Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 98 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 6
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................. 6
5. Giả thuyết khoa học ...................................................................................... 6
6. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 7
8. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7
9. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 7
10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả ....................... 7
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG
KINH TẾ CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI HIỆN NAY ....................................... 9
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 9
1.1.1. Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp ............................................................ 9
1.1.2. Tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội hiện nay ............... 25
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 32
1.2.1. Đặc điểm của sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội ......32
1.2.2. Các yếu tố tác động tới việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp đối với sinh
viên trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội hiện nay ........................ 40
Tiết kết chương 1 ............................................................................................ 49
Chƣơng 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI HIỆN NAY
– THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.............................................................. 50


2.1. Thực trạng của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội hiện nay ......................... 50


2.1.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 50
2.1.2. Những hạn chế ...................................................................................... 71
2.1.3. Nguyên nhân hạn chế của công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội.............................. 73
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Công
nghiệp Hà Nội hiện nay................................................................................. 78
2.2.1. Về phía sinh viên ................................................................................... 78
2.2.2. Về phía gia đình, nhà trường và xã hội ................................................. 83
Tiểu kết chương 2........................................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 90


DANH MỤC VIẾT TẮT

BGH

: Ban giám hiệu

CB - GV

: Cán bộ - Giáo viên

CNH - HĐH

: Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa

CT - XH


: Chính trị - xã hội

GD - ĐT

: Giáo dục - đào tạo

KTCN

: Kinh tế công nghiệp

KTTT

: Kinh tế thị trường

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

YTXH

: Ý thức xã hội


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Kết quả điều tra giáo viên về các nội dung giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên........................................................................................ 51
Bảng 2.2: Khảo sát về xác định các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cần có
của sinh viên trường Cao đẳng KTCN Hà Nội ............................................... 53
Bảng 2.3: Khảo sát nhận thức của sinh viên trường Cao đẳng KTCN Hà
Nội về các giá trị đạo đức cần thiết trên 438 sinh viên ................................... 57

Bảng 2.4: Khảo sát những biểu hiện tích cực về đạo đức của sinh viên
Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội .................................................................... 58
Bảng 2.5: Khảo sát những biểu hiện tiêu cực về đạo đức của sinh viên
Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội .................................................................... 59
Bảng 2.6: Khảo sát nguyên nhân dẫn tới những biểu hiện tiêu cực về đạo
đức của sinh viên Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội....................................... 60
Bảng 2.7: Khảo sát tầm quan trọng của nội dung giáo dục đạo đức nghề
nghiệp Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội ........................................................ 61
Bảng 2.8: Khảo sát hiệu quả phương pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp
Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội qua các hình thức sau ................................ 62
Bảng 2.9: Thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp tại Trường
Cao đẳng KTCN Hà Nội ................................................................................. 68


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp GD - ĐT
con người mới cho dân tộc Việt Nam. Người coi GD - ĐT là một nhiệm vụ
quan trọng của cách mạng Việt Nam. Suốt cả cuộc đời mình, Người đã dành
biết bao tâm trí cho sự nghiệp giáo dục. Trong xã hội mới, bản chất của nền
giáo dục đã khác trước, Người chỉ rõ: “Thời trước, giáo dục là gõ đầu trẻ để
kiếm cơm ăn...Bây giờ nhiệm vụ của giáo dục khác trước...Mục đích của giáo
dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán
bộ mới” [34;183]. Theo Người, trong quá trình giáo dục phải chú trọng kết
hợp và phát triển hài hòa giữa tài năng và đạo đức. Bởi nếu đạo đức tốt mà
khơng có tài năng thì khó lịng giúp ích được, ngược lại có tài năng mà khơng
có đạo đức là điều đáng ngại hơn cả. Như vậy, đức và tài là hai nội dung quan
trọng giáo dục con người mới trong nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay.
Không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đều

coi giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu. Cho nên, ở Hội nghị trung ương
Đảng lần thứ II khóa VIII (12/1996), Đảng ta đã khẳng định: “Thực sự coi
giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Đảng chỉ rõ: “Muốn tiến hành
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa phải phát triển giáo dục và đào tạo, phát huy
nguồn lực con người. Đây là yếu tố cơ bản của sự phát triển”.
Tuy nhiên, ngày 5/3/2009, Bộ chính trị (Khóa X) đã họp và nhận định
bên cạnh những chuyển biến tích cực thì GD - ĐT chưa thực sự là quốc sách
hàng đầu. Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên
chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp; giáo dục phổ
thông mới chỉ quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến
dạy kỹ năng sống, đến “dạy người” và “dạy nghề” cho thanh thiếu niên. Cho
1


nên hiện nay GD - ĐT vẫn đang là nhiệm vụ cấp bách, bên cạnh phát triển
khoa học - công nghệ thì GD - ĐT vẫn được coi là quốc sách hàng đầu.
Mặt khác, trong bối cảnh đất nước ta hiện nay đang trong quá trình hội
nhập quốc tế trên mọi mặt, việc phát triển KTTT theo định hướng XHCN và
thực hiện đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước đã có ảnh hưởng sâu sắc
đến mọi mặt của đời sống xã hội. Bên cạnh mặt tích cực thì cũng tồn tại song
song những mặt tiêu cực, đó là một bộ phận người dân Việt Nam trong đó có
khơng ít học sinh sinh viên đã có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối
sống, đi ngược lại với những giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp của người
dân Việt Nam.
Gần đây, trường Cao đẳng KTCN Hà Nội đã đào tạo thêm một số
ngành nghề như: Luật kinh tế, may thời trang, thư kí văn phịng...bên cạnh
những ngành nghề trước như cơng nghệ thơng tin, kế tốn, kinh tế, quản trị
kinh doanh...Những ngành nghề này đều cần có sự trung thực, chính xác, tỉ mỉ
trong cơng việc. Vì vậy, giáo dục chuyên môn và giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên, trang bị hành trang cho các em sau khi ra trường có đạo

