Khảo sát ngôn ngữ trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
1. Lý do nghiên cứu và mục đích nghiên cứu...................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................5
3. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................6
4. Giả thiết nghiên cứu......................................................................................7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................7
6. Kết cấu của đề tài..........................................................................................7
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ TRÊN BÁO MẠNG
ĐIỆN TỬ...............................................................................................................9
1.1. Khái niệm ngơn ngữ báo chí......................................................................9
1.2. Đặc điểm cơ bản của ngơn ngữ báo chí trong tác phẩm báo chí................9
1.3. Báo mạng điện tử và ngơn ngữ trên báo mạng điện tử............................10
CHƯƠNG II: KHẢO SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGÔN
NGỮ TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ HIỆN NAY.............................................14
2.1. Cách sử dụng ngôn ngữ thể hiện rõ tính đa phương tiện của báo mạng
điện tử..............................................................................................................14
2.2. Ngơn ngữ thể hiện được đặc trưng của các thể loại báo chí khác nhau...19
2.3. Những vấn đề đặt ra với ngơn ngữ báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay
.........................................................................................................................21
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA VIỆC SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY................................................................................................28
3.1. Nâng cao trình độ sử dụng ngôn ngữ của đội ngũ người làm báo mạng
điện tử..............................................................................................................28
3.2. Người làm báo tự trau dồi kiến thức khi viết tin bài trên báo mạng điện tử
.........................................................................................................................31
3.3. Cần sự phối hợp tốt giữa phóng viên và biên tập viên.............................33
3.4. Tạo điều kiện thuận lợi cho phóng viên, biên tập viên làm việc..............35
KẾT LUẬN.........................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................37
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu và mục đích nghiên cứu
Tháng 12/1997, tạp chí Q hương cơng bố trang báo mạng điện tử của
mình, đánh dấu mốc cho sự hình thành và phát triển loại hình báo chí này tại
Việt Nam. Làng báo Việt Nam có thêm một thành viên mới.
Báo mạng với dung lượng gần như vô tận cũng phá vỡ sự gị bó về mặt diện
tích của báo in hay thời lượng phát sóng của truyền hình, phát thanh. Số lượng
tin bài đăng tải không hạn chế. Điều này làm cho thơng tin vừa đảm bảo tính
thời sự, vừa phong phú hơn…
Chính vì có nội dung thơng tin phong phú, số lượng tin bài nhiều nên vấn đề
sử dụng tốt các thành tố ngôn ngữ để chuyển tải thơng tin một cách có hiệu quả
rất quan trọng đối với báo mạng điện tử. Ngôn ngữ báo mạng điện tử hiểu theo
nghĩa rộng gồm chữ viết, âm thanh, hình ảnh động, hình ảnh tĩnh… cịn theo
nghĩa hẹp, đó là ngôn ngữ tồn tại dưới dạng chữ viết.
Bên cạnh những mặt tích cực thì báo mạng điện tử cũng sử dụng chưa hiệu
quả ngôn ngữ vẫn xảy ra khá nhiều trên các tin của báo mạng điện tử Việt Nam.
Việc phát huy tính đa phương tiện trong ngơn ngữ chưa thực sự nổi bật. các
trang báo mạng điện tử, công chúng có thể gặp khơng ít các lỗi như sai chính tả,
dùng từ sai, ngữ pháp khơng chuẩn, câu mơ hồ… Những hiện tượng này đã làm
lệch lạc thông điệp mà tòa soạn muốn chuyển tải, đồng thời làm sai lệch ngơn
ngữ tiếng Việt.
Trước tình hình đó, tơi nhận thấy cần phải thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
ngôn ngữ trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay”. Đề tài này được nghiên
cứu nhằm mục đích: Đưa ra những cơ sở lý luận về báo chí, ngơn ngữ và ngơn
ngữ trên báo mạng điện tử; Từ việc khảo sát thực tiễn các trang báo mạng điện
tử để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trên báo mạng điện
tử ở Việt Nam hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một loại hình báo chí mới nên trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng, những cơng trình nghiên cứu về báo mạng điện tử chưa nhiều.
Với cuốn “Writing for the web” (Viết bài cho web) in năm 1999, tác giả
Kilian Crawford gần như là người đầu tiên (theo các tài liệu liên quan mà chúng
tôi thu thập được) đề cập khá chi tiết việc sử dụng ngôn ngữ trong các bài viết
được đăng tải trên mạng.
Tiếp đó, năm 2002, một tác giả khác là Mike Ward cho ra mắt cuốn
“Journalism Online” (Báo chí trực tuyến).
Có thể nói, các tác giả đã nghiên cứu khá chi tiết về cách viết cho báo mạng
điện tử. Tuy nhiên, đây là những nghiên cứu mang tính tổng thể về việc viết như
thế nào, sử dụng ngôn từ như thế nào để phù hợp với việc thơng tin trên báo
mạng điện tử nói chung chứ khơng đi sâu vào một thể loại báo chí cụ thể.
Ở Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu về ngơn ngữ báo điện tử chưa nhiều.
Hiện có một số cuốn sách chun sâu về ngơn ngữ báo chí là “Ngơn ngữ báo
chí” của tác giả Nguyễn Tri Niên (năm 2006), “Một số vấn đề về sử dụng ngơn
từ trên báo chí” (năm 2003) và “Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong
truyền thơng đại chúng” (năm 2008) của PGS.TS. Hồng Anh, giảng viên Học
viện Báo chí và Tun truyền, “Ngơn ngữ báo chí” của PGS.TS. Vũ Quang Hào,
giảng viên Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn (ĐH KHXH&NV),
Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐH QGHN) in năm 2004 (tái bản năm 2007, 2010).
Tuy nhiên, các cuốn sách này đều không bàn về ngôn ngữ báo mạng điện tử mà
chỉ nói tới ngơn ngữ báo chí nói chung.
