Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.95 KB, 32 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Nhạc cụ dân tộc Việt Nam Alal Alal là tên gọi theo tiếng Ba Na, dùng để chỉ nhạc cụ hơi có lưỡi gà rung tự do, khá phổ biến trong cộng đồng người Ba Na và một số dân tộc khác tại Việt Nam. Đây là nhạc cụ cổ sơ từ hình thức cấu tạo cho tới thang âm và kỹ thuật diễn tấu. Alal là một ống nứa nhỏ, rỗng 2 đầu, dài 20cm, đường kính 1,5cm. Ở một đầu, phía trên thân ống có một lỗ hình chữ nhật được bịt kín bằng một miếng đồng nhỏ chứa lưỡi gà. Cách thổi theo tư thế sáo ngang của người Kinh. Người chơi ngậm phần lưỡi gà và thổi liên tục để phát ra âm thanh. Khi bịt, mở nhanh một đầu ống sẽ tạo ra tiếng láy rền. Nếu người chơi có kỹ thuật biểu diễn cao, chỉ cần bịt một phần đầu ống cũng tạo ra được âm vuốt lướt. Alal có âm sắc khá mượt mà, đôi khi có âm rè. Âm vực giới hạn trong một quãng năm đúng. Theo truyền thống, nhạc cụ này dành cho nam giới. Con trai thường sử dụng alal để biểu lộ tình cảm riêng tư, hiếm khi hòa tấu với những nhạc cụ khác.. Aráp Aráp là một bộ chiêng quý của người Ba Na và người Gia Rai ở Việt Nam. Nhiều dân tộc ở Tây nguyên cũng sử dụng bộ chiêng này với tên gọi khác nhau. Người Ca dong gọi là h'leng goong, người Rơ măm gọi là guông t'gạt, người Stră gọi là guông chiêng... Người Giơ Rai thường dùng chiêng Aráp trong các điệu múa, trong đó không thể thiếu các vòng múa xoang. Bộ chiêng này có hai nhóm (giữ nhiệm vụ và chơi giai điệu). Những chiếc có núm thường được làm hợp kim pha vàng và bạc, giữ nhiệm vụ đệm. Chúng là 3 chiếc cồng có tên gọi là : ania (chiếc lớn nhất), chiêl (chiếc vừa) và pớt (chiếc nhỏ nhất). Ngoài ra còn 4 chiếc không có núm, để chơi giai điệu. Tính từ chiếc lớn nhất đến chiếc nhỏ nhất có tên gọi như sau: dinh (hay dớt), pơ yong (hay knah hich), knah pơkha hnue và knah pơkha ayao. Do nhu cầu phong phú hóa giai điệu và hòa âm, người ta còn nhiều chiếc chiêng khác để tăng bè, nhưng luôn cân đối số lượng chiêng giữa phần đệm và phân giai điệu. Nếu tăng phân giai điệu thì tăng số lượng chiêng đệm và ngược lại. Nếu không về cơ bản chúng gồm những chiếc chiêng kế trên. Cách đánh chiêng có thể khác nhau, mỗi người đánh 1 chiêng bằng dùi có đầu bịt vải hoặc đoạn gỗ dài 15cm hay đánh nắm tay... Cường độ âm thanh mỗi chiêng phát ra phải đều nhau và bao giờ cũng có người chỉ huy dàn chiêng, phân công nhiệm vụ cho từng người. Này dùng tiếng chiêng của mình làm chuẩn cho cả dàn đánh theo, có khi là giai điệu chính nhưng cũng có lúc là bè điệu. Người chỉ huy chính là linh hồn của những nhạc công sử dụng dàn chiêng.. Bẳng bu Bẳng bu là nhạc cụ hơi phổ biến ở nhiều dân tộc vùng Tây Bắc, Việt Nam. Cái tên của nó xuất phát từ tiếng Thái. Nhạc cụ này dành riêng cho nữ giới, thường được dùng trong các nghi lễ mang đậm tính phồn thực, cầu mong cuộc sống bình yên và mùa màng bội thu. Bẳng bu là những ống tre lớn, dài từ 40 đến 80cm, đường kính từ 8 đến 10cm. Các ống dài ngắn khác nhau để cho ra âm thanh cao thấp khác nhau, song cao độ không chuẩn lắm. Để sử dụng nhạc cụ này cần có nhiều người tham gia. Mỗi người cầm hai ống ở hai bàn tay, đổ rập một đầu ống xuống sàn nhà hay tấm ván (có lót vải mỏng hoặc.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> không lót) khiến không khí trong ống chấn động, phát ra tiếng brum brum, làm nền cho động tác và bước chuyển của người múa. Ngoài cách kích âm đổ rập, người ta còn đập hai ống vào nhau để tạo ra tiếng động. Những tiếng này không vang vì thân ống bị hai bàn tay giữ chặt nên chấn động trong thân ống không lan truyền như những nhạc cụ tự thân vang khác.. Bro Bro là nhạc dây phổ biến trong một số dân tộc Tây Nguyên ở Việt Nam. Người Ba Na, Xơ Đăng, Êđê, Gia Rai và Giẻ Xtiêng thường sử dụng nhạc cụ này. Bro là một ống tre lồ ô dài khoảng 90 đến 100cm, đường kính từ 5 đến 8cm. phần mặt đàn có dây giăng chạy qua, còn phần đối diện mặt đàn, trên thân ống có 1 lỗ để gắn quả bầu, trét mật ong cho kín khe hở. Bro nguyên thuỷ chỉ có một dây làm bằng xơ dứa se lại và vuốt bằng sáp ong. Nay người ta thay dây này bằng dây kom loại tách ra từ phanh (thắng) xe đạp. Loại bro cải tiến hiện nay có hai dây. Ngay mặt trên thân ống, phần dưới dây có 3, 4 núm cao làm bằng sáp ong gọi là phím. Loại bro cải tiến chỉ có 1 dây có những núm này bên dưới, còn dây kia thì để trống, dùng đánh âm buông và âm nền trì tục (basse ostinnato). Hai dây có độ cao khác nhau. Bro là nhạc cụ dành cho nam giới, đánh độc tấu hoặc tự đệm trong lúc hát. Khi đàn chàng trai không mặc áo. Anh ta úp quả bầu tăng âm vào bụng (phần trên rốn). Tay trái bấm phím, những ngón tay phải móc dây đàn, đồng thời úp mở quả bầu để tạo độ rung, vang khác nhau. Ngày nay một số người dùng miếng khảy thay thế cho các ngón tay lúc đánh đàn. Không thấy bài bản nào viết riêng cho bro. Nhạc cụ này chỉ chơi lại bài bản của những nhạc cụ khác từ dân ca cho đến bài cồng chiêng, miễn sao bài đó phù hợp với thanh âm bro là được.. Chênh Kial Chênh kial là nhạc cụ tự thân vang khi va đập. Cái tên của nó xuất phát từ tiếng Ba Na. Người Ba Na tin rằng trong mỗi ống của chênh kial có những vị thần trẻ con reo vui khi gió thổi. Những vị thần này là con của thần gió nên khi gặp gió các thần rất vui mừng. Người treo chênh kial lên đầu hồi nhà rông để cầu đừng ngưng gió vì nếu không có gió trời sẽ đổ mưa không sớm thì muộn. Chênh kial gồm những ống tre nhỏ có số chẵn như 8, 10 hoặc 12, những ống này có chiều dài từ 10 đến 40 cm, đường kính từ 1 đến 1,5cm, hai đầu đều rỗng. Thân ống có một lỗ hình chữ nhật với cạnh dài 2,5cm và cạnh ngắn 1cm. Đầu mỗi ống có một lỗ để xỏ dây đeo. Những sợi dây dính các ống được túm lại thành một, treo trên cành cây ở nương rẫy, trên đầu hồi nhà rông hoặc trên cây nêu của các lễ... Lúc gió thổi những ống tre va đập vào nhau phát ra âm thanh, đòng thời chuyển động tròn theo tâm điểm của sợi dây treo khiến dây này xoắn lại. Đến độ xoắn tối đa của dây sẽ “bung” ra khiến vòng tròn xoay ngược chiều để xoán dây lại theo hướng khác. Cứ thế nhờ lực đẩy của gió và sự chuyển động của dây xoắn khiến vòng tròn cứ xoay qua xoay lại trong lúc các ống phát ra âm thanh ... Dĩ nhiên khi gió ngưng thổi thì các ống không còn va đập để phát ra âm thanh, dây không còn xoắn nữa, ngưng khi có gió thì tiếng nhạc lại phát ra nghe rất vui tai. Trên thị trường Việt Nam hiện nay có loại ống tương tự như chênh kial, nhưng làm bằng kim loại, từ Trung Quốc du nhập qua. Âm thanh của những ống này nghe thanh tạo hơn chênh kial bằng tre. Người Kinh thường treo ống trước cửa nhà hoặc bất cứ nơi nào trong khuôn viên nhà – nơi thường có gió để có tiếng nhạc giúp nghỉ ngơi thư giãn..