Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.2 KB, 40 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i>Chương năm</i>
<b>THÀNH TÍCH BƯỚC ĐẦU CỦA NỀN VĂN HOÁ MỚI XÃ HỘI CHỦ</b>
<b>NGHĨA </b>
I – NHỚ LẠI BỨC TRANH XƯA VÀ NHỮNG NGÀY TUNG BAY NGỌN CỜ
ĐỎ SAO VÀNG
Tiếng súng xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp vừa ngừng thì tiếng roi vun
vút của bọn đế quốc phong kiến đàn áp bóc lột tưới như mưa trên đầu trên cổ nhân
dân ta.
Thống Năng lại khuyến khích “ phục cổ ” như “ Chấn hưng Phật giáo ”, tu bổ
cảnh chùa Hương Nghiêm, cho mời sư để buộc ràng thiện nam tín nữ và biến việc thờ
phật thành việc “đồng bóng”, “ cầu cúng ”mê tín dị đoan. Thống Năng lại cũng khích
lệ các lệ tục hương đảng xơi thịt và giữ vị trí “ ăn trên ngồi chốc ”. Phần biếu xén
trong làng to nhất là phần biếu “ Quan Đô ” (tức Thống Năng). Phần biếu ấy bao giờ
cũng phải là thủ lợn cộng thêm nhiều thứ khác nữa. Mỗi khhi “ Quan Đô ra với làng ”
là được coi như một “ dịp hiếm có ”. Thường thì “ Quan Đơ” ở “ tại gia ” và các chức
dịch phải thay phiên chầu trực để nghe hắn truyền bảo. Uy thế của Thống Năng, cho
đến năm 1945 vẫn còn khống chế cả vùng Kẻ Rỵ – Kẻ Chè. Lúc này y đã về “ hưu trí
tại làng phủ Lý Bắc ”, xây nhà,, xây “ sinh phần ”, đúc tượng đông Thống Năng, lập
bàn cúng lễ “ giải oan cho các linh hồn bị y giết hại ”…Y cấu kết với bọn quan tỉnh,
quan huyện, “ đi lại chơi bời ”. Cả quê hương Kẻ Rỵ – Kẻ Chè như bị bóng đen của
bọn Đơ Năng, Cai Cường, Lý Dợt, Cửu Minh…đè nặng. Phong trào cách mạng lúc
bấy giờ phát triển khắp nơi trong tỉnh Thanh; mặt trận Việt Minh hoạt động ngày
càng dồn dập nhưng ở Thiệu Trung lúc này cũng khó bề trỗi dậy. Do vậy, nếp sống
văn hố tồn dân thấp kém, lạc hậu, tối tăm và bế tắc. Trong làng có nghề đúc, nghề
thừng, có chợ Chè, chợ rỵ, ruộng đồng nhiều, nơng giang chảy qua mà đói. Đường
làng rậm rạp, cây to um tùm âm u, luý tre dày vây kín như thành cổng làng điếm canh
vít các lối vào làng, khiến dân làng ngột ngạt nặng nề, chỉ những nhà giàu có quyền
Nạn lụt năm 1944 vỡ đê sông Chu khiếm cả vùng mất mùa. Nạn đói năm ấy,
bây giờ nhác lại cịn rùng mình sởn gáy. Tiếp đến là trận đói năm 1945 lịch sử. Pháp
Nhật lại ra sức vơ vét thóc lúa, bắt bán lúa theo đầu ruộng, bắt nhổ lúa trồng đay.
Nhiều nhà xiêu dạt, nhiều nhà chết đói gần hết. Riêng làng Trà Đúc chết mất 128
người, ngoc nào cũng có người chết, có ngõ chết năm sáu người, có nàh chết sạch.
Đường làng ngập trong tang tóc. Trong khi đó, bọn địa chủ cường hào ra sức tích của
làm giàu. Cuộc sống đến lúc này không thể chịu được nữa.
Và cách mạng tràn về trên quê hương Chè Rỵ.
nhác, bọn quan lại hoang mang tìm kế thốt thân và có kẻ mưu toan chống phá lại
cách mạng.
Huyện Thiệu Hóa (lúc này Thiệu Trung thuộc huyện Thiệu Hoá cũ rầm rập cờ
đỏ sao vàng, biểu ngữ, truyền đơn và chuẩn bị đi “ cướp phủ ”. Ngày 15 / 8 các đội
du kích đã võ trang khới nghĩa, trước thái độ ngoan cố của bọn đầu huyện. Lính bảo
an của chúng được gom lại để đối phó với cách mạng. tiếng súng nổ ngay tối hom đó.
Và chính quyền thuộc về nhân dân).
Làng Rỵ, làng Chè cũng nổi lên trong khí thế cách mạng của cả huyện, cả tỉnh.
Mặt tận Việt Minh cử đồng chí Mục Sơn và một số đồng chí khác, cưỡi ngựa, mang
kiếm Nhật (chiến lợi phẩm sau trận giải phóng huyện) về làng tước đồng triện của
bọn lý hương. Chính quyền bọn thực dân phong kiến sụp đổ nhanh chóng như lá khô
trước cơn bão lớn. ở địa phương ông Phạm Thế Thai và một số người hăng hái cách
mạng, được cán bộ Việt Minh huyện bồi dưỡng đã lập đội thanh niên võ trang, tổ
chức đội múa sư tử cùng dân làng biểu tình thị uy. Hàng ngàn người, dưới ách quốc
kì, hơ vang khẩu hiệu “ Cách mạng tháng Tám thành công muôn năm ”, “ Việt Nam
độc lập muôn năm ”…quyện trong tiếng trống múa sư tử rộn ràng diễn khắp 4 làng
Ngày 19 / 8, toàn huyện Thiệu Hoá dồn về núi Go để mừng thắng lợi của cách
mạng, khẳng định cuộc đời mới mở ra từ đây.
Ngày ấy, sau trận mưa mùa thu, trời quang mây tạnh, đồng ruộng tươi tỉnh, ánh
nắng tran hoà; một màu xanh bát ngát mênh mơng xua tan màu xám chết chóc của
mùa đói 1945 vừa qua, xua tan những ngày nơ lệ cự nhục. Từng đồn Thanh niên võ
trang khắp các nơi trong huyện kéo về, chân đất áo nâu, gậy gộc kiếm mác, nam nữ
chen vai nhau, mắt ánh lên khí khí thế của đồn qn nơ lệ vùng lên rầm rập tiến về
khu đổ đất đỏ làng Go.
Đồi núi Go màu đất càng tươi, rậm rịch khí thế của chính quyền mới. trong
đồn qn cách mạng ấy, có mặt 29 dân quân gái và 30 dân quân trai làng Rỵ, Làng
Chè sát cánh bên nhau. Thật là một bức tranh sôi nổi hào hùng xưa nay chưa từng
thấy.
Tiếng nói độc lập tự do lung linh trong từng ánh mắt nụ cười. Mọi tầng lớp
trong làng Rỵ, Làng Chè đều hồ hỡi xiết chặt tay nhau trong mặt trận việt Minh.
Chính quyền lâm thời được thành lập ở các làng. Một số thành phần trên cũng
tham gia chính quyền, có người làm chủ tịch lâm thời một làng, có người tham gia tổ
chức mặt trận Việt Minh và phụ trách các đoàn thể.
và nhiều bài hát cách mạng khác. Bà con thường nhắc đến những người này như là
một kỷ niệm đẹp đẽ sôi nổi đã qua Lê Văn Tân, Trương Trọng Thiện, Lê Văn Hưng.
Ngày mồng hai tháng chín từ quảng trường Ba Đình rực nắng vọng về mội
miền quê bản tuyên ngôn độc lập. Bác Hồ đã nói lên ý xhí của những “ con Rồng
cháu tiên ”:
“ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,một dân tộc đã
<i>gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được</i>
<i>tự do dân tộc ấy phải được độc lập ”.</i>
Ngày 2- 9 đi vào lịch sử và Kẻ Rỵ – Kẻ Chè cũng lớn lên từ đây.
II. từng bước đi lên … từng bước đấu tranh
Tháng giêng vào năm 1946 mùa xuân đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Cái tết khai sinh cuộc sống của người dân có chủ quyền. già trẻ gái trai Kẻ
Rỵ – Kẻ Chè đi phổ thông đầu phiếu bầu Chính phủ và chính quyền các cấp. Cầm lá
phiếu đầu tiên của một cuộc đời mới thiêng liêng làm sao. Những “ anh hiểm ” “ chị
cò ”.. bây giờ cũng được dự bàn việc nước, quyết định vận mệnh cho đất nước.
Sau ngày mùng sáu tháng giêng ấy, xã Tây hồ ra đời bao gồm 6 thôn Mỹ Lý,
Nguyệt Lãng, Trà Đông và 3 làng Trung, Nam, Bắc. lấy tên nhà đại ái quốc Phan
Chu Trinh đặt làm tên xã, nhân dân ở đây muốn biểu thị lịng u nước sâu sắc của
mình, quyết chống Pháp đến cùng để bảo vệ nền độc lập tự do vừa mới giành đượcm.
Các phong trào hồ hỡi dấy lên theo lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu như “ hũ gạo tiết
kiệm ”, “ tăng gia sản xuất ”, “ tập thể dục ”, “ vệ sinh làng xóm ” và sinh hoạt các
đồn thể: Thiếu niên cứu quốc, Nhi đồng cứu vong, thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu
quốc, phụ lão kháng dịch, nông hội …trong mặt trận Việt Minh. Nhất là phong trào
bình dân học vụ. các lớp mở ra khắp nơi, “ người biết chữ dạy cho người không biết
chữ, véo von các sách học văn:
I tờ dấu móc cả hai
I ngắn có chăm, tờ dài có ngang
Rủ nhau đi học i tờ
Xem sách quốc ngữ, đọc thư Cụ Hồ
Và cũng như các nơi, Kẻ Rỵ – Kẻ Chè cũng mở ra “ cống sáng ” “ cổng mù ”, cũng
có cảnh phàn nàn tự trách song mà vui vẻ biết bao:
<i>Người ta đi chợ thì vui</i>
<i>Tơi nay đi chợ những chui cùng lòn</i>
<i>Còn giời, còn nước còn non </i>
Cứ như thế, tất cả phong trào cách mạng dấy lên như một cuộc đổi đời, gương mặt
văn hoá mới đã thay đổi dần dần Kẻ Rỵ – Kẻ Chè xưa.
Nhiều bài hát cách mạng từ thị xã Thanh Hoá bay về: Lá quốc kỳ, Rạng đông,
Việt Nam, Việt Nam phụ quốc. Bao chiến sỹ anh hùng …Lời hát cất lên đầy khí thế.
<i>Giang lay bước lên đường chung hăng hái </i>
<i>Nam nhi nước non nhà nào kém ai </i>
Song tình hình càng ngày càng căng thẳng. Giặc Pháp gây hấn ở Nam kỳ ngày 23 –
9. Chúng tiếp chân quân. tưởng ở Bắc bộ và gây nhiều khó dễ, ngày càng láo xược.
Rậm rịch nhiều người ở tỉnh Thanh lên đường chống giặc, nam tiến. ở Kẻ Rỵ – Kẻ
Chè, sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch hồ Chí Minh thì mới có lớp
bộ đội đầu tiên lên đường gồm 6 đồng chí; Phạm văn Thơi, Trương Trọng Trịnh, Lê
Đình Thường, Đỗ Tất Bài, Trần Đình Sáu, Lê Minh Đức. Cả xã, cả làng trống giong
cờ mở ra tận cầu Đông Quang đưa tiễn những người con quê hương lên đường góp
xương máu bảo vệ đất nước.
Nhịp sống kháng chiến bắt đầu với tốc độ khẩn trương. Làng kháng chiến hình
Trong khơng khí ấy, xã Minh Quang ra đời, tháp các xã nhỏ thành xã lớn. Đó
là vào tháng 10 – 1947. Xã Minh Quang lớn gồm 2 xã nhỏ Tây Hồ và Minh Quang
(Minh Quang cũng là xã nhỏ gồm các thôn Nguyệt Quang, Phú Thứ, Viên Nội, Viên
Ngoại, Hổ Đàm). Một uỷ ban hành chánh ra đời cùng Mặt trận Liên Việt lãnh đạo
nhân dân vừa sản xuất vừa chiến đấu, lấy kháng chiến làm công việc trước mắt. Lò
thơ chúc tết đầu năm của Bác Hồ văng vẳng trong tâm trí mọi người.
<i>Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió</i>
<i>Trống kèn kháng chiến vang dậy non sơng </i>
<i>Tồn dân kháng chiến, tồn diện kháng chiến</i>
<i>Chí ta đã quyết, lịng ta đã đồng.</i>
Cuộc sống tất nhiên khơng vươn lên một cách thuận chiều. Mảnh đất này khơng
ngồi con mắt tính tốn của bọn phản động. Năm 1947, một tên trong tổ chức “ Việt
cách ” về phát động làng Chè chặt rào, đốn cây, dọn đường …khai quang làng xóm.
Nó dựa vào chủ trương xây dựng đời sống mới để nhằm tuyên truyền giành giật nhân
dân. Đội dân quân địa phương do ông Cần, ông Cốt, ông Sáu đã đến bắt tên này giải
lên huyện, kịp thời ngăn chặn hoạt động của bọn Việt cách.