Bên cạnh đó, có thể kể tới một số luận văn, khoá luận tốt nghiệp của học
viên, sinh viên chuyên ngành báo chí. Tác giả Nguyễn Thu An trong “Ngơn ngữ
báo chí Internet” (Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành báo chí, ĐH KHXH&NV, ĐH
QGHN) có nghiên cứu về ngơn ngữ báo mạng điện tử nhưng theo hướng chỉ ra
các đặc điểm chung về ngơn ngữ của loại hình báo chí này.
Nhiều luận văn, khố luận khác có bàn về báo điện tử nhưng chỉ xoay quanh
các vấn đề về quảng cáo (Nguyễn Thị Thanh Hoa, “Hiện trạng và xu hướng
quảng cáo trên báo trực tuyến”, khoá luận tốt nghiệp K45, ĐH KHXH&NV, ĐH
QGHN), về tính tương tác của báo trực tuyến (Vũ Thị Huệ, “Sự tương tác giữa
báo chí trực tuyến với cơng chúng”, khố luận tốt nghiệp K45, ĐH KHXH&NV,
ĐH QGHN), về vấn đề sử dụng tít (Khương Thị Ngọc Thương, “Thực trạng sử
dụng tít báo trên báo điện tử Việt Nam hiện nay”, khoá luận tốt nghiệp K49, ĐH
KHXH&NV, ĐH QGHN)…
Một số khố luận có nghiên cứu chuyên sâu về từng thể loại như phóng sự
(Lê Minh Thanh, “Phóng sự báo chí trực tuyến”, khố luận tốt nghiệp K47, ĐH
KHXH&NV, ĐH QGHN) hay giao lưu trực tuyến (Tơ Mai Trang, “Giao lưu trực
tuyến”, khố luận tốt nghiệp K47, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN).
Tuy nhiên, nhìn chung chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu riêng biệt về ngôn
ngữ trên báo mạng điện tử.
3. Phương pháp nghiên cứu
Các nghiên cứu đánh giá dựa trên cơ sở lý luận của Triết học Mác – Lenin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận báo chí. Đồng thời, tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật hiện hành của nước Việt Nam.
Để tìm hiểu và nghiên cứu đề tài em đã sử dụng kết hợp một số phương
pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp tiếp cận thu thập thông tin: lựa chọn vấn đề từ việc quan sát
và tiếp cận đối tượng nghiên cứu thơng qua nhiều hình thức.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: phân tích các tài liệu của những người đi
trước, những cơng trình nghiên cứu đã thực hiện để tránh trùng lặp. Các tài liệu
đa dạng hóa từ sách vở, thư viện, internet,…
- Phương pháp phi thực nghiệm: tiếp cận thông tin qua điều tra từ những
người hoạt động trong lĩnh vực báo chí như phóng viên, biên tập viên,… Điều
này giúp đem lại thông tin cập nhật hơn, xác thực hơn mà khơng có trong tài liệu
khác.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh tìm ra những điểm cần lưu ý trong giải
quyết vấn đề, tìm ra những điểm khác biệt và mối tương quan giữa các kiểu
chệch chuẩn đã tìm được
- Phương pháp phân tích và tổng hợp sử dụng để phân tích tư liêu, xếp tư
liệu vào những loại cụ thể, à phương pháp được em vận dụng trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
4. Giả thiết nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu về ngơn ngữ trên báo mạng điện tử, tôi đã kết
hợp lý luận và thực tiễn để đưa ra một số giả thiết như sau:
- Ngôn ngữ sử dụng trên báo mạng điện tử có tính đa phương tiện bao gồm
cả tín hiệu hiệu ngơn ngữ và phi ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ báo mạng điện tử là ngơn ngữ chuẩn mực nhất trong các loại
hình báo chí hiện nay.
- Người làm báo chưa sử dụng hết khả năng ngôn ngữ của báo mạng điện tử.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề sử dụng các tín hiệu ngôn
ngữ trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay. Đối tượng cụ thể là những tin
bài đã được đăng tải trên các báo điện mạng điện tử chính thống, đã được cấp
phép hoạt động báo chí.
Phạm vi nghiên cứu là những tin bài đăng tải trên báo mạng điện tử ở Việt
Nam.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo đề tài
bao gồm 3 nội dung chính như sau:
Chương I: Cơ sở lý thuyết về ngơn ngữ trên báo mạng điện tử
Chương II: Khảo sát và đánh giá thực trạng sử dụng ngôn ngữ trên báo mạng
điện tử hiện nay
Chương III: Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng
ngôn ngữ trên báo mạng điện tử ở việt nam hiện nay
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ TRÊN BÁO MẠNG
ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm ngơn ngữ báo chí
Từ điển tiếng Việt giải thích: “ Ngơn ngữ là hệ thống những âm, những từ và
những quy tắc kết hợp chúng mà những người trong cùng một cộng đồng dùng
làm phương tiện để giao tiếp với nhau”
Theo Giáo sư Hoàng Phê, ngôn ngữ là “hệ thống những âm, từ và những quy
tác kết hợp chúng, làm phương tiện để giao tiếp chung trong một cộng đồng”,
đồng thời cũng là “hệ thống ký hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt, thông
báo”.
Về khái niệm ngơn ngữ báo chí, trong các loại từ điển thì chưa có khái niệm
cụ thể. Trong Giáo trình Tác phẩm Báo chí đại cương (TS. Nguyễn Thị Thoa
chủ biên, Nxd Giáo dục, 2012, Tr.72) có đưa ra định nghĩa: “Ngơn ngữ báo chí
là tồn bộ các tín hiệu và các quy tắc kết hợp chúng mà nhà báo dùng để chuyển
tải thơng tin trong tác phẩm báo chí.”