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Chul Chul là loại sáo phổ biến trong vài cộng đồng dân tộc ở Tây Nguyên, nhất là người Ba Na và người Gia Rai. Chul là một đoạn nứa dài từ 80 đến 100cm, đường kính 2cm, hai đầu thông suốt. Ở giữa thân ống có một lỗ vuông cạnh 1cm chứa lưỡi gà bằng nứa, gần đấy là một lỗ nhỏ dùng làm lỗ thoát âm. Trên thân sáo chỉ có ba lỗ cho ba nốt cơ bản, nhưng nếu có kỹ thuật điêu luyện, người thổi có thể tạo ra âm vực rộng đến hai quãng tám, nghĩa là từ một nốt cơ bản tăng lên được một nốt đồng âm ở vài quãng tám khác nữa. Chul là loại sáo dành cho nam giới. Các chàng trai sử dụng sáo này để tỏ tình với các cô gái. Khi phát ra giai điệu trầm, loại sáo này giống như lời tâm sự, còn lúc giai điệu lên cao, âm thanh nghe thanh thoát và trong sáng.. Cồng, chiêng Cồng chiêng là nhạc cụ dân tộc thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình tròn như chiếc nón quai thao, đường kính khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa có hoặc không có núm. Người Gia Rai, Ê Đê và Hrê gọi cả cồng lẫn chiêng là "chinh", còn người Triêng gọi cồng là "chênh goong" (loại có núm), gọi chiêng là "chênh hân" (không núm). Nhìn chung, còn khá nhiều cách gọi và phân biệt giữa hai nhạc cụ có núm và không núm này. Người ta dùng dùi gỗ có quấn vải mềm (hoặc dùng tay) để đánh cồng, chiêng. Cồng, chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao. Âm thanh của cồng, chiêng vang như tiếng sấm rền. Đối với các dân tộc ở Việt Nam, cồng, chiêng được coi là nhạc cụ thiêng. Lúc đầu, cồng, chiêng chỉ dùng để tế lễ thần linh, sau này mới được dùng trong các lễ hội dân gian.. Nghệ nhân chỉnh chiêng Nghệ nhân chỉnh chiêng hay người điều khiển giàn chiêng là nhạc công giỏi, có khả năng thẩm âm, biết phát hiện và chỉnh sửa thanh âm lạc điệu của từng chiêng để đạt được âm thanh chuẩn của cả giàn chiêng. Nghệ nhân chỉnh chiêng không chỉ chỉnh âm cho các chiếc chiêng sai âm, mà còn chỉnh âm cho các giàn chiêng mới. Nghệ nhân chỉnh chiêng được coi là báu vật dân gian sống, bao hàm tính truyền thống và tính khoa học, không chỉ đơn thuần là một kĩ thuật viên. Cồng, chiêng là nhạc cụ dân tộc thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình tròn như chiếc nón quai thao, đường kính từ 20 cm (loại nhỏ) cho đến 60 cm (loại to), ở giữa có hoặc không có núm. Người Gia Rai, Ê Đê và Hrê gọi cả cồng lẫn chiêng là "chinh", còn người Triêng gọi cồng là "chênh goong" (loại có núm), gọi chiêng là "chênh hân" (không núm). Nhìn chung, còn khá nhiều cách gọi và phân biệt giữa hai nhạc cụ có núm và không núm này.. Cò ke Cò ke là nhạc cụ có cung kéo của dân tộc Mường. Nó có cần đàn làm bằng một đoạn tay tre uốn thẳng, cắm xuyên qua một đoạn tre rỗng suốt 2 đầu. Đầu trên của cần đàn có lỗ để cắm trục chỉnh dây. Phía trước của đoạn ống được bịt bằng một mảnh mo măng tre hoặc một tấm da ếch, da trăn hay da rắn, giúp ống trở thành bộ phận tăng âm. Cò ke có 2 dây đàn bằng xơ dứa hoặc tơ tằm se, vuốt lá khoai. Người ta chỉnh 2 dây cách nhau 1 quãng bốn hoặc năm. Cung kéo là một miếng cật nứa được kéo cong lại bằng một túm xơ dừa hay lông đuôi ngựa. Cung kéo này nằm rời khỏi dây đàn, không bôi nhựa thông nhằm tăng thêm độ ma xát. Trước khi chơi nhạc cụ này, người ta nhúng túm xơ dừa hoặc lông đuôi ngựa vào nước. Trong lúc diễn, nếu thấy túm xơ dừa hay lông đuôi ngựa bị khô, họ nhổ nước bọt vào để làm ướt trở lại..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> Âm thanh của cò ke không chuẩn vì dây mắc khá cao so với cần đàn, ngoài ra nó không có bộ phận chỉnh độ cao dây buông như ở đàn nhị.. Đàn đá Đàn đá là một nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam . Đàn được làm bằng các thanh đá với kích thước dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau. Thanh đá dài, to, dày thì tiếng trầm. Thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì tiếng thanh. Người ta sử dụng vài loại đá có sẵn ở vùng núi Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ để tạo ra nhạc cụ này. Căn cứ vào loại đàn đá tìm được ở di chỉ khảo cổ Bình Đa, các nhà khoa học cho biết những thanh đá để làm đàn này có khoảng 3.000 năm qua. Những năm đầu thập niên 1990, người ta tìm được khoảng 200 thanh đàn đá rải rác ở Đắc Lắc, Khánh Hòa, Đồng Nai, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Sông Bé và Phú Yên...; mỗi bộ đàn này có từ 3 đến 15 thanh. Bộ đầu tiên tìm được vào năm 1949 tại Ndut Lieng Krak (Đắc Lắc), hiện nay đang được trưng bày ở Viện Bảo tàng "Con người" tại Paris, nước Pháp. Ở âm vực cao, tiếng đàn đá thánh thót xa xăm. Ở âm vực trầm, đàn đá vang như tiếng dội của vách đá. Người xưa quan niệm âm thanh của đàn đá như một phương tiện để nối liền cõi âm với cõi dương, giữa con người với trời đất thần linh, giữa hiện tại với quá khứ. Đàn đá đã được giới thiệu ở trong và ngoài nước.. Đao đao Đao đao là nhạc cụ của cộng đồng dân tộc Khơ-Mú sống tại Việt Nam. Người Thái đen ở vùng Sơn La đã học cách sử dụng nhạc cụ này và gọi nó là Hưn Mạy (đàn tre). Đao đao là một ống nứa dài từ 1 đến 1,2m, đục thông suốt thân ống. Ở một đầu ống người ta chẻ thành hai mảnh, vót lại để có hai thanh nhỏ dài khoảng 30 cm. Hai thanh này được gọt mỏng phần bên trong lòng ống và được làm tròn cạnh đầu. Trên phần cuối ống nứa có một lỗ đục nhỏ làm lỗ bấm. Đôi khi người ta giữ lại mấu kín ở đốt nứa phần cuối ống và khoét lỗ cạnh phần mấu này. Người ta giữ gốc đàn bằng tay phải, ngón cái của tay này bịt, mở lỗ bấm trong lúc đập phần đầu ống nứa có hai mảnh vào cạnh bàn tay trái đang giơ ngửa. Hai mảnh đầu ống sẽ rung lên, làm chấn động cột không khí trong ống, phát ra âm thanh. Tiếc rằng âm thanh rất khó nghe vì quá nhỏ và bị tiếng va chạm của hai mảnh trên đầu ống át bớt đi. Nhưng điều này không quan trọng, vì người ta sử dụng đao đao để tạo nhịp điệu cho múa hơn là để thưởng thức âm thanh của nó. Đao đao là nhạc cụ dành cho nữ giới, thường dùng trong nghi lễ nông nghiệp. Hiện nay các nhà nghiên cứu chưa thống nhất việc xếp đao đao vào bộ nhạc cụ nào, bởi vì căn cứ tính chất sản xuất âm thanh của nó người ta có thể vào bộ dây, bộ hơi đều hợp lý.. Đinh Đuk Đinh Đuk là nhạc cụ hơi của vài dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Nhìn chung, người Ba Na gọi nhạc cụ này là Đinh Tuk; riêng người Ba Na ở vùng Măng Giang gọi là "hi hơ", người Gia Rai gọi là "đinh dương". Đinh Đuk là một bộ ống nứa nhỏ, rỗng hai đầu, tổng cộng từ 10 đến 13 ống với độ dài ngắn khác nhau (từ 14 đến 62cm). Những ống này được bó tròn, một bên đầu của các ống xếp dài bằng nhau, bên còn lại tùy theo độ dài ngắn mà chìa ra. Mỗi ống phát ra một âm thanh. Người chơi nâng đinh đuk ngang tầm miệng (cách miệng 8 đến 10cm), chúm môi thổi mạnh vào ống như cách dùng ống thổi lửa. Để tạo ra nhiều âm thanh khác nhau, họ giữ hơi thổi liên tục trong lúc đưa miệng sang những ống khác, cho hơi vào ống mà họ muốn phát ra âm thanh. Với cách thổi như thế, âm thanh của đinh đuk không chuẩn cao độ, nghe nhỏ và có nhiều tạp âm, nhưng gợi lên được cảm giác xa xăm, huyền bí..