Phong trào ủng hộ kháng chiến lên mạnh trong các đợt qun góp quỹ vàng,
quỹ độc lập, cơng trái quốc gia,và nhất là bán lúa khao quân Cụ Hồ.
Các làng đều tổ chức thi đua mua công trái quốc gia, bán lúa khao quân tại các
đình làng kéo dài 7 ngày. ở làng Chè có chuyện ơng Vũ Đình Son mua cơng trái
quốc gia. Ơng Son vốn là cố nông, trước cách mạng đi ở cho nhà giàu. Làng xóm
được giải phóng, ơng chăm chỉ làm ăn có kế hoạch, tấn tới hẳn lên, có “ bát ăn bát để
Đi với cách mạng một đoạn đường, những người giàu có trong làng đã lộ ra
những tính tốn cá nhân. Các phong trào ủng hộ kháng chiến, hiến điền, thuế luỹ
tiến… làm cho họ cảm thấy tài sản bóc lột được của họ khơng tăng lên bao nhiêu mà
có nguy cơ bị tước lại (1).
Tiêu biểu cho những nhà giàu làng Rỵ làng Chè lúc này là Cửu Minh và Phó Cầu
(tức trương Hữu Hoạch và Trương Hữu Tạo).
Chúng có uy thế lớn trong vùng, hàng trăm mẫu ruộng thu tô, dinh cơ bề thế,
kẻ ở ngoài làm rậm dịch suốt ngày đêm, khách khứa xe cộ xa gần “ về chơi với cụ
Cửu vag ơng Phó ” khơng lúc nào là khơng có. Cựu Minh bảo trợ Phật giáo ở chùa
Hương Nghiêm sau khi Thống Năng chết. Y còn lập ra phường bội, đội hát và múa
sư tử …bày ra cái vẻ bề ngoài là “cụ Cửu hiền lành chỉ thích chơi bời thơi ”. Thật ra,
y có nhiều tính tốn khi đi với cách mạng. Cách mạng đã đoàn kết với y, đã giao cho
y làm chủ tịch Liên Việt xã song y chỉ “ đoàn kết ” lại một cách “ nửa vời ”.
Đầu 1950, Tuệ Quang Tuệ Chiếu (hai tên việt gian đội lốt tôn giáo) mượn danh
nghĩa Liên Việt tỉnh về xã Minh Quang du với Cửu Minh và Phó Cầu. Chúng quẫy
lên việc “ chù chiền ” lập ra “ Hải hội ” gồm hơn 100 người có tuổi trong làng Rỵ
làng Chè (từ 40, 50 đa phần là nữ) góp tiền “ đèn nhang ” trên chùa tụng kinh gõ mỏ,
cho in áo Hải hội (áo có hoa văn dấu nhà Phật cho người chết), tổ chức “Đội Cầu ”
cho người chết (các già đội băng vải dài có tua giải, tượng trưng cho cái cầu bước
sang cõi phật của người chết). Phong trào Phật giáo dấy lên có nguy cơ lấn át các
phong trào cách mạng. Bọn chúng lợ dụng “ tự do tín ngưỡng ”, lại núp dưới danh
nghĩa Mặt trận Liên Việt nên lúc đầu một số người lẫn lộn, khó phân biệt Cửu Minh
có tham gia bóc lột tơ tức từ nhiều đời, cịn thì là lớp phú nơng “ có bát ăn bát để ”.
Những người giàu có này, lúc đầu đều có tham gia cách mạng, sau đó có người rơi
rớt, có người kiên trì. Cách mạng đã cải tạo họ cũng như con cháu họ, giúp họ đi vào
con đường làm ăn chính đáng.
Rõ ràng hai bên có sự tranh chấp ảnh hưởng. ở hai làng Chè và Rỵ, các cán bộ trẻ và
một số thanh niên tích cực chuẩn bị tổ chức mít ting quốc tế lao động cạnh chùa ơng
Hưu. Bọn Cửu Minh có sự chỉ đạo của Tuệ Quang Tuệ Chiếu(lúc này đang nằm vùng
tại đây)đã viết các khẩu hiệu cho ngày Phật đản treo khắp 4 làng. Cạnh các khẩu hiệu
như “ hoan nghênh ngày Phật đản ”… chúng vẽ hình “ Hai giáo đâm một mác ” với
những ý thâm độc. Chiều mồng 7 tháng 4 các khẩu hiệu này được treo lên theo lệnh
cụ Cửu. Trong làng xôn xao. Đội múa sư tử đi cổ động cho ngày lễ Phật. Khơngkhí
ngày 1 – 5 chìm hẳn. Hỏi chính quyền thì khơng cịn thời gian, tối hơm đó, ba thanh
niên trong làng là trương Trọng Xương (lúc này là uỷ viên ban xã Minh Quang),
Trương Trọng Đồn và Trần Văn Yừn bàn bạc với nhau, bí mật leo lên gỡ các khẩu
hiệu đó đem ném xuống bến sơng Hương. Sáng ra, bọn Cửu Minh và Phoa Cầu mới
biết.Lễ Phật đản vẫn tién hành bên cạnh lễ kỷ niệm 1 – 5. Sau sự việc này, bọn Cửu
Minh cũng “ chờn ”, hoạt động của chúng đi vào chiều sâu với âm mưu “ Vận đọng
thành lập đội phật tử ”.
Trong làng lúc này có một số thanh niên “ ăn diện chơi bời theo kiếu Cầu Bố
(1) dùng hàng ngoại hố, trốn dân cơng và tun truyền nhảm, có ảnh hưởng xấu đến
các thanh niên mới lớn lên. Họ bị dân làng phản đối và tẩy chay ”.
(1)Trongkháng chiến chống Pháp, Cầu Bố là một thị trấn tản cư, nơi sinh hoạt “xô
bồ” của nhiều lớp người buôn lậu, trốn kháng chiến, sa đoạ … “thanh niên Cầu Bố”
Năm 1951 cũng là năm chính phủ ban hành thuế nơng nghiệp kèm thuế luỹ tiến.
Cho đến lúc này, thái độ của những nhà giàu có mới lộ rõ. Cửu Minh, Phó Cầu phản
ứng ra mặt. Bởi vì, theo chính sách thuế mới thì bọn này cịn phải bỏ ra hàng ngàn
thúng thóc mà lâu nay chúng thu vén lậu liễm. Thế ra, đi với cách mạng song chúng
vẫn bóc lột bà con một cách thậm tệ chúng chẳng có cách mạng gì cả, chỉ nhằm lợi
dụng cách mạng mà thơi. Năm 1952 – 1953, cuộc đấu thuế nổ ra như một quả bom
lớn làng xóm làng xơi động hẳn lên. Cuộc đấu thuế đang trên đà phát triển kéo theo
cuộc đấu tranh chính trị ào ạt, Cơn bão này gọi tiếp cơn bão khác, lôi cuốn Kẻ Rỵ –
Kẻ Chè vào cuộc đấu tranh cho rõ trắng đen, cách mạng hay không cách mạng. Thế
là những kẻ trốn dân công, phao tin nhảm loại thanh niên kiểu Càu Bố những kẻ có
thái đội lừng khừng lâu nay … đều được đưa ra “đấu trường ”.
Chiếu, cầm đầu nhóm đội lốt tơn giáo chống phá cách mạng, đã bị bắt, lòi bộ mặt việt
gian làm tay sai cho Pháp. Đến lúc này, toàn dân mớ thấy hết tội lỗi của bọn Cửu
Minh, Phó Cầu “ lập lờ hai mặt, bắt cá hai tay ”. bọn chúng bị giải lên tỉnh giam cứu.
Sau cuộc đấu thuế, đấu Việt gian phản động này, phong trào cách mạng được
đẩy lên một bước. Dân công tiếp vận, Thanh niên xung phong, đống góp nghĩa vụ …
đều nhanh chóng hồn thành. Năm 1954 phát động giảm tô. Nhân đà thắng lợi năm
1955 nên các cuộc đấu tranh giảm tô (và cải cách ruộng đất sau này) rất thuận chiều.
Sự gíac ngộ của nơng dân nhanh chóng vươn lên, uy thế bọn địa chủ cường hào
nhanh chóng sụp đổ Cửu Minh, Phó Cầu được đưa ra đấu điển hình trong giảm tơ.
Sẵn tội lỗi cũ, tội bóc lột bằng ruộng đất được vạch ra. Bản án tử hình lúc này đầy đủ
bằng cớ khép y vào tội “ Địa chủ cường hào, Việt gian phản động ”.
Cho đến cải cách ruộng đất 1955, Kẻ Rỵ – Kẻ Chè có 11 địa chủ (không kể
một số bị quy oan được trả thabnhf phần ngay cuối năm 1955). Cũng từ đây tên xã
Trên quê hương Chè Rỵ, cuộc cách mạng phản đế phản phong do Đảng ta lãnh
đạo đến đây coi như đã hoàn thành. Sau khi hồ bình lập lại, miền Bắc được tiến vào
giải phóng tién vào hàn gắn vết thương chiến tranh, bắt đầu công cuộc XHCN và tiếp
tục làm nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Con đường đi lên đã thuận chiều. Trên con đường ấy, xã Thiệu Trung xây
dựng hợp tác xã nông nghiệp, phát triển ngành nghề, góp ơhần vào cơng cuộc chống
Mỹ cứu nước, tích cực xây dựng thành cơng nơng thơn mới XHCN.
Từng bước đi lên nhưng cũng là từng bước đấu tranh. Quá trình đấu tranh và đi
lên ấy, ngay cả bây giờ cũng vậy, có lúc gay go phức tạp chống lại những lực lượng
lạc hậu, phản động, có lúc tự mình rũ bỏ sự bảo thủ trì trệ và tầm nhìn hạn hẹp để
vươn lên kịp với phong trào cách mạng chung, dưới ánh sáng của Đảng quang vinh,
Tuy gặp nhiều khó khăn, có lúc căng thẳng phong trào có khi trậm lại, phải gắng sức
để vượt qua, song hướng đi lên đạt những thành quả vững chắc là điều hiển nhiên, ai
cũng thấy. Cuộc sống của Thiệu Trung ngày nay, xét kỹ nhiều mặt, ta thấy hưon hẳn
cuộc sống Kẻ Rỵ – Kẻ Chè xưa.
Trong qua trình đi lên ấy, truyền thống xưa kia đã góp sức mạnh cho con người
Thiệu Trung hôm nay.
Hơn 10 năm qua (1945 – 1987) trên một chặng đường cách mạng, chúng ta
ghi nhận ở đây những thành tích nổi bật của Thiệu Trung.
<i>Dân số: 4016 – số lao động: 1200</i>
<i>Xây dựng Đảng: 152 đảng viên (đến 1987)</i>
<i>Tham gia chốn Pháp: Bộ đội Cụ Hồ: 47 </i>
Thanh niên xung phong 150 người
Dân công tiếp vận Điện Biên: hơn 1000 người
<i> Tham gia chống Mỹ: Nhập ngũ 363 người</i>
Liệt sĩ: 87 người
Thương binh: 33 người
Gia đình có nhiều con đi bộ đội:
-Ơng Vũ Đình Cang (làng Chè):3 con đi bộ đội (2 liệt sĩ, 1 thương binh).
-Ông Lê Văn Chút (làng Chè):2 con đi bộ đội (cả 2 là liệt sĩ).
Thanh niên xung phong 160
Dân cơng hoả tuyến: 240
Cán bộ thốt ly: 106
Bắn rơi 1 máy bay F4Hcủa giặc Mỹ bằng súng 12,7 ly.
<i>Tham gia chống bọn bành trướng Bắc Kinh:</i>
Đi nghĩa vụ 300 người
<i>Xây dựng CNXH:</i>
Sản xuất nơng nghiệp: 1981 khốn sản phẩm, sản lượng từ đó ngày càng tăng:
4,2 tấn – 4,6 tấn – 4,8 tấn – 5 tấn (1985).
Năng suất xã hội bình quân là 6 tấn (mức giao là 4,8 tấn).
Làm nghĩ vụ lương thực: 1982: 360 tấn
1983: 5324 tấn
1984: 411 tấn
Nghề đúc: Một năm tiêu thụ 200 tấn đồng nguyên liệu.
<i>Xây dựng cơ sở vật chất: Một kho chứa trị giá 200 ngàn đồng (1983)</i>
-Một trạm xá trị giá 113 ngàn đồng (1982)
-Một cây cầu tị giá 630 ngàn đồng (1984)
-Mở mang đường sá trị giá 200 ngàn đồng (1984)
<i>Văn hoá xã hội:</i>
<i>Trường học:27 lớp. Tổng số học sinh:936</i>
Hệ thống truyền thanh420 ngàn đồng
<i>Khen thưởng:</i>
<i>-Bức trướng “ Đảng là người quyết định mọi thắng lợi” (1975) Tỉnh uỷ và Uỷ ban</i>
tỉnh Thanh Hoá tặng.
-Huân chương kháng chiến hạng Ba (1975)
-Bức trướng khen ngợi thành tích bắn rơi máy bay F4H (1975).
Iii – Những kỷ niệm lớn
Sau 1954 miền Bắc được giải phóng, tiến hành hàn gắn vết thương chiến tranh
và khôi phục sản xuất, chuẩn bị cho công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH.
