Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Di tim cai Dep trong Day thon Vi gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.8 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐI TÌM CÁI ĐẸP</b>


<b>TRONG “ĐÂY THƠN VĨ GIẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ</b>
Nguyễn Khánh Chi


GV. THPT Ngô Quyền. Hội VHNT Nam Định.


Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), tên thật Nguyễn Trọng Trí quê gốc Quảng Bình; thuộc
vào số những hồn thơ mãnh liệt nhất của phong trào Thơ Mới. Một hồn thơ bám riết
lấy cuộc sống trần thế, đầy vẻ đẹp lẫn máu và nước mắt; đồng thời lại vút lên trời,
vươn tới cõi sáng láng, trong trẻo nhất và thần tiên nhất.


“Đây thôn Vĩ Giạ” rút trong tập “Thơ Điên”, còn gọi là “Đau thương” (1938) là một
bài thơ đặc sắc của Hàn Mặc Tử. Chất thơ được chắp cánh từ một xứ Huế Mộng và
Thơ đồng thời đau đáu một nỗi niềm thi nhân trước vẻ đẹp của cảnh và người. Trước
đây, đã có nhiều người đưa ra các cách cảm thụ khác nhau, mỗi người đều có lí giải
của riêng mình nhằm khám phá vẻ đẹp rất riêng của bài thơ. Các ý kiến giải mã phần
nhiều nghiêng về 2 cách sau đây: 1: Bài thơ tình Hàn Mặc Tử tặng riêng cho mối
tình thầm lặng với Hồng Thị Kim Cúc – cách hiểu này sa vào lối phê bình tiểu sử
học – nghĩa là đồng nhất cái Tôi - tiểu sử học với cái Tôi – thi sĩ và thành ra lấy cái
ngoài văn bản lấn át văn bản. 2: Bài thơ của tình yêu và tình quê da diết. Quan điểm
này đỡ cực đoan hơn, nhưng không đếm xỉa gì đến mối tình Hàn Mặc Tử và Hồng
Thị Kim Cúc thì khó thuyết minh thấu đáo cái lý của một số câu trong thi phẩm.
Theo chúng tôi, trước hết bài thơ có kết cấu rất lạ: 3 khổ thơ, mỗi khổ đều chứa đựng
1 câu hỏi. Lẽ thường, khổ 1 hỏi, khổ 2,3 phải là lời đáp nhưng Hàn Mặc Tử lại làm
khác, thi sĩ cứ hỏi - khiến cho bài thơ rơi vào trạng thái mơng lung khó xác định.
Khổ thơ thứ nhất bắt đầu là một câu hỏi: “Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ ?”. Nó
tạo nên độ riết róng bức xúc. Câu hỏi khơi toả tình thế, dựng lên tình huống thơ:
Mong anh về thơn Vĩ đã lâu mà sao chưa thấy? Nó cịn như một lời trách, nhưng nếu
đọc kĩ ta thấy, câu thơ có 7 chữ mà có tới 6 thanh bằng; khiến cho lời trách cứ dịu đi,
nhẹ nhàng tha thiết bâng khuâng.



Nhưng câu hỏi là của ai? Thực chất, đây là chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử tự phân
thân để hỏi lịng mình, tự đối thoại với mình – hay nói khác đi là đang độc thoại nội
tâm. Bởi nỗi niềm da diết với Huế, đã khiến cho thi nhân tạo ra câu hỏi tự vấn đầy
khắc khoải này.


Sau câu hỏi, cảnh vườn tược và con người thôn Vĩ hiện ra đẹp đến kì thú:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên


<i><b> Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc</b></i>
<i><b> Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Câu 3, 4 đưa người đọc về với mặt đất bằng hình ảnh khu vườn thơn Vĩ cịn đẫm
sương đêm. Ánh sáng ban mai vừa lên, chiếu rọi vào những chiếc lá, ánh lên sắc
xanh kì lạ: “xanh như ngọc” - một sắc xanh tinh khiết, nõn nà, trong trẻo. Câu thơ
như bật thốt lên tiếng trầm trồ ngưỡng vọng trước vẻ đẹp lộng lẫy của khu vườn
Mộng và Thơ – nét đẹp rất riêng của Cố đô. Sự tinh tế của thi nhân còn được thể
hiện qua cách phối màu : Màu Xanh của câu thơ phối với màu của nắng ở câu 2 tạo
chco người đọc cảm giác ánh nắng chan hoà trên những chiếc lá ban mai.