Từ nghiên cứu cụ thể các tác phẩm báo chí, có thể giải thích thêm ngơn ngữ
báo chí là ngơn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế,
phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ
xã hội. Ngơn ngữ báo chí có một chức năng chung là cung cấp tin tức thời sự,
phản ánh dư luận và ý kiến của quần chúng. Đồng thời nêu lên quan điểm chính
kiến của tờ báo, nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
1.2. Đặc điểm cơ bản của ngơn ngữ báo chí trong tác phẩm báo chí
1.2.1. Tính khn mẫu (chính xác và hàm súc để biểu đật nội dung)
- Tính chính xác: Ngơn ngữ phản ánh đúng bản chất của sự việc trong thời
khắc, trong từng bối cảnh nhất định. Dù ngơn ngữ nào (văn bản, hình ảnh tĩnh,
hình động, âm thanh,…) thì tác phẩm báo chí được tạo ra vẫn phải là một văn
bản đơn nghĩa, dễ hiểu cho mọi tầng lớp cơng chúng.
- Tính hàm súc: Thông tin phải được dồn nén tối đa trong một đơn vị ngôn
ngữ hạn hẹp để đáp ứng nhu cầu thơng của cơng chúng. Vì vậy, người viết phải
chọn lọc những ngôn ngữ thật đắt để thông vừa đơn giản, dễ hiểu và thực hiện
các chức năng của báo chí.
1.2.2. Tính biểu cảm
Dùng ngơn ngữ để biểu đạt những trạng thái tình cảm của con người (trạng
thái tâm lý: hỷ, nộ, ái, ố, yêu-ghét,...; quan điểm chính trị; quan ddiemr thẩm mĩ;
…)
Ngôn ngữ biểu cảm là ngôn ngữ hình ảnh, âm thanh, ngơn ngữ đời thường,
khẩu ngữ, các biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, so sánh, liên tưởng,…)
1.2.3. Tính định lượng và tính ngắn gọn
- Các tác phẩm báo chí thượng bị giới hạn vè mặt thời gian hay diện tích
xuất hiện trên báo, đó là tính định lượng. Vì thế, việc lựa chọn và sắp xếp các
thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh đầy đủ lượng sự kiện mà
không vượt quá khung cho phép về thời gian và không gian.
- Ngơn ngữ báo chí cũng cần ngắn gọn và sức tích để người đọc nhanh
chóng nắm được thơng mà khơng mất q nhiều thời gian. Ngắn gọn khơng có
nghĩ là cộc lốc, đơn điệu mà người viết phải biết lựa chọn thơng nào nên được
thơng báo nhanh chóng.
1.3. Báo mạng điện tử và ngôn ngữ trên báo mạng điện tử
1.3.1. Báo mạng điện tử
Báo mạng điện tử có nhiều tên gọi khác như báo trực tuyến, báo online, báo
điện tử. Trong đó, báo mạng điện tử được hiểu là báo điện tử tồn tại, phát triển
và quảng bá trên mạng internet.
Trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí (PGS.TS. Nguyễn Văn Dững, Nxb Lao
động, Tr.123) định nghĩa: “Báo mạng điện tử là loại hình báo chí – truyền thơng
tồn tại, phát triển trên mạng internet toàn cầu. Là kênh truyền thông dặc thù ra
đời sau, báo mạng điện tử đã hội tụ được nhiều ưu điểm nổi trội của các kênh
truyền thơng trước đó, đồng thời cũng bộc lộ những bất cập.”
Báo mạng điện tử có sự kết hợp của khoa học kỹ thuật nhiều hơn so với các
loại hình báo chí xuất hiện trước đây như báo in, phát thanh, truyền hình. Do đó,
báo mạng điện tử có những đặc điểm chiếm ưu thế vượt trội như khả năng đa
phương tiện, tính tương tác, tính thời sự của thơng tin…
Trong đó, phải kể đến tính đa phương tiện giúp báo mạng điện tử có khả
năng tích hợp được ưu thế của các loại hình báo chí khác như tính văn bản và
khả năng lưu trữ dưới dạng văn bản của báo in, hình ảnh động và âm thanh của
truyền hình, âm thanh của phát thanh. Nó cũng khắc phục được tính đơn điệu và
tĩnh của báo in cũng như hạn chế trong trật tự tuyến tính thời gian phát sóng của
phát thanh và truyền hình. Trên báo mạng điện tử, cơng chúng có thể đọc, nghe
và xem. Các yếu tố chữ viết, đồ họa, video clip được sử dụng linh hoạt tạo ra
nhiều cổng thông tin để công chúng tiếp cận dễ dàng. Chính sự tích hợp này làm
cho báo mạng điện tử thực sự phong phú, đa dạng, sinh động và hấp dẫn trong
cách chuyển tải thông tin.
1.3.2. Đặc điểm ngôn ngữ báo mạng điện tử
Ngôn ngữ của một tác phẩm báo chí bao gồm tồn bộ các thành tố cấu
thành, cấu trúc nên tác phẩm đó. Các loại hình báo chí khác nhau sử dụng ngôn
ngữ không giống nhau. Ngôn ngữ báo hình có hình ảnh, âm thanh, góc quay…
trong đó, ngơn ngữ hình ảnh chiếm vai trị chủ đạo. Ngơn ngữ báo phát thanh có
tiếng, giọng điệu, tiếng động hiện trường, nhạc… trong đó tiếng có vị trí quan
trọng nhất. Ngơn ngữ báo in có phần chữ viết, phơng chữ, ảnh… trong đó ngơn
ngữ chữ viết chiếm vai trị chủ đạo. Ngơn ngữ của báo mạng điện tử có các yếu
tố hình ảnh, âm thanh, chữ viết, ảnh… Có thể thấy, báo mạng điện tử là loại hình
báo chí đa dạng nhất về thành tố ngôn ngữ.