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Theo truyền thống, chỉ có nữ giới sử dụng đinh đuk. Họ thổi nhạc cụ này trong nhà hoặc ngoài sàn vào đêm khuya hay lúc gà gáy sáng trước khi giã gạo.. Đuk đik Đuk đik là nhạc cụ của người Giẻ Triêng. Nó là một ống tre dài 64cm, đường kính 8cm với đầu này có mấu kín, còn đầu kia được vát bớt để làm tay cầm và tạo âm theo cao độ mà người thiết kế mong muốn. Đuk đik là nhạc cụ không thể thiếu trong ba dàn cồng (dàn chiêng đinh) của người Giẻ Triêng. Cái tên của nó xuất phát từ ngôn ngữ của dân tộc này. Theo qui định, cao độ của đuk đik phải bằng cao độ của chiếc cồng có nốt cao nhất trong bộ ba dàn cồng. Cồng này có tên gọi là kon preh.. Goong Goong là loại nhạc cụ họ dây chi gẩy phổ biến trong một số dân tộc sống ở tỉnh Kon Tum và Gia Lai. Nó còn được gọi là Tinh Ninh (Ting Ning) hay Teng Neng (cách gọi của người Ba Na vùng Măng Giang và An Khê - Gia Lai) hoặc Puội Brol như người Giẻ Triêng ở huyện Đák Glay, Kom Tum gọi. Goong là một ống tre lồ ồ dài khoảng 70 đến 90cm, đường kính từ 5 đến 8cm, hai đầu ống đều có mấu kín. Phía chân đàn, phần dưới mấu tre có mắc một đầu dây vào, phần đầu dây còn lại quấn vào những trục lên dây bằng gỗ, cắm xuyên qua ống ở phía đầu đàn. Ngày xưa, người ta dùng dây tơ se vuốt sáp ong để làm dây cho đàn goong, ngày nay dây thường được tách ra từ cáp của phanh xe đạp hay cáp của máy bay. Mỗi dây đàn phát ra một âm, được tăng độ vang bằng ống tre. Tuy nhiên, có lẽ do ống tre có độ vang kém nên một số nghệ nhân đã nghĩ ra cách gắn thêm nửa quả bầu khô rỗng ruột ở dưới các dây phía chân đàn để làm tăng độ vang của âm thanh. Một số người khác lại gắn thêm nửa quả bầu khô rỗng ruột (đường kính nhỏ hơn quả bầu kia một chút) vào phía đầu đàn (nơi có trục vặn dây). Nửa quả bầu này không có mặt trên. Đàn goong có nhiều loại, tùy theo thiết kế, đàn có 10 dây đến 18 dây. Lúc diễn, người ta chống ốc đàn vào bụng, đưa đầu đàn về phía trước thành một góc 45 độ. Hai ngón út đỡ thân đàn, những ngón còn lại dùng để móc vào dây đàn tạo ra âm thanh: lấy phần thịt của ngón tay bật dây từ dưới lên, không khảy từ trên xuống. Goong là nhạc cụ do nam giới sử dụng, thường dùng để diễn lại những bài của cồng chiêng bằng hình thức độc tấu. Đôi khi, họ sử dụng goong để đệm hát. Ngày nay, ngoài đệm hát và độc tấu, người ta còn sử dụng 2 -3 chiếc đàn goong để đánh đồng âm cùng một lúc. Trên sân khấu chuyên nghiệp, người ta còn hòa tấu đàn goong với những nhạc cụ của dàn nhạc nhẹ (theo bản hòa âm và phối khí hiện đại). Goong là loại đàn dây phổ biến trong một số dân tộc sống ở tỉnh Kom Tum và Gia Lai. Nó còn được gọi là Tinh Ninh (Ting Ning) hay Teng Neng (cách gọi của người Bâhnar vùng Măng Giang và An Khê - Gia Lai) hoặc Puội Brol như người Giẻ Triêng ở huyện Đák Giây, Kom Tum gọi.. Goong đe Goong đe là nhạc cụ có cấu tạo giống như đàn goong, phổ biến ở tỉnh Gia Lai, thường do người Ba Na sử dụng. Nhạc cụ này có 2 đến 4 dây, nhưng một số cây có đến 10 dây. Người ta dùng goong đe để đệm cho những nhạc cụ khác hoặc đánh bè nền đệm hát. Thân đàn goong đe là một miếng gỗ gầy (không dùng ống tre như đàn goong). Những dây đàn cách nhau quãng bốn hoặc quãng năm. Khi đệm nhạc, người chơi thường đánh từng đôi âm một ( đánh rải hoặc đánh chùm), có khi họ dùng ngón cái của bàn tay phải để vuốt tất cả các dây đàn nhằm tăng hiệu quả bè cho giai điệu. Goong đe là nhạc cụ dành cho nam giới, kỹ thuật diễn tấu tương tự như cách chơi đàn goong..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Hơgơr Prong Hơgơr Prong là loại trống rất lớn, không định âm của các dân tộc ở Tây Nguyên. Người Ba Na gọi nó là hơgơr tăk hoặc p'nưng, người Gia Rai gọi là hơgơr prong hoặc hơge m'nâng, còn người Êđê gọi đơn giản là hơgơr. Tuy nhiên, loại trống này còn có một cái tên tượng thanh phổ biến là "đùng" (nhiều dân tộc gọi). Hơgơr gồm các bộ phận chính như sau: . . Thân trống: bằng gỗ lim, dâu; dài khoảng 1,5m; đường kính khoảng 1m và có 2 đầu rỗng. Thân trống hình trụ, đoạn giữa hơi phình ra, được làm từ 1 cây gỗ duy nhất. Mặt trống: bịt da voi hoặc trâu hay loại da khác (nhưng phải là da của 1 con đực và 1 con cái để bịt hai mặt). Lớp da căng trên 2 đầu trống bằng đinh tre, gỗ đóng theo phương pháp nêm dăm rồi phủ trùm toàn bộ thân trống, đính chặt vào thân trống bằng những đinh tre nhỏ. Dùi gỗ: dài khoảng 60cm, đường kính 5cm, đầu dùi bọc vải.. Trống hơgơr prong có âm thanh trầm, vang xa. Nó phụ trách những âm trầm, đánh điểm các phách mạch hoặc gây không khí, tạo cao trào trong dàn nhạc. Theo truyền thống, người ta treo hơgơr prong trên xà nhà, đặc biệt nếu là loại thiêng thì không bao giờ mang xuống đất sau khi đã treo lên. Chỉ có những người uy tín nhất trong bản làng mới có quyền sử dụng loại trống này. Nếu 1 người đánh thì chỉ đánh vào 1 mặt, còn nếu 2 người thì mỗi người đánh 1 mặt bằng dùi. Người dân tộc thường sử dụng hơgơr prong trong lễ đâm trâu, lễ cúng thần gươm, lễ cúng cầu mưa và lễ Tết.. Kèn lá Kèn lá là nhạc cụ rất đơn giản, phổ biến trong các cộng đồng dân tộc ở Tây Nguyên, Việt Nam. Cấu tạo. Người ta chỉ cần lấy 1 chiếc lá cây, cắt phần cuống, gấp đôi theo sống lá để có 1 chiếc kèn đơn sơ. Tuy nhiên, không phải lá cây nào cũng làm được kèn, phải chọn lá phù hợp, còn nguyên vẹn và tươi tốt. Nếu lá héo thì không thể làm kèn được. Âm vực. Kèn lá có âm thanh cao, vang xa lảnh lót, rất khó tạo ra âm trầm. Nếu bản nhạc có những nốt trầm, người thổi sẽ nâng những nốt đó lên 1 quãng tám để thổi dễ dàng hơn. Kèn lá diễn tả tốt tiếng suối chảy và tiếng chim hót, hoặc những âm thanh mang nét đặc thù của thiên nhiên (tùy theo tài nghệ của người thổi). Cách thổi. Để sử dụng kèn lá, người ta thổi theo cách huýt gió, mô phỏng giai điệu của bài nhạc. Chính vòm hàm và khoang miệng của người thổi sẽ tạo ra âm thanh của kèn lá. Tuy là nhạc cụ đơn giản, nhưng kèn lá có thể phát ra những giai điệu nhanh (vivac) và ngắt (staccato). Người ta sử dụng kèn lá để độc tấu có dàn nhạc đệm hoặc hòa tấu với đàn t'rưng, chinh chiêng và goong đều được. Kèn lá là nhạc cụ dùng để giải trí trên nương rẫy, phục vụ trong những đêm sinh hoạt ở nhà rông, giúp trai gái tỏ tình, múa hát v.v. Kèn lá là nhạc cụ rất đơn giản, phổ biến trong các cộng đồng dân tộc ở Tây Nguyên. Người ta chỉ cần lấy 1 chiếc lá cây, cắt phần cuống, gấp đôi theo sống lá để có 1 chiếc kèn đơn sơ.. Kềnh H'Mông (khèn Mèo).
