nữ thần Cửu Thiên Huyền Nữ . hằng năm Cửu Thiên Huyền Nữ được thỉnh về dự lễ xây chầu Đại Bội. Sơn thần là vị thần cai quản làng xóm, phù hộ cho việc làm ăn của người dân thuận xuôi gió. Thổ địa là vị thần đất trong nhà, ngăn chặn ma quỷ xâm nhập quấy nhiễu. Thổ Địa là vị thần thể hiện việc sung mãn, thịnh vượng với nét mặt vui tươi, thân hình cường tráng bụng bự.Thổ địa còn là hiện thân của sự no đủ, vui vẻ, hào phóng, sẵn sàng giúp đỡ mọi người.. Bàn thờ sơn thần thổ địa. Miễu thờ Cửu Thiên Huyền Nữ. Bên trái sân đình có miễu thờ Ngũ Hành Nương Nương và bàn thờ Thần Nông. Ngũ Hành Nương Nương là 5 nữ thần bao gồm: Kim Đức Thánh Phi, Mộc Đức Thánh Phi, Thủy Đức Thánh Phi, Hỏa Đức Thánh Phi, Thổ.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Đức Thánh Phi. Năm vị nữ thần này tượng trưng cho ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Lễ cúng Ngũ Hành thường tổ chức vào lẽ Khai sơn đầu năm. Thần Nông là vị vua trong lịch sử Trung Quốc là người có công trong việc dạy dân cày cấy và chưa bệnh bằng các loại thảo dược nên được nhân dân suy tôn là tiên Nông và coi ông là tổ sư của nghành Đông y.Tín ngưỡng thờ thần Nông gắn liền với cư dân nông nghiệp lúa nước .. Bàn thờ Thần Nông Miễu thờ Ngũ Hành Nương Nương. Chương 4 Sơ lược về lễ hội của đình.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Đình Tân Trạch là ngôi đình cổ với lối kiến trúc mang đậm bản sắc văn hóa tinh thần của cư dân Nam Bộ với nhiều lễ hội hằng năm Lễ Xuân Kỳ là lễ được tổ chức vào mùa xuân đây là lễ bắt đầu vụ làm ăn mới , vụ mùa mới của cư dân trồng lúa nước. Lễ Kỳ Yên ở đình Tân Trạch được tổ chức theo nghi thức giống hầu hết nghi thức cúng lễ Kỳ Yên ở các đình ở Bạch Đằng nhưng các đình khác theo lệ 2-3 năm tổ chức lễ Kỳ Yên một lần nhưng theo lời kể của bác giữ đình thì Đình Tân Trạch cứ mỗi năm tổ chức lễ Kỳ Yên một lần vào tháng 4 hằng năm Chương trình lễ Kỳ Yên có các Lễ sau: -Lễ Kỳ Yên diễn ra với 3 hồi trống, chiêng, nhạc, lễ để khai mạc thượng Kỳ và sau đó là lễ Thỉnh sắc thần. -Lễ thỉnh sắc thần tổ chức một cách trang trọng rầm rộ vì sắc thần được coi là biểu tượng của mối liên hệ không thể tách rời giữa làng với nhà nước. Đi đầu có cờ lệnh và lá cờ lớn thêu bốn chữ” Thần ân bảo hộ”. hai bên có lễ bộ và các trượng nghi kèm theo hai bảng ghi chữ“Tĩnh túc”. Cuối cùng là “ Long đình” bên trong có hộp sắc thần . Lễ rước sắc thần có tiếng chiêng, trống,nhạc,pháo..có khi có cả múa lân, múa rồng. -Sau lễ rước Sắc thần là lễ túc Yết nhằm nghênh chào và ra mắt các thần. Lễ đoàn cả tạ ơn thần, lễ tế tạ Tiền Hiền và Hậu Hiền. -Kế đến là tiết mục khai chầu gồm các nghi thức tẩy uế, thử trống và đánh 3 hồi trống để khai tràng và kèm theo các lời chúc hay nhằm cầu mong điều tốt lành. -Tiết mục Đại bội là chương trình văn nghệ như hát bội. -Tôn vương là hình thức mượn một tình tiết trong phần kết của một vỡ tuồng đã được chọn có nội dung tôn vương.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> -Cuối cùng là tiết mục hồi chầu vừa mang ý nghĩa chúc tụng và chuẩn bị kết thúc lễ Kỳ Yên vói nghi thức hồi Sắc hay Đưa Sắc. Ngoài các lễ trên hằng năm Đình Tân Trạch còn tổ chức lễ cúng ngày 27-7 nhằm tưởng nhớ anh hùng liệt sĩ là con dân của làng. Và vào tháng chạp hằng năm đình cũng có tổ chức lễ cúng. Đình Tân Trạch được vinh dự công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh.. Kết Luận.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Qua các chương của bài tiểu luận ta thấy vùng cù lao BẠCH ĐẰNG trong quá trình hình thành vị trí tên gọi hành chính có thay đổi nhưng bề dày văn hóa lịch sử của cư dân quanh vùng vẫn không thay đổi là cái nôi văn hóa của vùng với kiến trúc của ngôi đình cổ mang đậm nét văn hóa sinh hoạt của cư dân trồng lúa nước với các lễ hội truyền thống hầu như vẫn còn nguyên vẹn. Đình Tân Trạch đã từng chứng kiến cuộc kháng chiến anh hùng của chiến sĩ cộng sản Việt Nam nói chung và những người con oai hùng của vùng đất cù lao Bạch Đằng trong 2 cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân pháp và Đế quốc Mỹ. Đình là nơi bảo tồn văn hóa tinh thần và lối kiến trúc đặc trưng của cư dân Bình Dương. Trong quá trình phát triển và tồn tại hòa nhập với nền kinh tế thị trường cộng với sự du nhập của nền văn hóa phươngTây nền văn hóa của Việt Nam không tránh khỏi sự pha trộn với nền văn hóa phương Tây nhưng chúng ta phải biết tiếp thu có chọn lọc và bảo tồn văn hóa riêng biệt mang đậm bản sắc của chúng ta. Đình Tân Trạch còn là nơi được các nhà làm phim chọn làm bối cảnh cho các bội phim cổ tích hay là bộ phim lịch sử tạo điều kiện cho việc phát triển và giới thiệu về Đình Tân Trạch cho người dân ngoài tỉnh và du khách nước ngoài biết đến Đình Tân Trạch hơn. Với bài tiểu luận này tôi mong chính quyền địa phương cần quan tâm và có chính sách phù hợp bảo tồn và phát triển văn hóa tinh thần và vật chất của tỉnh nhà hơn.. Tài liệu tham khảo.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> 1. Lịch sử đình Tân Trạch do ban quý tế đình Tân Trạch hoàn thành 8/2003 2,Bản danh sách câu đối Việt -Nho do các vị khách ở Phường Phú Cường đến viến thăm và tham dự lễ xuân kỳ ở đình viết tặng đình . 3. Th.s Nguyễn Thị Kim Ánh- Lịch sử- văn hóa vùng đất Bình Dương từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX. 4. Địa chí Bình Dương tập 4- nhà xuất bản chính trị Quốc Gia 5. Công văn của Trung tâm bảo tồn di tích Cố Đô Huế gởi cho Ban Quý Tế Đình Tân Trạch và sắc phong Đình Tân Trạch..

<span class='text_page_counter'>(38)</span>

×