Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

HAI CUỘC KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.15 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ KINH TẾ QUỐC DÂN

ĐỀ TÀI

HAI CUỘC KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ
TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn : Ths. Đào Anh Quân
Sinh viên

: Bùi Thị Minh Nguyệt

Mã SV

: 1955270096

Lớp

: Quản lý Kinh tế K39 A2

Hà Nội, 05/2021
0


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................2


3. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
NỘI DUNG...................................................................................................................2
I. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp và những
chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam (1884-1918)...............................................3
1. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (18841918)........................................................................................................................3
2. Những chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam................................................8
II. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp và những
chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam (1919-1939)...............................................9
1. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp (1919-1939)
.................................................................................................................................9
2. Những chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam..............................................15
KẾT LUẬN.................................................................................................................16
DANH MỤC THAM KHẢO.....................................................................................17

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1


Cơ cấu kinh tế luôn là nền tảng và cơ sở tồn tại của một quốc gia trong các giai
đoạn lịch sử đã qua. Đối với Việt Nam, cơ cấu kinh tế thời kỳ Pháp thuộc là giai đoạn
lịch sử vơ cùng quan trọng, nó phản ánh đặc điểm cũng như tính chất của xã hội Việt
Nam, một xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến dưới thời thực dân Pháp. Nghiên cứu
về đề tài này nhằm lý giải vì sao thời kỳ cận đại xã hội Việt Nam lại mang bản chất
đó. Đồng thời lý giải những tác động trong công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp
đến xã hội Việt Nam làm xuất hiện những trào lưu tư tưởng mới, những con đường
giải phóng dân tộc mang nhiều khuynh hướng khác nhau. Và đánh giá được sự xuất
hiện của chủ nghĩa tư bản Pháp đối với xã hội Việt Nam với một cách nhìn khách
quan nhất. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, tác giả xin đi vào tìm hiểu đề tài: “Hai
cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và tác động đối với nền kinh tế Việt

Nam”
2. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ về những chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp qua 2 thời kỳ xâm lược (1884-1918 và 1919-1939), đánh giá về những chuyển
biến về kinh tế Việt Nam qua 2 thời kỳ này, từ đó làm rõ được những tác động đối với
kinh tế Việt Nam từ hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nhằm rút ra bài
học cách mạng đúng đắn trong sự nghiệp xây dựng đất nước và phát triển kinh tế Việt
Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mac –
Lênin, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để trình bày, lý giải các sự
kiện lịch sử, hai chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (1884-1939) một
cách có luận cứ khoa học và cơ sở thực tiễn.

2


NỘI DUNG
Ngay khi chiếm toàn bộ Việt Nam, thực dân Pháp đã chú ý đến yếu tố “chia để
trị” để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế. Việt
Nam bị chia cắt làm 3 xứ: xứ Nam kỳ thuộc địa đặt dưới quyền Bộ hàng hải và Bộ
thuộc địa; xứ Trung kỳ bảo hộ, xứ Bắc kỳ nửa bảo hộ, đặt dưới quyền quản lý của Bộ
ngoại giao. Pháp còn thành lập Liên bang Đông Dương gồm Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung
kỳ, Cao Miên và Ai Lao; toàn bộ Liên bang do một Toàn quyền cai trị với những
quyền dân sự và quân sự rộng rãi nhất. Liền sau đó, thực dân Pháp đã bắt tay vào
công cuộc khai thác thuộc địa mà không từ một thủ đoạn nào.
Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp được chia thành 2 giai đoạn:
- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1884-1918)
- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1939)
I. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp và những

chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam (1884-1918)
1. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1884-1918)
Pôn Đume (Paul Doumer) - nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính Pháp được cử sang
làm tồn quyền Đơng Dương từ năm 1847 - đã thi hành chính sách khai thác thuộc địa
rất tàn bạo ở Đơng Dương nói chung và Việt Nam nói riêng trên tất cả các lĩnh vực.
- Trong nông nghiệp
Thực dân Pháp thực hiện hai chính sách: tập trung hóa ruộng đất và kìm hãm
việc áp dụng khoa học, kỹ thuật.
Về chính sách tập trung hóa ruộng đất: Thực dân Pháp đã thực hiện nhiều biện
pháp nhằm cướp đoạt ruộng đất của nơng dân, như việc cho phép Thống đốc có quyền
cho và bán ruộng đất của nông dân đã cấy cày, đẩy nông dân phiêu bạt vào năm 1865,
đến việc ép triều đình nhà Nguyễn giao cho Pháp quyền sử dụng đất hoang và được tự
3