Xã Thiệu Trung tiến công vào mặt trận sản xuất thâm canh nông nghiệp, bước
Bà con nhớ lại “ vụ chiêm vượt bậc ” năm ấy. Đó là năm 1959.
Tồn xã phát động khẩu hiệu “ sạch lòng tốt ruộng ”. Phân rác các xó xỉnh, từ
góc vườn đến bờ đường được lơi ra làm phân bón. Dịng Hương Giang im lìm từ xưa,
béo tây, cỏ rác dày hàng thước. Nhìn qua bãi rác, bà con mường tượng dịng sơng có
nhiều bí ẩn của thế giới rắn, rùa, hà bá với những câu chuyện hoang đường về “ dớp
”, về “ oan hồn ” …thế mà, chỉ trong một ngày phát động làm phân, bèo rác được lôi
lên từng “ núi tướng ” chả thấy mma quái hà bá đâu cả. Thanh niên dân qn mởư
nhiều mũi xung kích. Dịng sông quang hẳn, mở mặt gương trong vào thế giới thần
linh ma quái cũng tan biến. ánh cờ sao và trống chiêng lung linh cả dong sơng vừa
được giải phóng như gương mặt mới của Thiệu Trung trước ngày mới XHCN đầu
tiên trên đất nước ta. Cái ngày trưng bừng đó cịn để mãi ấn tượng đẹp trong lịng
người dân Thiệu Trung, ấn tượng về cái mới một khi “ cất tiếng chào đời ” là tấn
công ngay vào cái cũ và nếp sống lạc hậu xưa việc làm tuy nhỏ song có ý nghĩa to
lớn.
Từ đó Thiệu Trung bước thẳng lên con đường làm ăn tập thể. Mỗi làng thành
lập một hợp tác xã điển hình. Và năm sau, mùa thu 1960, các làng mở rộng thành 9
hợp tác xã, thu hút 100% nơng dân tình nguyện bước lên con đường sản xuất mới.
Đó là các hợp tác nhỏ: Bắc Giang, Bắc Hồ (làng Bắc), Trung Thành, Trung Tín,
Trung Chữ (làng Trung), Nam Hoa, Nam Vinh (làng Nam), Phú Cường, Đông Thịnh
(làng Trà Đông). Mười ba năm sau (tháng 6 – 1973) các hợp tác xã nhỏ tháp thành
hợp tác xã toàn xã.
Từ khi tiến lên hợp tác xã toàn xã, cụa diện sản xuất thay đổi hẳn, gương mặt
Thiệu Trung có nhiều biến đổi to lớn.
Tiếp đến, việc thâm canh được đẩy mạnh, nhất là các năm từ 1974 đến 1977.
Nét mặt Thiệu Trung ngày càng rạng rỡ. Ngay khu Miếu Bà xưa, xã cho xây
trạm xá lớn; khu Quán Học, Bàn hát xây trường cho con em ngày ngày học hành; khu
ruộng ông Hưu (cạnh chùa) biến thành nhà kho hợp tác. Đường làng được nắn lại,
đắp ủi to hơn xưa, đường lớn rộng 6 mét, đường xóm rộng 4 mét. Một cây cầu xây
mới đầu làng bắc qua kênh Bắc bằng sắt thép, xi măng, chủ yếu bằng vốn tự có của
địa phương.
Bà con cịn kể lại “ kỷ niệm về một cây cầu ”.Đó là Cỗu Vồm nơi bến diệc
xưa. Từ khi Cầu Thụ mất đi, việc đi lại giữa Kẻ Chè và Kẻ Rỵ được chuyển xuống
giữa làng Chè lội qua khúc Hương Giang cạn. Đây là một nổ lội lớn, mùa nước phải
chống thuyền; nhiều vụ “ mất quần ” khi lội qua nước sâu. Thười kỳ tỉnh đóng (trong
thời gian chống Mỹ) có xảy ra việc các em học sinh lò dò đi qua khúc gỗ bắc ngang
bị rơi xuống chỗ sâu khiến cán bộ xã bị tỉnh khiển trách. Liền sau đó, cầu Vồm được
bắc bằng gỗ tạm thời.Đến 1974, cầu Vồm được xây bằng gạch cao và to, nối 3 làng
trong xã Thiệu Trung, Nam và Trà Đông; Kẻ Rỵ – Kẻ Chè khơng cịn bị tách biệt như
trước nữa.
<i>Con sơng Hương giờ thành con sơng vui</i>
<i>Ơng Hưu ở với đàn con cháu mới</i>
<i>Những chiều mát, tiếng sáo diều vời vợi </i>
<i>Cười hiền từ, chòm râu mát rung rinh </i>
<i>Chống gậy thăm đồng, đường bớt gập ghềnh</i>
<i>Thăm trạm xá, nhà kho; thăm cây cầu mới mọc</i>
<i>Vầng trán rộng sáng như đồng mới dúc </i>
<i>Khen cháu con giàu nghị lực chắt chiu</i>
<i>(Thăm quê mới Lê Văn Hưu)</i>
<i>“ Quê hương thứ hai của tỉnh”</i>
Đó là câu của nhiều đồng chí trong UBND tỉnh, khi nói về Thiệu Trung ngày
ấy, vào những năm chống Mỹ ác liệt.
Từ 1964, lẻ tẻ đã có các đồng chí đến liên hệ chuẩn bị cho khu sơ tán làm việc
của Uỷ ban nhân dân tỉnh và khi tiếng súng chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ
rộ lên thì các cơ quan cấp tỉnh khân trương chuyển về Thiệu Trung để lập ra “ quê
hương thứ hai của tỉnh ” này. Vào những năm ấy, đóng ở làng Nam có cơ quan hành
chính tỉnh. Các đồng chí Chủ tịch tỉnh Võ Ngun Lượng và sau đó là Hồng Văn
Hiều đã ở trong nhà vào các gia đình cạnh Mã Giịm, nơi an nghỉ của nhà sử học Lê
Văn Hưu.
Tại làng Nam, cịn có ban nơng nghiệp tỉnh. Đóng ở làng Trung là các ban kế
hoạch, Công nghiệp; ở làng Bắcc là cơ quan xăng dầu và sau đó là ban nơng
nghiệp chuyển từ làng Nam lên; ở làng Chè là Ban vật tư, Tuyển sinh và nơi tiếp
khách. Hội trường 25A. Đơn vị vũ trang bảo vệ tỉnh thì ở khắp các làng trong xã.
Cán bộ tỉnh đóng trong nhà dân. Những ngơi nhà rộng rãi được chọn nơi đặt
Bom và gióc két giặc mỹ cùng ném xuống Thiệu Trung.Ngày 31 – 1 –1968,
giặc Mỹ đánh giôc két ở cầu Đông Quang (đầu xã)làm chết 1 lái xe, một học sinh cấp
3 và một phụ nữ bị cụt chân.
Tháng 2-1972, giặc Mỹ đánh cầu Bôn vào lúc 1 giờ sáng, khơng ai việc gì.
Cũng trong năm này, giác Mỹ đánh trận địa tên lửu Ngã Ba Chè, giải bom bi xuống
làng Bắc song Thiệu Trung an toàn.
Bom B52 của giặc Mỹ cũng rơi 3 quả xuống Đồng Đanh song không nổ. Vẻ
vang nhất là dân quân Thiệu Trung dùng súng 12,7 ly bắn rơi 1 F4H.
Chín năm Uỷ ban nhân dân tỉnh đóng trên đất Thiệu Trung dạt dào tình nghĩa.
Những khi tết nguyên đán cổ truyền về trên quê hương, các đồng chí lãnh đạo tỉnh lại
toạ đầm thân, mậtvới cán bộ địa phương, thăm hỏi và ăn tết với bà con; có những cán
bộ nhận là con trong gia đình cho đến nay tình cảm vẫn bền chặt. Chín năm ấy, ở đây
khơng xáy ra một vụ mất mát tài sản nào đáng kể.
Trong những ngày khói lửa ấy, Thiệu Trung vinh dự được đón các đồng chí
lãnh đạo Đảng và Nhà nước về qua cơng tác; đồng chí Võ Ngun Giáp một lần,
đồng chí Đỗ Mười hai lần.
Ngày nay, đến Thiệu Trung, chúng ta còn thấy nguyên vẹn căn hầm làm việc
của đồng chí chủ tịch Võ Nguyên Lượng xây trên đất Mã Giịm, cạnh nơi có dấu tích
mộ chí Lê Văn Hưu và những câu chuỵen tình nghĩa cảu bà con Thiệu Trung kể về
ngày ấy, ghi mãi kỷ niệm đẹp ấy.
<i>Bắn rơi “con ma giặc Mỹ”</i>
Trận địa Ngã Ba Chè cách Thiệu Trung chỉ có 2 cây số. Thiệu Trung trở thành điểm
bảo vệ ngoại vi cho trận địa tên lửa này.
Hơm ấy là 15-3-1972, tại Mã Giịm nằm cuối làng Chè, một trung đội dân quân lập
trận địa, có một khẩu 12 ly 7 và 2 khẩu thượng liên, do đồng chí Trịnh Xuân Vận làm
trung đội trưởng, đồng chí Lê Văn Mơi làm chính trị viên và các xạ thủ Lê Văm
Trực, Lê Văn Dương, Lê Văn Dư, Bùi Văn Dinh, Lê Đình Khơi.Đồng chí xã đội
trưởng Nguyễn Văn Chưởng trực tiếp chỉ huy.
quân áo cho các xạ thủ và cho tiền liên hoan. Sự kiện này trở thành kỷ niệm hào hùng
cho quân dân Thiệu Trung.
<i>Đúc tượng Bác trên quê hương.</i>
Niềm vinh dự to lớn của nhân dân Thiệu Trung là được Đảng và Nhà nước cấp trên
giao cho đúc tượng đồng Bác Hồ. Nghề đúc truyền thống của Kẻ Chè, tinh hoa của
cha ông ngàn năm để lại; được sử dụng vào một cơng trình thiêng liêng. Bác Hồ vừa
mới “đi xa”. Niềm lưu luyến của nhân dâd’doois với vị cha già dân tộc sâu sắc. Lưu
lại hình ảnh của Bác là nguyện vọng của nhân dân Thanh Hố. Việc đó, Thiệu Trung
được giao phó, vừa là một trách nhiệm vừa như là sự biểu dương của nghề đúc truyền
thống có ý nghĩa văn hoá cao.
Ngày ấy là vào tháng 7-1970.
đảng uỷ xã nhận nhiệm vụ của cấp trên đã giao cho hai chi bộ Trà Đông (chị bộ thủ
công và chi bộ no chị bộ thủ công và chi bộ nông nghiệp) lo việc đúc tượng Bác- Địa
điểm đúc được chọn ở vườn Kè giưa xlàng Trà Đông. Nơi đây là trụ sở của hợp tác
xã thủ công ngành đúc, tiệnc ho khách khứa đi về. Buổi lễ dựng cốt tuy khơng có đàn
Mơng Sơn, khơng cầu Thánh Khổng mà long trọng biết bao. Khơng khí buổi lễ là
Hai ngng nguyên liệu chính là đồng và sáp ong do huyện cấp. Các khoản
khác, xã lo. Nhà điêu khắc Lê Quy trực tiếp cải tượng. Công việc kéo dài hàng tháng
trời. Tượng cải xong, chi bộ thủ công giao cho đồng chí Đặng ích Bích chủ trì việc bố
trí thợ đúc và các lò đúc. Các bác thợ Lê Văn Duân, Lê Văn Lương lo việc khuôn bễ
và kỹ thuật.
Khu vườn Chè, róng đóng bao quanh. Tưọng Bác cao 1m30. Tám lị đúc có bễ
thụt thủ cơng (kiểu bê thựo rèn cũ) được bố trí sẵn sàng quanh nơi dựng tượng. Cứ
mỗi lò là 3 người phụ trách 2 trong thụt bễ và 1 người tra đồng.
Ngày đúc thì đến nay khơng cịn ai nhớ đến nữa. Chỉ nhớ, buổi chiều trước
hôm đúc, thợ đã tiến hành nung cốt. Sáp trong khuôn chay rra hết. Lại tiếp tục đốt
cho đến khi lửa bỏng trong lịng cốt bốc lên, khn chín mới thơi. Tối đó, đèn măng
xơng sáng dực một goc trời Thiệu Trung, các lò nung cốt rừng rực hồng tươi. Người
các xã xung quanh và dân trong xã nô nức đi xem như đi trẩy hội lơn ssuốt đêm. Tận
đêm khuya, tiếng hát tiếng cười, tiếng thụt bễ reo vẫn cịn náo nức.
Bình minh hơm sau, trời ủ mưa, mưa rải rác. Người đổ về vườn Kè. Các cán bộ
bên tỉnh bên huyện, các quan khách xa gần về dự lễ “ đúc tương Bác ”.
Tám lò nổi lửa. Bác Đặng ích Bích cầm cờ đỏ phát lệnh cho các lò. Mỗi lò nấu
40 kg đồng. Và đồng chảy lan trong các nồi cơi, nước đồng lóng lánh, rừng rực hàng
ngàn độ.
Lần lượt treo cờ phất, các nồi cơi được khênh lên đỉnh cốt.Người thợ thạn
trọng rót đồng vào cốt trong sự hồi hộp của mọi người. Độ 8 giờ sáng thì đổ xong,
trời quang mây tạnh.