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Kềnh H'Mông là nhạc cụ thổi hơi của người H'Mông. Một số dân tộc khác cũng có loại nhạc cụ kềnh. Người Kinh gọi kềnh là khèn, vì thế kềnh H'Mông còn được gọi là khèn Mèo. Kềnh H'Mông có 6 ống trúc rỗng ruột với độ dài ngắn khác nhau. Những ống này xuyên qua 1 bầu gỗ. Phần trên của đầu bầu gỗ thuôn nhỏ, nối với 1 ống trúc khác tạo thành ống thổi. Trên mỗi thân ống trúc nằm ngang có 1 lưỡi gà nhỏ bằng đồng nằm ở chỗ cắm qua bầu gỗ, gần đó, phía bên ngoài bầu gỗ là lỗ bấm. Muốn tạo ra âm thanh của ống nào, người ta bịt tay vào lỗ bấm của ống đó, thổi hơi vào khiến lưỡi gà rung lên phát ra âm thanh. Lúc hít hơi vào lưỡi gà cũng bị tác động cho ra âm thanh. Tùy theo mức độ dài ngắn, to nhỏ mà các ống có âm thanh khác nhau. Riêng ống ngắn nhất và ống dài nhất có 2 lưỡi gà song song phát ra đồng âm. Nhìn chung, khi bịt lỗ hay mở ra đều có thể tạo âm thanh khi thổi. Kỹ thuật sử dụng kềnh H'Mông cơ bản là những thế bấm như vỗ, vê, ngắt, láy rền, đánh chồng âm, hợp âm và hoà âm... Kềnh H'Mông giống như nhiều loài khèn khác, là nhạc cụ đa thanh, âm sắc có nhiều chất kim loại, hơi rè nhưng mạnh mẽ. Nhạc cụ này có âm vực trong vòng 1 quãng tám, mỗi ống chỉ phár ra 1 âm thanh. Một số nghệ nhân đã cải tiến loại kềnh này thành 8 - 9 ống hoặc vẫn giữ nguyên 6 ống nhưng làm khóa bịt mở lỗ bấm để tạo thêm vài âm nữa, do đó âm vực rộng hơn đôi chút. Người H'Mông thổi kềnh trong những cuộc vui, tang ma hay lúc đi từ nhà đến chợ. Hiện nay, họ có nhiều loại kềnh với kích cỡ khác nhau (nhỏ, vừa và to). Theo truyền thống, nhạc cụ này do nam giới sử dụng, thường dùng để đệm hát.. Khèn bè Khèn bè là cách gọi loại kềnh với dàn ống giống như chiếc bè. Đây là nhạc cụ của một số dân tộc ở Việt Nam. Người Thái gọi là Khén Pé, người Giẻ Triêng gọi là Đinh Duar, còn người Xơ Đăng gọi là Đinh Khén. Riêng người Tà Ôi, người Vân Kiều gọi ngắn gọn là Khén. Khèn bè thường có cấu tạo ống theo số chẵn. Tùy theo dân tộc mà nó có 6, 8, 10, 12 hoặc 14 ống nứa tép. Những ống này xếp thành 2 hàng xếp cạnh nhanh. Bầu khèn làm bằng gỗ nhẹ, dẻo, có thớ vặn nên khó nứt. Ở đầu bầu khèn có 1 lỗ gọi là lỗ thổi. Những ống nứa xuyên qua bầu và được trét sáp ong đen để làm kín các khe hở. Thông thường người ta xếp 2 ống trong 1 hàng có chiều dài bằng nhau để tạo dáng cân đối. Có thể nói đây là cách quy định chiều dài mang tính hình thức, vì chiều dài thực của mỗi ống căn cứ vào 1 lỗ lớn nằm ở 2 ống úp vào nhau, đây là lỗ đánh dấu để biết chính xác độ dài của ống. Khèn bè có âm sắc giòn, mảnh và rè. Mỗi ống phát ra 1 âm nhất định, bên trong ống có lưỡi gà bằng đồng hay bạc giát mỏng. Trên mỗi ống có lỗ bấm gần lưỡi gà, nhưng nằm phía ngoài bầu, còn lưỡi gà nằm bên trong bầu. Khèn bè là nhạc cụ đa thanh, âm vực rộng khoảng 1,5 quãng tám. Theo truyền thống, nam giới sử dụng nhạc cụ này và thường dùng để đệm hát.. Khèn là cách gọi loại kềnh của một số dân tộc anh em ở Việt Nam. Loại ở đây giống như chiếc bè nên gọi là khèn bè. Người Thái gọi là Khén Pé, người Giẻ Triêng gọi là Đinh Duar còn người Xơ Đăng gọi là Đinh Khén. Riêng người Ta Ôi, Vân Kiều gọi là Khén.. Khinh khung Khinh khung là nhạc cụ thời tiền sử, vận hành bằng sức nước. Ở Việt Nam người Ba Na gọi nhạc cụ này là khinh khung, còn người Gia Rai gọi là Goong klơng klơi..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Thời kỳ mới xuất hiện, nhạc cụ này chỉ là những mảnh đá, ống tre, nứa treo lơ lửng trên cành cây ở bờ suối hoặc nương rẫy, dùng để đuổi chim thú. Những ống này có một sợi dây liên kết nối với hệ thống điều khiển bằng sức nước (guồng nước, máng nước). Mỗi lần hệ thống này đầy nước, nó sẽ tạo ra sức nặng khi rơi xuống, kéo dây liên kết căng ra khiến giàn đàn chuyển động, những ống đàn sẽ đập vào 1 cây gỗ được bố trí dưới giàn để phát ra âm thanh. Ngày nay người ta thường chế tạo khinh khung bằng những ống nứa có số lượng không cố định, có thể từ 5 đến 20 ống. Cách bố trí đánh đàn cũng giống như ở trên, nhưng đôi khi nó có những chiếc vồ đập theo chiều ngang, còn ống nứa thì treo lơ lửng trên một giàn đàn cố định. Khinh khung phát ra âm thanh trong âm, theo hệ thống ngũ cung. Nó là nhạc cụ có tính kỹ thuật (kết hợp các yếu tố vật lý) và nghệ thuật (chạm khắc những hoa văn truyền thống tinh xảo). Ngày xưa chỉ dùng để đuổi chim thú giữ rẫy, nhưng ngày nay nó đảm đương việc phục vụ cho tinh thần con người với tính năng âm nhạc lạ lùng của nó.. K'lông pút K'lông put là nhạc cụ của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Người Gia Rai gọi nó là Đinh pút, còn người Ba Na ở vùng An Khê gọi nhạc cụ này là Đinh pơl. Tuy nhiên cái tên K'lông pút đã trở nên quen thuộc với mọi người, dù ở trong hay ngoài nước. Cách sử dụng K'lông pút khá lạ so với những nhạc cụ khác. Người ta để hai bàn tay gần đầu ống nứa rồi vỗ tay vào nhau khiến hơi tác động vào cột không khí của ống phát ra âm thanh, nghĩa là người sử dụng không cần chạm tay vào nhạc cụ. K'lông pút là nhạc cụ do nữ giới sử dụng, thường được chơi trên nương rẫy vào mùa lúa. Người ta tin rằng những ống nứa, tre của k'lông pút có "họ hàng" với những ống tre, nứa đựng hạt giống, mà trong các ống đựng hạt thì có hồn của "Mẹ lúa" trú ngụ, do đó đánh k'lông pút trên nương rẫy hay trong những việc có liên quan đến lúa thóc "mẹ lúa" sẽ giúp cho công việc tốt đẹp. K'lông pút dân gian có từ 2 đến 5 ống nứa rỗng loại lớn, dài ngắn khác nhau. Ống ngắn nhất từ 60 đến 70 cm, ống dài nhất từ 110 đến 120cm. Đường kính ống từ 5 đến 8cm. Những ống này xếp thanh một hàng trên giá, các đầu ống xếp bằng nhau ở một bên, còn bên kia có đường xéo vì xếp theo thứ tự từ ống ngắn nhất đến ống dài nhất. K’lông pút có âm sắc độc đáo, vừa có tính chất âm hơi lẫn âm vỗ. Nó diễn đạt tình cảm mênh mông khoáng đạt hay