do chiếm đoạt ruộng đất của nông dân vào năm 1897 và việc ban hành Nghị định cho
phép toàn quyền Đơng Dương có quyền giao những lơ đất dưới 1000 ha cho tư bản tư
nhân Pháp vào năm 1913. Kết quả là, diện tích đất nằm trong tay tư bản tư nhân Pháp
tăng nhanh, đạt 10.000 ha năm 1890 và tăng lên 470.000 ha năm 1913 1. Như vậy,
quyền sở hữu tối cao về ruộng đất ở Việt Nam từ vua chuyển sang nhà nước bảo hộ
Pháp.
Ruộng đất mà Pháp chiếm đoạt được dùng để lập ra các đồn điền, phần lớn là
đồn điền chuyên trồng lúa, tiếp đến là các đồn điền cao su, cà phê, thuốc lá; chỉ có
một số ít đồn điền Pháp sử dụng chun sản xuất chăn ni để cung cấp thực phẩm
cho người Pháp.
Ngồi việc trực tiếp chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, Pháp cịn dùng ruộng
đất để lơi kéo một bộ phận địa chủ phản động làm tay sai đắc lực cho mình bằng cách
tạo điều kiện để bọn địa chủ có quyền chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Được sự
bảo trợ của thực dân Pháp, bọn địa chủ ra sức hồnh hành ở nơng thơn, người nơng
dân bị mất đất phải lang bạt, tha phương kiếm sống. Hậu quả là, 5% dân số là địa chủ

lại chiếm hơn 50% diện tích đất canh tác trong khi 90% dân số lúc đấy giờ là nông
dân chỉ chiếm chưa đến 20% diện tích đất canh tác ở Việt Nam2. Đất được địa chủ
phát canh thu tô nặng, nông dân phải nộp 50% hoa lợi cho địa chủ và kèm theo nhiều
khoản cống nộp khác gọi là địa tơ phụ. Chính vì vậy, đời sống nơng dân rất khổ cực.
Về chính sách kìm hãm việc áp dụng khoa học, kỹ thuật trong nông nghiệp: Mục
đích của thực dân Pháp khi thực hiện chính sách kìm hãm việc áp dụng khoa học, kỹ
thuật trong nơng nghiệp chính là tận dụng tối đa độ phì của đất và sức lao động rẻ mạt
nhằm thu lợi nhuận cao. Pháp chưa bao giờ đặt vấn đề kĩ nghệ hố nơng nghiệp ở Việt
Nam, do đó kỹ thuật canh tác rất lạc hậu. Trong các đồn điền, phương thức kinh
doanh của thực dân Pháp chủ yếu vẫn là phát canh, thu tơ theo lối bóc lột phong kiến
để tiết kiệm các chi phí chung, nhất là chi phí quản lý. Việc duy trì lối bóc lột phong
1 Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, 2010, tr.231

4


kiến kết hợp với lối cướp bóc của thực dân Pháp đã làm phá sản người nơng dân, kìm
hãm sức sản xuất trong nông nghiệp. Năng suất cây trồng đều thấp, kể cả năng suất
lúa của Việt Nam lúc bấy giờ (12 tạ/ha) cũng thấp hơn nhiều so với các nước trong
khu vực và thế giới như Thái Lan (18 tạ/ha), Malaixia (21 tạ/ha) 2. Trong khi đó, phần
lớn lương thực (nhất là sản lượng gạo) đều dành cho xuất khẩu vẫn tăng lên càng đẩy
người dân vào cảnh đói kém triền miên.
- Trong cơng nghiệp
Với mục đích khai thác các nguồn tài nguyên có tiềm năng ở thuộc địa để xuất
khẩu và tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hố cơng nghiệp ế thừa của chính quốc nên
thực dân Pháp chỉ tập trung vào các ngành công nghiệp khai thác có thế mạnh và ra
sức kìm hãm sự phát triển của các ngành công nghiệp khác ở thuộc địa. Chúng chỉ tập
trung vào các ngành sản xuất những nguyên liệu, sản phẩm mà Pháp khơng có và
khơng làm tổn tại đến cơng nghiệp của chính quốc, như ngành khai thác mỏ (than đá,
thiếc, kẽm,…) và một số ít các cơ sở công nghiệp khác phục vụ cho đời sống của bộ

máy thống trị (điện, nước, ...).
Ngành khai mỏ được Pháp rất quan tâm vì có tiềm năng dồi dào và thu được lợi
nhuận nhanh chóng. Tổng số vốn mà Pháp đầu tư vào khai mỏ giai đoạn 1896-1914 là
249 triệu phrăng3; Số giấy phép thăm dị mỏ tính trên tồn Đơng Dương tăng khá
nhanh, từ 469 giấy phép (năm 1907) lên 3.070 giấy phép (năm 1912). Trong ngành
mỏ, khai thác than chiếm vị trí quan trọng nhất với tổng sản lượng khai thác tăng từ
285.915 tấn (năm 1903) lên 500.000 tấn (năm 1913)4. Than được tập trung ở những
mỏ dễ khai thác, dễ kiểm soát, dễ bảo vệ như mỏ Hịn Gai, Đơng Triều, ... Sau mỏ
than, Pháp cũng đã chú ý đến các mỏ kim loại khác như: mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao
Bằng), mỏ kẽm Tràng Đà, Chợ Đồn (Bắc Cạn, Thái Nguyên), mỏ đồng ở Vạn Sài
(Sơn La), mỏ sắt ở Thái Nguyên, ...
2 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam (tập 2), NXB Giáo dục Hà Nội, 2014, tr.213
3 Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, 2010, tr.230
4 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam (tập 2), NXB Giáo dục Hà Nội, 2014, tr.118