Ghi lại cảnh đúc tượng Bác hôm ấy, anh Mạnh Lê, nhà thơ người làng Chè
viết:
<i>Nổi lửa rồi</i>
<i>Người thợ bước lên</i>
<i>Cánh tay trần máu dồn mạch chảy </i>
<i>Vẫn bàn tay ấy </i>
<i>Nâng nồi than lên ngang tầm ngực mình cho đồng chảy vào khuôn</i>
<i>Suối nước đồng trong vắt như gương </i>
<i>Lấp lánh sao trời, lấp lánh ánh trăng </i>
<i>Không gian rực hông, bập bùng hơi thở</i>
Và:
<i>Đêm nay</i>
<i>Mặt trời lên</i>
<i>Mặt trời lên như say</i>
<i>Xóm thợ đón một bình minh quen thuộc</i>
<i>Tổ tiên nhận một dáng hình đẹp nhất </i>
<i>Tượng đồng Hồ Chí Minh</i>
<i>(Trích “Đất trống đồng Bác Hồ” – Tiếng chim – nhà xuất bản Thanh Hóa – 1984)</i>
Buổi chiều, Ban tổ chưc làm lễ dỡ khuôn. Các con tim như ngừng đập trong
giây phút. Khuôn dỡ đến đâu, tượng Bác hiện ra đến đó. Khn dỡ xong tượng Bác
Ai cũng trầm trồ: “ Tượng Bác rất tươi ”.
Phần phục lục
Bản xã tiên hiền (1)
(Ghi theo gia phả họ Đỗ)
1. Thượng trụ khai quốc Lê tướng công
2.Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhị danh, Hàn lâm thị độc chưởng sử quan tu ĐAi Việt
Sử ký, bin bộ thựơng thư, Nhân uyên hầu Lê Tướng công (tức Lê Văn Hưu).
3.Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhất danh sung Đại hành khiển phong thúc thần Đào
Tướng công (tức Đào Tiêu).
4. Tả dực Đại hành khiển, nhập thị kinh diên, Lê tướng Công (chưa rõ ai)
5.Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhất danh, Binh bộ thượng thư Tả dực Đại hành khiển
Lê Tướng công (tức Lê Bá Quát).
(1)Các gia phả, tộc phả trong làng đều có ghi các “ tiên hiền ” song cácbản ghi có
nhiều chỗ khơng thống nhất, có chỗ trái ngược nhau. Chúng tôi chọn hai bản ghi
trong gia phả họ Lỗ và họ Trần để giới thiệu vì thấy rằng hai bản này đầy đủ và gần
với nhau hơn, cả hai bản còn nhiều chỗ chưa rõ, tài liệu thiếu thốn cho nên chưa thể
tra cứu được. những phần để trong ngoặc đơn là do chúng tôi ghi thêm.
6.Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, Mạ tạc trung vũ hầu Lê tướng Cơng (tức Lê Giác).
7.Canh thìn khoa tiến sĩ cập đệ tả nạp ngôn thượng khinh xa Nguyễn Cự Công (chưa
8.Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, Tả tham chính Nghệ An trấn Lê Cự Cơng (chưa
rõ ai).
9.Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, Hộ khoa cấp sự trung Trần cự công (tức Trần
Lê Hiệu, huý là Trỗi).
10.Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân Hộ khoa cấp sự trung Tả tham chính Nghệ An,
Thái Nguyên, Hải Dương, đẳng trấn vũ cự công (tức Vũ Kiêm).
11.Nghệ An trấn htủ Lai quận công Đặng tướng công (chưa rõ tên)
Người ghi: Đỗ Đức Vĩnh
15.Vị khoa bảng (Kẻ Rỵ – Kẻ Chè)từ thời Đinh đến thời Nguyễn được thờ ở nghè
văn thánh Phủ Lý.
(Lựơc dịch văn tế ở nhà cụ Đỗ họ Trần)
<i>Thời Lý: 2.Tiên sinh họ Lê (huý Chính), tước Kim tử Quang Lộc đại phu, thượng trụ</i>
quốc, Thượng trật khai quốc công, chức Nội tỉnh đơ tri kim hiệu Thía phó, kiên cung
dịch sứ Đại tướng quân.
<i>Thời Trần:3.Tiên sinh họ Lê (huý Hưu), hiệu Tu Hiền, Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ nhị</i>
danh khoa Đinh Mùi (1247), tước Nhân uyên hầu, Hàn lâm viện thi độc, Chưởng sử
quan giám tu Đại việt sử ký, Binh bộ thượng thư.
4.Tiên sinh họ Đào (huý tiêu, còn gọi là Đào Thục)., đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ
nhất danh (Trạng nguyên) khoa Ất Hợi (1275), chức hữu bật đại hành khiển được
phong phúc thần (Thành honàg của làng).
5.Tiên sinh họ Lê (huý bá Quát), đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh (Trạng
nguyên), chức Hữu bật đại hành khiển, Binh bộ thượng thư.
6.Tiên sinh họ Lê (huý Giác), chức đại hành khiển nhập thị kinh diên.
7.Tiên sinh họ Nguyễn, tiến sĩ cập đệ khoa Canh Thìn (có lẽ là 1400), chức tả nạp
ngôn, kinh xa đô uý.
<i>Thời Lê:8.Tiên sinh họTrần (huý Thiện), Đệ nhất giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa</i>
Quí Mùi (1463), chức cấp sự trung bộ Hộ.
9.Tiên sinh họ Lê (?), Đệ nhất giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi (?) chức tả
tham chính trấn Nghệ An(?).
10.Tiên sinh họ Lê, Đệ nhị giáp tiến sĩ khoa Tân Mùi, tước Cầm nham hầu, chức lại
khoa cấp sự trung (khoa Tân Mùi, theo đăng khoa lực ghi là Lê Bá Khang (năm
1511) thời Lê Tương Dực, ND).
11.Tiên sinh họ Vũ (huý Kiêm), Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất
(1646), chức hộ khoa cấp sự trung Tả tham chính các trấn Nghệ An, Thái Nguyên,
Hải Dương.
12.Tiên sinh họ Đặng (?), tước Lai Quận công, trấn thủ Nghệ An.
<i>Thời Nguyễn:13.Tiên sinh họ Trần (huý Lê Hiệu), Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân</i>
khoa Nhâm Ngọ (1822), chức Lang trung bộ công, tước Đông Xuyên bá (còn gọi là
Trỗi).
14.Tiên sinh họ Trần, hiệu Đạm Trai, đỗ cử nhân khoa Kỹ Mão (?) chức đốc học
15.Tiên sinh họ Trần, đỗ cử nhân khoa Quý Mão (1813 Thiệu trị thứ 3, huý Mỹ, hiệu
Chất Trai. Bố tránh sứ Thái Nguyên sung tuần biên đại sứ các tỉnh Bắc Ninh, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, tăng Hồng lô tự khanh các thự trung thuận đại phu).
Người lược dịch
Bùi Xuân Vĩ
Văn bia chùa Hương Nghiêm núi càn ni
Bài văn bia này trích chép từ thơ văn lý trần tập 1 NXB khoa học xã hội Hà Nội –
1977. Bia đá chép văn bia này hiện nay đã mất.Theo ơng Hồng xn Hãn, tấm bia
này dựng tại làng Phủ Lý, Đơng Sơn Thanh Hóa (xã Thiệu Trung). Bia cao 1m5,
rộng 90cm dựng ngày 4 tháng 12 năm Giáp Thìn, niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ (tức
10-1-1125). Mùa đơng năm Bính Ngọ niên hiệu Bảo Thái thứ bảy (1726) khắc lại chữ
rõ và tốt.
Tác giả văn bia; Khuyết danh.
ôi ! mới phân phán huyền hoàng (1) bắt đầu chia trong dục (2)…(lược)…chùa
Hương Nghiêm núi Càn Ni (3) là ngôi chùa do Thiền Sư Đạo Dung tu sửa. Tổ tiên
của Thiền Sư là Trấn quốc bộc xạ Lê Công (Lê Lương) thuộc 1 dòng họ lớn ở quận
Cửu Chân, Châu Ai nước Việt. Gia thế giàu thịnh, nhầ thường chứa hơn trăm lẫn
thóc; mơn khách thường có tới 3 000. Ơng dóc lịng làm việc thiện, tơn sùng tượng
giáo, mở mang phong cảnh đẹp đẽ này.
Do đó tiếng tăm lừng lẫy, ba chùa Hương Nghiêm, Trinh Nghiêm và Minh
Nghiêm mỗi nơi đều có khắc bia ghi việc (4).
Lúc bây giờ trong châu quận bị mất mùa đói kém ơng xuất thóc của nhà phát
cho dân. Về sau ĐInh Thiên Hng biết ơng là người có đạo nghĩa bèn phong tước
Kim Tử Quang lộc đại phu, cho làm Đô quốc dịch sứ quận Cửu Chân, Châu ái, lại
sắc ban cho nửa cõi, đông từ Phân dịch, nam từ Vũ Long, tây từ núi Ma La, bắc từ
chân lên Kim Cốc, đời đời con cháu được quyền trông coi (5).
Đến khi vua Đại Hành đi tuần du đến giang Ngũ huyện (6), thấy chùa chiền đã
đổ nát, liền cho xây đắp tu bổ lại. Rồi tiếp đến vua Thái Tông nhà lý đi tuần phương
Nam, tới Châu ái, ghé thăm cảnh chùa, thấy cột kèo đã gãy hỏng, cũng bỏ sức trùng
tu. Lại phong cho cháu đích của ơng là Trưởng lão Đạo Quang làm thiền chủ (7) và
cho 5 tên đại hình (8)để hương khói giữ gìn. Trưởng lão tức là thân phụ Thiền Sư
vậy. Sau đó, vua Thái Tơng tuyển chọn người phong quận. Anh họ của Thiền Sư là
Thái Phó Lưu cơng (tướng mạo) khơi ngơ khác thường nên vua chiếu cho vào nội
đình.
Khi vua Thánh Tơng trị vì, Lưu hầu trong màn trướng, ln ln được vua tin
dùng. Đến nay, đương kim Minh Hiếu hoàng đế lên ngơi, nghĩ ơng có giúp rập ba
chiều liên phong cho làm nhập nội thị sánh đô đô tri kiểm hiệu thái phó kiêm cung
dịch sứ đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, thương trụ khai quốc cơng, thực
ấp sáu nghìn bảy trăm hộ, thực thực phong ba nghìn hộ, lại sắc phong chức tước rõ
ràng cho tơng tổ (9).
Pháp vốn khơng có pháp
Biết lấy gì bảo người
Sư nghe mấy lời, bỗng nhiên giác ngộ. Rồi sư lại ngược dong sông Lô, đến
thượng nguồn, trèo lên núi Thứu Đài ngắm xem cảnh đẹp. Dừng chân trên núi thấy ý
hợp tâm đầu, liền sai thợ xem hướng xếp đá làm nên, dựng 1 ngôi chùa nguy nga, đặt
tên chùa là Khai Giác, được cơng chúa Thuỵ Khánh và Thái Phó Lưu cơng tư cấp
mọi vật dùng (11).
Năm Đinh Mão (1087), sự ngẫu nhiên trở về ấp cũ, thấy chùa Hương Nghiêm
đã đổ nát, bèn nói với anh alf Lưu cơng rằng:
-Người hiền thì không quên dấu vết của tổ tông mong ông tu đạo lại ngơi chùa đó
Lưu cơng nghe mấy lời khun đó, bất giác lấy làm vui vẻ. Ơng liền bảo với
Quốc tướng thái uý Lý công rằng:
-Chùa Hương Nghiêm vốn do tiên tổ tôi sửa sang cho cao rộng. nay đã đổ nát, xin
ông cùng tôi tu bổ lại.
Thế là sau đó, Thái Lý cơng cho sắm sửa gỗ lạt, khởi cơng sửa chữa.
Năm Tân Mùi (1092) có hai chàng phị kỳ lang họ thiều và họ Tơ tàu xin lại
khoảnh ruộng đất của tiên tổ là quan Bộc xạ. Vua xét lời tâu bèn trả lại giáp Bối Lý
cho thuộc về họ hàng Lê cơng. Do đó, mùa thu năm ấy Thái Uý Lý công đến tận
nưoi, cho chuộc ruộng đất, lập bia đá và chia ruộng cho hai giáp. Rồi ông lại tới đầm
A Lôi, chia một nữa đầm cho giáp Bối Lý một nửađem cho giáp Viên Đàm, Thái Uý
còn truyền bảo lần nữa cho hai giáp biết không được lấy một lá rau, một ngọn cỏ ở
hai bên bờ đầm.Ngay lúc đó lại ra lệnh giao về cho dòng dõi nàh họ Lê (12).
đến năm Kỹ Mão (1099) sư phụng chiếu (đến kinh)phụng sự trọng đạo tràng.
Giữa năm Nhâm Dần (1122)sư lại về thăm cảnh cũ. Nhân vật tuy đã đổi mới nhưng
non nước vẫn như xưa, nền đài hãy cịn đó. Sư lập tức cho thợ giỏi đo đạc, trùng tu
lại chùa (13) Trên đá chênh vênh, tượng phật uy nghiêm; giữa sóng thấp cao, tồn
thân Đa boả. Mái hiên cong cong như cánh trĩ, ngói lợp lớp lớp như vẩy rồng. lan can
thống mát; cửa ngõ thênh thang. Mé trái có một tồ lâu nguy nga, trong treo chng
lớn. bèn dựng tấm bia đá ghi chép công lao, ngõ hầu mong nghìn năm khơng mai
một. Tường vách bao quanh, cách xa trần giới, cỏ hoa tươi tốt, ngào ngạt khói hương.