đức nghề nghiệp tốt bên cạnh chuyên môn tốt là vấn đề luôn được nhà trường
quan tâm, chú trọng. Tuy nhiên, do quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng có tác
động lớn đến sinh viên. Một bộ phận khơng nhỏ sinh viên cịn có những biểu
hiện đáng lo ngại như giảm sút về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, khơng có
ước mơ, hoài bão, kém chủ động trong tiếp thu kiến thức, tinh thần tập thể
chưa cao, học tập cịn mang tính chống đối, gian lận trong học tâp và thi
cử...Những biểu hiện tiêu cực này đang tác động hàng ngày, hàng giờ đến
công tác giáo dục bồi dưỡng đạo đức và lý tưởng cho sinh viên trong nhà
trường. Trước thực trạng như vậy, Ban giám hiệu, cán bộ, giáo viên trong
nhà trường và nhất là các thầy cô giảng dạy các mơn lý luận chính trị cần phải
có định hướng đúng đắn trong công tác đào tạo; khắc phục những định hướng

2


lệch lạc trong nhận thức của sinh viên để sinh viên tự giác trau dồi và hoàn
thiện nhân cách, từ đó giúp sinh viên trở thành người vừa có “đức” vừa có
“tài”, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội
hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Triết học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Hoạt động lao động sản xuất hay hoạt động nghề nghiệp là phương
thức sống quan trọng và chủ yếu của con người. Con người không ngừng lao
động và để lao động đạt được hiệu quả cao nhất, góp phần vào sự nghiệp
CNH - HĐH đất nước thì trong quá trình lao động con người ngồi chun
mơn nghề nghiệp thì cần phải có đạo đức nghề nghiệp. Để có đạo đức nghề
nghiệp, con người phải không ngừng trau dồi kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp,
phải tự giác xây dựng, định hướng cho bản thân mình những đức tính tốt
trong lao động.

Mỗi một ngành nghề đều có những chuẩn mực đạo đức riêng bên cạnh
những chuẩn mực đạo đức chung cơ bản của xã hội. Vấn đề đạo đức nói
chung và giáo dục đạo đức nghề nghiệp nói riêng khơng phải là vấn đề mới
mẻ mà đã có nhiều cơng trình nghiên cứu; có thể ở khía cạnh này, khía cạnh
khác với những mức độ khác nhau. Để hoàn thiện luận văn của mình, tác giả
đã tiếp cận những nguồn tài liệu sau:
Thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu về đạo đức, đạo đức nghề nghiệp
- G.Bandzeladze với cơng trình “Đạo đức học” gồm 2 tập, Nxb Giáo
dục năm 1985. Trong hai tập này, Bandzeladze đã làm rõ được những vấn đề
như: đạo đức là gì, nó phát sinh phát triển như thế nào, có những phạm trù
đạo đức học nào và nội dung những phạm trù đạo đức học đó là gì?

3


- PGS.TS Nguyễn Xuân Uẩn chủ biên đề tài cấp Bộ, Nhà nước năm
1998 “Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên Đại học sư phạm phục
vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa”. Cơng trình đã đề xuất một số
giải pháp cụ thể nhằm xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên đại
học sư phạm trong thời kì CNH - HĐH hóa đất nước.
- PGS.TS Trần Quốc Thành, “Thực trạng và giải pháp ngăn ngừa tệ
nạn xã hội trong sinh viên”, 1999 – 2000. Trong tác phẩm này, tác giả đã
nghiên cứu thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên hiện nay, qua đó đề ra
các giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, phòng
chống các tai tệ nạn xã hội trong sinh viên.
- La Quốc Kiệt (chủ biên), “Tu dưỡng đạo đức tư tưởng” (sách dịch),
Nxb Chính trị quốc gia dịch năm 2003. Trong cuốn sách này, các tác giả
Trung Quốc đã nêu rõ đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức, những nội
dung chủ yếu trong việc bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức mới cho sinh
viên các trường Cao đẳng, Đại học ở Trung Quốc hiện nay.

- Trần Đăng Sinh và Nguyễn Thị Thọ (Đồng chủ biên), “Giáo trình
Đạo đức học”, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008. Cơng trình đã nghiên
cứu những nội dung về đạo đức học và đưa ra một số vấn đề đạo đức trong
điều kiện hiện đại hóa xã hội.
Thứ hai, Các cơng trình nghiên cứu về thực trạng, giải pháp giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên các trường Đại học, Cao
đẳng, Trung cấp trong giai đoạn hiện nay
- Ths. Nguyễn Thị Thanh Thương, Học viện Quản lí giáo dục: “Một số
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí lý luận và truyền thơng số tháng 11/2012. Trong tác phẩm
này, tác giả đã đưa ra những mặt tích cực và hạn chế của sinh viên Việt Nam,