Không chỉ khác về thành tố cấu thành so với các thể loại báo chí khác, ngơn
ngữ báo mạng điện tử cịn có sự khác nhau về vị trí, vai trị, cấu trúc… của từng
thành tố do chịu sự chi phối bởi đặc điểm của loại hình báo chí này.
Báo điện tử do có đặc điểm đa phương tiện nên ngôn ngữ báo mạng điện tử
là sự kết hợp của ngôn ngữ thuộc nhiều loại hình báo chí, trên cơ sở lấy chữ viết
làm yếu tố chính. Cụ thể, trong ngơn ngữ báo mạng điện tử có ngơn ngữ chữ
viết của báo in, ngơn ngữ tiếng nói của phát thanh và ngơn ngữ bằng hình ảnh
của truyền hình, song nó có sự gần gũi nhất với ngôn ngữ báo in. Điểm khác biệt
giữa ngôn ngữ báo mạng điện tử và báo in là trong các thành tố ngôn ngữ báo
mạng điện tử khơng có ngơn ngữ của kiểu chữ, cỡ chữ do phông chữ trên báo
điện tử được sử dụng đồng nhất.
Để phát huy được tính tương tác, các tác phẩm báo chí đăng tải trên báo
mạng điện tử thường có kết cấu mở. Yếu tố mở được thể hiện khá đa dạng, đó là
những cửa sổ thơng tin đánh giá, phản hồi đặt ngay dưới từng bài báo để cơng
chúng có thể gửi ý kiến, là những chuyên trang dành riêng để đăng tải thông tin
độc giả gửi đến… Kết cấu mở còn thể hiện ở khả năng siêu liên kết được gắn
với từng từ hay cụm từ trong các bài báo, các đường dẫn đưa tới các bài báo đã
đăng tải trước đó có nội dung liên quan hoặc các chỉ dẫn “trở về”, “xem tiếp”
hay “chi tiết” để kéo người đọc tới các trang báo khác.
Đặc điểm tiếp theo của ngơn ngữ báo mạng điện tử là tính ngắn gọn, cơ
đọng, súc tích trong chuyển tải thơng tin. Do đặc thù đọc thơng tin trên máy tính
dễ mỏi mắt, đối tượng công chúng lại là lực lượng trẻ, là những người thường
xuyên bận rộn, đọc lướt nhiều hơn là đọc toàn bộ tác phẩm nên ngắn gọn là yêu
cầu quan trọng của báo mạng điện tử. Thông thường, một tin chỉ ở mức 200 đến
300 chữ, dung lượng một bài ở mức 700 đến 900 chữ.
Do yêu cầu cô đọng của dung lượng nên câu từ báo điệu tử đặc biệt đơn
giản. Ngơn ngữ thơng báo chiếm vai trị chủ đạo. Một câu không quá dài, dùng ở
thể chủ động và nên chỉ có một kết cấu chủ ngữ - vị ngữ. Khác với báo giấy,
việc tách đoạn trong báo mạng điện tử được phát huy tối đa. Thường một bài
báo được tách làm rất nhiều đoạn nhỏ, mỗi đoạn chỉ 2 – 3 câu với dung lượng 3
– 4 dòng. Khoảng cách giữa các đoạn lớn. Việc tách đoạn nhỏ và tạo khoảng
trống giữa các đoạn giúp cho độc giả đọc đỡ mỏi mắt và dễ tiếp thu thơng tin
hơn. Bên cạnh đó, tính thời sự phi định kỳ của báo mạng điện tử cũng làm cho
các yếu tố ngơn ngữ chỉ thời gian trong loại hình báo chí này chi tiết, cụ thể,
mang tính thời sự nhất trong các loại hình báo chí.
Ngơn ngữ báo mạng điện tử yêu cầu rất cao về đặt tít, viết sapo. Và để tạo sự
hấp dẫn đủ để níu kéo cơng chúng từ trang chủ thì mỗi tít trong báo mạng điện
tử đã phải đảm nhiệm vai trò là một bài báo đặc biệt, nghĩa là nó có tính độc lập
cao, có đủ khả năng chuyển tải thơng tin nhưng đồng thời cũng phải đủ sức lôi
kéo bạn đọc vào trang trong để đọc toàn bài.
Như vậy, báo mạng điện tử có các đặc điểm ngơn ngữ là: có khả năng tích
hợp nhiều loại hình ngơn ngữ, có kết cấu mở, cô đọng ngắn gọn, ngôn ngữ thông
báo chiếm vai trị chủ yếu, ngơn ngữ mang tính thời sự nóng hổi, tít và sapo có
tính độc lập cao.
CHƯƠNG II: KHẢO SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG
NGÔN NGỮ TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ HIỆN NAY
2.1. Cách sử dụng ngơn ngữ thể hiện rõ tính đa phương tiện của báo mạng
điện tử
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu mà nhà báo sử dụng trong tác phẩm báo chí
đa phương tiện để biểu đạt nội dung thơng tin. Hệ thống bao gồm hệ thống ngữ
âm, những quy tắc kết hợp chúng (tín hiệu văn tự), hình ảnh, âm thanh, tiếng
động,…(tín hiệu phi văn tự)
2.1.1. Về nội dung đề tài và kết cấu bài báo
a) Đề tài
Đề tài của báo mạng điện tử phản ánh mọi sự vận động có ý ngĩa trong xã
hội như các sự kiện, vấn đề thời sự, con người tiêu biểu với những hành động,
việc làm được nhiều người quan tâm. Với ưu thế của mình về tính nhanh chóng
và lưu trữ khơng giới hạn, báo mạng điện tử hiện nay hầu như không hạn chế đề
tài, số lượng đề tài. Các đề tài được phân chia thành hai nhóm như sau:
- Nhóm về sự kiện báo chí: Đây là những sự việc quan trọng xảy ra trong đời
sống, có tác động đến nhiều người và được nhà báo nhận thức và phản ánh trong
tác phẩm.
