Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

TAI LIEU 1564564234

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.92 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>TO LONG Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” ( Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”. Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Hoành sóc giang san kháp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu. Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý. Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc: -“Thuyền bè muôn đội; Tinh kỳ phấp phới Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang phú) Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ. Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã: “Công danh nam tử còn vương nợ. bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp tự do, tự nhiên như lời nói thường ngày: Rồi/ hóng mát/ thuở ngày trường Khởi hứng bằng một tâm thế - tâm thế của một con người an nhàn hưởng thụ (thiên nhiên). Bài thơ có lẽ được làm trong một lần Nguyễn Trãi về ở Côn Sơn (theo Đào Duy Anh, trong đời mình Nguyễn Trãi có nhiều lần về ở Côn Sơn). Rũ sạch bụi lầm của chốn phồn hoa đô hội, con người đến với thiên nhiên tự do, tự tại, giản dị không gò ép. Phải chăng, vì thế mà câu thơ cũng vuột ra khỏi cái khuôn khổ của thơ luật để giản dị, nhẹ nhàng như chính con người và cuộc sống chốn sơn lâm.. Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” “công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông). “Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”. CANH NGAY HE Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời mà cả hạnh phúc lẫn thương đau đều được đẩy đến tột cùng. Trong khoảng thời gian đời người hơn 60 năm, thi nhân đã để lại một gia sản vô cùng quý giá. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực văn chương, lời nhận định kia đã không có gì là thái quá. Trước tác của Ức Trai có thơ, có văn, lại có cả lịch sử, địa lí nữa. Ở mảng thơ, bên cạnh tập thơ chữ Hán nổi tiếng Ức Trai thi tập, thiết nghĩ còn cần phải đặc biệt chú ý vị trí vai trò của tập Quốc âm thi tập. Tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được này, không những chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà mà còn là tài liệu chủ yếu để nghiên cứu lịch sử phát triển của ngôn ngữ nước ta. Gồm những bài thơ viết rải rác trong suốt cuộc đời, Quốc âm thi tập đã giúp người đọc khai mở nhiều phần sâu kín trong tâm hồn người thi sĩ bất hạnh vào loại bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Quốc âm thi tập có một cấu trúc chỉnh thể với 4 phần. Trong đó phần vô đề gồm toàn bộ những bài thơ không có tựa đề, được chia thành các nhóm : ngôn chí, mạn thuật, trần tình, thuật hứng, tự thán, bảo kính cảnh giới… Chùm thơ Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình) có 61 bài. Những câu thơ trong Bảo kính cảnh giới - bài 43 luyến láy du dương, có chút vui điểm vào cuộc đời đầy u uất của thi nhân Nguyễn Trãi. Được tổ chức theo kiểu một bài thất ngôn bát cú nhưng bài thơ lại mở đầu. Câu thơ nhẹ nhàng gợi nghĩ đến hình ảnh một vị tiên đồng, đạo cốt. Từ rồi (có bản chép là rỗi) kết hợp với ngày trường cộng hưởng với nhịp thơ kéo giãn thời gian của một ngày. Cảm giác thư thái cũng theo đó mà ngân nga. Nguyễn Trãi không phải người không biết giới hạn. Có nhiều lần ông đã bày tỏ ý nguyện "công thành thân thoái". Nếu phải viện đến lí do thì có lẽ nhiều người sẽ nghĩ đến sự gắn bó rất chân thành của tác giả với thiên nhiên. Những bức tranh thiên nhiên mà tác giả đã say sưa nét vẽ như ở trong bài thơ này đã chứng tỏ một điều cuộc sống đâu phải cứ giàu