4


qua đó đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm mục tiêu giáo dục sinh viên phát
triển toàn diện, trong đó quan trọng nhất là giáo dục đạo đức.
- Ngồi ra cịn có nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ nghiên cứu nội
dung giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh
viên hiện nay như: “Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên Trường Cao
đẳng Công nghiệp – Dệt may thời trang Hà Nội hiện nay”, Nguyễn Bá Hùng,
luận án tiến sỹ, Học viện Chính trị - Bộ quốc phịng, 2010; “Bồi dưỡng đạo
đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên trường Cao đẳng nghề giao thông
vận tải trung ương II hiện nay”, Nguyễn Tuấn Bảy, Luận văn thạc sỹ, Trường
Đại học sư phạm Hà Nội, 2015; “Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên Trường Đại học Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội hiện nay”, Nguyễn
Thị Diệu Khánh, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
2017...Các cơng trình nghiên cứu này chính là những tài liệu quý giá, tạo điều
kiện thuận lợi cho tác giả luận văn triển khai đề tài nghiên cứu của mình ở
khía cạnh nghiên cứu những nội dung của giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức

nghề nghiệp cho sinh viên gắn với mỗi môi trường đào tạo cụ thể, với những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, vùng miền của đất nước.
Tóm lại, đã có nhiều cơng trình trong và ngồi nước nghiên cứu vấn đề
giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên.
Tuy nhiên lại chưa có tác giả nào nghiên cứu về việc giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội. Đây cũng chính là
khoảng trống để tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội hiện
nay”. Thông qua việc vận dụng những thành quả nghiên cứu trên và dựa vào
những đóng góp của các tác giả đi trước, tác giả hi vọng kết quả nghiên cứu
của luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên đã, đang và sẽ học tập tại Trường Cao đẳng KTCN Hà

5


Nội nói riêng và cho sinh viên Việt Nam nói chung, đáp ứng được mục tiêu,
yêu cầu của ngành nghề, của đất nước trong giai đoạn CNH - HĐH hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc giáo dục đạo đức và
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng KTCN Hà Nội. Luận văn
phân tích làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho đối tượng này.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận văn là đạo đức nghề nghiệp.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học

Đạo đức nghề nghiệp là một phần khơng thể thiếu trong q trình làm
việc của mỗi người. Việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho thế hệ trẻ trong
đó có sinh viên là một vấn đề quan trọng trong quá trình đào tạo nguồn nhân
lực cho đất nước. Từ ý nghĩa đó luận văn chỉ ra thực trạng, đánh giá những
mặc tích cực và hạn chế, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng
KTCN Hà Nội hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn sẽ giải quyết một số nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội hiện nay.

6


- Phân tích thực trạng của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp đối với
sinh viên Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội hiện nay.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng
KTCN Hà Nội hiện nay.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội trong thời gian từ năm 2013 đến nay.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phương
pháp lịch sử - logic, phương pháp quy nạp - diễn dịch, phương pháp phân tích
- tổng hợp, phương pháp phỏng vấn, phương pháp hệ thống hóa và điều tra xã

hội học...
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
10.1. Luận điểm cơ bản
- Lí luận chung về đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, giáo dục đạo đức
nghề nghiệp, những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp ở nước ta hiện nay.
- Những yêu cầu đạo đức đối với sinh viên Trường Cao đẳng KTCN
Hà Nội.
- Thực trạng đạo đức nghề nghiệp của sinh viên Trường Cao đẳng
KTCN Hà Nội hiện nay.

7


- Phương hướng và giải pháp chủ yếu để giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội hiện nay.
10.2. Những đóng góp mới của luận văn
- Trên phương diện lý luận: Luận văn khái quát và phân tích những đặc
điểm cơ bản của sinh viên Trường Cao đẳng KTCN Hà Nội. Trên cơ sở đó
đánh giá thực trạng cũng như đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên Trường
Cao đẳng KTCN Hà Nội hiện nay.
- Trên phương diện thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy cho
những đối tượng quan tâm đến đề tài.

8



Chƣơng 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ
CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm “đạo đức” và vai trò của đạo đức trong đời sống
xã hội
Thứ nhất, khái niệm “đạo đức”
“Đạo đức” là một trong những hình thái sớm nhất của YTXH, là tổng
hợp những quy tắc, chuẩn mực xã hội, là sản phẩm của quá trình phát triển
lịch sử xã hội. Nhờ có đạo đức mà con người biết tự điều chỉnh hành vi của
bản thân sao cho phù hợp nhất với lợi ích của chính họ và xã hội. Mọi giai
cấp, mọi thời đại, đạo đức ln có chỗ đứng khơng thể bị thay thế.
Danh từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latin là - mos - có nghĩa là “lề
thói”. Bên cạnh đó, cịn từ - ethicos (có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp) cũng có
nghĩa là “lề thói” “tập tục”. Cả hai từ trên đều gắn với thói quen, lề thói trong
quan hệ hàng ngày giữa con người với con người.
Ở phương Đông, trong Triết học Trung Quốc, đạo đức được coi là một
trong những phạm trù quan trọng nhất. “Đạo đức” được bắt nguồn từ cách
hiểu về hai chữ “đạo” và “đức”. Khái niệm “đạo đức” xuất hiện lần đầu tiên
trong Kim Văn đời nhà Chu và được người Trung Hoa cổ đại sử dụng phổ
biến. “Đạo” có nghĩa là con đường, đường đi; trong lĩnh vực đời sống xã hội,
“đạo” có nghĩa là lối sống, cách sống của con người trong xã hội. Cịn “Đức”
là đức tính, là những phẩm chất tốt đẹp, giá trị cao quý...là biểu hiện của Đạo.
Sau này khái niệm “đạo đức” được vận dụng trong triết học để chỉ con đường

