RICHARD STRAUSS
VÀ SALOME
Vở Salome có một chỗ đứng quan trọng đối với chủ nghĩa biểu
tượng (expressionism). Nó hàm chứa ý nghĩa biểu tượng, khi nó đụng
chạm đến tôn giáo qua một cách tiếp cận mới mẻ, trong những tầng nghĩa
phức tạp và độc đáo về tình yêu và cái chết.
Công chúa Salome, một nhân vật trong Kinh Tân Ước, được biết
đến chủ yếu qua mối quan hệ với Thánh John the Baptist. Chuyện kể
rằng, Salome, vị công chúa con của vua Herodias, vào ngày lễ mừng sinh
nhật của mẹ mình, hoàng hậu Herod, đã múa một vũ điệu quyến rũ khiến
vị vua mê đắm đến mức ngài hứa sẽ ban cho Salome bất cứ thứ gì cô ta
muốn. Và Salome đã yêu cầu cái đầu của Thánh John the Baptist, vì ông
đã nguyền rủa cuộc kết hôn phối của hoàng hậu Herod là loạn luân! Câu
chuyện về Salome gây cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ, từ những họa sĩ
Phục Hưng đến Oscar Wilde với vở bi kịch cùng tên. Dựa trên vở bi kịch
này, nhạc sĩ Pháp Jules Massenet đã sáng tác một vở opera khá nổi tiếng
mang tên “Herodias”.Tuy nhiên, nhắc đến Salome trong âm nhạc,người ta
lại nghĩ ngay đến vở opera “Salome” của nhạc sĩ Đức Richard Strauss.
Richard Strauss (1864-1949), là một nhạc sĩ Đức quan trọng vào
chặng cuối của chủ nghĩa lãng mạn. Sự nghiệp sáng tác của Strauss gắn
liền với những tone poem (Giao hưởng thơ) độc đáo sánh ngang với các
symphony của Mahler, các Lieder (ca khúc nghệ thuật) và opera (nhạc
kịch) đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật Đức, và những thử nghiệm của ông
trong việc sử dụng phương thức hoà âm mới - mở đầu cho Schoenberg
với trường phái 12-tone (atonal hay phi cung). Strauss cũng là một nhạc
trưởng tài ba, mà ngày nay ta còn giữ được một vài bản thu của ông chỉ
huy dàn nhạc giao hưởng Vienna thể hiện một số tác phẩm của Mozart và
của chính ông. Cha của Strauss là một nhạc công chơi kèn French horn.
Truyền thống âm nhạc của gia đình phần nào ảnh hưởng đến phong cách
sáng tác sau này của ông. Năm 1882, Strauss học ở Đại học Munich
chuyên ngành triết học và lịch sử nghệ thuật. Khi còn trẻ, những bậc thầy
đã để lại dấu ấn sâu đậm lên chàng thanh niên Strauss là nhạc sĩ Richard
Wagner và các nhà triết học Schopenhauer và Freidrich Nietzsche. Chính
những vở opera hoành tráng của Wagner, cùng những hòa âm bay bổng
quyến rũ của chủ nghĩa lãng mạn phóng túng trong những vở opera của
Wagner đã được Strauss (và nhiều nhạc sĩ cùng thời như Mahler,
Bruckner...) đẩy lên tột đỉnh. “Also sprach Zarathustra” (Zarathustra đã nói
như thế), tuyệt phẩm triết học của Nietzsche cũng được Strauss tiếp nhận
và dựng thành một Tone poem hoành tráng. Mặc dù những cải cách của
ông không phải lúc nào cũng được các nhà phê bình cùng thời tán
thưởng, nhưng Strauss luôn tin tưởng vào tài năng thật sự của mình.
Trước khi qua đời, ông để lại tác phẩm huyền thoại “Vier Letzte Lieder”
(Bốn bài hát cuối cùng) là lời trăn trối của một thiên tài âm nhạc trước cuộc
sống. Qua đời ở tuổi 85, Strauss để lại một di sản âm nhạc thật đồ
sộ,thuộc nhiều thể loại phong phú đa dạng.