5


Ngồi khai thác mỏ, các ngành cơng nghiệp khác rất ít ỏi. Chúng lập ra một số
công ty cơ khí ở Hà Nội, Hải Phòng nhưng chủ yếu là lắp ráp, sửa chữa. Ngành điện
phát triển hạn hẹp chỉ với một số nhà máy điện xây dựng tại Hải Phòng (năm 1892)
và Hà Nội (năm 1894), chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt. Cơng nghiệp nhẹ có
quy mơ nhỏ với một số xí nghiệp sản xuất rượu, bia, xay xát gạo, chế biến lâm sản,
diêm, dệt, giấy; đáng chú ý có nhà máy rượu Đơng Dương (1900), nhà máy sợi Nam
Định (1901).
Bên cạnh các xí nghiệp của thực dân Pháp, tư sản Việt Nam cũng đã bỏ vốn để
kinh doanh vào các ngành dệt, xay xát lúa, sản xuất gạch, ... nhưng quy mô nhỏ, bị lệ
thuộc vào kinh doanh của Pháp. Các ngành thủ công nghiệp Việt Nam như nghề dệt
vải, kéo sợi, giấy, đường đều bị chèn ép, nhiều nghề bị phá sản, tàn lụi; chỉ có một số
ngành tồn tại được như đồ gốm, mỹ nghệ.

Nhìn chung, cơng nghiệp ở thời kỳ này tuy có phát triển hơn trước nhưng còn
rất nhỏ bé và què quặt.
- Trong giao thông vận tải
Pháp khá chú trọng đến việc xây dựng và mở rộng mạng lưới giao thông vận tải.
Đường bộ được xây dựng đến những khu vực đồn điền, hầm mỏ, bến cảng hay các
vùng biên giới quan trọng, với các tuyến như Sài Gòn - Tây Ninh, Vinh - Sầm Nưa,
Hà Nội - Cao Bằng. Đường thủy được chú trọng mở rộng ở các sông lớn như sông
Hồng, sông Đồng Nai, ... với việc xây dựng một số cầu bắc qua sông như cầu Long
Biên (Hà Nội), cầu Tràng Tiền (Huế), cầu Bình Lợi (Sài Gịn), ... Bên cạnh đó, Pháp
cịn xây dựng một số cảng lớn như cảng Sài Gòn, cảng Đà Nẵng, cảng Hải Phòng, ...
nối liền tuyến đường biển giữa Việt Nam với Pháp và nhiều nước trên thế giới. Song
song với xây dựng các tuyến đường biển, Pháp còn thành lập các công ty tàu biển như
công ty Lăngstanh, Giăngduypuy, Rocsơ. Đồng thời, Pháp cũng ưu tiên xây dựng các

6


tuyến đường sắt chuyên chở hàng hóa, nguyên liệu như tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ
Tho (năm 1885), Hà Nội - Lạng Sơn (1902), Hà Nội - Vinh (1905), ...
Rõ ràng, mạng lưới giao thông mà thực dân Pháp xây dựng chủ yếu phục vụ cho
mục đích chính trị, kinh tế, quân sự của Pháp chứ không phải nhằm phục vụ lợi ích
của người dân Việt Nam. Đại bộ phận người Việt vẫn phải sử dụng phương tiện vận
tải cổ truyền, lạc hậu do giá cước quá đắt đỏ, mật độ đường giao thơng vẫn thưa thớt
(nếu tính trên một vạn dân thì kém Pháp 8 lần, kém Angiêri 5 lần, kém Nhật 3 lần5) và
phân bố chủ yếu ở đồng bằng, ven biển hoặc gần các sơ sở khai thác của Pháp; chất
lượng đường giao thông kém, phương tiện ít, cũ kỹ và lạc hậu.
- Trong thương nghiệp
Pháp nắm độc quyền về thương nghiệp, nhất là ngoại thương và thực hiện chính
sách trao đổi hàng hóa khơng ngang giá. Việt Nam phải bán cho Pháp những loại hàng
hóa mà Pháp cần, không được xuất sang nước khác, như nguyên liệu thô, nông lâm

sản, đặc biệt là gạo. Đồng thời, Việt Nam phải mua vào những hàng hóa mà Pháp ế
thừa, chất lượng thấp hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác, bao gồm
chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng như vải, đồ hộp, bột mì (chủ yếu phục vụ cho bộ
máy cai trị). Riêng các loại máy móc phục vụ cho sản xuất chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong
tổng giá trị hàng nhập khẩu (chỉ chiếm 1,5% - năm 1915).
Bên cạnh đó, Pháp cịn đánh thuế cao hàng hóa của các nước khác vào Việt Nam
(thuế từ 25-130%), nên tỷ lệ hàng hóa Pháp trong hàng nhập khẩu tăng nhanh, từ 37%
(năm 1894) lên 50% (năm 1898)6. Việc nhập khẩu hàng hóa càng làm cho nghề truyền
thống của Việt Nam bị phá sản, kinh tế ngày càng lệ thuộc vào Pháp. Pháp mở rất
nhiều công ty thương mại ở khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam như công ty Đơni,
Đêcua, Cabô, Bôilăng Đơri, … Trong cán cân thương mại, Việt Nam thường là nước