9



của tự nhiên. Tóm lại, “đạo đức” của người Trung Hoa cổ đại chính là những
nguyên tắc, những yêu cầu, những chuẩn mực mà xã hội đặt ra buộc con
người phải tuân theo.
Trong Phật giáo ở Ấn Độ cũng bàn rất nhiều về đạo đức. Giáo lý nhà
Phật dạy rằng: “Nhất thuyết pháp nhân duyên sinh” để trả lời cho câu hỏi con
người phải làm gì để thốt khỏi bể khổ. Để thoát khỏi bể khổ, Phật giáo xây
dựng mẫu người đạo đức đó là con người từ bi, hỉ, xả, vô ngã, vị tha, tạo
nghiệp thiện, tránh nghiệp ác mà thâu tóm đứng vững trên hai chân: từ bi và
trí tuệ. Có như vậy mới thốt được khỏi vịng luân hồi, nhân quả đạt đến cảnh
giới Niết bàn.
Ở phương Tây, nhiều nhà tư tưởng lớn cũng rất quan tâm đến vấn đề
đạo đức. Trong đó có đại diện tiêu biểu nhất là Xơcrat (469 – 399 TCN) –
Ơng được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức. Triết học
của ông hướng con người sống có đạo đức. Xơcrat quan niệm rằng: “ngun
nhân sâu xa của hành vi có hay khơng có đạo đức là do nhận thức của mỗi
người”. Còn Arixtốt (384 – 322 TCN) là người đầu tiên đã viết bộ sách “Đạo
đức học” gồm 10 cuốn, trong bộ sách đó, ơng chú trọng đặc biệt đến đạo đức
của con người. Theo ông, một con người có đạo đức là con người có định
hướng đúng đắn và biết làm việc thiện.
Như vậy, ngay từ thời cổ đại đến nay với bao thay đổi của lịch sử nhưng
cả ở phương Đông và phương Tây vấn đề đạo đức vẫn luôn được nhân loại
quan tâm và không ngừng bổ sung, làm phong phú thêm các phạm trù, giá trị.
Để đạo đức ngày càng đi sâu, thấm nhuần vào từng hành động, lời ăn tiếng nói
của mỗi người. Giúp con người ngày càng hướng thiện, sống thiện hơn.
Quan điểm đạo đức hoàn toàn khác nhau khi xã hội xuất hiện giai cấp
và đấu tranh giai cấp. Quan niệm duy vật lịch sử về đạo đức của chủ nghĩa
Mác đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Theo quan niệm của

10



Cơ Đốc giáo, toàn thể vũ trụ, trái đất và con người đều do Thiên Chúa tạo ra.
Con người là sinh thể duy nhất được Chúa ban cho các năng lực: nhận thức,
đạo đức, thẩm mỹ. Như vậy, Cơ Đốc giáo cho đạo đức của con người có
nguồn gốc từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là hiện thân của cái thiện và đức hạnh;
cịn cái ác và những thói xấu khác thì xuất phát từ “tội tổ tơng” của con người.
Cịn các nhà duy tâm khách quan, về thực chất cũng có cách nhìn nhận về bản
chất và nguồn gốc của đạo đức tương tự quan điểm tơn giáo, có điều cách
nhìn nhận của họ được lý luận hóa bằng những học thuyết triết học. Theo
G.Hêghen: “đạo đức bắt nguồn từ ý niệm pháp lý, còn ý niệm pháp lý là một
hình thái biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Đạo đức tuy là một hiện tượng xã
hội, biểu hiện trong các quan hệ gia đình, xã hội, quốc gia, nhưng về bản chất
lại là biểu hiện của ý niệm tuyệt đối, có nguồn gốc từ ý niệm tuyệt đối” [23;
64,65]. Các nhà duy tâm chủ quan thì coi đạo đức như là những năng lực bẩm
sinh của con người. Theo I.Cantơ, lý tính là cội nguồn sinh ra các nguyên lý,
các chuẩn mực đạo đức. Vì vậy, theo ơng ý chí đạo đức hay là thiện ý là năng
lực hành động phù hợp với quy luật đạo đức phổ biến, nghĩa là phù hợp với
cái gọi là mệnh lệnh tuyệt đối. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi con người hành
động theo pháp chế phổ biến. Nhưng trong xã hội có đối kháng giai cấp thì
mỗi giai cấp khác nhau sẽ có quan niệm khác nhau về lý tưởng của một pháp
chế phổ biến. Vì vậy, trên thực tế, mệnh lệnh tuyệt đối không thể trở thành
một pháp chế phổ biến được.
Khác với các nhà triết học duy tâm, những nhà triết học duy vật trước
Mác khơng đi tìm bản chất, nguồn gốc của đạo đức ở những sức mạnh siêu
nhân nào đó bên ngồi thế giới con người và xã hội loài người. L.Phoiơbắc
cho rằng, đạo đức chỉ tồn tại ở đâu đó mối quan hệ giữa người với người, hay
nói như cách nói của ơng, ở đâu có mối quan hệ giữa “tôi với anh”. Nhưng
ông quy mọi mối quan hệ người vào quan hệ đạo đức và cho rằng, nguyên tắc