Câu cuối của khổ thơ, lại thiên về hình; thứ hình khơng tả mà gợi, nó như lặn sâu
vào tâm hồn Huế đẻ khám phá vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp của phẩm chất người.
Khơng giống như Bích Khê : “Vĩ Giạ thơn, Vĩ Giạ thơn/ Biếc che cần trúc khơng
<i>bn mà say”; Hàn Mặc Tử tạo nên khuôn mặt chữ điền - một biểu tượng của sự</i>
phúc hậu truyền thống. Ca dao Việt Nam đã từng say đắm với khuôn mặt chữ điền
độc đáo đó: “Mặt em vng tựa chữ điền/ Da em thì trắng áo đen mặc ngồi/ Lịng
<i>em có đất có trời/ Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”. Đồng nghĩa với khuôn mặt</i>
chữ điền là nhân nghĩa, thuỷ chung là sự phúc hậu, vậy trái nghĩa với nó chính là sự
bội phản là thay đổi! Thi sĩ Nguyễn Bính từng xa xót khi nhìn lại mình: “Ở mãi kinh
<i>kì bút với nghiên/ Đêm đêm quán trọ thức thay đèn/ Xót xa một buổi soi gương cũ/</i>


<i>Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền”. Ở phía trước </i>khn mặt chữ điền độc đáo ấy,
Hàn Mặc Tử đã đặt chiếc lá trúc che ngang, tạo ra một vẻ đẹp đậm chất phương
Đông: Cái đẹp gắn với cái Tốt, cái Đạo đức, cái Đẹp là sự hài hoà giữa con người và
thiên nhiên. Chiếc lá trúc tài tình của thi sĩ đã khiến cho vẻ đẹp của người xứ Huế
thêm kín đáo, dịu dàng mà vẫn đầy khêu gợi dù bí ẩn.


Khổ thơ đầu tạo vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật hội hoạ, vừa tạo màu sắc, vừa tạo
hình; chỉ qua vài nét chấm phá mà gợi lên vẻ đẹp của cảnh và người đất Cố đô, vừa
trần thế vừa thánh thiện.


Đây mới là khúc dạo đầu, nhưng đã ẩn chứa bên trong sự da diết của tâm tình. Nếu
tinh ý sẽ thấy, từ câu thơ cuối cùng trở lên, câu thơ đầu vừa như hỏi, vừa xen niềm
tiếc nuối thăm thẳm. Bệnh tật đã đẩy thơn Vĩ về phía sau lưng Hàn Mặc Tử, một mối
tình thầm lặng đã đưa thơn Vĩ vào hồi niệm vời xa. Chính vì vậy 4 câu thơ vui say
trên bề nổi mà lặn chìm vào bề sâu một nỗi niềm đau đáu, khát khao một cái gì rất
đẹp nhưng rất xa vời của tình người, tình đời.


Tới khổ 2, 3 lời đáp càng lạ hơn. Khổ thơ thứ 2 mở ra cảnh sông nước mây trời xứ
Huế:


“Gió theo lối gió mây đường mây
<i><b> Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay</b></i>
<i><b> Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó</b></i>
<i><b> Có chở trăng về kịp tối nay ?”</b></i>


Cảnh ở khổ 2 khác nhiều so với khổ 1, thời gian đã chuyển từ ngày sang đêm.
Không gian đi từ khu vườn thôn Vĩ tới sông nước mây trời Cố đô, như vậy không
gian đã được mở rộng cả về bề rộng đến chiều cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

mây bay theo một chiều, Hàn Mặc Tử lại làm cho đứt gãy “gió theo lối gió, mây


đường mây” – cịn ngăn cách dứt khốt: gió đóng khung trong gió, mây cuộn trong
mây để tạo nên cảm giác chia lìa đau đớn xót xa.


Hình ảnh dịng nước hoa bắp cũng như ngưng đọng trong một nhịp điệu chậm và
buồn đến nao lòng. Từ “buồn thiu” - một nỗi buồn mênh mang, dằng dặc - khiến
cho ta cảm nhận dòng nước ấy như ngừng trôi, vần “iu” gợi cuộc sống lay lắt, mệt
mỏi vì tật bệnh.


Trong tâm trạng ấy xuất hiện hình ảnh sơng, trăng, thuyền – 2 câu thơ đầy trăng, tạo
1 vũ trụ trăng huyền ảo. Trăng là nơi trú ngụ cuối cùng của linh hồn Hàn Mặc Tử để
tránh sự truy đuổi của cấi chết, của đau thương: “Trăng nằm sóng xỗi trên cành
<i>liễu/ Đợi gió đơng về để lả lơi” (Bẽn lẽn – Thơ Hàn Mặc Tử). Con sơng Hương đã</i>
thành con sơng mộng ảo, nó là hình ảnh thi vị tài hoa, là sự liên tưởng của hai bờ hư
- thực.