5 Nguyễn Tri Dĩnh (chủ biên), Giáo trình Lịch sử kinh tế, NXB ĐHKTQD, Hà Nội, 2008, tr.352-353
6 Nguyễn Tri Dĩnh (chủ biên), Giáo trình Lịch sử kinh tế, NXB ĐHKTQD, Hà Nội, 2008, tr.352-353

7


xuất siêu và chính xuất siêu mạnh cho thấy nhân dân Việt Nam càng bị bòn rút đến
tận xương tủy.
- Trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ
Thuế khóa là nét đặc trưng cho chính sách thực dân của Pháp ở Đông Dương.
Pháp nắm tất cả các nguồn thuế để xây dựng ngân sách. Năm 1898 chúng lập ra ngân
sách Đông Dương, sau đó lập ra ngân sách hàng xã, tỉnh và thành phố. Để đảm bảo
cho các ngân sách đó, chúng đặt ra rất nhiều thứ thuế nặng nề và bất công.
Nguồn thu chủ yếu đến từ thuế trực thu và thuế gián thu: Thuế trực thu là thuế
thân, thuế đinh (đánh thuế vào mọi người dân Việt Nam là nam giới từ 18-60 tuổi) và
thuế điền (đánh thuế vào ruộng đất); thuế gián thu đánh vào hàng tiêu dùng như muối,
rượu, thuốc phiện, ... Trong đó, thuế muối, thuế thuốc phiện chiếm phần lớn trong
tổng số thuế gián thu của ngân sách Đơng Dương. Ngồi ra, thực dân Pháp cịn ban

hành nhiều tứ thuế vơ lý khác như: thuế cư trú, thuế nhốt súc vật, ...
Thậm chí, để đảm bảo nguồn thu, chính quyền thực dân ấn định lượng rượu tiêu
thụ cho từng làng và từng gia đình, khuyến khích sử dụng thuốc phiện để thu thuế và
đầu độc người dân Việt Nam. Chính thuế khóa đã đem lại cho thực dân Pháp nguồn
lợi lớn. Trước khi Pháp thuộc, tiền thuế mỗi năm mà người dân Việt Nam phải nộp
cho triều đình nhà Nguyễn là khoảng 30 triệu phrăng, đến thời Đume thì số tiền thuế
phải nộp lên đến 90 triệu phrăng7.
Thực dân Pháp dành ra khoảng 50-60% tiền thuế để chi phí cho bộ máy đàn áp,
chỉ dùng khoảng 20% để phát triển kinh tế, văn hóa. Chính vì vậy, trong thời kỳ này,
kinh tế Việt nam vẫn nằm trong tình trạng lạc hậu, yếu kém hơn nhiều các nước trong
khu vực.
Năm 1875, thực dân Pháp thành lập ngân hàng Đông Dương và năm 1879, ngân
hàng Đông Dương phát hành giấy bạc: loại 1 đồng, 0,5 đồng, 0,2 đồng lưu hành ở
7 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2014, tr.116

8


Nam bộ. Đến năm 1895, tiền Đông Dương đã chiếm lĩnh tồn bộ thị trường Việt Nam.
Tiền Đơng Dương đầu tiên là tiền đúc, rồi chuyển sang tiền giấy, lấy bạc làm bản vị.
Sau đó, Pháp cho du nhập đồng Frăng vào Đông Dương làm cơ sở cho tiền tệ vào
năm 1897, với tỷ giá hối đối 1 đồng Đơng Dương = 2,5 Frăng vàng. Song song với
việc phát hành tiền, Pháp còn thành lập ra các ngân hàng để cạnh tranh với tư bản Ấn
kiều, Hoa kiều và địa chủ Việt Nam như ngân hàng Đông Dương, ngân hàng Nông
Phố, ngân hàng Pháp - Hoa, ngân hàng, thương mại, ...
2. Những chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam
Toàn bộ các chính sách khai thác thuộc địa về kinh tế của thực dân Pháp luôn
tuân thủ nguyên tắc là không phát triển công nghiệp nặng, biến Việt Nam thành thị
trường cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa cho chính quốc. Tuy nhiên, một số
yếu tố của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn du nhập vào Việt Nam (dù rất hạn chế),

làm cho nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến nhất định theo hướng tư bản chủ
nghĩa. Nhưng để đạt được lợi nhuận cao nhất, thực dân Pháp vẫn duy trì phương thức
bóc lột cũ theo lối phong kiến cổ truyền khiến cho nền kinh tế Việt Nam càng bị lệ
thuộc và kìm hãm trong nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu.
Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế phục vụ khai thác thuộc địa của Pháp cũng
đã tác động làm phân hóa giai cấp của xã hội cũ (gồm địa chủ phong kiến và nông
dân), làm nảy sinh những lực lượng xã hội mới (gồm giai cấp công nhân, giai cấp tư
sản và tầng lớp tiểu tư sản).
Tóm lại, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thự dân Pháp đã làm cho nền
kinh tế Việt Nam có một số chuyển biến nhất định, đồng thời cũng làm cho mâu thuẫn
giai cấp trong xã hội Việt Nam trở nên gay gắt. Những chuyển biến đó cùng với sự
phân hóa giai cấp cũ, xuất hiện những lực lượng xã hội mới đã tạo nên những điều
kiện trong một cuộc vận động giải phóng dân tộc theo một hướng mới.