có thì sang trọng : Hoè lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương Cuộc sống của thi nhân là vậy. Cả cuộc đời nghèo khó, nhưng đó chỉ là ở phương diện vật chất mà thôi. Nhìn vào thi liệu thì bức tranh tất được vẽ vào lúc cuối hè : hoa lựu đang rộn ràng chuyển sang màu đỏ rực, sen thì đã tiễn mùi hương. Việc lựa chọn thời gian nghệ thuật cũng như cách thức miêu tả thiên nhiên hẳn không phải là chuyện ngẫu nhiên. Lá hoè ngả sang màu lục, um tùm dồn lại thành từng khối lá xanh, toả rộng, che rợp cả mặt sân. Hoa lựu không còn nhạt mà rực rỡ như những chùm lửa đỏ. Sau này Nguyễn Du cũng dùng hoa lựu để nói cái oi bức, rực nóng của mùa hè : Dưới trăng quyên đã gọi hè, Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông. Dưới những ao đầm, hoa sen hồng đã nở rộ xen giữa những chiếc lá mát xanh, cả đầm sen đưa hương thơm ngát. Điểm vào cái không gian ấy là tiếng ve kêu ồn ã như đang trút hết mình cho phút chiều tà. Nếu mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc thì mùa hạ là lúc trưởng thành. Đặc biệt cuối hè là lúc nó phô diễn một sức sống căng đầy, sung mãn nhất của sự trưởng thành. Nó bắt đầu kết trái cho mùa thu để rồi chuẩn bị cho sự hoá thân vào mùa đông. Thiên nhiên trong bài thơ này là thế : dường như nó đang ở trạng thái căng đầy nhất. Một bức tranh thiên nhiên đủ gợi cho chúng ta liên tưởng về một cuộc sống ấm no, đủ đầy. Hài hoà cùng thiên nhiên là cuộc sống sinh hoạt thường nhật của người lao động: Lao xao chợ cá làng ngư phủ Hàm ý của câu thơ dồn cả vào cái âm thanh của chợ cá. Sự náo nhiệt của chợ cá gợi lên sự liên tưởng về cuộc sống no ấm thanh bình của người dân. Bởi chợ cá ở đây rất có thể chỉ là một góc chợ quê, mà âm thanh vẫn rộn ràng náo nhiệt vô cùng.. Làm theo thể thất ngôn bát cú nhưng kết cấu đề - thực - luận - kết xem ra không phải là lựa chọn hợp lí để tiếp cận bài thơ này. Bài thơ có thể được chia theo bố cục 6/2. Trên là vẻ đẹp của thiên nhiên và âm thanh cuộc sống, dưới là ước vọng của nhà thơ : Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương. là một mô típ thường thấy trong thơ Nguyễn Trãi. Một tấc lòng ái ưu luôn chỉ chực dâng lên cùng sóng nước. Câu thơ gắn với một điển tích. Ở Trung Quốc thời cổ đại có một triều đại lí tưởng (thực chất là một cộng đồng người nguyên thuỷ sống theo bộ tộc) được đời đời truyền tụng như là một hình mẫu đẹp - thời vua Nghiêu Thuấn. Vua Thuấn có cây đàn (gọi là Ngu cầm). Vua thường hay dạo khúc Nam phong trong đó có câu "Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề" nghĩa là "gió nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của". Mượn một điển tích, Nguyễn Trãi đã không giấu được sự vui mừng khi thấy dân chúng khắp nơi đang được đủ đầy no ấm. Câu thơ cuối cùng tương ứng với câu đầu, vượt ra khỏi luật Đường. Nhịp thơ 3/3 ngắn gọn, dứt khoát, thể hiện ước vọng chân thành của Nguyễn Trãi, mong sao ở mọi nơi, cuộc sống thanh bình no ấm sẽ đến với mọi người. Câu nói của người xưa "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ) thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi. Một cuộc đời trọn tình, vẹn nghĩa với nước với dân. Phân tích Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm " Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi. Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy. Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị : Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dù ai vui thú nào Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền. Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người kiếm chốn lao xao Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản : Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo Lão, « thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm. chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định : Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình : Ở thế mới hay người bạc ác Giàu thì tìm đến, khó thì lui (Thói đời) Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân. Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính. DOC TIEU THANH KI Nguyễn Du có mối đồng cảm đặc biệt đối với những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Một Đạm Tiên, một Thúy Kiều, một “ Long thành cầm giả ca”… đã làm xác động trái tim của nhân loại. Và đây là những giọt nước mắt của thi nhân nhỏ xuống số phận bi thảm của một cô gái tài hoa sống cách nhà thơ ba trăm năm, trong một bài thơ chữ Hán nổi tiếng “ Độc Tiểu Thanh kí”. Ông có nỗi ám ảnh về những kiếp hồng nhan bạc mệnh , về những kiếp nghệ sĩ tài hoa và ông cũng muốn người đời sẻ chia với những kiếp hồng nhan bạc mệnh: Tay Ho cảnh đẹp hóa gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. Son phấn có thần chôn vẫn hận. Văn chương không mệnh đốt còn vương. Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang. Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng? Có thể là bài thơ được Nguyễn Du viết vào thời gian đi sứ Trung Quốc, nhận đọc được một tập thơ của Tiểu Thanh ( có ý kiến cho rằng không phải là tập thơ mà là một tập truyện viết về Tiểu Thanh ), một người con gái tài sắc mà bất hạnh sống vào đầu đời Minh ( Trung Quốc ). Tiểu Thanh làm lẽ, bị vợ cả ghen bắt ở ngôi nhà. riêng trên núi Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Nàng buồn mà chết lúc mới mười tám tuổi. Nàng có tập thơ bị vợ cả ghen đem đốt. Tập thơ còn lại một phần và được người đời chép lại. Tập thơ cháy dở ( hay là đọc truyện mà biết được chi tiết này) của một người con gái bạc mệnh đã xáo trộn tâm hồn nhà thơ: Tay Ho cảnh đẹp hóa gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. Gò hoang chính là núi Cô Sơn, nơi cấm cố nàng Tiểu Thanh. Gò hoang bên cạnh cảnh đẹp Tay Ho càng gợi nỗi thương tâm của thi nhân . Sự lãng quên của người đời cứ hiển hiện ra đấy. Ngồi bên cửa sổ , nhà thơ thổn thức khi đọc tập thơ ( phần dư cảo ) của Tiểu Thanh mà ông gọi là mảnh giấy tàn ( thực ra do cách hiểu của người dịch mà thành ra “ mảnh giấy tàn” chứ trong nguyên chữ “ thư” có nghĩa là sách, có thể là thơ cũng có thể là truyện ). Văn chương cũng chịu số phận bi đát của hồng nhan. Cũng là mối tình , cũng là kẻ “ cùng hội cùng thuyền”, nhà thơ cảm thấy xót thương cho Tiểu Thanh mà cũng là xot thương cho những kiếp tài hoa bạc mệnh. Thổn thức trước những vần thơ bạc mệnh, trước kiếp tài hoa xấu số, nhà thơ suy tưởng về thân phận và tài hoa của nàng Tiểu Thanh: Son phấn có thần chôn vẫn hận Văn chương không mệnh đốt còn vương. Câu thơ “ son phấn có thần chôn vẫn hận” nguyên văn chữ Hán là “ chi phấn hữu thần liên tử hậu”. “ Son phấn có thần” chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết. Trần Trọng San dịch hơi khác Vũ Tam Tập, ông dịch là “ son phấn có tinh anh nên khi chết rồi vẫn còn có người thương xót”. Do câu trúc đa nghĩa của thơ mà có nhiều cách dịch khác nhau như vậy và cũng khiến cho thơ đầy bí mật. trong những vật gắn liền với người con gái, Nguyễn Du đã chọn son phấn và ông đã nhân cách hóa son phấn để suy tưởng. “ Son phấn có thần” chắc phải xót xa vì nó đã gắn bó với người con gái bạc mệnh. Thật ra là một cách nhà thơ thương xót, hận cho Tiểu Thanh. Văn chương làm gì có “ mệnh” mà cũng bị đốt, bị lụy. Từ “ lụy” trong nguyên tác rất hay, diễn tả được nỗi oan của văn chương mà cũng chính là nỗi oan khuất của kẻ tài hoa. Chuyển