Nhưng huyền ảo nhất lại là câu thơ kết thúc khổ 2: “Có chở trăng về kịp tối nay ?”.
Câu thơ tạo ảo giác chờ mong thấp thỏm và khúc rẽ bất ngờ của tâm lý. Bởi lẽ, khổ 1
hỏi, khổ 2 phải là câu trả lời thì Hàn Mặc Tử lại biến lời đáp tiếp theo thành câu hỏi.
Bước đột biến này khiến bầi thơ rơi vào trạng thái mơng lung khó xác định, lý giải
nó là cả một vấn đề thú vị. Vậy cái “lý” của lời đáp phi lý này là ở đâu?


Ta cần hiểu, thế giới ảo là thế giới trực tiếp của tâm trạng, giống như Nguyễn Du
từng viết: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường” (Truyện
<i>Kiều). Như vậy, đây là hiện thực giả mà tâm tình thực, nó là vầng trăng tâm trạng!</i>
Thế giới Huế ở khổ 2 khác khổ 1. Nếu khổ 1 nghiêng về thực thì khổ 2 nghiêng về
ảo. Câu hỏi khổ 1 thiên về cái lý chung của vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế, thì khổ 2
là một Huế rất riêng. Vậy có thể giải mã câu hỏi khổ 1 và lời đáp của khổ 2 như thế
này: Huế đẹp là thế sao anh không về? tôi chưa về vì Huế cịn ly cách lắm, bí ẩn
lắm!



Điều gì tạo nên sự bí ẩn ấy? Người đọc đành chờ đợi lời đáp của khổ 3:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa


<i><b> Áo em trắng q nhìn khơng ra</b></i>
<i><b> Ở đây sương khói mờ nhân ảnh</b></i>
<i><b> Ai biết tình ai có đậm đà ?”.</b></i>


Nhưng khổ 3, lạ thay, càng ảo hơn. Thế giới ảo ngập tràn khổ 3 với 3 tầng bậc.
Trước hết đó là cái ảo của 1 giấc mơ. Giấc mơ bị chia thành hai cõi: “Mơ” - chủ thể
đầy khát khao mong đợi. Khách đường xa – khách thể, hình bóng giai nhân xa mờ,
hút bóng. Điệp khúc: khách đường xa – như tiếng gọi cuống qt trước hình bóng
giai nhân ngày càng diệu vợi...


Đó cịn là cái ảo của một sắc áo khi bóng người rời xa rồi, nhưng ấn tượng để lại qua
sắc áo trắng thật ghê gớm: “Áo em trắng quá nhìn không ra”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cay nghiệt của nắng và cát: “Chị ấy năm nay cịn gánh thóc/ Dọc bờ sơng trắng
<i>nắng chang chang” (Mùa xn chín – Hàn Mặc Tử).</i>


Nhưng sắc trắng của những câu thơ vừa nêu vẫn là ấn tượng thị giác, còn ở đây sắc
trắng làm nhồ thị giác - khiến “nhìn khơng ra”. Thị giác bất lực, biến chiếc áo dài
trắng kiều diễm của thiếu nữ đất kinh thành bỗng trở nên thiên thần trong một câu
thơ đầy đam mê, ngưỡng vọng và xót xa.


Cuối cùng, cái ảo thứ 3 lại là một câu hỏi: Tại sao sắc áo trắng ấy lại nhìn khơng ra?
Hai câu kết góp lời giải thích:“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có
<i><b>đậm đà ?”. </b></i>


Sắc áo trắng nhìn khơng ra trước tiên là vì khách quan: Khói sương mộng ảo đất đế
đơ làm mờ sắc áo. Nhưng cao hơn, là vì chủ quan: “Ai biết tình ai có đậm đà ?”.


Trái tim nằm trong tà áo trắng kia cũng hư ảo, bí mật, khó hiểu như sương khói. Thì
ra, vấn đề khơng phải là nhìn khơng ra sắc áo mà là nhìn khơng ra sắc lịng. Có thể
khẳng định, đây mới chính là ẩn số cho bài thơ đầy day dứt này.


Như vậy, câu hỏi kết thúc đã tạo cho bài thơ một cấu tứ kiểu trị chơi ú tim, càng tìm
càng mất. Bảng lảng trong bài thơ là một tà áo lạ như có như không. Cái Đẹp là thế,
vừa quyến rũ mê say để người ta đam mê ngưỡng vọng, lại vừa quá tầm tay, đầy bí
ẩn khiến ta suốt đời theo đuổi, cuối cùng hụt hẫng bất lực đau đớn xót xa.


</div>

<!--links-->

×