Có thể thấy, tất cả các trang báo mạng điện tử hiện nay đều có phần thơng tin
về sự kiện như: Sự kiện (Dantri.vn), Sự kiện nóng (Vietnamnet), Thời sự
(VNExpress),….
- Nhóm vấn đề báo chí: Đây là những điều cần được xem xét, nghiên cứu và
giải quyết. Ví dụ: vấn đề bảo vệ môi trường, vấn đề bạo lực học đường, vấn đề
lạm dụng tình dục trẻ em,…
b) Kết cấu:
Kết cấu của một bài báo đa phương tiện là sắp xếp các phần (tít, sapo, dẫn,
ảnh, text, phỏng vấn, video, audio, hộp dữ liệu,…) và các chi tiết sao cho khoa
học. logic và đúng mục đích đề ra.
Trên báo mạng điện tử, kết cấu của các bài báo phụ thuộc hoàn toàn vào ý
tưởng tác giả và những tư liệu mà nhà báo có. Thậm chí, trong một bài có thể
đan xen nhiều dạng bố cục khác nhau.
Tất cả mọi bài viết báo đều phải trình bày đầy đủ về các điểm then chốt.
Những điểm này thường được gọi trong tiếng Anh là 5 W và 1 H. Sau đây là
hướng dẫn cách viết một bài báo hay với công thức 5 W và 1 H: Who (ai) Trong tin này có những ai? What (chuyện gì): - Sự kiện quan trọng hay đáng lưu
ý gì đã xảy ra? Hoặc chủ đề của sự việc là gì? Where (ở đâu) - Tin này xảy ra ở
đâu? When (khi nào) - Chuyện xảy ra vào lúc nào? Why (tại sao) - Tại sao lại
xảy ra sự kiện đó? How (như thế nào) - Chuyện xảy ra hấp dẫn như thế nào?
Ví dụ: “Thủ tướng tiếp các Đại sứ Trung Quốc, Đan Mạch”, Vietnamnet,
13/12/2018, viết theo công thức:
“ Chiều nay, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có các
cuộc tiếp Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba và Đại sứ Đan Mạch Kim
Højlund Christensen nhân dịp các Đại sứ nhận nhiệm vụ công tác tại Việt Nam.”
- Kết cấu tháp ngược:
“Hà Nội cấm 20 tuyến đường phục vụ trận chung kết lượt về” , VNExpress,
14/12/2018
“Bi kịch nợ nần của những người hy sinh sức khoẻ để bán thận”,
VNExpress, 15/12/2018
- Kết cấu trật tự thời gian:
“Tổ chức lễ tang ông Nguyễn Văn Trân cấp Nhà nước”, Vietnamnet,
12/12/2018
“Thủ tướng tiếp các Đại sứ Trung Quốc, Đan Mạch”, Vietnamnet,
13/12/2018
2.1.2. Ngơn ngữ
- Ngơn ngữ có tính tổng hợp cao, thể hiện trước hết ở việc tích hợp tối đa và
hữu hiệu nhất các tín hiệu ngơn ngữ, bao gồm cả tín hiệu văn tự (lời nói, chữ
viết) và phi văn tự (âm thanh và hình ảnh).
Ví dụ:
+ “CSGT cặm cụi cầm giẻ lau vết dầu trên đường phố” (Dantri.vn) đăng
ngày 14/12/2018.
Bài viết có đầy đủ các yếu tố về chữ viết, lời nói, âm thanh và hình ảnh
Như vậy, để tiếp cận bài báo đa phương tiện, các giác quan đều có thể: đọc,
nghe, nhìn, cảm nhận nên hiệu ứng mang lại rất mạnh so với loại hình khác.
- Ngơn ngữ có tính hội tụ cao. Đó là sự tận dụng tính đồng hiện của ngơn
ngữ báo in, tức là tất cả các tín hiệu ngơn ngữ trong một bài báo, một trang báo
cùng đồng thời xuất hiện. Điều này giúp người đọc lựa chọn và tiếp cận thông
tin nhanh hơn mà không phải di chuyển nhiều trên màn hình
- Ngơn ngữ có tính lưu trữ cao, tức là độ lắng của thông tin, lưu được lâu
nhất nội dung thơng tin trong tâm trí cơng chúng qua quá trình đọc, nghe, xem.
Đặc điểm này có được là nhờ sự kế thừa của ngơn ngữ các loại hình khác: khả
năng truyền cảm hứng trong phát thanh, tính chân thực (khơng sử dụng kỹ thuật
photoshop với ảnh chụp và dàn dựng với cảnh quay, sự sắp xếp logic của truyền
hình, tính luận giải cao của báo in.
- Ngơn ngữ có tính tương tác cao, thiên về đối thoại hai chiều. Điều này
hoàn toàn khác các loại hình khác vì cơng chúng ngay lập túc có thể thơng qua
các tín hiệu ngơn ngữ để biểu hiện để khen chê, đồng tình, phản đối,... với bài
báo đó.
Tất cả các trang báo mạng và các bài báo mạng đều có nơi để người đọc
tương tác như: like, bình luận (comment), gửi ảnh, chia sẻ,…
Phần tương tác của báo Vietnamnet
- Ngơn ngữ có tính linh hoạt và tiện dụng cao. Điều này thể hiện ở khả năng
lựa chọn hệ thống tín hiệu ngơn ngữ sao cho tác phẩm đạt hiệu quả biểu đạt
thông tin tối ưu.