sang hai câu luận, nhà thơ triết lí về thân phận bé nhỏ của con người và cảm thấy đau đớn, xót xa cho Tiểu Thanh, cho chính mình: Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang. Nỗi đau của Tiểu Thanh nằm trong nỗi đau lớn của nhân loại. Mà nỗi hận của người đời xưa nay không thể hỏi trời được: Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi ( Cổ kim hận sự thiên nan vấn) Câu thơ nguyên tác, với những thanh trắc : ( cổ, hận, sự , vấn ) diễn tả một cách bi phẫn nỗi đau của những kiếp người thấp cổ bé họng. Nguyễn Du đau đớn, căm giận trước sự thất bại của cái THIỆN, cái MĨ trước cái ác. Nhà thơ tự thấy là người cùng hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã:. Cái án phong lưu khách tự mang ( Phong vận kì oan ngã tự cư) Chữ “ ngã” rất lạ. Nhà thơ đã tự xưng “ ngã” ( tôi) để nhập thân vào với Tiểu Thanh như trong “ Truyện Kiều” để gợi lên những điều nhức nhối của nhân thế. Đau đớn trước nỗi oan kì lạ của Tiểu Thanh, xót xa trước sự lãng quên của người đời , nhà thơ khóc cho Tiểu Thanh, một co gái tài hoa bạc mệnh hơn ba trăm năm và đặt câu hỏi lớn cho ba trăm năm sau: Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng? Tại sao lại là “ ba trăm năm lẻ” mà không là con số khác? Là vì nhà thơ đang thổn thức với tập thơ cháy dở của Tiểu Thanh, một nữ sĩ tài hoa cách đó hơn ba trăm năm. Tiểu Thanh bất hạnh, nhưng hơn ba trăm năm sau đã có người chia sẻ. Liệu hơn ba trăm năm sau “ người đời ai khóc Tố Như”? Ai sẽ là người khóc cho con người đang khóc Tiểu Thanh hôm nay? Một lời tự vấn xót xa. Một câu hỏi cho ba trăm năm sau như vậy là vì những điều trông thấy bấy giờ. Cuộc đời đen bạc, quyền sống của con người bị chà đạp. Đâu là người tri âm, tri kỉ? Cô đơn đến tột cùng. Khi thì nhà thơ nhập thân vào với Thúy Kiều “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, khi thì nhà thơ nhập thân với Tiểu Thanh để kêu lên một tiếng xé lòng: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. Hiểu như vậy rồi, tôi lại tự hoài nghi về sự hiểu biết của mình vì vừa rồi trên báo Giáo dục và Thời đại, giáo sư Bùi Văn Nguyên có cho biết hai câu kết trong bài “ Dộc Tiểu Thanh kí” không phải của bài thơ này. Đây là hai câu thơ khẩu chiếm, là lời trối trăng của Nguyễn Du trước khi qua đời. Không biết ai đã lấy hai câu thơ khẩu chiếm ráp vào bài “ Độc Tiểu Thanh kí”. Còn hai câu kết của bài thơ này thì bị thất lạc. Giáo sư Bùi Văn Nguyên biện luận rất chặt chẽ. Xin dẫn ra đây một lập luận của giáo sư về hình thức. Bài thơ “ Độc Tiểu Thanh kí” là bài thơ luật bằng vần bằng. vậy mà chữ thứ hai của câu kết lại trắc ( hạ). Như vậy bài thơ thất niêm. Một bậc đại thi hào như Nguyễn Du không thể để lại cho đời một bài thơ thất niêm. Đó là thông tin khoa học mới nhất. Bây giờ lại trở về với công việc “ lôi thôi sĩ tử” Bài thơ thể hiện tinh thần cao quý của Nguyễn Du. Ông có tình yêu thương mênh mông đối với những kiếp tài hoa bạc mệnh dù là người Việt Nam hay người Trung Quốc. Rồi ông lại tự vận vào mình, thương cảm, xót xa về nỗi cô đơn của mình. Một chữ “ ngã” ( tôi) sừng sững giữa nền văn học phi ngã , chứng tỏ một nhân cách lớn , một tâm hồn lớn.Ông đau đời vì đời chưa thắng được cái ác. Nhưng chính những giọt nước mắt thương đau của ông trên mồ Đạm Tiên, trên mảnh giấy tàn của Tiểu Thanh đã góp phần công phá vào thành lũy của cái ác. Chính vì vậy mà chưa đợi đến ba trăm năm, nhân dân ta và Hội đồng hòa bình thế giới đã kỉ niệm hai trăm năm ngày sinh của nhà đại thi hào ( 1960), thiên hạ đã “ khấp” Tố Như..

<span class='text_page_counter'>(3)</span>

<span class='text_page_counter'>(4)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×