Với 2 vở opera đầu tay Guntram (1894) và Feursnot (1901), tên tuổi
của Strauss trong giới opera vẫn chưa được khẳng định, thậm chí cốt
truyện của opera còn bị các nhà phê bình thời bấy giờ cho là dâm tục (vở
Feurersnot). Thật ra, ý định của Strauss khi viết Freursnot là để châm
biếm và đả kích những kẻ bảo thủ đã phản bác việc trình diễn các sáng
tác của ông. Kunrad, tên phù thuỷ đã gây chuyện rắc rối trong vở opera
này, vốn là đệ tử của một nhà phép thuật tên Reichart der Wagner (đọc
trại âm, ám chỉ thiên tài Richard Wagner). Âm nhạc mới mẻ, nội dung đầy
ẩn ý, cùng những cách chơi chữ nói bóng nói gió trong lời thoại là vượt
quá sự tiếp thu của khán giả đương thời, cho nên các buổi trình diễn
Feuersnot không được tán thưởng Nhìn chung, cả Guntram và Feuersnot
đều tiên đoán được sự xuất hiện của Salome và Elecktra, hai vở opera
đặc sắc trong sự nghiệp của Strauss về sau.
Tiếp đến, khi Salome, vở opera thứ 3 của Strauss vừa ra mắt, đã có
nhiều phản ứng khác nhau trong giới phê bình và khán thính giả. Buổi
công diễn lần đầu ở nhà hát Metropolitan của Salome gặp phải sự phản
đối mãnh liệt, đến nỗi tác phẩm không thể trình diễn được suốt một thời
gian sau đó. Thậm chí ở London,chính quyền đã cấm việc trình diễn tác
phẩm, mãi cho đến năm 1907. Trong khi đó tại New York, một ông bầu
giàu sụ đã thuyết phục nhạc sĩ nổi tiếng người Anh Edward Elgar công
khai phản đối lại và chỉ trích Salome. Tuy nhiên, Elgar không đồng ý, và
ông gọi Strauss là”thiên tài của thời đại chúng ta”. Có nhiều lí do gây ra
luồng phản ứng mạnh mẽ trên. Trước hết, kịch bản của Oscar Wilde
thường bị cho là dâm tục, đồi bại, báng bổ tôn giáo. Mặt khác, Strauss đã
sử dụng triệt để thủ pháp dissonance (hoà âm nghịch tai) trong toàn bộ tác
phẩm, thậm chí đi xa hơn cả những dissonance mà Mahler sử dụng trong
các giao hưởng thời kì này. Tuy nhiên, sự mới mẻ và đầy thách thức của
vở opera cũng mang sức quyến rũ đối với một số khán giả ở nhiều nơi
khác,và về một khía cạnh nào đó, Salome đã mang về cho Strauss một
chỗ đứng mới trong sự nghiệp sáng tác opera.
Salome là một vở opera một màn (1 act),vì mọi diễn biến của cốt
truyện chỉ xảy ra trong vòng một đêm. Đó là vào một buổi dạ tiệc long
trọng được tổ chức tại cung điện của vua Herod,tại Tiberias. Cảm thấy
chán nản bởi không khí của buổi tiệc, Salome bỏ ra ngoài mái hiên lớn.
Chợt, cô lắng nghe những lời nguyền rủa tố cáo mẹ cô (hoàng hậu
Herodias) về hành vi loạn luân của bà ta, vang lên từ phòng ngục giam giữ
Jochanaan (thánh John the Baptist, theo tiếng Đức). Quá tò mò, Salome
nằng nặc đòi Narraboth, viên thị vệ trưởng của cung điện, đem kẻ tù nhân
đến với cô. Khi Narraboth tỏ vẻ chần chừ, Salome thuyết phục gã rằng cô
sẽ làm một điều gì đó cho gã, và Narraboth đã dám cãi lệnh của Herod và
dắt Jochanaan đến bên cô. Nhìn thấy Jochanaan, trong Salome dâng lên
một khát khao được chạm vào người khách lạ, và cô cầu xin được hôn
ông một lần, mặc cho Jochanaan khăng khăng từ chối. Quá khiếp đảm vì