9


II. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp và những
chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam (1919-1939)
1. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp (1919-1939)
Sau thế chiến lần thứ nhất, nước Pháp bị tàn phá nặng nề, kinh tế sa sút nghiêm
trọng, nợ nước ngoài tăng lên. Để bù đắp những thiệt hại do chiến tranh gây ra, thực
dân Pháp khơng những tăng cường bóc lột nhân dân trong nước mà còn đẩy mạnh đầu
tư, khai thác các vùng thuộc địa, đặc biệt là khu vực Đông Dương. Số vốn mà tư bản
tài chính Pháp đầu tư vào Việt Nam cao hơn nhiều so với thời kỳ trước chiến tranh,
chỉ tính trong 6 năm (1924 - 1929) đã tăng gấp 6 lần so 20 năm trước chiến tranh,
trong đó vốn đầu tư của tư bản tư nhân chiếm vị trí hàng đầu 8. Với số vốn này, Pháp
ưu tiên đầu tư vào ngành nông và lâm nghiệp, rồi đến bất động sản, ngân hàng, ngành
khai mỏ (bảng 1)
Ngành

Công nghiệp (chế biến,

Số tiền (triệu phrăng)
369,2

Tỷ lệ phần trăm (%)
12,9

cơng chính, điện nước)
Mỏ và mỏ đá
546,4
19,1
Nơng nghiệp và lâm nghiệp
900,2
31,4
Thương mại, vận tải
422,5
14,8
Bất động sản, ngân hàng
623,9
21,8
Cộng
2.862,2
100%
Bảng 1. Lượng vốn đầu tư theo các ngành kinh tế của các công ty vô danh Pháp
tiến hàng trong những năm 1924 - 1930 ở Việt Nam9
Nguồn: Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, NXBGD, Hà nội, 2014,
tr.212

Như vậy, Pháp tiếp tục duy trì các chính sách kinh tế đã thực hiện ở cuộc khai

thác thuộc địa lần thứ nhất nhưng với quy mô và cường độ lớn hơn trước nhiều lần.
- Trong nông nghiệp
8 Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Tiến trình Lịch sử Việt Nam, NXBGD, Hà Nội, 2010, tr.251
9 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, NXBGD, Hà Nội, 2014, tr.212

10


Pháp đẩy mạnh đầu tư cho nông nghiệp với số vốn tăng nhanh, từ 52 triệu
phrăng (năm 1924) lên 400 triệu phrăng (năm 1927). Đồng thời, thực dân Pháp vẫn
tiếp tục đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng đất để thành lập đồn điền, nhất là đồn điền
cây công nghiệp nhiệt đới (cao su, cà phê, hạt tiêu, gạo, ...). Năm 1928, Pháp cho
phép tồn quyền Đơng Dương có quyền chuyển nhượng những lơ đất từ 1.000 ha đến
4.000 ha. Chính vì thế, diện tích đất do người Pháp chiếm đoạt tăng nhanh, tính đến
năm 1930 đạt khoảng 1,1 triệu ha, trong đó diện tích trồng cao su khoảng 99.000 ha,
diện tích trồng cà phê khoảng 10.000 ha và diện tích trồng chè khoảng 3.000 ha. Sản
lượng cao su tăng từ 3.500 tấn (năm 1919) lên tới 6.796 tấn (năm 1924), và đã xuất
khẩu được 10.000 tấn mủ cao su vào năm 1929. Nhiều công ty cao su lớn ra đời như
công ty Đất đỏ, công ty Misơlanh, công ty trồng cây nhiệt đới,... 10. Tính đến năm
1939, 27 cơng ty đã nắm giữ 68% diện tích trồng cao su, 19 công ty đảm bảo 2/3 mức
sản xuất cao su với lợi nhuận đạt 309 triệu Frăng nhưng chỉ phải trả số tiền cơng chưa
đầy 40 triệu Frăng11.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp chú trọng hơn đến việc xây dựng và cải tạo một số
cơng trình thủy lợi nhằm cung cấp nước tưới cho nơng nghiệp, mở rộng diện tích đất
canh tác. Do đó, sản lượng lúa gạo cũng tăng lên, đạt 5,574 triệu tấn, trong đó hơn
60% dùng cho xuất khẩu12.
- Trong cơng nghiệp
Vẫn với mục đích vơ vét tài ngun và tiêu thụ hàng hóa cho chính quốc nên
Pháp
tiếp tục kìm hãm sự phát triển của cơng nghiệp thuộc địa, khơng cho cơng nghiệp

thuộc địa có cơ hội canh tranh với cơng nghiệp chính quốc. Tuy nhiên, để gia tăng lợi