Khánh thành bày tiệc, mời bậc cao tăng, đọc lời kinh. Vô thượng, chứng phép
báu vô sinh. Đem quả phúc này dâng chúc mỗi giường của thánh thượng: sánh với
mặt trời mặt trăng luôn luôn vằng vặc, cùng với núi sông mãi mãi vững bền …(lược).
Sư (tức Đạo Dung) bèn bảo môn đồ rằng:
Lớn thay ! Ngài Bộc xạ
Vững một chí khơng rời
Chùa Hương Nghiêm dựng đặt
Nền cũ vẫn chưa phai
Mờy đời vua du ngoạn
Sửa sang mãi không thôi
Nhớ đến dấu tiên tổ
Đạo Dung quyết chí noi
Chùa xưa tu bổ lại
Tượng Phật mới tô bồi
Dựng bia ghi công quả
Chuông đồng treo ngang trời
Sáu thời chng rằng dỏi
Ơn sâu chùm chín lồi
Cơng việc vừa tạm dứt
Khánh thành đặt tiệc mời
(lược 10 câu)
Ngày 4 tháng 12, mùa đơng Giáp Thìn, Thiên Phù Duệ Vũ thứ năm.
<i>Người dịch văn bia: Băng Thanh – Huệ Chi</i>
Chú thích
1 và 2: Huyền hồng và thanh trọc (trong đục) là các chữ trong sách xưa nói về quan
niệm trời đất của người xưa “ trờ huyền mà đất hoàng ” và “ trời nhẹ ở trên nên trong,
đất nặng ở dưới nên đục ”
4.Các chùa Trinh Nghiêm, Minh Nghiêm hiện cũng khơng cịn nữa. Theo đốn định
của chúng tơi Trinh Nghiêm có lẽ là chùa Go, Minh Nghiêm có lẽ là chùa Bơn. Nhân
dân ở đây có câu: “ chùa Go là chị, chùa Rỵ là em ”
5.Lê gia chính phả ghi: lê Lương được vua Đinh cấp cho nửa kỳ đất đai để trông coi
(tương đương 500 dăm vuông) Phân dịch: chưa rõ ở đâu, có lẽ là giáp biển Đơng; Vũ
Long cũng chưa rõ, có lẽ là vùng Tĩnh Gia, Núi Ma La, có lẽ là vùng giáp Như Xn
Nơng Cống. ở xã Vạn Thắng (Nơng Cống) có núi Ma La, chân núi có đền thờ thần
Ma La (nam thần đánh giặc và hi sinh ở núi Ma La): Lend Kim Cốc, có lẽ là đất hà
Ttung.
6.Giang Ngũ huyện: Thời Lý “ giang ” là một đơn vị địa lý. Sách thơ văn Lý trần ghi
“ Giang Ngũ huyện thựôc quận Cửu Chân, Châu ái, nơi có núi Càn Ni (?). Có lẽ nay
là phần đất huyện Triệu Sơn ”. Cạnh Kẻ Rỵ có Ngã Năm Tiên Hoa (gần cầu Thiều –
Triệu Sơn) khơng rõ có phải là Giang Ngũ huyện hay không ?
7. Trưởng lão Đạo Quang: Lê Gia chính phả ghi là con trưởng Lê Lương.
8.Đại hình: lính phục vụ trong chùa (thời Lý).
9.Lưu công: thơ văn Lý Trần cho là Lưu Khánh Đàm. Văn bia chùa Hương Nghiêm
cho là anh họ sư Đạo Dung Lê gia chính phả chép hồn tồn sự tích của Lưu cơng
cho Đạo Dung, theo Lê gia chính phả thì Đạo Dung được Minh thiếu hồng đế (nhà
Lý) phong nội tỉnh đơ chi kiểm hiệu thái phó kiên cung dịch sứ đại tướng quân, Kim
tử quang lộc Đại phu, Thượng trụ khai quốc cơng. Về Lưu Khánh Đàm, quanh vùng
10.Phạm tăng: nhà sư ấn độ. Đạo Dung theo phái thiền tông, tôn Ti Ni Đa Lưu Chi
(một nhà sư Ấn Độ) làm thầy.
11.Vùng Tuyên Quang
12.Giáp Viên Đàm giáp giới Kẻ Rỵ (giáp Bối Lý) nay thuộc xã Thiệu Viên huyện
Đông Sơn.
13.Theo văn bia, chùa Hương Nghiêm được trùng tu lại nhiều lần. Riêng Đạo Dung
sửa chữa chùa 2 lần, lần sau mới viết văn bia.
<i>Bia mộ Lê Văn Hưu.</i>
Bia dựng năm Tự Đức thứ 20 (1867) ở làng Phủ Lý huyện Đông Sơn.
Người soạn bia: Tú tài Trần Văn Gia.
Bia cao 0,95 mét rộng 0,50 mét, có hai mặt chữ, mắt trước có 15 dịng, mặt sau ghi
ngày tháng khắc bia và tên người khác bia.
phải là năm Đinh Mùi mới đúng, chức Hàn Lâm viện thi độc, Binh bộ thượng thư
kiếm tu sử ký, tước Nhân uyên hậu, thọ 93 tuổi. Khi mất mộ táng ở xứ Mả Giòm, toạ
quý hướng đinh (tức hướng Tây Bắc - Đông Nam). Lấy con giá lớn của thầy học nhọ
Nguyễn người xã Phúc Triền. Bà được phon glàm Nhân Minh phu nhân thọ 82 tuổi,
khi mất phụ táng ở tầng dưới Mã Giòm. Người con trai ông tên là Chung đỗ Thái học
sinh chức Tĩnh quan các. Người cháu ông tự là Nhân học thượng xá sinh, giữ chức
Bạ thủ lệnh. Nối đời lấy sự giảng kinh học truyện để giữ nghiệp nhà. Ông đã làm
rạng rỡ cho nguồn gốc trở về trước, lại để ơn huệ mãi về sau, nối đời khoa bảng nối
Tới nay, cháu 13 đời của ơng tên là Huống nghĩ rằng: Bóng mây càng ngày
càng xa, nghĩ đến việc nhớ gốc báo lại người xưa kinh thư nói: “ Có con cháu đời sau
không trái bỏ, ngõ hầu phải vun gốc để khuyên răn cho nên việc về sau ”, nên hay
khắc vào đá để lâu đời và chua lại bào minh như sau:
Chứa đức góp cơng
Để rạng đời nối
Lý học chỉ đường
Khoa danh rực nổi
Nét bút lân vờn
Việc còn Nam sử
Thi lễ còn thơm
Tiếng nhà rực rỡ
Cháu con nối dõi
Càng hậu phúc nhà
Mộ xưa bia mới
Tiên sinh không xa
Cháu đời thứ 13 (tính từ đời ơng Hưu) tên là Huống vâng tu sửa.
Cháu đời thứ 14 tên là Chất vâng viết.
<i>Mặt bia sau: Năm Tự Đức thứ 20 (1867) tháng 2 ngày 5 (Thợ khắc đá là Lý trưởng</i>
Nhuệ thôn là Hoang Đăng Ngũ vâng khắc).
<i>Người dịch: Biệt Lam Trần Huy Bá (1).</i>
<i>(Theo tư liệu của ông Đỗ Đức Vĩnh cung cấp)</i>
Bia dựng năm Tự Đức thứ 3.
Mùa thu năm Canh Tuất, tiến sĩ họ Trần mất ở nhà học trò tụ họp làm lễ tang tiến
hành mai táng …theo chí cảu thầy chăng ? Học trò nghĩ về mộ thầy khơng thể khơng
dựng bia mà ghi chép để tình nghĩa thầy trò thêm thân thiết …
(1)Năm 1981, cụ biệt Lam Trần Huy Bá cùng đoàn cán bộ nghiên cứu lịch sử của
Viện Sử về Thiệu Trung tìm hiểu Lê Văn Hưu. Cụ Trần Huy Bá đã dịch Lê gia chính
phả và bia mộ Lê Văn Hưu. Bản dịch trên, chúng tôi ghi lại bản sao mà cụ Bá và
đoàn cán bộ Viện Sử lưu niệm cho địa phương. Ông Đỗ Đức Vĩnh lưu giữ.
Ta mới nghĩ: bình sinh cuộc đời tiên sinh qua đi ko thể bống chốc quên
mấtnên vụng về ghi lời bia rằng: ông người Phủ Lý huyện Đơng Sơn, hiếu là chính
Trai (1): tổ tiên ân đức không thấy. Đến Trần Công, trực phủ quan làm Phó quản lĩnh
thời Lê xưa, là Cao tổ vậy. Đời ông đời cha của Trần công đều lấy vợ họ lê có đạo
đức chăm chỉ việc nàh.
Ơng sinh ra là người thông minh lạ thường, gọi là thần đồng, lỗi lạc hơn người,
sống liêm khiết không đắm vào các việc nhỏ mọn, mờ tối ô uế; tước vị cũng không
thể ràng buộc ông bước về với thiên nhiên. Viện học của ông với tiên sinh Phan Thất
An người La Sơn rộng rãi mà ghi được, thông suất mà tinh vi (2) Văn (của ông) cẩn
mật mà đẹp đẽ, trăm nhà đều biết, khơng theo thói quen sao chép, trích đoạn (một
cách cố chấp).
Năm Gia Long thứ 18, khoa Kỹ Mão (ông đậu đầu khoa thi hương. Minh mệnh năm
đầu, Canh thìn xung làm Sử quán bi tu, vì mẹ già nên xin về ni dưỡng năm Tân Tỵ
(ơng) thị chính ở huyện Lơi Dương (Thọ Xn), không lâu lại trở về. Mùa xuân năm
Nhâm Ngọ mở cuộc thi lớn theo điển mới của cả nước, tên ông ghi ở kỳ thi Đình thứ
Tới năm Tự Đức thứ ba (1850) ngày mồng 1 tháng 8 ơng mất, hưởng thọ 66
tuổi …
Ơ hơ ! Việc mất mát đáng tiếc xiết bao. Gác văn còn lưu trong nhà gấm, tuy
văn chương còn giữ trong cửa song cũng đáng tên là bậc tiên hiền của bản xã Phủ Lý.
Như từ bảng nhãn Lê tướng công (Lê Văn Hưu), Trạng nguyên Đào tướng công
(Đào Thục), Trạng nguyên Lê tướng công (Lê Bá Quát) cho đến tiến sĩ Vũ Cự cơng
(Vũ Kiêm) cộng là 11 người thì ông tham dự vào hàng nguc này mà không hổ thẹn.
Như nay dùng thơ để tơn cao hình ảnh (của ông) để giữ lại cái danh bất hủ.
Nổi tiếng thần đồng
Đến khi ông mất
Gặp người hợp lòng
Mộ quý gò Hoạ
Huyệt mồ đã xong
Xanh xanh thảm cỏ
Dằng dặc mây lồng
Ngày lành thượng lưu tháng 12 năm Canh Tuất Tự Đức thứ 3 (1850).
Nguyên giáo thụ phủ Quảng Oai Nguyễn Huy Sản soạn.
(1)Có tên kiêng huý là Lỗi hoặc Trỗi.
(2)Tức Phan Bảo Định, từng làm ở sùng chính thư viện cùng Bùi Dương Lịch, có làm
đốc học Thanh Hố thời Gia Lơng – Minh Mệnh.
III.gia phả
<i>Gia phả nhà họ Lê (Kẻ Rỵ):</i>
Gia phả nhà họ Lê (Kẻ Rỵ) lưu giữ tại nhà ông giáo Điền (chồng bà Lê Thị Huệ). Bà
Huê là con ông Lê văn Dương thuộc dịng đích. Ơng Dương khơng có con trai, đến
bà H là hết. Dịng họ Lê này hiện cịn ơng ông Lê Văn Vĩnh (em ông Dương) là
dòng thứ.
Gia phả này ghi cả thảy 21 đời chia làm 2 phần:
<i>Lê gia chính phả: ghi 6 đời (do quan chủ bạ Trương Đức bá chép)</i>
<i>Lê Đường thế biên: bắt đầu từ Lê Văn Hưu, tính là 15 đời (đến đời ông Lê Văn</i>
Dương mới chết gần đây), không rõ người ghi.
Bản gia phả chữ Hán này do cụ Biệt Lam Trần Huy Bá dịch (1)
<i>Lê gia chính phả:</i>
<i>Đời thứ nhất: Sơ tổ là Trần quốc công, Bộc xạ tướng công huý là Hùng vũ.</i>
<i>Ghi nhỏ: Huý là Vũ, trong nhà giàu có thóc chứa hơn trăm kho, trong cửa ni ba</i>
ngàn khách. Ơng rất sùng đạo Phật. Lúc ấy trong Châu quận thường bị đói kém, ơng
bèn chia thóc của nhà để chu cấp cho nàh thiếu ăn.
(?) tứ xứ Ma La, phía Nam (?) tới xứ Cốc Cước. Đến thời Lê Đại Hành cũng vẫn theo
như thế mà phong sắc cho (1).