xa xăm, huyền bí. K’lông pút dân gian có âm vực từ nốt đô của khóa fa đến nốt sol của khóa sol. Về sau để diễn tốt hơn một số nghệ nhân cải tiến K’lông pút bằng cách thêm một số ống bổ sung, sắp xếp thành hàng trên những ống của loại K’lông pút bình thường, hoặc xen kẽ mới những ống cũ. Do đó loại cải tiến có âm vực từ 2 quãng tám trở lên, tính từ nốt sol của khóa fa đến nốt sol của khóa sol. Loại này có đủ các âm và nửa âm trong 2 quãng tám. Có hai cách chính để chơi K’lông pút: . . Các ống nằm ngang trên một tản đán hoặc gác lên hai thân cây, làm sao để vừa tầm cúi của người sử dụng. Cô gái khum 2 bàn tay trước miệng ống cách khoảng 10cm rồi vỗ hơi bàn tay vào nhau để luồng hơi phát ra lùa vào miệng ống, làm chuyển động cột không khí bên trong phát ra âm thanh. Có hai cô gái cùng sử dụng nhạc cụ này. Một cô giá có nhiệm vụ chơi một số ống. Họ chơi những bài nhạc hai bè hoặc một bè nền kéo dài trong lúc bè kia chạy giai điệu.. Knăh ring Knăh ring là bộ chiêng 6 chiếc, sử dụng phổ biến trong cộng đồng dân tộc Gia Rai và Ba Na ở Việt Nam. Bộ chiêng này chỉ có một chiếc có núm với đường kính là 72cm. Năm chiếc còn lại không núm, có đường kính lần lượt.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> từ lớn đến nhỏ là 58cm, 50cm, 46cm, 43cm và 41cm. Nhìn chung chỉ có một chiếc giữ bè trầm cho giai điệu và đệm những chiếc khác chơi giai điệu (trong đó hai chiếc đồng âm) và bè cho giai điệu. Người ta dùng dây treo những chiêng không núm lên xà nhà, cách mặt sàn khoảng 10, úp chiêng có núm xuống sàn nhà rồi đánh. Thông thường có một người chỉ huy cùng đánh chiêng với những người khác. Tốc độ dàn chiêng do người chỉ huy quyết định, những người khác theo nhịp ấy. Chiêng knăh ring chủ yếu dùng trong các lễ cầu thần linh phù hộ và lễ cầu sức khỏe. Người ta đánh chiêng này để thể hiện lòng tôn kính đối với các vị thần như thần sông, thần đất, thần suối và thần núi, ... Họ không dùng knăh ring trong lúc tang ma.. K'ny (Kaní) K’ny là nhạc cụ dây có cung vĩ của nhiều dân tộc sống ở vùng Bắc Tây Nguyên, Việt Nam, phổ biến rộng rãi trong cộng đồng Ba Na, Gia Rai, Xơ-đăng và Rơ Ngao... Nó có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo dân tộc. Người Cà Dong gọi là K’ny là Rơ đoong, người Rơ măm gọi là Rơ ruội, người Hà Lang gọi là Brõ Mâm... Thân đàn K’ny là một một ống nứa nhỏ hay một cành gỗ tròn, thẳng, dài khoảng 50 đến 70cm và có đường kính từ 2 đến 3cm. Phần trên thân ống có một lỗ để cắm trục gỗ xuyên qua mắc dây đàn. Phần dưới thân ống có một miếng gỗ khoảng 1cm, gắn bằng sáp ong để làm ngựa đàn. Đàn K’ny chỉ có dây mắc vào trục và mấu gỗ dưới gốc đàn. Ngày xưa người ta dùng dây đàn bằng dây móc hay xơ dứa se, ngày nay dùng dây kim loại tách từ phanh (thắng) xe đạp. K’ny không có bộ dây tăng âm, tiếng đàn phát ra là do dây rung. Cung vĩ là một mảnh nứa cạ vào dây, làm dây rung lên phát ra âm thanh. Trên thân đàn k’ny nguyên thủy có 4 núm bằng sáp ong là 4 phím đàn. Về sau người ta cải tiến nhạc cụ này gắn nhiều phím hơn và thêm 1 dây đàn nữa. K’ny có âm sắc giống tiếng người nói. Muốn có âm trầm người ta phải kết hợp tay bấm và vòm hàm mở ra. Muốn có âm cao vòm hàm phải khép lại và tay bấm phải chạy xuống dưới. K’ny có âm thanh rất nhỏ, âm vực hẹp trong vòng 1 quãng bốn hoặc quãng năm. Tuy nhiên, ta có thể tạo âm nguyên hoặc nửa âm trên một dây đàn. Để khuếch đại âm thanh người ta dùng một dây tơ, dây dù hoặc dây cước nylon, buộc một đầu sợi dây này thật chặt vào dây đàn, đầu kia buột vào một mảnh mo măng tre hình tròn (hoặc mảnh nhôm hay nhựa PVC). Người chơi phải ngậm mảnh hình tròn này trong miệng, làm sao phải giữ cho dây tơ căng và mặt trong của mảnh tròn này sát với 2 hàm răng. Khi kéo đàn dây sẽ rung lên, chuyển chấn động sang dây tơ rồi đến mảnh mo măng tre và vang trong khoang miệng của người kéo đàn. Người chơi phải thay đổi khẩu hình để có âm thanh khác nhau, giống như tiếng nói. Nhìn chung, kỹ thuật chơi đàn k’ny giống như kéo đàn nhị. Tay trái cầm thân đàn, những ngón tay bấm lên dây đàn. Tay phải cầm cung vĩ cạ vào dây đàn. Nói thì dễ song để diễn k’ny tốt rất khó, bởi nó đòi hỏi người chơi phải bấm nốt chuẩn xác, kéo cung vĩ phù hợp với bài nhạc và sử dụng khẩu hình, khoang miệng điêu luyện, làm sao để tiếng đàn như tiếng hát. Theo truyền thống của người dân tộc, k’ny do nam giới sử dụng. Họ chỉ chơi nhạc cụ này trong nhà Rông hoặc nơi chòi rẫy, bởi vì họ tin rằng k’ny là tiếng nói của thần linh, nên không sử dụng trong nhà.. M'linh M'linh là nhạc cụ tự thân vang khi lắc chúng. Nhạc cụ này là những cái chuông đồng nhỏ phổ biến trong cộng đồng dân tộc người Dao và người Mường. M'linh làm bằng đồng đen, bụng rỗng, bên trong treo một quả lắc. Nhạc cụ này cao từ 8 đến 10cm, đường kính từ 4 đến 6cm; phần núm của nó có mấu để treo dây hay tra cán gỗ có phần đầu hình vuốt của con diều hâu. M'linh là.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> nhạc cụ thường được sử dụng trong nghi lễ. Khi tiến hành lễ Cấp sắc, người Dao lắc cái chuông này theo điệu múa chuông "Lap mian M'linh" để báo cáo với tổ tiên về những người trong gia đình và dòng họ. M'linh còn được sử dụng trong lễ mừng năm mới, đặc biệt là dùng để đuổi tà ma theo quan niệm của người Mường và Dao.. M’nhum M’nhum là bộ chiêng của người Gia Rai ở Việt Nam. Nó dùng để đánh khi uống rượu. Trong tiếng Gia Rai, "m’nhum" nghĩa là “uống rượu”. M’nhum gồm hai nhóm: . . Nhóm 1: gồm ba chiếc cồng có núm gọi là chiêng kđo, dùng để đánh đệm. Mỗi chiếc có kích cỡ riêng và có tên giống như bộ chiêng t’rum. Cái lớn nhất là ania, cái vừa là knah, còn cái nhỏ nhất là moong. Mỗi cái giữ một bè khi hòa tấu. Ania phát ra bè thấp gọi là bè ania, knah bè giữa là bè mđu và moong đi bè trên gọi là đi bè pớt. Nhóm 2: gồm sáu chiếc chinh gọi là knah khớc, dùng để chơi giai điệu, nhóm này có ba chiếc giữ vai trò chính và ba chiếc giữ vai trò phụ. Tên gọi và nhiệm vụ của 6 chiếc này tính từ chiếc lớn nhất đến chiếc nhỏ nhất như sau: o Knah tuk chơi bè trầm của giai điệu (bè knah di), sử dụng nhịp nghịch phách với chiêng mđu của nhóm 1. o Knah hri chơi bè thứ 2 của phân giai điệu (bè knah hliang), cùng độ cao của chiêng moong nhóm 1. o Knah hloong chơi bè trên của phân giai điệu (bè knah khớc). o Ba chiếc còn lại giữ vai trò phụ, không có tên riêng. Chúng đánh theo âm hình tiết tấu của knah khớc và knah hri và giữ nhiệm vụ hòa âm.. Nhìn chung người ta sử dụng bộ chiêng m’nhum trong các ngày hội lễ như lễ đâm. Đàn Môi Đàn môi