10 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, NXBGD, Hà Nội, 2014, tr.213-214
11 Trích dẫn theo tài liệu: Lê Thành Khôi, Lịch sử Việt Nam – Từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB Thế giới, 2014,
tr.511
12 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, NXBGD, Hà Nội, 2014, tr.213-214

11


nhuận nên thực dân Pháp ngoài việc mở rộng quy mơ, cường độ các nhà máy, xí
nghiệp (đã có từ trước) đã cho xây dựng thêm các công ty mới.
Ngành khai mỏ được thực dân Pháp tăng cường đầu tư đáng kể. Số lượng giấy
phép được Pháp cấp tăng mạnh, tính đến năm 1930 đạt 17.585 giấy phép (trong đó
Việt Nam chiếm hơn 42% tổng số giấy phép); Số diện tích thăm dị khai thác chiếm
gần 1/4 diện tích tồn Đông Dương; Giá trị sản lượng khai thác mỏ cũng tăng nhanh
từ 8 triệu đồng năm 1916 lên 29,5 triệu đồng năm 1939 13. Trong ngành khai mỏ, khai
thác than là ngành phát triển nhất với số lượng công nhân đơng đảo và sản lượng đạt
2.615 nghìn tấn năm 1939. Ngồi than, khai thác thiếc, kẽm, chì, vonfram, ... cũng
được Pháp chú ý đến. Từ năm 1923 đến năm 1929, tổng giá trị các loại quặng khoáng
sản được khai thác tăng lên gần gấp 2 lần, đạt khoảng 200 triệu phrăng. Số quặng khai
thác được chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu, trong đó lượng than xuất khẩu chiếm tới
65% tổng sản lượng khai thác (cụ thể là xuất khẩu khoảng 1,3 triệu tấn than - tăng gấp
hai lần so với lượng xuất khẩu năm 1913)14. Bên cạnh đó, Pháp tăng cường đầu tư vốn
cho các công ty đang hoạt động, đồng thời thành lập các công ty mới như: công ty
than Hạ Long, Đồng Đăng, công ty than Tuyên Quang, Đông Triều,... Trong lĩnh vực
hầm mỏ cũng diễn ra tình trạng tập trung tư bản, riêng hai cơng ty (công ty than Bắc
Kỳ và công ty than Đông Triều) với số vốn 87 triệu Frăng đã cung cấp 92% mức sản
xuất than antraxit, với mức lãi hơn gấp 2 lần số tiền lương đã trả cho công nhân 15. Một
số cơ sở chế biến quặng, đúc kẽm, thiếc ở Cao Bằng, Hải Phòng cũng được Pháp xây

dựng với mục đích sơ chế quặng để xuất khẩu.
Mặt khác, thực dân Pháp cịn mở rộng thêm một số cơ sở cơng nghiệp khơng có
khả năng cạnh tranh với cơng nghiệp ở chính quốc, như nhà máy sợi Hải Phịng, Nam
Định, rượu bia Hà Nội, Hà Đông, điện Hà Nội, Hàm Rồng, Bến Thủy, đường Tuy
Hịa, ga Sài Gịn, ...
13 Nguyễn Trí Dĩnh (chủ biên), Giáo trình Lịch sử kinh tế, NXB ĐHKTQD, Hà Nội, 2008, tr.343
14 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đai cương Lịch sử Việt Nam, NXBGD, Hà Nội, 2014, tr.214
15 Trích dẫn theo tài liệu: Lê Thành Khơi, Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB Thế giới, 2014,
tr.511-512.

12


- Trong giao thông vận tải
Pháp tăng cường đầu tư vốn, trang thiết bị kỹ thuật để xây mới và mở rộng một
số tuyến giao thông cả về đường thủy, đường bộ, đường sắt và đường hàng không
nhằm phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ khai thác, chuyên chở vật liệu và lưu thơng hàng
hóa trong và ngồi nước. Tính đến năm 1940, tồn Đơng Dương có 21.026 km đường
bộ, trong đó 1/5 là rải nhựa; Việt Nam có 2.596 km đường sắt với khoảng hơn 3,6
nghìn toa xe; có đường hàng không nội địa và đi Pháp, Hồng Kông; có một số cảng
mới như Hịn Gai, Bến Thủy,...16
Tuy nhiên, nhìn chung mật độ đường vẫn cịn thưa thớt, phương tiện vận tải còn
lạc hậu, giá cước vẫn rất đắt đỏ đối với người dân thuộc địa
- Trong thương nghiệp
Pháp vẫn tiếp tục duy trì thương mại độc quyền để độc chiếm thị trường Việt
Nam và Đông Dương. Về ngoại thương, mặc dù Việt Nam đã tăng cường mở rộng
mối quan hệ buôn bán với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới nhưng với chính
sách đánh thuế cao vào hàng ngoại nhập (nhất là đối với hàng Trung Quốc và hàng
Nhật Bản), miễn thuế hoặc đánh thuế nhẹ với hàng hóa của Pháp nên hàng hóa Pháp
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu hàng nhập khẩu (chiếm hơn 60% tổng số hàng

nhập vào Việt Nam giai đoạn 1929-1930). Tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu tăng
nhanh qua các năm, từ 318 triệu đồng năm 1920 lên 550 triệu đồng năm 1928. Những
sản phẩm mà Việt Nam bán ra nước ngồi chủ yếu là khống sản, lúa gạo, cao su, cà
phê, ..., trong đó giá trị xuất khẩu gạo chiếm hơn 60% tổng giá trị hàng xuất khẩu.
Những sản phẩm mà Việt Nam nhập về phần lớn là vải, bông, sợi, rượu, thuốc lá, ô tô,
... phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của bộ máy thống trị, các loại máy móc cần thiết
phục vụ phát triển cơng nghiệp được nhập về rất ít ỏi. Năm 1929, tiền nhập khẩu mặt