(1)Xin xem thêm ở mục “ lược thuật các gia phả ” dưới đây.
Ông hưởng thọ 73 tuổi, mộ táng ở xứ Mả Trong (có lẽ là Mả Chng) về phía Bắc
toạ tỵ hướng hợi.
<i>Đời thứ hai: Tổ thứ hai,chức Quản giới xứ, hiệu là Đạo Quang trưởng lão.</i>
<i>Ghi nhỏ: Huý là Dụng, nối nghiệp cha, giữ gìn thực ấp, hưởng thọ 75 tuổi, mất ngày</i>
21 tháng 3.
<i>Đời thứ ba: Tổ thứ ba chức Nội tỉnh đô tri kiểm hiệu Thái Phó kiêm cung dịch sứ đại</i>
tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, Thượng trụ khai quốc công.
<i>Ghi nhỏ: Huý là Chính, hiệu là Văn Tống, Kế làm quản giới xứ nối nghiệp ông cha,</i>
ngày đêm tu hành chuyên tâm về đạo phật. Lúc ấy nhà Lý tôn sùng đạo Phật, ban sắc
cho ông làm Thiền chủ. Đến thời Lý Thánh Tông (1054 - 1071) cho triệu vào nội thị,
ngày đêm giảng bàn về đạo Phật, cang được yêu chuộng. Dịp đến vua Minh Hiếu
hoàng đế (?) lại ban sắc phong âm nội tỉnh đô tri, kiểm hiệu thái phó kiêmcung dịch
sứ đại tướng quân kim tử quang lộc đại phu. Thượng trụ khai quốc công, hưởng thọ
73 tuổi, mất ngày 10 tháng hai. Mộ táng tại phía Đơng Mả Ngòn toạ quý, hướng đinh.
Sinh hạ 5 con, trưởng là Văn Quý.
<i>Đời thứ tư: Tổ thứ tư, chức Quản giới, tu giảng kinh thiền quan Trưởng lão.</i>
Hưởng thọ 68 tuổi, mất ngày 21 tháng 3. Mộ táng ở xứ đồng Mả Hon (hay Mả Dỗn),
sinh 5 con.
<i>Đời thứ năm: Tổ thứ năm thuỵ là Phúc Văn, tự là Văn Bảo.</i>
<i>Ghi nhỏ: Huý là Trung, lúc ấy nhà Lý gần suy. Ông lui về nời điền Lý gần suy,</i>
<i>Đời thứ sáu: Huý là Phúc Thiện (?).</i>
<i>Ghi nhỏ:Huý là Minh, tự là Văn Thiện, lấy con gái lành nhà họ Đỗ, chưa được nữa</i>
năm đến ngày mồng 1 tháng 11 thì bị bệnh mất. Lúc ấy, bà vợ mới có mang 4 tháng.
Một đêm nằm mộng thấy có người dẫn đến xứ Mã Dỗn, chỉ tay bảo rằng: “nên đưa
mả chồng nàng đến táng ở chỗ huỵêt này, toạ đông hướng tây, cấn xương canh hưởng
(?) thì con ra đời sẽ đậu khơi ngun ”. Khi bà tỉnh ra, nói tường với cha, ơng bèn
đem mộ người con rể đến táng vào xứ huyệt xứ ấy. Sáu tháng sau bà sinh con trai, đặt
tên là Hưu. Đến 18 tuổi đi thi đỗ đầu, làm quan đến Thượng thư,được vua ban cho
mộ địa 5 sào để con cháu đời đời gìn giữ.
<i>Lê đường lế biên </i>
<i>Đời thứ bảy: Tổ thứ bảy, đỗ đẹ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh triều trần, tước</i>
Hàn lâm viện thị độc. Trai là quan đến thượng thư bộ Binh kiêm Trưởng sử quan, tu
Đại việt sử ký tước Nhâm uyên hầu hiệu Tu Hiền.
<i>Ghi nhỏ: Huý là Hưu, sinh năm Canh Dần (1230) mặt mày đầy đặn, tư chất nhanh</i>
sáng. Lên 9 tuổi học ông thầy họ Nguyễn người xã Phúc Triền, học ngày càng tiến,
được thầy yêu khen. Mười một tuổi qua chợ thấy người thợ rèn bán dùi, ý muốn lấy
dùng. Người thợ rèn ra cầu thách đối:
Than trong lò sắt trong lị, lửa trong lị, thổi phì phị đúc nên dùi vở.
Cậu bé đối ngay:
Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên.
Người thợ khen lạ, bèn thưởng cái dùi và 3 tiền nữa. Trong khi đi học bà con thường
nom thấy có 4 đám mây che trên đầu không bị mưa nắng. Đến 16 tuổi lên trấn thi
Khoả, có soạn 1 câu vào lá đơn khiếu của dân xã An Lạc, khi về chỉ cịn thấy có 3
đám mây che trên đầu, bèn đem việc ấy nói với nhạc phụ. Ơng (nhạc) bèn lên trấn
tĩnh với thượng quan xin phân giải. việc song lại tấy được 4 đám mây che trên đầu.
Khi ấy thầy học rất yêu bèn gả con gái lớn cho (1).
(1)Câu văn chữ Hán có phần “lộn xộn” đã gọi là “ nhạc phụ ”sau đó xong việc mới
gả con gái cho Lê Văn Hưu đem chuyện “ mất đám mây che ” nói với thầy học, sau
khi việc phân giải thấy yêu nên gả con gái cho; việc gọi Nhạc phụ như câu chữ Hán
tuy sớm song cũng đúng.
Năm 18 tuổi, đi thi đỗ đại khoa. Năm 24 tuổi được thụ chức Hàn lâm viện thi độc,
làm việc mãi đến năm 45 tuổi được thụ chức Binh bộ Thượng thư. Năm 50 tuổi được
giữ chức Chưởng sử quan tu sử ký từ Triệu Vũ đến Lý Chiêu Hoàng.
Đến đời Thánh tổ năm Nhâm Thân (1272) thì soạn xong bộ sử dâng lên, nhà
vua xuống chiếu ban khen. Sinh hạ con trai là Lê Văn Chung. Thời vua Nhân Tơng
có dự thi Đại học được trúng tuyển.
Ơng hưởng thọ 93 tuổi, mất ngỳa 23 tháng 3 năm Nhâm Tuất (1322) Mộ táng
xứ mả Giòm, toạ quy hướng đinh, được ban 3 sào đất vườn làm Hội điền.
<i>Đời thứ tám: Tô hứ 8 tên tự là Chung đỗ Thái học sinh sung chúc Tĩnh quan các.</i>
<i>Đời thứ chín: Tổ thứ 9 tên là Nhân, học thượng xá sinh, sung chức Ba thủ lệnh.</i>
<i>Đời thứ mười đến mười hai: Chỉ ghi tên (xin lược dịch)</i>
<i>Đời thứ mười lăm: Tổ thứ 15 huý là ích đỗ hương cống làm quan đến tước Tán tị</i>
Ơng con tên huý là Hàm, tên tự là Trực, hiệu là Nghiêm Trai, đỗ Hương Cống,
tri phủ Thượng Phúc.
<i>Đời thứ mười sáu:Tổ thứ 16 huý là Dũng, tự là Pháp Như, có vợ nhưng làm sư tăng ở</i>
chùa Hương Nghiêm trong làng.
<i>Đời thứ mười bảy: Tổ thứ 17 tên huý là Văn Nghi tự là Tính Trạm, làm sư tăng ở</i>
chùa Hương Nghiêm đem của nhà ra tu sửa chùa có tạc bia đá, trụ đá vào năm bính
Ngọ (1726).
<i>Đời thứ mười tám: Tổ thứ 18, huý là văn Nghĩa thụ chức Tri Châu (?)</i>
<i>Đời thứ mười chín: Tổ thứ 19 huý Đức là tự, là Phúc Quy, tước Bách hộ thời Lê.</i>
<i>Đời thứ hai mươi: Tên huý là Yên Nghiệp.</i>
<i>Đời thứ hai mươi mốt: Tên là Lê Văn Dương mới chết năm 1950. Ơng Dương khơng</i>
có con trai, chỉ sinh được gái là bà Lê Thị Hoa, người giữ được cuốn gia phả này. Bà
Hoa đã chết gần đây.
Ngành đích họ Lê đã dứt. Dịng họ Lê này cịn được ông Lê Văn Vĩnh mà bà
Hoa gọi là chú, thúc bá với ơng Đương, khơng phải dịng chính.
<i>Ghi chép ở gia phả họ Lê ngày 30 – 1 – 1964</i>
<i>Biệt Lam Trần Huy Bá dịch </i>
<i>Đoàn cán bộ Viện Sử học Việt Nam sao chép </i>
<i>Để lại ngày 5 – 7 – 1981 (ông Đỗ Đức Vĩnh lưu giữ)</i>
<i>Lược thuật các gia phả: Hiện nay, ở Kẻ Rỵ – Kẻ Chè cịn 5 cuốn gia phả là: Lê gia</i>
<i>chính phả, Trần tôn thế phổ, Đỗ tôn thế phổ, Lê tộc gia phả và trương thị gia phả.</i>
lược dịch nguồn gốc dong họ bằng quốc ngữ (mới đây) và chi Lê Văn ở Kẻ Chè còn
ghi được một số nhân vật, đậu đạt, làm quan …trong chi họ (gia phả bị cháy).Tình
hình văn bản gia phả như sau:
1.Lê gia chính phả: Cuốn gia phả bằng chữ hán hiện nay không còn để ở làng nữa.
Bản dịch của cụ Biệt Lam Trần Huy Bá để lại, chúng tôi đã đưa vào phần phục lục
tồn bộ. Xin ơng nêu ở đây, ý kiến của ông Nguyễn Danh Phiệt. Viện sử học nhận
xét về bản gia phả này:
lại có cái phù hợp ở những nét chung của quá trình vận động và phát triển lịch sử
liên quan đến vùng đất đang được quan tâm ”.
(Nghiên cứu lịch sử Thanh Hố - số 1)
1. Trần tơn thế phổ: Cuốn gia phả họ Trần hiện nay dô ông Trần Văn Khải giữ.
Cuốn gia phả này có 81 từ viết hai mặt mỗi trang 8 dịng. Mỗi dịng có 26 chữ,
dịng ít nhất là hai chữ.
Trần tôn thế phổ do ông TRần Trỗi (hay Lỗi, tức Trần Lê Hiệu) hiệu là chỉ Trai,
đậu đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân ghi chép. Gia phả họ Trần ghi từ đời ông
Phúc Trực (không rõ tên và hành trạng) sống vào triều Lê Thân Tông, niên hiệu
Vĩnh Tộ thứ sáu (1624) đến đời ông Trần Trỗi là triều Tự Đức (1864) gồm 240
năm. Trước ông Phúc Trực, gia phả chỉ ghi ông tổ bằng đại từ “ Phủ quân ” (tên
gọi tôn kính một người khơng rõ tên và hành trạng). Cách ghi chép trong gia phả
là cách kể chuyện về các ông họ Trần sau đây: “ Phủ quân”, ông Phúc Trực, ông
Mỹ Hào, ông Mỹ Tế, ông Trần Trỗi, ông Trần Văn Từ (cũng có chỗ đọc là Trần
Tiếp đến, gia phả có ghi “ Trần tộc các lệ ”, tức là các lệ ước cảu họ Trần. Các
lệ này có nhiều điểm hay xin ghi để tham khảo.
1.Mỗi năm mùa xuân, tháng giêng, đông tháng chạp, lấy ngày 20 làm kị trong họ,
từ già đến trẻ đều góp tiền gạo thành lễ nghi tế tổ.
2.Tết Nguyên đán tháng giêng, ngày mùng 1, trong họ, trên dưới, già trẻ ăn mặc
chỉnh tề đều đến nhà chi trưởng từ đường để tế tổ.
3.Trong họ có người được sắc phong, hoặc ứng thi trúng khoa trường, hoặc tuổi
già mừng thọ, trong họ cấp tiền một quan và trầu rượu đến mừng.
4.Trong họ có người quy tiên, họ cấp tiền một quan và trầu rượu đến viếng, cùng
gia đình chủ túc trực một đêm cho tỏ tình tộc thuộc.
6.Trong họ người nào vì tham của cải tâm hại đến diều nghĩa hoặc giàu sang mà
qn tình thân thuộc, hoặc khơng theo giúp các việc trong họ, hoặc mưu đồ làm
hại đến họ thì bị xử phạt xem như người ngồi họ, mọi việc khơng được giúp đỡ.
<i>Năm Chính Hồ thứ 13 (1692)đời Lê Hy Tông</i>
<i>Tháng 4 ngày mùng 9 lập lệ ước</i>
<i>Đỗ Tôn thế phổ: gia phả họ Đỗ hiện do ông Đỗ Đức Vĩnh giữ, gồm 34 trang viết</i>
hai mặt, các trang viết đều có đóng khung đen trang trọng, mỗi trang 8 dòng, mỗi
dòng nhiều nhất là 25 chữ, ít nhất là 5 chữ.
Trang đầu cuốn gi phả này đề người viết và ngày viết. Ngày viết là 20 – 4 năm
Minh Mệnh thứ 9 (1828) và người sạon là Đỗ Xuân Đài.