11


cơ bản của đạo đức là sự thương yêu lẫn nhau giữa mọi người. Từ đó, ơng
tun truyền cho một tình yêu phổ biến và kêu gọi mọi người phải biết “hạn
chế mình một cách phổ biến”. Đối với ơng, vươn tới một thứ “đạo đức tình
yêu như vậy”, con người có thể khắc phục được mọi bất cơng, mọi đau khổ
với tính cách là những ngẫu nhiên đi chệch khỏi bản chất đích thực của con
người. Mặc dù thấy được đạo đức trong quan hệ người nhưng ông không nhìn
thấy được tính quy định của quan hệ kinh tế - xã hội đối với đạo đức. Vì thế,
rốt cuộc, đạo đức đối với Phoiơbắc cũng chỉ là một năng lực bẩm sinh, trừu
tượng, bất biến và xét tới cùng cũng chỉ là một sức mạnh từ bên ngoài gán
vào cho xã hội và con người.
Những người theo quan điểm của học thuyết Đácuyn đã tầm thường
hóa quan điểm duy vật khi cho rằng những phẩm chất đạo đức của con người
là đồng nhất với bản chất bầy đàn của động vật. Biến đạo đức thành bản năng
tức là gán cho đạo đức bản chất sinh học.
Như vậy, cho dù có những khác biệt về lập trường và các cách thức lý
giải, tất cả những quan điểm trước Mác và ngồi mácxít đều nhìn nhận đạo đức
như là một sức mạnh có trước, tồn tại bên ngồi quan hệ xã hội của con người.
Theo C.Mác: “Đạo đức chính là lực lượng bản chất của con người
trong sự phát triển của nó theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực của
cái thiện”. Xét theo nghĩa hẹp, “đạo đức” là chuẩn mực ứng xử trong mối
quan hệ giữa con người với con người. Theo nghĩa rộng, “đạo đức” có quan
hệ chặt chẽ, hữu cơ với các phạm trù, pháp luật, chính trị, đời sống. C.Mác
cịn cho rằng: “Đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống của
con người”. Đạo đức xuất hiện như một phương thức đặc thù giúp điều chỉnh
hành vi của con người. Sự điều chỉnh đó dựa trên cơ sở tự nguyện, tự giác và
ưu tiên cho lợi ích của đại đa số người trong xã hội.


12


Giáo trình triết học Mác – Lênin đã định nghĩa “đạo đức” như sau:
“Đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách
nhiệm, hạnh phúc, công bằng và về những quy tắc, đánh giá, điều chỉnh hành
vi ứng xử giữa các cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội”
[7; 444].
Theo từ điển Tiếng Việt: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc
được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người với
nhau và đối với xã hội” [50; 290].
Với quan điểm của Phạm Khắc Chương và Hà Nhật Thăng cho rằng:
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và với tiến bộ
xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã
hội” [13; 6].
Tác giả Trần Đăng Sinh và Nguyễn Thị Thọ cho rằng: đạo đức là
“những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với
người trong giao tiếp với nhau” [43; 5].
Tóm lại, có nhiều cách tiếp cận khái niệm đạo đức nhưng do căn cứ vào
mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài mà tác giả luận văn nhất trí với
khái niệm “đạo đức” sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội” [43; 6].
Thứ hai, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức có vai trị vơ cùng quan trọng đối với đời sống xã hội. Tùy
theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội mà sự tác động của đạo đức đến các cá


13


nhân và xã hội lại khác nhau. Ngày nay, đạo đức lại ngày càng chứng minh
tầm quan trọng của nó khi một bộ phận không nhỏ người dân đánh mất đạo
đức, đánh mất lương tâm, chạy theo lợi ích mù quáng. Vai trò của đạo đức
được thể hiện như sau:
1. “Đạo đức là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh
hành vi con người, một sự điều chỉnh hồn tồn tự nguyện, tự giác, khơng vụ
lợi trong một phạm vi rộng lớn” [53]. Trước khi có luật pháp, trong xã hội
chủ yếu dùng đạo đức để điều chỉnh hành vi con người. Điều chỉnh hành vi
con người là chức năng quan trọng nhất của đạo đức. Nếu như sức mạnh của
pháp luật là sự bắt buộc, cưỡng chế thì sức mạnh của đạo đức là dư luận xã
hội, niềm tin, ý thức của cá nhân, truyền thống dân tộc. Phạm vi điều chỉnh
hành vi của đạo đức lớn hơn rất nhiều so với phạm vi điều chỉnh của pháp
luật, bởi trong đời sống xã hội, có một số hành vi tuy không vi phạm pháp
luật thế nhưng vẫn bị đạo đức lên tiếng. Ví dụ như: con cái không chăm lo
phụng dưỡng bố mẹ về già; anh chị em vì tranh giành của cải mà đánh chửi
nhau; vợ chồng khơng chung thủy với nhau...
2. “Đạo đức góp phần nhân đạo hóa con người và xã hội lồi người,
giúp con người sống thiện, sống có ích” [53]. Đạo đức là nhu cầu, là cội
nguồn của hạnh phúc. Sự phát triển của đạo đức là thước đo sự phát triển của
con người, của xã hội loài người. Chỉ khi con người sống có đạo đức, dùng
đạo đức để học tập, sinh hoạt và làm việc thì con người mới thực sự được
hạnh phúc. Đạo đức tự nguyện được nảy sinh trong mỗi con người, giúp con
người hướng thiện, làm việc thiện, sống có ích cho xã hội. Đạo đức trở thành
động lực, thành sức mạnh để chống lại cái ác, cái phi đạo đức, góp phần lớn
vào việc thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội.
3. “Đạo đức thể hiện bản sắc dân tộc trong quan hệ quốc tế, là cơ sở để

mở rộng giao lưu giữa các giá trị văn hóa của dân tộc, quốc gia với các dân
tộc, quốc gia khác” [53].