16 Nguyễn Trí Dĩnh (chủ biên), Lịch sử kinh tế, NXB ĐHKTQD, Hà Nội, 2008, tr.350-351

13


hàng bia, rượu vào Đông Dương đạt 63 triệu Frăng trong khi tiền dùng để nhập các lại
máy kéo và máy phục vụ nơng nghiệp chỉ có 2,4 triệu Frăng17.
Về nội thương, hoạt động kinh doanh, buôn bán đã diễn ra khá nhộn nhịp ở các
chợ lớn như chợ Bến Thành (Sài Gịn), chợ Đơng Ba (Huế), chợ Đồng Xn (Hà
Nội),...
- Trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ
Thực dân Pháp vẫn tăng cường sử dụng tài chính, tiền tệ làm cơng cụ bóc lột
nhân dân ta. Pháp tiếp tục phát triển các tổ chức ngân hàng và phát hành tiền tệ. Năm
1930, chúng đã quy định đồng bạc là đơn vị tiền tệ của liên bang Đông Dương cấu
thành với 655mg vàng, ngang với 10 đồng Frăng. Đến năm 1936, đồng Đông Dương
lấy đồng Frăng làm bản vị nên đồng Đông Dương gắn với đồng Frăng và phụ thuộc
vào nền kinh tế Pháp.
Nền tài chính ở Việt Nam ở giai đoạn này vẫn chủ yếu dựa vào chế độ thuế khóa
nặng nề. Từ năm 1919 đến năm 1921, chính quyền thực dân đã ra lệnh bãi bỏ việc
đóng thuế theo mức cũ và quy định mức thuế mới cao hơn nhiều so với mức cũ. Do
đó, tổng số tiền thuế thu được ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam kỳ tăng lên nhanh chóng.
Đáng lưu ý, tiền thuế rượu của người bản xứ, thuế thuốc phiện và thuế muối đóng góp

16,8% tổng thu ngân sách 1942, trong khi đây là ba mặt hàng mà nhà nước nắm độc
quyền. Nhìn chung, tiền thuế chiếm trên 70% trong khoản thu ngân sách của chính
phủ thuộc địa. Pháp đã dùng khoảng 31,5% ngân sách để chi tiêu cho chính trị, hành
chính chung và đóng góp cho chi phí ở chính quốc (chưa kể nợ, các khoản chi cho
nhân sự và quản lý kinh tế, xã hội), trong khi chỉ dùng 1% chi tiêu cho lợi ích kinh tế
và 20% chi tiêu cho các cơng trình cơng cộng (bảng 2).
Bảng 2. Chi tiêu ngân sách năm 194218
17 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, NXBGD, Hà Nội, 2014, tr.216
18 Trích dẫn theo tài liệu: Lê Thành Khôi, Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB Thế giới, 2014,
tr.513-516

14


Các khoản chi
Đóng góp cho chi phí của chính quốc
Chi tiêu cho chính trị và hành chính chung
Chi tiêu cho các dịch vụ tài chính
Chi tiêu cho lợi ích kinh tế
Chi tiêu cho lợi ích xã hội
Giáo dục cơng
Y tế
Chi tiêu cho các cơng trình cơng cộng
Các chi tiêu khác
Nợ
Tổng

Triệu đồng
6,7
63,0

22,0
24,0
24,0
15,7
8,0
44,0
18,0
17,2
219,0

Phần trăm
3,5
28,0
10,0
1,0
11,0
7,0
3,6
20,0
8,5
8,0
100,0

Nguồn: Trích dẫn theo tài liệu: Lê Thành Khơi, Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến giữa thế
kỷ XX, NXB Thế giới, 2014, tr.513-516

Chi tiêu cho các cơng trình cơng cộng (được tách khỏi chi tiêu cho lợi ích kinh
tế), chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên, các cơng trình xây dựng chủ yếu phục vụ cho mục
đích xâm lược, cai trị rồi mới đến kinh tế.
Thêm vào đó, ngân hàng Đơng Dương đã đại diện cho thế lực tư bản tài chính

Pháp, có khẩu phần trong hầu hết các cơng ty và xí nghiệp lớn. Ngồi chức năng phát
hành tiền, ngân hàng Đơng Dương cịn kinh doanh tiền tệ, cho vay nặng lãi, trực tiếp
quản lý và chỉ đạo hoạt động các chi nhánh ở các ngành, các tỉnh. Về thực tế, ngân
hàng này nắm quyền chỉ huy trong các ngành kinh tế ở Đông Dương.
2. Những chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam
Thực hiện chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai với khoản đầu tư ngày càng
lớn với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa du nhập ngày càng sâu và giữ vị trí
quan trọng đã tiếp tục làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng tư bản chủ
nghĩa. Chính sự thâm nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự
tan rã dần của nền kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc ở nơng thơn; tạo điều kiện phát triển
kinh tế hàng hóa.