Mở đầu cuốn gia phả là lời người viết nói lên suy nghĩ về quan hệ tộc thuộc, xóm
giềng làng nước, vua tơi, cha con, vợ chồng, bè bạn phải có lịng tin nhau. “ Đó là
đạo làm người ở đời vậy ”. Tác giả khuyên cong cháu biết ơn tiền nhân, chăm lo
học giỏi, phải trung làm đầu, hiếu làm trọng. Tác giả coi đây là “ Bài gia huấn ”.
Tiếp tới là bài tựa (Đỗ tôn thế phổ tự). “ Họ Đỗ ta sáng lập ra không tường từ đời
<i>nào. Nay tôi nghe biết đến đó nên lấy đó làm sơ tổ ”.</i>
Sau bài tựa là bản ghi “ Đỗ tộc các lệ ”, gồm 5 điều, đại thể cũng giống các điều
ghi trên gia phả họ Trần. Tiếp đó, ghi tên huý của các vị tiền nhân để con hcáu
tránh đặt: Đỗ Tất Bình, Đỗ Tất Bí và Lê Thị Hải.
Sang phần chính, cuốn gia phả ghi chép các đời tính từ sơ tổ là ơng Đỗ Tất Bí
và tiếp đến các tổ dịng đích Đỗ Tất Thạch, Đỗ Tất Tố, Đỗ Tất Huy, Đỗ Tất Tá,
Đỗ Tất Thư …đến nay cộng là 14 đời.
Ơng Đỗ Tất Bí học nho, thi trúng hương trường được tuyển vào Quốc tử giám
sinh triều Lê Thái Tổ (?). Các ơng Tất Bí, Tất Thạch, Tất Tố là 3 ông cháu, cha
con đều vào Quốc tử giám sinh triều Lê (?) cho nên có câu đối của họ “ Kế thế
đăng khoa phục, tử, tôn ” (Đời nối tiếp đậu đạt cha, con và cháu).
Cuốn gia pảh cịn có đoạn “ghi thêm về trước ”chép về ơng Đỗ Tất Bình
(khơng rõ thời nào), giỏi thuật phong thuỷ lấy mộ cho nhà họ lê (Lê Văn Hưu).
Cát táng xong, “ trời thanh gió lặng hốt nhiên nghe sấm dậy 9 tiếng. Cho là điều
lạ, đoán tất pảh có ngày sẽ phát đại khoa ”.
Cách ghi của gia phả này về các đời rất là sơ lược, khơng có gì đặc sắc cả.
4.Gia phả họ Lê Đức ở Kẻ Chè: Cuốn Gia phả họ Lê này ở Kẻ Chè hiện nay do cụ
Lê Văn Sồ giữ gồm 88 trang viết cả 2 mặt, mối trang 6 dòng, mỗi dòng nhiều nhất
là 24 chữ.
Cuốn gia phả này khơng có xuất xứ, khơng có lưịi tựa, khơng có năm tháng biên
soạn, khơng ghi tên người viết.
(như khi ghi về Lê Bồi), lại có khi ghi chi thứ là chi có người nổi tiếng (như ghi
về Lê Đức Doãn ở chi thứ 7). Từ ông Chân Tâm đến ông Lê Văn Vạn (họ Lê Đức
sau lót là Lê Văn chưa rõ vì sao), cuốn gia phả cộng lại được 11 đời.
Mỗi đời, gia phả ghi tên chữ, hoặc chức tước, tên thuỵ, tên huý. Tiếp đó là tên
hiệu, tên huý của vợ. Sau đó, kể một vài sự việc chính hoặc cơng tích nổi bật và
các đạo sắc phong. Với những nhân vật quan trọng như Trà quận công, Hiền quận
công, Vĩnh quận cơng thì ghi rõ con cái.
Về trật tự thời gian, cuốn gia phả ghi có phàn lộn xộn. Ví dụ:Chân Thiện (con
ông Chân Tâm) không ghi rõ tên tuổi có bà vợ là Từ Tín (cũng khơng rõ tên tuổi),
là Uốn Bà đỡ đẻ cho chúa Tĩnh Vương (tức Trịnh Sâm) song con là Lê Bồi (tên
chữ là Trung Giản)lại làm quan thời vua Hoằng Định và Vĩnh Tộ, tức là vào thời
chúa Trịnh Tùng (!).
IV-Văn nghệ
<i>Những lới bàn sử của Lê Văn Hưu (1)</i>
<i>Lê Văn Hưu là nhà viết sử vĩ đại của nứơc Việt Nam ta. Cuốn Đại Việt sử ký</i>
đặt nền tảng cho sách sử chính thống của ta, qua nhiều đời cho đến nay đã được
sửa chữa, thêm bớt …Khơng cịn biết rõ chỗ nào là của Lê Văn Hưu, chỗ nào là
lời văn người tiếp sau. Bút tích, trước tác của ơng khơng còn nguyên dạng. Chỉ
còn các lời bàn sử mà cá nhà chép sử tiếp theo trân trọng ghi vào chính sử (ghilà
lời bàn của Lê Văn Hưu) chắc chấn là ý kiến của Lê Văn Hưu. Tất cả còn 30 lời
bàn ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư. Qua các lời bàn sử này, ta thấy được chính
kiến, thía đọ tình cảm và cả dũng khí vì dân vì nước của Lê Văn Hưu
Chúng tơi trích một số lời bàn sử của Lê Văn Hưu ở đây để một lần nữa nhắc
lại ý kiến sâu sắc (tuy có bị hạn chế về tư tưởng Nho giáo) của người con lỗi lạc
của quê hương Kẻ Rỵ – Kẻ Chè. Những ý kiến đúng đắn của ơng có thể là bài học
tốt cho chúng ta ngày nay.
1. “ Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật
Nam, Hợp Phô cùng 65 thành ở lĩnh ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước ”
(1)Theo quan niệm xưa “ Văn sử bất phân ”. Chúng tôi để “ những lời bàn sử của
Lê Văn Hưu ” ở mục này, nhằm làm rõ thêm sự phong phú của truyền thống Kẻ
Rỵ – Kẻ Chè.
Xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được
nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng
hơn nghìn năm, bọn đàn ơng chỉ cúi đầu bó tay, làm tơi tớ cho người phương Bắc,
há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao ? Ơi ! có thể gọi là tự
vứt bỏ mình vậy.
2.Xem sử đến thời nước Việt ta khơng có vua, bị bọn thứ sử người Bắc tham tàn
(Lời bàn về thời 1000 năm Bắc thuộc)
3.Tiên Ngơ Vương có thể lấy qn mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được
trăm vạn quân của Hưu Hoằng Tháo, mở nứoc xưng vương, làm cho người
phương Bắc khơng dám lại sang nữa. Có thể nói một lần nổi quân mà yên được
dân, mưu giỏi mà đánh cũgn giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi
niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nói lại được.
(Lời bàn về sự nghiệp tự chủ về Ngơ Quyền)
4. Tiên Hồng nhờ có tài năngsáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời,
đương lúc nước Việt ta khơng có chủ các hùng trưởngcát cứ, một phen cất quân
mà 12 sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đơ, đổi xưng hồng đế, đặt trăm
quan, lập sáu quân, chế độ dần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt mà lại sinh ra bậc
thánh triết để tiếp nối quốc thống của Triệu vương chăng ?
(Lời bàn về sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng)
5.Lê Đại Hành giết ĐInh Điền, bắt Nguyễn Bặc tóm quân Biện Phụng Huân dễ
như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài trăm mà bờ cõi định yên. Công đánh
dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng khơng hơn được. Có người hỏi:
Đại Hành với Lý Thái Tổ hơn ? Thưa rằng: kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan
giác ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ khơng
bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lịng
người suy tơn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành khơng
bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái tổ hơn ư ? Đáp: Hơn thì
6.Ngoạ Triều giết anh, tự lập làm vua, bạo ngược với dân chúng để thoả lòng hung
ác đến nỗi mất nước mất ngôi, không phải là sự bất hạnh của nhà lê mà lỗi ở Đại
Hành không sớm đặt thái tử và doTrung Tơng khơng biết phịng giữ từ khi mới
chớm nên đến nỗi thế.
(lời bản phê phán Lê Hồn khơng biết dạy con)
như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ phập
lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ huỷ thân thể, đổi lối mặc,
bỏ sản nghiệp, trốn thân thiêm, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào
cũng chùa chiền, nguồn ngốc há chẳng phải từ đây ?
(Lời bàn phê phán Lý Cơng Uẩn lãng phí của nước vơ vét của dân, chính sách
<i>khơng đúng, làm đất nước chìm đắm)</i>
8. Phàm người xưa gọi là điềm lành là nói việc được người hiền và được mùa,
ngồi ra khơng có gì đáng gọi là hiền lành cả. Huống chi, chim quý thú lạ không
nuôi ở quốc đô, cũng là lời khuyên văn của tiền vương để lại. Thần Tông nhân
Nguyễn Lộc và Nguyễn Tử Khắc dâng hươu trắng cho là vật điềm lành, cho Lộc
trước Đại liên ban, cho Tử Khắc tước Minh tự thì cả người thưởng và người nhận
thưởng đều là sai cả. Tại sao vậy ? Thần Tơng vì dâng thú mà cho quan tước, thế
là lạm thưởng. Lộc và Khắc khơng có cơng mà nhận thưởng, thế là dối vua.
(lời bàn phê phán lối ban thưỏng xu nịnh không công bằng)
Diễn ca khổng minh không.
Khổng Minh Không (hay là Nguyễn Minh Không) là một nhà sư nổi tiếng thời lý
Chuyện kể bằng thơ lục bát có thể chia:
1. Mở đầu: 6 câu.
2. Lai lịch Khổng Minh Không: 12 câu.
3. Thời niên thiếu: hoc kinh học phép, tu đạo phật: 50 câu.
4. Sang Tây trúc cùng Giác Hải và Từ Đạo Hạnh: đắc đạo: 54 câu.
5. Trở về nước mở mang đạo Phật, cảnh chùa: 52 câu.
6. Sang Trung Quốc khuyến đồng, chém Thần Rết: 52 câu.
8. Các dấu vết còn để lại âm phù cho Lê Lợi đánh giặc Minh: 104 câu
Chuyện chép bằng chữ Nôm, không ghi tên tác giả, sách cũ rách nát, nhiều chỗ
mất chữ, có nhiều chỗ đọc khó chính xác.
Bản phiên âm này do ơng Đỗ Đức Vĩnh cung cấp. Chúng tơi xin trích một số
đoạn tiêu biểu.
Lai lịch:
Nam vô không Lộ Như Lai
Giáng sinh triều Lý đương thời Thái Minh
Quê cha điềm xá lưu danh
Quê mẹ truyền tụng bẩm sinh Tần Tri (1)
Đôi thân chung hậu nhu mi (2)
Ngồi làm thuỷ nghệ, trong thì Kim Kinh (3)
Tâm đan thấu đến Thiên Đình
Giời cho đức Phật giáng sinh vào nhà
Chùa Tơn am khói Liên Hoa (4)
Mười bốn tháng chín Thánh đà giáng sinh
Tiên đan đạo cốt khác hình
Đề cao phép Thánh, lại itnh nghề nhà (5)
Về nước đúc “ An Nam tứ khí ”
…Túi đồng đã quảy về Nam
Đúc nên tứ khí để làm chân tâm
(1)Điềm Xá thuộc nam Định (cũ). Tân Trì thuộc Thái Bình
(3)Thuỷ nghệ: nghề đánh các. Kim Kinh: quyển kinh vàng (tức kinh phật).
(4)Chù Tơn cịn gọi là chùa Hưng Long, còn gọi là Liên Hoa tự ở quê cha.
(5)Nghề nhà: nghề đánh cá. Khổng Minh Không vốn là người đánh cá đi tu.
Một là pho tượng Quỳnh Lâm (1)
Hai chng Tấn Lại ngun âm cịn truyền (2)
Thứ ba, cây tháp Báo Thiên (3)
Để Nghiêm Quang tự giáp trong cửa thiền (5)
Câu ra còn được ba ngàn
Đúc làm chuông nhỏ ở đền Nguyên Quang (6)
Mới hay linh phật khác thường
Gió mưa chẳng chuyển, nắng sương chẳng mờ
Dấu vết để lại (gắn liền với nhiều mô típ Thần thoại ở vùng Nam Định - Thái
Bình)
…Lại đi dến xã Quân Hành (7)
Dựng ngay đôi tấm đa xanh lưu truyền
Nhân dân lấy đó làm tiên
Có năm mẫu ruộng ở bên Tân Trì (8)
Khang vệc có truyện cũng hay (9)
Đá xanh một tấm lấy ngay bắc cầu
Rông dài dày dặn trước sau
Giưa thông một giải lấy hầu lối đi (10)
(1)Qùynh Lâm thuộc Hải Hưng. Tượng cao 2 trượng
(2)Tấn lại: thuộc Bắc Ninh. Chuông nặng hơn 1 vạn cân đồng
(3)Bảo Thiên: thuộc Hà Nội. Tháo cao 9 cấp
(4)Nam Trung: ở Nam Định (cũ) Minh Đỉnh tức là cái vạc lớn nặng 1 vạn cân.