Trong một bài báo mạng điện tử, bất cứ tin hiệu ngơn ngữ nào theo mục
đích, u cầu của mình: có thể gồm nhiều hình ảnh tĩnh và chữ viết (tin ảnh,
phóng sự ảnh,…); có thể gồm âm nhạc, tiếng động và lời nói; có thể gồm hình
ảnh động, âm thanh, tiếng động và chữ viết,… Độc giả có thể dễ dàng thấy
nhiều dạng bài khác nhau trong trang báo mạng điện tử mà khơng theo bất cứ
khn mẫu nào.
Ngồi ra, tính chất này cịn thể sự liên kết ngơn ngữ giữa những bài bào,
trong cùng một bài, những tờ báo khác,…thơng qua hệ thống link.
Ví dụ:
+ “Nhà báo Liên Liên: Cô gái nhỏ và những thước phim lớn” (Laodong.vn),
đăng ngày 10/11/2018
Người đọc có thể tìm hiểu thêm về nhân vật bằng việc click vào từ bôi đỏ in
đậm “nhà báo Liên Liên”
2.1.3. Ngôn ngữ báo mạng điện tử yêu cầu rất cao về đặt tít, viết sapo
Có thể nói, so với báo in, báo điện tử có lợi thế về dung lượng chuyển tải,
diện tích vơ hạn. Tuy nhiên, nhìn ở một góc độ khác, báo điện tử lại có diện tích
mặt báo nhỏ hơn so với báo in vì chỉ khn trong giao diện màn hình máy tính.
Trong một diện tích nhỏ hẹp như vậy, tịa soạn phải quảng bá được nhiều thông
tin và là những thông tin hấp dẫn, mới, “nóng”.
Vì thế, thay cho cả một bài viết hiện ra trước mắt độc giả, báo mạng điện tử
chỉ có thể đưa được các tít báo ra bên ngồi. Nếu các tít báo trên trang nhất của
báo in có thể tạo điểm nhấn bằng cách tạo hình thức khác biệt như in đậm, in
nghiêng, dùng nhiều cỡ chữ, kiểu chữ khác nhau hoặc dùng màu sắc, hình ảnh
thì báo mạng điện tử khơng có được lợi thế đó.
Các báo mạng điện tử thường xếp thành một danh sách các tít bài cùng một
cỡ chữ và chạy thành cột. Nếu tít, sapơ trong báo in thường gắn chặt và đi liền
với phần text, người đọc mở trang báo ra là thấy cả một khối nguyên vẹn các
thành tố trong một bài báo thì báo mạng điện tử, các thành tố này lại mang tính
độc lập cao vì chúng khơng phải lúc nào cũng đi liền nhau và chủ yếu là tách
rời, màn hình chỉ giới thiệu một lượng thơng tin giới hạn.
Chỉ khi người đọc nhấp chuột vào trang trong mới có thể thấy tồn bộ tác
phẩm báo chí hiển thị với đầy đủ tít, sapo, text, ảnh. Cịn lại, trên trang chủ,
trong chun trang hoặc khi đóng vai trị là đường dẫn đến tin tham khảo thì hầu
như chỉ có sự hiện diện của tít bài, trong trường hợp là thơng tin mới, nóng thì
có thêm vài dịng thơng tin tóm tắt.
Vì thế, khi lướt qua một danh mục tin tức, người đọc 24 thường chỉ nhìn vào
những tít nổi bật nhất và bỏ qua hầu hết các tít hoặc phần tóm tắt khác.
2.2. Ngơn ngữ thể hiện được đặc trưng của các thể loại báo chí khác nhau
Hệ thống thể loại báo chí được phân chia theo nhiều cách từ tính chất, mục
đích, phương pháp sáng tạo,… Tuy nhiên, trong khn khổ nghiên cứu này xin
được phân tích về ngơn ngữ của 4 thể loại cơ bản là: tin, phóng sự, phỏng vấn và
bình luận
2.2.1. Thể loại tin
Tin tức của hầu hết các báo đều bám sát những sự kiên mới một cách nhạy
bén và phản ánh sự kiện ở thời điểm tiêu biểu như mở đầu, kết thúc hoặc ở
những thời điểm sự kiện bộc lộ thêm những tính chất mới.
Tin trả lời những câu hỏi W+H một cách ngắn gọn và khái quát: What
(Chuyện gì), When (Khi nào), Where (Ở đâu), Who (Ai), How (Như thế nào),
Why (Tại sao),…Về hình thức, tin ngắn gọn, cơ đúc thể hiện bằng chữ, hình
ảnh, lời để phản ánh sự kiện mới
Phần lớn tin đều có ngơn ngữ rõ ràng và đơn giản sao cho mọi người đều
hiểu. Ngôn ngữ tin chặt chẽ, chính xác, thể hiện được bản chất của sự thật. Tin
báo mạng hầu hết khá ngắn gọn, cô đọng từ 200 đến 800 chữ, bỏ qua những gì
thực sự khơng cần thiết. Hạn chế sử dụng những từ hoa mĩ, sao rỗng, ý cường
điệu, ví von, so sánh,…trừ những trường hợp đặc biệt, người viết có dụng ý cần
sử dụng.
2.2.2. Phóng sự
Phóng sự trên báo mạng điện tử cũng có nhiệm vụ thơng tin thời sự về người
thật, việc thật trong đời sống – xã hội. Phóng sự vẫn giữ vai trò là thể laoij quan
trọng, được cơng chúng u thích, có tác động mạnh mẽ và làm nên thương hiệu
của tờ báo.
Ví dụ: Những bài phóng sự được nhiều người đón nhận gần đây:
+ Loạt bài phóng sự: “Đêm trắng lần theo dấu vết “quỷ” ấu dâm ngoại
quốc”, Laodong.vn, 2018
+ Trắng đêm tìm bẳng chứng bảo kê chợ Long biên, />2.2.3. Phỏng vấn
Bài phỏng vấn thể hiện dưới hình thức hỏi đáp giữa nhà báo với một nhân
vật nào đó về một sự kiện, vấn đề quan trọng hoặc quan điểm, ý kiến, phẩm chất
của một con người tiêu biểu.