là từ tiếng Việt để chỉ một loại nhạc cụ dân tộc làm bằng tre, phổ biến hầu hết trong các cộng đồng dân tộc ở Việt Nam với nhiều tên gọi khác nhau. Trên thế giới nhiều nước cũng có đàn môi với tên gọi khác và chất liệu làm đàn cũng khác so với loại đàn môi ở Việt Nam, một ví dụ là Jew's harp, phổ biến ở Châu Âu. Đàn môi Việt Nam thường làm bằng 1 miếng đồng dát mỏng hay mảnh tre vót mỏng tạo dáng chiếc lá tre. Người ta cắt một chiếc lưỡi dài theo chiều thân đàn, phần đầu lưỡi rời ra chỉ còn phần gốc dính vào thân đàn. Chiếc lưỡi này là bộ phận rung của nhạc cụ. Phần cuối thân đàn có buộc 1 sợi dây hay có 1 tay cầm. Khi thổi người ta giữ sợi dây hay tay cầm bằng tay trái, đặt đàn cách đôi môi một chút, đủ để không chạm vào răng. Ngón cái của tay phải bật vào đầu đàn khiến lưỡi rung lên, chuyển chấn động đến khoang miệng và vang lên trong khoang miệng. Khi thay đổi khẩu hình âm thanh sẽ phát ra khác nhau, tuy nhiên số lượng âm không nhiều, cao độ không chuẩn, hơi nhòe và nghe nhỏ. Đàn môi được dùng trong sinh hoạt giao duyên tỏ tình, nam hay nữ sử dụng đều được. Họ đánh những bài tình ca mà ai cũng thuộc nên người nghe ngầm hiểu ý của người sử dụng nhạc cụ. Gọi đàn môi là do thói quen gọi lâu ngày ở Việt Nam. Thật ra nhạc cụ chưa hẳn là đàn, bởi vì các nhà nghiên cứu phân tích nó theo nhiều cách khác nhau. Có người cho rằng đàn môi là nhạc cụ dây vì có lưỡi là dây rung, khoang miệng là bộ phận tăng âm. Người khác bảo đàn môi là nhạc cụ hơi vì chiếc lưỡi làm nhiệm vụ lưỡi gà như trong khèn. Quan điểm thứ 3 cho rằng nó là nhạc toàn thân rung vang, nguồn âm thanh xuất phát từ chiếc lưỡi rung toàn thân. Nếu chấp nhận đàn môi là nhạc cụ dây thì ta có quyền gọi nó là đàn..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Pi cổng Pi cổng là nhạc cụ hơi của nhiều dân tộc ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Pi cổng là tên gọi theo tiếng Thái. Nó là nhạc cụ thô sơ như pi nướng, nhưng có hai ống rạ tươi nối với nhau và đầu có mấu kín, sát mấu là lưỡi gà hình chữ nhật. Cách lưỡi gà khoảng 3,4cm là một lỗ bấm. Gần cuối lỗ bấm thứ hai có thêm một lỗ bấm nằm phía sau mặt ống. Cuối ống thứ hai là một đoạn ống được cắt ra nhưng còn dính lại đôi chút với thân ống. Đoạn ống này có nhiệm vụ tạo ra âm thanh trầm hơn khi người ta chống đầu ống xuống mặt đất, đoạn ống này sẽ nối lại với thân ống, làm thân ống dài hơn. Khi người ta cầm thân ống song song hay hơi chúi xuống mặt đất thì đoạn ống cắt sẽ rời ra giúp ống phát ra âm cao hơn. Nhìn chung pi cổng được sử dụng như pi phướng và là nhạc cụ dành riêng cho nữ giới thổi trong mùa gặt. Nó không có bài bản riêng mà chơi lại giai điệu của những bài nhạc nào phù hợp với nó.. Pí đôi. Pí đôi là tên gọi theo tiếng Thái. Nhạc cụ này phổ biến trong cộng đồng người Thái đang sinh sống ở Việt nam.. [sửa] Pí lè Bài chi tiết: Pí lè Pí lè là tên gọi theo tiếng Thái - Tày để chỉ nhạc cụ hơi có dăm kép.. Pí một lao Pí một lao là nhạc cụ hơi phổ biến ở vùng Tây Bắc, Việt Nam. Tên nhạc cụ này xuất phát từ tiếng Thái, nhưng ngoài người Thái còn có người Kháng, người La Ha và Kha Mú sử dụng nhạc cụ này. Pí một lao là ống nứa tép dài từ 70 đến 90cm, đường kính từ 1,5 đến 2cm. Nó có 1 đầu bịt mấu kín, ngay sát mấu kín là 1 lỗ hình chữ nhật có cạnh ngắn 1cm và cạnh dài 2cm, được bịt kín bằng đầu bát mỏng chứa lưỡi gà tam giác. Trên thân ống có nhiều lỗ nhưng chỉ sử dụng 5 lỗ để phát ra hàng âm : đô, rê, fa, sol, la. Lỗ đầu tiên nằm sau thân ống còn 5 lỗ kia nằm thẳng hàng với lưỡi gà. Ở đoạn giữa lỗ bấm thứ nhất và lưỡi gà có thêm một lỗ nửa. Lỗ này được phủ bằng 1 màng mỏng lòng nứa, chung quanh lỗ đắp sáp ong thành núm. Khi người ta thổi màng mỏng này sẽ rung lên, tạo ra âm thanh nghe giòn và rè. Pí một lao dùng để đệm cho thầy Mo hát khi cúng chữa bệnh người ốm. Lối hát cúng này gọi là Xên một lao. Nhạc cụ này còn tên khác là pí lao luông (sáo một lao loại lớn). Người giữ nương rẫy và trẻ con thường này lấy nứa tươi mô phỏng nhạc cụ này để thổi giải trí trong lều canh hoặc trên bãi chăn trâu. Loại pí giải trí này gọi là pí lao nọi (sáo một lao loại nhỏ)... Pí một lao chỉ dùng trong việc hát cúng ngừa bệnh, rất kiêng thổi trong nhà lúc bình thường. Theo thông lệ, có 2 người thổi nhạc cụ này, mỗi người 1 pí để đệm cho thấy mo hát. Người thổi được gọi là Mo pí (ông Mo thổi Pí). Cách thổi pí tương tự khi dùng sáo ngang. Họ không ngậm đầu ống pí trong miệng mà thổi vào lỗ nằm cuối thân ống, mỗi tay giữ một bên thân pí và bấm lỗ, đưa hơi chếch thân pí về phía bên tay phải của người thổi.. Pí pặp.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> Pí pặp là nhạc cụ hơi phổ biến ở cộng đồng người Thái, Việt Nam. Nó là một ống nứa dài từ 30 đến 40 cm, đường kính nho hơn hoặc bằng 1cm. Pí pặc có một đầu bịt mấu kín, sát mấu là một lỗ hình chữ nhật với cạnh ngắn 0,4cm và cạnh dài 1,5cm. Lỗ này được bịt kín bằng một miếng đồng hoặc bạc dát mỏng chứa bên trong lưỡi gà tam giác. Trên thân ống, có sáu lỗ bấm nằm từ đoạn giữa ống đến phần cuối ống (một lỗ nằm ở phía mặt sau, năm lỗ còn lại nằm cùng hàng với lưỡi gà). Tuy 6 lỗ bấm nhưng người ta chỉ dùng năm lỗ để tạo ra sáu âm, nếu tính tờ khóa sol pí pặc bắt đầu từ âm thấp nhất là si giáng rồi đến rê, fa, sol, la và đô. Người ta ngậm phân ống có lưỡi vào miệng, giữ thân ống nằm ngang hơi chếch xuống để thổi. Âm thanh phát ra âm nhưng rè, riêng những âm bồi thì trong và vang. Pí pặc là nhạc cụ do nam giới sử dụng. Họ thường đệm cho bài hát cho con gái. Khi thổi một mình họ chơi lại phần đệm ấy với ít nhiều biến tấu. Người Thái cũng hay chơi một đôi pí pặc được nối song song với nhau gọi là pí đôi. Hai chiếc pí này có kích thước bằng nhau, cùng được định âm. Người ta chỉ dùng các lỗ bấm của một ống để tạo ra giai điệu khi thổi, còn ống thứ 2 giữ nhiệm vụ phát ra bè rền trì tục (ostinato) dù có đủ các lỗ bấm (không bấm vào các lỗ này). Do đó ống phát giai điệu sẽ có âm thanh vang và trong, ống bè nên rè và giòn. Cũng như pí pặc, pí đôi là nhạc cụ dành riêng cho nam giới, có thể chơi giai điệu hoặc đệm hát.. Pí pặp là nhạc cụ hơi phổ biến ở cộng đồng người Thái, Việt Nam. Nó là một ống nứa dài từ 30 đến 40 cm, đường kính nho hơn hoặc bằng 1cm.. Pí phướng Pí phướng là nhạc cụ hơi của nhiều dân tộc ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Cái tên nhạc cụ này xuất phát từ tiếng Thái. Pí phướng là một ống rạ tươi, một đầu có mấu kín. Sát đầu mấu là 1 mảnh hình chữ nhật nhỏ. Mảnh này có đầu rời, đầu kia dính