15


Tuy nhiên, với mục đích biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ và cung ứng vật
liệu cho chính quốc nên tác động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được du
nhập vào Việt Nam phát huy rất hạn chế. Giai cấp địa chủ cùng với phương thức bóc
lột phong kiến trong lĩnh vực nơng nghiệp vẫn được tiếp tục sử dụng để thu lợi ích
cao nhất. Các máy móc và tiến bộ kỹ thuật được áp dụng trong sản xuất cịn ít. Chính
vì thế, Việt Nam khơng thể có nền kinh tế dân tộc phát triển bình thường lên tư bản
chủ nghĩa trong điều kiện như vậy mà trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến ngày
càng hoàn chỉnh của Pháp. Mang bản chất là lệ thuộc, lại kết hợp giữa phương thức
bóc lột tư bản với phương thức bóc lột phong kiến nên nền kinh tế Việt Nam vẫn ở
trong tình trạng lạc hậu, trì trệ, nhỏ bé và phiến diện.

KẾT LUẬN
Chính sách khai thác thuộc địa mà thực dân Pháp tiến hành ở Việt Nam với đặc
trưng là duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp việc du nhập hạn chế
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã kìm hãm sự phát triển kinh tế và làm cho

kinh tế Việt Nam lạc hậu thêm nhiều so với thế giới. Tuy nhiên, quá trình khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp đã làm thay đổi tính chất, trình độ và cơ cấu của nền kinh
16


tế Việt Nam. Về tính chất, nền kinh tế phong kiến thuần túy, tự cung tự cấp của Việt
Nam đã chuyển thành nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến trong thời kỳ Pháp thuộc.
Biểu hiện là kinh tế đế quốc chiếm vị trí thống trị cịn quan hệ sản xuất phong kiến
khơng bị xóa bỏ mà chỉ bị thu hẹp và vẫn được duy trì, tồn tại một cách phổ biến, tạo
nên sự đan xen, hòa trộn giữa quan hệ sản xuất tư bản và quan hệ sản xuất phong
kiến. Về trình độ, trong nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện một số nhân tố mới như kết
cấu hạ tầng giao thơng, các xí nghiệp cơng nghiệp, máy móc, các đồn điền, ... góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn hiều so với sản xuất nhỏ truyền thống
trước đây. Về cơ cấu, sự xuất hiện các cơ sở sản xuất lớn, khá hiện đại, các lĩnh vực
dịch vụ (như ngoại thương, ngân hàng, tài chính, ...) bên cạnh sản xuất nhỏ lẻ truyền
thống của người Việt Nam đã phần nào thúc đẩy kinh tế hàng hóa tư bản nảy sinh,
phát triển và thu hẹp kinh tế tự cung tự cấp.
Nhìn chung, trải qua hơn 80 năm đô hộ của Thực dân Pháp, nền kinh tế Việt
Nam phải chịu nhiều hậu quả nặng nề. “Đặc điểm nổi bật của toàn bộ cơ cấu kinh tế
Việt Nam thời thuộc địa là sự phát triển mất cân đối, nền nông nghiệp nặng nề, cổ hủ
bên cạnh nền công nghiệp mỏng manh, yếu ớt; trong công nghiệp, ngành khai mỏ
chiếm phần lớn công việc kinh doanh, các ngành sản xuất cơng nghiêp khác như hóa
chất, luyện kim, cơ khí, năng lượng, … thì hầu như khơng phát triển. Tính chất mất
cân đối đó cịn thể hiện qua mối quan hệ giữa các vùng, các miền đất nước”19

DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Kinh tế quốc dân, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Kinh
tế.
1. PGS. TS. Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình Lịch Sử Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo
dục, Hà Nội, 2003.


19 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2014, tr.217

17


2. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 1-2, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2014.
3. GS. TS. Nguyễn Trí Dĩnh - PGS, TS. Phạm Thị Quý (Chủ biên): Giáo trình Lịch sử
kinh tế, Nxb Thống kê - Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2003.
4. Lê Thành Khôi, Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB Thế
giới, 2014.
5. PGS. TS. Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên): Góp phần tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng
Sản Việt nam, Nxb Chính trị Quốc gia: Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc
Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
6. GS. TS. Nguyễn Văn Thường (Chủ biên): Giáo trình kinh tế Việt Nam. Nxb Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2008.
7. Nguyễn Khắc Thuần: Đại cương lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2005.
8. TS. Nguyễn Quang Lê: Từ Lịch sử Việt Nam nhìn ra thế giới, Nxb Văn hóa thơng
tin, Hà Nội, 2001.
9. Blog Tìm hiểu lịch sử, Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam
/>
18



×