Phỏng vấn trên báo mạng điện tử cũng cung cấp thơng tin nhanh chóng về
một sự kiện, vấn đề vừa hoặc đang diễn ra; khi công chúng chưa thống nhất cách
hiểu, hiểu chưa đủ thì phỏng vấn xuất hiện để định hướng thông tin; khi phải
làm rõ những chủ trương mới ban hành,…
Đồng thời, phỏng vấn có thể thực hiện khi muốn tôn vinh việc làm, con
người của một nhân vật, tấm gương nào đó.
2.2.4. Bình luận
Bài bình luận thực hiện nhiệm vụ giải thích, cắt nghĩa một biến cố hay một
vấn đề trong cuộc sống, qua đó hướng dẫn cách nhìn nhận cho cơng chúng. Các
trang báo mạng điện tử cũng nhanh chóng cập nhật những tác phẩm mang đến
được cái nhìn tồn diện, sâu sắc và định hướng cách suy nghĩ phù hợp cho công
chúng trước những thông tin đa dạng và phức tạp như hiện nay.
Tuy người đọc báo mạng chiếm số lượng khá lớn nhưng đối tượng hướng
đến những bài bình luận là khơng nhiều. Người viết và đọc bài bình luận thường
có tri thức tốt, cách suy nghĩ đa chiều, ham học hỏi và suy luận.
Đặc biệt, đối với người viết, họ có thể khơng lớn tuổi nhưng phải là có kinh
nghiệm và kiến thức dày dặn.
2.3. Những vấn đề đặt ra với ngôn ngữ báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện
nay
2.3.1. Tính đa phương tiện thể hiện trong các tác phẩm
Đa phương tiện là cụm từ được gắn liền với báo mạng điện tử hiện nay ở
Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Tuy nhiên, qua khảo sát và đánh giá
các trang báo mạng điện tử có thể nhận thấy tính đa phương tiện chưa thực sự
được tịa soạn và phóng viên phát huy tối ưu trong tác phẩm.
- Có nhiều bài viết được lấy từ báo in
- Tịa soạn khuyến khích sản xuất đa phương tiện nhưng chưa hẳn là bắt
buộc
- Phóng viên gặp khó khăn với các phương tiện kỹ thuật
2.3.2. Cách “giật tít” để “câu like, câu view”
Tít là câu quan trọng nhất của bài báo, là công cụ để thu hút sự chú ý của
độc giả. Cần chú trọng đến việc đặt và biên tập tít sao cho phù hợp với nội dung
mà vẫn hấp dẫn độc giả. Tít trên báo mạng càng hiệu quả thì càng có nhiều cơ
hội được các trang tìm kiếm để mắt đến.
Vấn đề giật tít cho báo mạng hiện nay còn rất nhiều khúc mắc. Việc sử dụng
ngơn ngữ một cách tuỳ tiện trên các tít báo đang khá phổ biến và gây khơng ít
bức xúc.
Sử dụng ngơn ngữ trên báo chí là vấn đề đang được đặt ra gay gắt đối với
người làm báo. Đã có những lời cảnh báo về việc sử dụng ngôn ngữ thiếu chọn
lọc, thiếu sáng tạo của một số tác giả. Đã tìm thấy sự sáo mịn, nhàm chán và rập
khuôn của nhau ở một số tác giả, họ tự tìm một mơ thức có sẵn rồi lắp ghép câu
chữ vào cho phù hợp với nội dung bài báo của mình. Chúng ta vẫn thường bắt
gặp những ngơn từ được tác giả sử dụng trong tít báo rất rối rắm, khó hiểu,
nhiều từ chun mơn mà chỉ những người hoạt động trong lĩnh vực chuyên
nghành mới có thể hiểu được…
+ Cách đặt tin dễ gây hiểu lầm
+ Nội dung khơng ăn nhập gì với tiêu đề.
Khơng có một bất ngờ gì và đặc biệt khơng có một dịng mơ tả nào về lý lịch
đối tượng. Nguồn: Báo Lao động Online
Các ví dụ phía trên là một trong số những bài báo mạng điện tử sử dụng
ngơn ngữ tít sai với hồn tồn voeis việc xây dựng tít báo. Việc có tít thu hút
khơng giống với cách gây hiểu lầm và nội dung không thống nhất.
2.3.3. Một số lỗi về việc lệch chuẩn ngôn ngữ trên báo mạng điện tử
- Lỗi chính tả
Lỗi chính tả trên báo mạng điện tử vẫn còn nhưng đã được khắc phục khi
bạn đọc phản ánh.
+ Lỗi trên báo Phapluatplus.vn
+ Lỗi đã được sửa sau đó
- Lỗi lặp từ
Việc lặp đi lặp lại một từ trong câu hay trong những câu liền kề nhau khiến
cho câu văn, đoạn văn trở nên nặng nề. Nó chứng tỏ sự nghèo nàn về vốn từ của
người viết, và được coi là một loại lỗi dùng từ.
Ví dụ 1:
Mỗi khi nước sông lọt vào, rau rút chết hàng loạt; lá vàng, thối phao, thân
nhũn, rễ có màu đen, và dài, ngọn teo lại, không trắng, và lá không mở ra được.
Câu văn trên có hai từ nối “ và” trong một câu là quá lủng củng. Vì vậy cách
sửa là bỏ hai từ “ và” thay bằng dấu phẩy.