14


Những giá trị đạo đức truyền thống của cha ông ta từ ngàn xưa truyền
lại cho thế hệ con cháu cộng thêm giá trị đạo đức mới - đạo đức cách mạng
chính là sự vượt trội để đất nước ta mở rộng giao lưu, hợp tác, tuyên truyền
những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc với bạn bè quốc tế. Chính vì thế,
hiện nay, Việt Nam đang trở thành điểm du lịch, đầu tư lý tưởng. Bởi con
người Việt Nam thân thiện, dễ gần, chăm chỉ, chịu khó, ham học hỏi, biết
giúp đỡ mọi người...
4. “Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [53]. Pháp luật dù nghiêm khắc đến mấy
nhưng nếu mỗi người dân khơng có ý thức đạo đức thì đất nước đó cũng khó
có thể giữ vững được ổn định CT - XH. Thực tế đã cho thấy điều đó, mặc dù
Việt Nam, hệ thống pháp luật chưa hồn chỉnh, vẫn cịn đang được bổ sung
hồn thiện nhưng Việt Nam lại chưa từng xuất hiện những sự việc như khủng
bố, ám sát chính khách, mà ngược lại, Việt Nam luôn tự hào là đất nước ổn
định về CT - XH. Chính vì vậy, những chính khách khi sang Việt Nam đều có
thể hịa mình vào đời sống, có thể đi bộ, dạo phố, ăn hàng qn bình dân mà
khơng sợ bị ám sát, khủng bố hay có bất cứ hành động nguy hại nào. Mà thay
vào đó, họ được an nhàn hưởng thụ cuộc sống như một người dân bình
thường, được chứng kiến sự đón tiếp thân tình, cởi mở của mọi người dân
Việt Nam.
Như vậy, đạo đức là một hình thái YTXH, nó xuất hiện từ rất sớm và
có vai trị vơ cùng quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Hiểu được
tầm quan trọng của đạo đức, con người sẽ tự ý thức và điều chỉnh hành vi của
mình để trở thành con người “vừa có đức vừa có tài”, “vừa hồng vừa chuyên”.

1.1.1.2. Nghề nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nghề nghiệp là một công việc mà người ta
thực hiện trong suốt cuộc đời” [50; 698]. Trong quá trình con người lao động

15


nghề nghiệp thì chính nghề nghiệp đó khơng những đảm bảo cho cuộc sống
của họ, gia đình họ mà cịn tơn vinh những con người có thành tích lao động
nghề nghiệp xuất sắc, góp một phần vào xây dựng và phát triển xã hội. Bởi xã
hội có được như ngày nay, chính là dựa vào những người lao động hăng say,
cần cù, tìm tịi sáng tạo. Và xã hội càng có nhiều người như vậy thì khơng có lí
do gì có thể kìm hãm được sự phát triển mãnh liệt của xã hội đó, đất nước đó.
Nghề nghiệp là những tri thức và những kĩ năng mà người lao động có
được thơng qua q trình học tập, thực hành, cho phép người lao động đó có
thể thực hiện một loại hoạt động nhất định trong hệ thống phân công lao động
xã hội. Đó có thể là một ngành nghề khơng cần những tri thức và kĩ năng
phức tạp, cũng có thể là ngành nghề địi hỏi có trình độ chun môn kỹ thuật
cao. Tuy nhiên, dù là ngành nghề nào người lao động cũng không thể coi nhẹ
việc nâng cao kỹ năng lao động. Kỹ năng lao động có được chính từ sự trau
dồi, tích lũy thơng qua mơi trường hoạt động thực tiễn trong sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, nhất là một số nghề nghiệp đòi hỏi khéo léo, cẩn thận, tỉ mỉ
như một số ngành nghề thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật...
Bất cứ một loại hình nghề nghiệp nào cũng có đối tượng quan hệ trực
tiếp với nó. Dựa trên đặc điểm này người ta chia nghề nghiệp thành 4 loại sau:
- Nghề quan hệ với kỹ thuật: thợ lắp máy, sửa chữa máy móc, thợ gia
cơng...
- Nghề quan hệ với tín hiệu: thợ đánh máy, mật mã, sửa bản in...
- Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên: Chăn ni, thú y, khai
khống, địa chất...

- Nghề quan hệ trực tiếp với con người: Nghề giáo, Nghề Y, Hướng
dẫn viên du lịch, nghề dịch vụ...
Dựa theo bản chất nghề nghiệp, người ta chia nghề nghiệp thành những
loại sau:

16


- Nghề khơng chun mơn hóa: Nghề bốc vác, dỡ, vận chuyển hàng
hóa nguyên vật liệu. Những nghề này chủ yếu sử dụng sức cơ bắp hoặc có sự
trợ giúp của một số vật dụng cho việc mang vác trực tiếp hàng hóa hoặc nhờ
các phương tiện nửa cơ giới. Nghề này chỉ hoạt động trong khoảng thời gian
ngắn với những người có sức khỏe tốt, có ít kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp,
không cần qua trường lớp đào tạo.
- Các nghề nửa chun mơn hóa: Là những nghề nghiệp địi hỏi một
trình độ chun mơn hạn chế, các tri thức, kĩ xảo nghề nghiệp chỉ đủ để thực
hiện được những thao tác đơn giản hay những thao tác được chun biệt hóa
một cách chặt chẽ.
- Các nghề chun mơn hóa: Là những nghề nghiệp địi hỏi phải được
đào tạo chính quy, cá nhân được nhận chứng chỉ cơng nhận tay nghề do các
cơ sở đào tạo chính quy cấp. Trên cơ sở đó người lao động được nhận vào
làm việc thuộc lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Các chứng chỉ nghề nghiệp
có thể chứng nhận một trình độ chun môn ở mức cơ sở, trung cấp, cao
đẳng, đại học...
Tuy nhiên, người lao động chỉ có thể hăng say làm việc và cống hiến
cho công việc khi họ lựa chọn được nghề nghiệp đúng đắn, phù hợp với khả
năng, sự u thích của bản thân họ. Bởi nghề nghiệp khơng chỉ đơn thuần là
một công việc để kiếm tiền nuôi sống bản thân, gia đình và đóng góp cho xã
hội mà nó cịn bao gồm cả việc tận hưởng niềm vui khi làm việc, khiến cho
mỗi ngày lao động là một ngày có ý nghĩa cho chính bản thân mình và xã hội.

Nhưng thực tế không phải sinh viên nào cũng sáng suốt chọn được cho mình
một ngành nghề đúng đắn, phù hợp và u thích. Có thể ngun nhân do thiếu
kĩ năng, kiến thức trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp; có thể do sức ép gia
đình; có thể do muốn chạy theo xu hướng mà không quan tâm đến thực lực
của bản thân..đó có thể là nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan nhưng dù

17


là nguyên nhân nào đi chăng nữa thì việc lựa chọn khơng đúng nghề nghiệp sẽ
có ảnh hưởng khơng nhỏ đến hoạt động lao động, sẽ kìm hãm chính người đó
khiến cho họ có tâm lí chán nản, lao động khơng hăng say. Có nhiều lao động
như vậy sẽ khiến năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm không cao
ảnh hưởng đến cơng ty, xí nghiệp và xã hội. Vì vậy, gia đình và nhà trường
phải có định hướng rõ ràng nghề nghiệp cho con em mình, cho con theo nghề
nghiệp mà con yêu thích, phù hợp với khả năng của con.
Nghề nghiệp không cố định, bất biến, mà nó ln có thể thay đổi tùy
theo hồn cảnh và tùy theo nhu cầu của mỗi người. Máy móc cơng nghệ hiện
đại ra đời đã thủ tiêu một số ngành nghề thủ công, hoặc thúc đẩy ngành thủ
công cũng phải cơ giới hóa, điện khí hóa. Ví dụ như nghề dệt, ngày trước chỉ
hồn tồn thủ cơng bằng tay, nhưng hiện nay, chỉ có một số khâu cịn dùng
tay cịn hầu như đều có sự tham gia của máy móc.
Trong những năm gần đây, do sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ
thuật, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
KTTT định hướng XHCN, thực hiện CNH - HĐH đất nước, bước đầu đưa đất
nước bước vào thời đại 4.0. Chính vì vậy, ngay lúc này đây, hàng hóa sức lao
động ngày càng tập trung vào chất, vào trình độ tay nghề cũng như đạo đức
nghề nghiệp. Người lao động phải có đủ cả trình độ chun mơn và đạo đức
nghề nghiệp, vừa hồng vừa chuyên thì mới đáp ứng được yêu cầu về lao động
của thời đại mới – thời đại 4.0.

Đào tạo nghề nghiệp có thể hiểu là tồn bộ quá trình học tập, lĩnh hội
của con người về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và các đặc điểm tâm lý. Có thể
đào tạo nghề nghiệp cho từng cá nhân hoặc đào tạo cho một tập thể; có thể
đào tạo ngẫu nhiên trong quá trình sinh sống hoặc đào tạo có tổ chức thơng
qua các trường lớp. Đào tạo nghề nghiệp được tiến hành thơng qua các hình
thức sau: “dạy nghề (có thể đào tạo trực tiếp hoặc đào tạo từ xa), hoàn thiện

18


nghề nghiệp, chun mơn hóa nghề nghiệp, đào tạo bằng kinh nghiệm, thơng
tin nghề nghiệp”[55]. Hình thức “Dạy nghề, hồn thiện nghề nghiệp, chun
mơn hóa nghề nghiệp” là ba giai đoạn của q trình đào tạo nghề nghiệp
chính quy. Hình thức “Đào tạo bằng kinh nghiệm, thông tin nghề nghiệp” có
thể gặp trong đào tạo nghề nghiệp chính quy và đào tạo nghề nghiệp phi chính
quy. Trong đó thì dạy nghề là hình thức quan trọng nhất, nó trang bị cho
người học những kiến thức ban đầu, các kỹ năng, kỹ xảo tối thiểu và những
phẩm chất đạo đức cần có của nghề nghiệp đó. Sau đó, trong q trình làm
việc, người lao động cần học tập, trau dồi thêm kiến thức thực tế, kỹ năng, kỹ
xảo, đạo đức nghề nghiệp dần hồn thiện hơn để có thể hồn thành tốt công
việc được giao.
Trong tất cả nghề nghiệp, để người lao động có thể thực hiện cơng việc
của mình đạt hiệu quả cao, các cơ quan chức năng và các tổ chức liên quan
phải thiết lập các quy định cho người lao động, trong đó các quy định về đạo
đức nghề nghiệp là vô cùng cần thiết. Những quy định này không những đảm
bảo quyền và nghĩa vụ của người quản lý lao động mà còn giúp người lao
động hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với cơng việc, đối với
đồng nghiệp và đối với tồn xã hội. Các ngành nghề hiện nay ngày càng mang
tính chuyên mơn hóa cao, vì lẽ đó các quy định nghề nghiệp, đạo đức nghề
nghiệp lại càng bộc lộ rõ tầm quan trọng của nó.