(5)Nghiêm Quang Tự: chưa rõ ở đâu
(6)Chùa Nguyên Quang: còn gọi là chùa Nghĩa Xá thuộc Nam Định (cũ)
(7) Thuộc Thái Bình
(8) Hai hịn đá lớn như cái giường khổng lồ do ông Khổng nâng đến đặt giữa cánh
đồng.
(9)Khang vệ: thuộc huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình
(10) Hịn đá tảng lớn tương truyền ông KHổng vác đến đặt làm cầu đá
An Điền có sự cũng kỳ (1)
Có ba cái đó như vầng bong in (2)
Vui chơi dạo khắp mọi miền
Khi vào Ba Dội, khi lê Thần Phù …(3)
<b>Chuyện kể dân gian:</b>
1.Nhà biến thành chùa: ông tổ họ Lê ở Kẻ Rỵ là Lê Lương đã xuất của nhà ra xây
Mãi về sau, có lẽ vào thời Trần, họ Lê càng giàu có. Có một ơng họ Lê đứng ra
làm ngơi nhà cao đẹp: “ Đẹp lộng lẫy như cung vua ”.
Thế rồi việc phát giác lên tới triều đình. Có quan ngụ xử hặc tấu về việclàm
nhà vượt quá mức dân thường, kết tội là “ lộng hành khi quân ”. Đó là tội to có thể
khép vào án tử hình hay ít ra cũng phải tội đồ lưu, gia sản bị tịch biên.Một vị quan
thanh tra được cử về tận Kẻ Rỵ. Để xét xem hư thực với quyền “ tiềm trảm hậu
tấu ”.
Họ Lê hay được tin này lấy lamg hốt hoảng. Quan thanh tra đã về tới tỉnh trấn
Thanh Hóa rồi vào chậm lắm là sớm mai có mặt ở làng. Trong cơn bối dối chợt có
người hiến kê trước 3 ông Phật ở chùa
(1)An Điền thuộc Nam Định (cũ)
(2)ở đây có núi Đó Dựng tương truyền ông Khổng chắn đăng, đặt đó để bắt cá sau
đó và đăng đều hoá thành đá.
(3)Ba Dội và Thần Phù: Những địa danh thuộc tỉnh Thanh Hóa (các địa danh trên
chú htích theo bản chữ Nơm Truyện Thánh Khổng).
Hương Nghiêm đặt lên bệ giữa nhà để thờ, biến nhà thành chùa Hương Nghiêm,
coi như đây chỉ là việc chuyển ngôi chùa để lấy nơi tu hành cho tiện lợi khang
trang.
Ngay đêm hơm đó gia nhân nhà họ Lê rước Phật, trang hồng ngơi nhà thành
Vì vậy, chùa Hương Nghiêm và nhà ở của họ Lê chỉ là một, bây giờ cịn lại là
“chùa ơng Hưu” đó.
<i>Người kể: ơng Trần Văn Khải. </i>
trong vùng quen gọi là Cu Quét. Cu Quét thường chơi với các bạn cùng lứa
tuổi, lúc thì thả diều, cưỡi trâu, lúc thì bùng bơi trong dịng Hương Giang. Trò
chơi nào Cu Quét cũng được bọn trẻ coi là “đầu têu”, răm rắp nghe theo. Bà
và mẹ bắt Cu Quét đi học chữ ông đồ trong làng. Cu Quét cũng chịu đi song
học đến hàng năm trời mà “ chữ nhất là một không biết”, tốn giấy tốn mực, chỉ
giỏi nghề liến láu, biện bạch.
Con đường cái quan đi qua chợ Rỵ. Cáng các quan lớn trong vùng thường qua
đây, Cu Quét thấy người nằm trong cáng thật là “oai” và “sướng” liền nói với mẹ.
Mẹ Cu Quét bảo:
-Ai cố chí học giỏi, đậu cao là được cả làng, cả tổng rước. Cu Quét cố học
mà chẳng biết được chữ nào song cũng bắt các bạn khoanh tay làm kiệu cho
mình ngồi. Có một viên quan huyện nằm cáng qua làng, thấy bọn trẻ
nghịch ngợm bèn gọi đến hỏi: chúng xưng làm học trò. Viên quan huyện ra
giọng nạt nộ:
-học trò mà nghịch ngợm !đã thế quan ra cho một câu đối, khơng đối được
thì có roi. Nghe đây:
- Roi chín thước phết đít mẹ học trị.
- Lọng tám bơng che đầu cho quan lớn.
Khơng dè, câu nói “láu cá” ấy lại là vế đối chát chua khiến cho viên quan
huyện ngượng chín mặt phải làm ra vẻ bề trên khen ngợi, cho tiền thưởng
rồi giục phu cáng đi thẳng.
Năm đó, Cu Quét 13 tuổi. có hai mẹ con một bà quan về hưu ở Kẻ Bôn
thường lên chợ Rỵ mua bán, lân la thành quen, Cu Qt có cảm tình với cơ
gái con quan và nằng nặc bắt mẹ đi hỏi làm vợ, nếu không thì khơng chịu đi
học nữa. can con nhiều lần khơng được, mẹ Cu Quét bàn với bà và đánh
bạo đem trầu rượu đến Kẻ Bôn thưa chuyện với quan ông, quan bà.
Đến Kẻ Bôn, vào nhà quan lớn. Lúc đó, quan bà ở nhà sau, quan ơng
đang uống rượu thưởng hoa và đọc sách. Con cho dữ xổ ra, mẹ Cu Quét
cuống quyết túi trầu văng vãi. Quan ơng giật mình ngoảnh ra đuổi chó mặt
cau lại có vẻ bực vì dứt dòng suy nghĩ về câu thơ hay vừa đọc. Quan quốt:
- Hỏi gì ?
- Dạ … bẩm … bẩm con trót.
- Cái gì ?
Mẹ Cu Qt cà kê kể chuyện con mình ngơng nghênh bắt đi hỏi con ngái
quan làm vợ. Cáu tiết, quan quát:
Mẹ Cu Quét sợ hãi tụt xuống nhà dưới. Gặp quan bà, me Cu Quét mới hoàn
hồn. Quan bà vồn vã:
-Có chuện gì vậy ?Vào đây ! Nhà chị có chuyện gì mà xuống vậy? Mẹ Cu
-Thế quan ông bảo sao?
-Dạ ! Quan lớn dạy rằng: Xuống trình lại với bà lớn.
-Quan lớn bằng lịng chưa ?
-Đánh liều, mẹ Cu Quét thưa:
-Dạ ! Quan lớn khơng them nói với kẻ nghèo hèn. Quan lớn gật và bảo con
xuống trình với bà lớn.
Quan bà vốn lâu nay một mực tuân theo lệnh chồng, và con gái đã lớn mà
Cu Quét cũng sáng sủa, nhanh nhẩu, trong bụng cũng ưng, bèn nói
-Thơiđựơc ! Dun số tại giời. Biết đâu giời xui đất khiến mới có chuyện
này. Quan lớn đã bằng lịng khi tơi nhận trầu, rượu.
Mẹ Cu Quét hớn hở ra về chờ cho song tiệc uống rượu thưởng hoa của quan
ông, quan bà mới rón rén lên thưa lại chuyện. Quan lớn sửng sốt:
-Thế bà nhận trầu rượu rồi à ?
-Nhà chị ấy nói là quan lớn đã bằng lịng ?
Thật là oái oăm. Đã nhận trầu rượu theo lễ xưa, có nghĩa là con gái mình đã
có chồng, trả trầu rượu lại tức là “ con gái lộn chồng ” và, như vậy thì nhục
nãh khơng để đâu cho hết. Quan ông đùng đùng nổi dậy cho gia nhân dẫn
Thế là Cu Quét bỗng nhiên được vợ. Vợ Qt hơn Qt đến ba bốn tuổi,
khơn ngoan, có gia giáo. Nàng lấy tiền mẹ cho trang trãi trong nhà và sau
đó dẫn Cu Quét sang Kẻ Rủn thụ giáo, một thầy đồ hay chữ vốn là bạn học
với bố mình. Cu Quét trọ ở nhà thầy học, còn nàng tháng tháng gánh gạo,
đem tiền sang cho chồng. Song Cu Quét vẫn “học đâu quên đấy”, cái óc đặc
sịt khơng nhét chữ vào đâu được, thầy giáo cũng phải nản. Một hôm chị vợ
sang thăm chồng. Thầy giáo gọi vào nói rõ tình hình họchành của chồng và
khuyên trở về cày cuốc làm ăn nuôi nhau. Chữ nghĩa Thanh hiền không đến
phần như Cu Quétđược đâu !
rảnh. đến đầu cây đa làng Rũn, Cu Qt thấy một ơng lão râu tóc bạc phơ
đang ngồi mài một cái răng bừa trên hịn đá lớn. Qt lân la đến hỏi. Ơng
lão nói:
- Có cơng mài sắt có ngày nên kim, lão mài răng bừa làm cái kim khâu
đấy. Cu Quét ngẫm nghĩ, vừa đi vừa nghĩ đến đầu làng ỵ chợt nắm tay
vợ mà nói:
- Có cơng mài sắt có ngày nên kim ! tơi học mãi cũng phải được, thơi
đừng có buồn nữa (1).
Và nằng nặc Quét bằt vợ dẫn lại nhà thầy. thầy giáo trút được nợ tưởng
rằng thoat nạn, song lại thấy vợ chông Cu Quét dẫn nhau đến cố xin học,
vả lại chị vợ khóc lóc dữ quá, nễ con gái bạn, thầy đành phải nhận lời, hẹn
làm cổ tam sinh để thầy khai tâm lại cho rồi mới học được.
Từ đó, khơng hiểu sao Cu Qt học giỏi lạ thường, học đâu nhớ đấy,
một quyển sách chỉ học vài ngày là làu làu như cháo chảy thầy giáo cũng
kinh ngạc, bạn bè không giam coi thường.
Cu Quét ở trọ ngay trong nhà thầy giáo, ngồi việc học cịn giữ chân
qt tước điếu đóm. Một hơm, thầy có việc đi ăn giỗ ở làng bên, Cu Quét ở
nhà một mình bao nhiêu câu đối trong nhà học của thầy Cu Quét đều sửa lại
hết. Khi thầy về, biết chuyện, khơng dám quở vì câu nào Qt chữa đều rất
thích đáng, khơng phê vào đâu đươc. Lại một hôm, thầy đi vắng, bao nhiêu
bài làm của học trò, Cu Quét đều đem ra đọc phê chấm, sữa chữa chi chít
song lại để vào chỗ như cũ. Thầy giáo về biết chuyện, liền goi Cu Quét đến
bảo:
(1)Trong một dị bản: Hai vợ chồng về đến đầu làng ngồi nghỉ bên chiếc cầu
đá. Thấy chân cầu đá bị lõm vào, Cu Quét hỏi: chị vợ đáp: “nước chảy đá
mòn”. Cu Quét ngẫm nghĩ và bắt vựo đem lại nhà thầy giáo xin học tiếp và
từ đó học giỏi.
-Từ khi học lại, anh là thần đồng giang sinh. Thầy cũng mừng cho anh.
Bước thanh vân của anh không biết đâu mà lường được. Anh không phải là
con người của một làng một huyện đâu. Bây giờ, thầy hết chữ rồi, không
thể giạy anh được nữa. Thầy tiến cử anh với quan Bảng Phúc Triền, anh
sang đó như rồng gặp mây, chớ phụ sự kỳ vọng của thầy.
Thế là Cu Quét sang học với thầy Phúc Triền. cũng chỉ được mấy tháng
trời, quan Bảng cũng khiếp tài anh Cu Quét.Hết cả chữ giạy, quan Bảng
giới thiệu lên kinh đô học thầy Chu Văn An với cái tên đầy đủ:Lê Bá Quát
(1).
Người kể:Cố Dầm
mừng vì q hương có người hay chữ, hẹn ngày đón quan về để được nghe
những câu chuỵên về văn chương chữ nghĩa những oái oăm lý thú giữa
chốn khoa trường.
Bài thi năm ấy thì nhiều song bài xuất sắc thì lại rất hiếm. Đọc các bài
văn kém cõi, xáo mòn suốt 1 tháng trời đến “ thánh” cũng phải bực mình.
Quan buồn lắm chỉ biết làm việc như một cái máy, mong cho cơng việc
chấm bài tẻ nhạt này chóng xong..
Bỗng quan cầm đến một bài thi mới phát ra, mùi mực thơm phức làm
tỉnh hẳn cơn buồn ngủ, chữ viết như múa, tươi tốt lạ thường. Quan chăm
chú đọc, càng đọc càng say. Văn chương, ý tứ rộng rãi sáng sủa thật đáng là
những câu tuyệt bút. Thê nhưng đọc đến gần đoạn cuối, quan bỗng giật thót
người. Rõ ràng thí sinh sơ suất, đang say với ý văn nên “phạm huý”. Quan
đọc một lượt hết cả bài văn hay ấy trong tâm trạng băn khoăn lo lắng. Bài
thi như vậy là có thể vào danh sách là cả bài văn bị sổ toẹt, người viết bài
văn ấy lập tức bị tróc nã, bị giam cầm, bị tra
(1)Cũng có người gọiong Lê Bá Quát thời nhỏ là “ chũi ” (hay Chổi, tức là
cái chổi quét chợ) và đậu tiến sĩ thì gọi là Trạng Chũi.