Ví dụ 2:
Khu quản lí giao thơng 1 cho biết: trong tổng số gần 1000 tuyến đường đơ
thị tại TPHCM, có 30% số tuyến đường cần trung tu( sửa chữa vừa) nhưng đã
quá hạn, 40% số tuyến đường đã quá hạn đại tu(sửa chữa lớn) và 30% số tuyến
đường còn lại đã đến hạn duy tu( sửa chữa nhỏ)
Theo chúng tôi, ở đây nên bỏ ba cụm từ trong dấu ngoặc kép: sửa chữa vừa,
sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ; hoặc dùng những lối diễn đạt khác để không làm
câu văn trở nên rườm rà như trên.
- Lỗi thiếu từ
Người viết viết thiếu từ cần thiết gây ra những phát ngôn mơ hồ về nghĩa,
những cách hiểu lầm cho độc giả.
Ví dụ 1:
Đại hội X là lúc đặt tất cả các vấn đề lên, bàn bạc đến nơi đến chốn.
Theo từ điển tiếng Việt( Hoàng Phê), “ lên” là di chuyển đến một chỗ, một vị
trí cao hơn, hay là được coi là cao hơn. Như vậy, sau “lên” phải có một tân ngữ
đi kèm.
Chúng tôi nghĩ nên sửa là: Đại hội Đại hội X là lúc đặt tất cả các vấn đề lên
bàn nghị sự, bàn bạc đến nơi đến chốn.
Ví dụ 2:.
Với bí thư Đồn Viện Vệ sinh phịng dịch qn đội- Thiếu uý Ngô Quang
Hải, việc tham mưu cho thủ trưởng đơn vị, và làm “ khớp nối” phối hợp giữa
Đồn với Đảng uỷ, Cơng đồn các phịng ban trong cơ quan cũng địi hỏi người
cán bộ Đồn phải có tầm,…”
Người viết chỉ sử dụng một từ “ tầm” tạo cho độc giả nhiều cách hiểu khác
nhau. Đó có thể là tầm hiểu biết, tầm hoạt động… Do đó người làm báo khơng
nên viết nhiều câu có nhiều cách hiểu như vậy.
- Lỗi thừa từ
Xác nhận thơng tin chính xác thì người viết nhầm “triệu USD” thành “trăm
triệu USD”. Nguồn: ICTNEWS
- Lỗi dùng từ địa phương
Trong giao tiếp, bên cạnh ngơn ngữ tồn dân, các đơn vị thuộc về biến thể
ngôn ngữ như phương ngữ, từ địa phương cũng rất hay được sử dụng.
Theo giáo sư Nguyễn Thiện Giáp: “Từ địa phương là những từ được dùng
hạn chế ở một số hoặc một vài địa phương. Nói chung từ ngữ địa phương là bộ
phận nào đó của dân tộc, chứ khơng phải là từ vựng của ngôn ngữ văn học khi
dùng vào sách báo nghệ thuật, các từ ngữ địa phương thường mang sắc thái tu
từ”.
Tuy nhiên nếu tần số sử dụng của các từ địa phương được lặp lại nhiều trong
báo sẽ gây sự khó hiểu cho độc giả.
Ví dụ:
Tám tháng trời lăn lóc khắp miền Tây và đậu nhất ở Bến Tre.
Trong ví dụ này, người viết sử dụng chất Nam Bộ nhưng nếu người tiếp
nhận khơng biết “đậu” cũng có nghĩa là đỗ lại, dừng lại sẽ dẫn đến cách hiểu sai
về nghĩa. nên thay từ đậu bằng từ đỗ thì sẽ phù hợp hơn.
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN
TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Nâng cao trình độ sử dụng ngôn ngữ của đội ngũ người làm báo
mạng điện tử
Tăng cường ý thức trách nhiệm của người làm báo mạng điện tử trong việc
sử dụng ngôn ngữ là một giải pháp quan trọng. Người làm báo phải có trình độ
sử dụng ngơn ngữ tốt, có vốn từ tiếng Việt phong phú, khả năng vận dụng từ ngữ
linh hoạt, am hiểu ngữ pháp tiếng Việt. Nếu sự hiểu biết về ngữ pháp hạn chế,
vốn từ hạn hẹp thì dù có ý thức được vai trị của việc sử dụng chuẩn ngôn ngữ,
người làm báo cũng không thể thực hiện điều đó một cách hiệu quả trong tác
phẩm báo chí của mình.
Vì thế, nâng cao trình độ sử dụng ngơn ngữ của đội ngũ người làm báo mạng
điện tử là một yêu cầu quan trọng, có thể được thực hiện qua nhiều cách thức,
nhiều giai đoạn, từ khâu đào tạo, tuyển dụng nhân sự tới trong quá trình làm
việc.
3.1.1. Tăng cường việc đào tạo về ngôn ngữ và báo mạng điện tử trong
các chương trình đào tạo nhân lực báo chí
Theo PGS.TS. Hồng Anh, giảng viên Học viện Báo chí và Tun truyền,
ngơn ngữ là vũ khí đặc biệt quan tọng của nhà báo. Một người không giỏi về sử
dụng ngơn ngữ thì khơng thể trở thành nhà báo giỏi. Và để giỏi, người làm báo
cần được đào tạo một cách bài bản về ngôn ngữ.
Như chúng ta đều biết, ngơn ngữ báo chí hiện nay bao gồm nhiều mảng (tuỳ
thuộc vào loại hình báo chí): Ngơn ngữ báo in, ngơn ngữ phát thanh, ngơn ngữ
truyền hình, ngơn ngữ báo mạng điện tử; rồi trong mỗi loại hình lại có rất nhiều
thể loại (phóng sự, tin, bình luận, phỏng vấn ,...) với những đặc điểm riêng về
ngôn ngữ cần được khảo sát.
Ngồi ra, các mơn học về ngơn ngữ nên được sắp xếp theo trình tự như sau
trong quá trình đào tạo: Cơ sở ngôn ngữ học, Tiếng Việt thực hành, Ngôn ngữ