1.1.1.3. Đạo đức nghề nghiệp
Khi đề cập tới khái niệm đạo đức nghề nghiệp là người ta muốn cụ thể
hóa và đặc trưng hóa đạo đức cho từng nghề nghiệp nhất định. Đối với mỗi
nghề nghiệp nhất định, bên cạnh những quy tắc, chuẩn mực đạo đức chung
được xã hội thừa nhận cịn có những quy tắc, chuẩn mực đạo đức riêng cần
phải có đối với từng nhóm nghề nghiệp hay từng nghề nghiệp nhất định, nó
quy định hành vi ứng xử của từng cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nghề

19


nghiệp đó. Vì khi những quy tắc, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đó khơng
được thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng thì sẽ gây ảnh hưởng đến hiệu quả
cơng việc và đến đồng nghiệp cùng tham gia làm việc với mình. Như Ph.Ăngghen đã nói: “Trong thực tế, mỗi giai cấp và ngay cả mỗi nghề nghiệp đều có
đạo đức riêng của mình” [28; 256]. Hay trong bài luận văn tốt nghiệp trung
học, C.Mác đã viết: “nếu ta chọn một nghề trong đó ta có thể làm việc được
nhiều hơn cho nhân loại, thì ta khơng cịng lưng dưới gánh nặng của nó, bởi
vì đó là sự hi sinh vì mọi người. Những việc làm của ta sẽ sống một cuộc
sống âm thầm nhưng mãi mãi có hiệu quả, và trên thi hài của chúng ta sẽ nhỏ
xuống những giọt nước mắt nóng bỏng của những con người cao quý” [27;4].
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội. Trong xã hội
có bao nhiêu nghề thì sẽ có bấy nhiều đạo đức nghề nghiệp. Mỗi lĩnh vực
nghề nghiệp đều có chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung. Ví dụ khi nói đến
lực lượng cơng an nhân dân thì phẩm chất đạo đức nghề nghiệp họ phải đạt
chuẩn theo 6 điều Bác Hồ dạy:
“Với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính.
Với đồng nghiệp phải thân ái giúp đỡ.
Với chính phủ phải tuyệt đối trung thành.
Với nhân dân phải kính trọng lễ phép.
Với cơng việc phải tận tụy.

Đối với địch phải cương quyết, khôn khéo”.
Đối với cán bộ, Đảng viên, Bác Hồ răn dạy phải: “cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng, vơ tư”.
Phương châm: “Lương y như từ mẫu” được coi là đạo đức của ngành
y. “Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi” là chuẩn mực đạo đức của các
ngành dịch vụ. “Tất cả vì học sinh thân yêu” là đạo đức nghề nghiệp của
nghề giáo. Tựu chung lại, từ nội hàm của khái niệm đạo đức nói chung và

20


qua phân tích một số đặc trưng về đạo đức của một số nghề nghiệp có trong
xã hội, ta có thể hiểu:
“Đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các chuẩn mực đạo đức phản ánh
những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của bản thân nghề nghiệp đối với người
làm việc trong lĩnh vực nghề nghiệp đó, giúp họ hồn thành nhiệm vụ của
mình với kết quả cao nhất” [48; 27].
Hoạt động nghề nghiệp luôn gắn liền với một kiểu quan hệ sản xuất
trong một giai đoạn lịch sử nhất định cho nên đạo đức nghề nghiệp ln mang
tính giai cấp và tính dân tộc. Với mỗi kiểu quan hệ sản xuất khác nhau thì đạo
đức nghề nghiệp cũng có sự thay đổi, phát triển phù hợp.
Thời kì phong kiến, trong “bách nghệ” thì “vạn ban giai hạ phẩm, duy
hữu độc thư cao” tạm dịch là “mọi việc đều thấp kém, chỉ có đọc sách là cao
thượng”. Nghĩa là, có rất nhiều nghề nghiệp trong xã hội nhưng xã hội phong
kiến chỉ đề cao người đọc sách, còn đại đa số quần chúng nhân dân, những
người lao động sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội thì lại bị coi
là “dân ngu”. Nhưng chính người dân lao động trong xã hội phong kiến cũng
có những quan điểm sai lầm về lao động, về nghề nghiệp. Đối với họ, học
nghề, khổ luyện nghề là để “vinh thân”, “phì gia”, nghĩa là, luyện nghề cho
giỏi để phục vụ cho lợi ích cá nhân chứ khơng phải để giúp ích cho xã hội.

Chính vì thế, nhiều người làm việc chỉ nhằm thoả mãn lợi ích của cá nhân mà
xem nhẹ, thậm chí bất chấp cả lợi ích của người khác, của xã hội.
Đến chế độ tư bản chủ nghĩa, chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận xét
trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản rằng: “giai cấp tư sản không để lại giữa
người với người một mối quan hệ nào khác, ngoài mối lợi lạnh lùng, và lối trả
tiền ngay khơng tình nghĩa. Giai cấp tư sản đã dìm những xúc động thiêng
liêng của lòng sùng đạo, tinh thần hứng khởi nghĩa hiệp, mối thương cảm tiểu
tư sản vào trong lịng nước giá ngắt của lối tính tốn vị kỉ. Nó đã biến phẩm

21


×