vào thân ống, gọi là lưỡi gà. Giữa thân ống có 2 lỗ bấm, có thể tạo ra 4 âm khác nhau khi người ta thổi. Tuy nhiên 4 âm này không cố định thành 1 hàng âm, chúng gần với các nốt đô, rê, fa, sol. Pi phương không có bài bản riêng, người thổi dùng nó để chơi những giai điệu của các bài hát phù hợp với cách thể hiện của nó. Người ta thường ngậm kín phần lưỡi gà của pi phướng trong miệng và thổi hơi liên tục. Pi phướng là nhạc cụ dành riêng cho nữ giới. Các cô gái thổi nó trong mùa gặt.. Pơ nưng Yun Pơ nưng yun là loại trống vừa phổ biến trong cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên. Pơ nưng yun là cách gọi của người Ba Na. Người Gia Rai gọi nó là hơgơr ching arăp, người Mnâm gọi là hơgơr cân, người Hà Lang gọi là hơgơr tuôn, còn người Rơ năm gọi là Hơ huôl. Nhiều dân tộc Tây Nguyên còn gọi nó bằng một từ tượng thanh là “đơng”. Pơ nưng yun có cấu tạo giống như loại hơgơr prong, đường kính từ 50 đến 80cm. Mặt trống bịt da bò hay da của những loại thú khác với những đinh tre hoặc gỗ giúp da dính vào 2 đầu trống. Lớp da này lại phủ trùm kín thân trống và được dán vào thân trống bằng những đinh tre nhỏ..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Pơ nưng yun là trống có màng rung phát ra âm trầm, vang, nhưng không được định âm trước. Người ta thường dùng nhiều cách đánh nhạc cụ này bằng dùi gỗ bịt vải ở phần đầu. Trong dàn nhạc chiêng, nhiệm vụ của pơ nưng yun là đánh đệm, tạo không khí trong những đoạn cao trào. Pơ nưng yun có chỗ móc đòn gánh trên thân trống. Thông thường 2 người dùng đòn gánh móc vào lỗ này để khiêng trống đi, đồng thời dùng dùi gõ vào mặt trống. Đôi khi lại do 4 người dùng 2 đòn gánh bắt chéo để khiêng trống trong lúc đánh. Có khi chỉ 1 người thật khỏe mạnh đeo nó trước ngực để đánh. Dù khiêng hay đeo, nhất thiết trong lúc đánh những người này phải nhún nhảy, múa theo nhịp điệu của bài nhạc chiêng.. Đây là loại trống vừa của người Bâhnar sinh sống ở Việt Nam. Người Gia Rai gọi nó là hơgơr ching arăp, người Mnâm gọi là hơgơr cân, người Hà Lang gọi là hơgơr tuôn, còn người Rơ năm gọi là Hơ huôl. Nhiều dân tộc Tây Nguyên còn gọi nó bằng 1 từ tượng thanh là “đơng”.. Púa Púa là nhạc cụ hơi, xuất phát từ tiếng H’Mông. Người H’Mông và người Lô Lô sống tại Việt Nam sử dụng phổ biến nhạc cụ này. Púa gồm có hai ống đồng mỏng, ống nhỏ lồng trong ống lớn, có thể kéo ra đẩy vào được. Tuy nhiên việc kéo đẩy này không có tính chất chỉnh âm thanh như kèn trombone, mà đơn giản là để thu ngắn độ dài của kèn lúc mang đi cất hoặc kéo dài khi muốn thổi. Đường kính ống lớn trên 3cm đôi chút, dài từ 60 đến 70cm. Đường kính ống nhỏ khoảng 31cm, dài từ 40 đến 50cm, ống này có một đầu làm búp thổi, đầu kia dùng để lồng vào ống lớn. Tính tổng cộng chiều dài của hai ống khoảng 100 đến 120cm, chưa kể trường hợp thiết kế đặc biệt, có púa dài tổng cộng 180cm. Do chế tạo bằng thủ công, nguyên liệu là đồng dày mỏng không đều nên âm thanh của púa không chuẩn, lẫn nhiều tạp âm. Tuy thế âm thanh của nó vang rất xa và có chất rè của kèn đồng. Nhìn chung púa chỉ phát ra vài âm thanh, cách nhau quãng bốn hoặc quãng năm. Theo truyền thống, púa do nam giới sử dụng. Người ta dùng nó trong nghi lễ tang chế như cúng linh hồn, lễ dâng rượu, khi mổ bò, dê làm vật cúng tế.. Rang leh Rang leh là nhạc cụ môi hơi phổ biến rộng rãi trong các cộng đồng dân tộc ở vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Rang leh là theo cách gọi của người Gia Rai, còn người Stră gọi nó là rôông gui, người Ca Dong gọi là pôper, người Kinh gọi là đàn môi. Hiện nay có hai loại rang leh cùng tồn tại ở Tây Nguyên: loại bằng tre và loại bằng đồng. Dù bằng chất liệu nào chúng cũng có hình thức cấu tạo giống nhau, nghĩa là hình dáng giống như chiếc thoi dệt vải. Rang leh dài khoảng 8cm, rộng 2cm, thuôn dần về hai phía để có 1 đầu lớn và 1 đầu nhỏ hơn. Rang leh tre hay đồng đều mỏng, trên thân có 2 đường chéo tạo thành lưỡi gà ở đoạn giữa. Nhạc cụ này có tính đàn hồi cao, bẻ cong cũng không gãy. Người ta cầm rang leh bằng tay trái, đặt nó ngang miệng rồi ngậm lại để hai phần đầu ló ra, môi hơi hở. Họ dùng ngón trỏ tay phải khẽ bật đầu lưỡi, miệng phát âm theo bài nhạc quen thuộc nào đó. Âm thanh sẽ được khoang miệng cộng hưởng phát ra, tuy nhiên nghe nhỏ, chỉ thích hợp nơi yên tĩnh, lúc đêm khuya. Nam nữ đều dùng nhạc cụ này, chủ yếu để phơi bày tình cảm yêu đương.. Rang rai.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Rang rai là một loại chũm chọe phổ biến trong nhiều cộng đồng dân tộc anh em ở Việt Nam, đặc biệt là người Ba Na và người Gia Rai thường sử dụng nhạc cụ này. Người Rơ Măm gọi nó là sar, người Ba Na gọi là Ha cam. Rang rai được đúc bằng đồng, có hai loại kích cỡ khác nhau. Loại lớn có đường kính 30cm, thân nhẵn, ở giữa có núm như tay cầm của nắp vung. Loại nhỏ có đường kính 11cm, mặt ngoài nhẵn, ở giữa có núm và một lỗ để xỏ dây. Thông thường, người ta dùng hai chiếc nhỏ đập vào nhau, còn hai chiếc lớn thì xoa vào nhau. Đôi khi họ dùng hai chiếc lớn đập vào nhau khi hòa tấu với những loại cồng chiêng khác. Rang rai là nhạc cụ không định âm. Loại đập có âm sắc chói, vang, còn loại xoa phát ra âm thanh nhẹ nhàng hơn. Âm thanh của nó hoàn toàn tương phản với những nhạc cụ định âm khi hòa tấu, do đó nó chỉ có nhiệm vụ là giữ nhịp và tạo cường độ âm thanh trong dàn nhạc. Khi chơi với dàn cồng chiêng, rang rai giữ vai trò làm bè nền.. Sáo H'Mông (sáo Mèo) Sáo H'Mông hay sáo Mèo là nhạc cụ của người H’Mông ở miền Bắc Việt Nam. Nó thường được sử dụng để giải trí sau giờ phút lao động mệt nhọc. Tuy nhiên nó còn là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai đối với con gái trong bản làng. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng. Ngày xưa sáo H’Mông chỉ là nhạc cụ độc tấu cho số lượng người nghe hạn chế. Ngày nay nhiều nghệ nhân đã tăng cung bậc, âm vực và độ vang của nhạc cụ này để giúp nó có khả năng hòa tấu với những nhạc cụ khác hay độc tấu có dàn nhạc đệm. Sáo H’Mông cổ truyền làm bằng ống nứa dày hoặc trúc, dài khoảng 20cm và có đường kính khoảng 0,7cm. Trên 1 đầu ống có lưỡi gà đồng, còn trên thân ống có từ 2 đến 4 lỗ bấm nằm cùng hàng. Lưỡi gà đồng còn được gọi là lam, hình tam giác cân được khía ra trên 1 miếng đồng mỏng hình chữ nhật. Người ta cài miếng đồng này vào thân sáo và dùng sáp ép lại cho khỏi xê dịch. Người diễn ngậm cả đầu ống có lưỡi gà vào 1 bên miệng để thổi. Ở phía dưới có một lỗ bấm nằm giữa lỗ bấm đầu và lỗ bấm thứ hai phía trên. Loại sáo H’Mông cải tiến có thân ống to hơn, đường kính khoảng 2cm và dài đến 45cm. Nó được khoét tổng cộng 9 lỗ bấm, người thổi chỉ cần áp vào phần thân ống có lưỡi gà vào miệng rồi dùng đôi môi bịt quanh lưỡi gà để thổi. Khi những lỗ bấm được bịt hoặc mở chúng sẽ phát ra âm thanh cao thấp khác nhau lúc thổi. Sáo H’Mông dân gian có âm vực chưa đủ 1 quãng tám nhưng ở loại cải tiến có thêm 1 âm trầm nữa, thấp hơn âm trầm nhất 1 quãng tám. Âm sắc của sáo H’Mông trong trẻo, mượt mà, tuy nhiên còn có cả âm rè. Nếu người thổi không tạo ra được âm sắc cổ truyền của người H’Mông thì đồng bào H’Mông không công nhận đó là tiếng sáo H’Mông vì nó không nói được tiếng H’Mông. Để diễn sáo này người ta thường sử dụng kỹ thuật rung, đánh lưỡi, phi, nhấn hơi, vuốt và láy …. Ta in Ta in là nhạc cụ dây của dân tộc Hà Nhì ở các tỉnh Lai Châu và Lào Cai, Việt Nam. Nó có cần đàn bằng gỗ rắn, bộ phận tăng âm bằng gỗ, hình chữ nhật có bốn cạnh vuốt tròn. Mặt đàn bịt da trăn hoặc rắn. Đầu đàn có họng tra dây và ba trục chỉnh dây. Cần đàn trơn, không phím. Ba dây đàn chỉnh theo quãng năm – quãng năm (đồ sol rế) hoặc quãng năm – quãng bốn (đồ – sol – đố). Đàn ta in có hình dáng giống như đàn tam của người Kinh, tuy nhiên chiều dài cần đàn kích thước bộ phận tăng âm khác với đàn tam. Dây đàn ta in bằng tơ tằm se, vuốt nhựa cây, được chỉnh không căng lắm trên thân đàn. Người ta khảy ba dây đàn bằng một miếng khảy..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Ta in là nhạc cụ do nam giới sử dụng, thường dùng trong việc đệm hát và nhạc múa. Nó có âm sắc tương tự đàn tam nhưng rè và đục hơn.. Ta lư Ta lư là nhạc cụ dây, phổ biến trong cộng đồng dân tộc Vân Kiều ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Việt Nam. Đàn ta lư không có hình dáng chuẩn mực. Nó có thể làm bằng một khúc gỗ, một ống tre hay một đoạn tre gốc đính cả tre. Ta lư không có bộ phận tăng âm. Người ta làm thân đàn bằng một khúc gỗ đặc. Nếu đàn làm bằng đoạn gốc tre có cả củ thì củ tre đặc được gọt đẽo thành bầu đàn, ống tre phía trên củ được vát để làm cần đàn. Tuy nhiên, hiện nay có loại đàn ta lư làm bằng ống tre có hai đầu mấu kín. Người ta bổ dọc ống này thành hai phần không đều nhau rồi lấy phần nhỏ hơn làm đàn. Họ lấy 1 mảnh mo măng tre bịt phía dưới ống để làm bộ phận tăng âm. Phần còn lại phía trên được vát làm cần đàn. Đàn ta lư không có kích thước chuẩn, thông thường toàn bộ chiều dài của đàn khoảng 60cm, riêng phần cần đàn khoảng 40cm. Nhạc cụ này có 2 dây bằng sợi dứa dại se lại, điều chỉnh độ cao cách nhau quãng bốn hoặc quãng năm tùy theo địa phương thiết kế. Do không có bộ phận tăng âm nên tiếng đàn nhỏ và mảnh, cao độ âm thanh không chuẩn lắm. Nếu là đàn tre người ta đánh 2 dây buông, nếu là đàn gỗ thì có thể dùng những ngón tay trái bấm lên dây, tạo thành những âm khác nhau khi khảy đàn. Theo truyền thống của người Vân Kiều, đàn ta lư do nam giới sử dụng. Họ dùng nhạc cụ này trong lúc coi lúa trong chòi canh, lúc nghỉ ngơi trên nương hay lúc dạo chơi trong bản.. Ta pòl Ta pòl là nhạc cụ của người Ba Na, nhưng phổ biến trong nhiều cộng đồng dân tộc ở Tây Nguyên, Việt Nam. Người Gia Rai gọi nó là đinh bút hoặc đinh pơng, người Rơ Măm gọi là pang bôông, còn người Brâu gọi là đinh pu. Ngoài ra nó còn nhiều tên gọi khác tùy theo ngôn ngữ của những dân tộc Tây Nguyên. Ta pòl xuất hiện từ thời lao động nguyên thủy. Người ta lấy một cây nứa lớn, già, mỏng và khô cắt thành một đoạn dài 2 đến 3 đốt, đục thông suốt để làm ta pòl. Nó giống một ống của đàn K'lông pút nhưng được sử dụng riêng lẻ chứ không kết thành dàn như klông pút. Mặt khác, nó giữ nhiệm vụ bè trầm chứ không chơi giai điệu chính. Ta pòl có âm thanh vang dội khi người ta vỗ tay vào miệng ống đưa luồng hơi vào ống làm chuyển động cột không khí bên trong ống. Họ đưa miệng ống hơi dốc lên rồi dùng tay phải vỗ vào miệng ống (tay cần phải mềm, không gồng cứng). Thông thường chỉ có phụ nữ mới sử dụng nhạc cụ này, không thấy nam giới đụng tới. Họ sử dụng nó bất cứ lúc nào, khi lên rẫy, ra bờ suối hay trên đường đi. Lúc nhảy múa họ vẫn có thể sử dụng chúng. Nhìn chung, ta pòl thường được dùng để giải trí, giúp thư giãn khi lao động.. Tính tẩu ( Đàn Tính ) Tính tẩu (hay tinh tẩu) là nhạc cụ khảy dây được dùng phổ biến ở một số dân tộc miền núi tại Việt Nam như người Thái, người Tày, ... Ở vài vùng thuộc Trung Quốc, Lào, và Thái Lan người ta nhận thấy cũng có nhạc cụ này. Trong tiếng Thái, tính có nghĩa là đàn, còn tẩu là bầu (quả bầu), dịch ra tiếng Việt, tính tẩu có nghĩa là đàn bầu. Để khỏi nhầm lẫn với loại đàn bầu của người miền xuôi, nhiều người gọi tính tẩu là đàn tính nhưng nếu dịch ra “đàn đàn” thì sai. Do đó chỉ cần hiểu đàn tính là cách gọi tắt của đàn tính tẩu..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Đối với dân tộc Thái tính tẩu là nhạc cụ chính, dùng để độc tấu, đệm hát và chơi giai điệu múa. Các chàng trai người Thái vừa đàn tính tẩu vừa múa bằng nhạc cụ này. Khi đệm hát, tính tẩu thường chơi giai điệu của lời ca. Trong nhạc múa tính tẩu có những bài bản riêng. Tính tẩu thuộc bộ dây, âm vực có thể đạt tới 3 quãng tám. Tuy nhiên người diễn chỉ sử dụng những âm trong vòng 2 quãng tám và một vài âm hơn nữa. Tính tẩu có những bộ phận chính như sau : . . . Bầu vang (bộ phận tăng âm): làm bằng nửa quả bầu khô (cắt ngang). Kích cỡ bầu vang có thể thay đổi tùy theo quả bầu lớn nhỏ, song đường kính thường tư 15 đến 25cm. Để có độ vang, âm sắc chuẩn người ta thường chọn quả bầu tròn và dày đều để làm bầu vang. Mặt đàn thường làm bằng gỗ cây ngô đồng xẻ mỏng khoảng 3mm. Trên mặt đàn có khoét 2 lỗ hình hoa thị để thoát âm (trước kia 2 lỗ hoa thị được khoét ở phía sau bầu đàn). Ngựa đàn tương đối nhỏ nằm trên mặt đàn. Cần đàn: bằng gỗ, thường là gỗ dâu hay gỗ thừng mục, nhẹ và thẳng. Cần đàn dài khoảng 9 nắm tay của người chơi đàn. Theo kinh nghiệm dân gian, “số đo” cỡ nào thì hợp với cỡ giọng hát của người có số đo ấy. Phần dưới của cần đàn xuyên qua bầu vang, còn phần trên cùng là đầu đàn uốn cong hình lưỡi liềm hoặc đầu rồng, đầu phượng … Mặt cần đàn trơn, không có phím như đàn tam. Hốc luồn dây có 2 hoặc 3 trục dây. Dây đàn: trước đây làm bằng tơ xe, nay là nilon. Tính tẩu có loại 2 dây và loại 3 dây tùy theo từng vùng và từng chức năng âm nhạc. Loại mắc 2 dây phổ biến ở Thái, Tày, thường được chỉnh cách nhau 1 quãng bốn đúng hay quãng năm tùy theo hàng âm của giai điệu hoặc bài nhạc múa. Loại có 3 dây thường do người Tày sử dụng. Họ thêm 1 dây trầm giữa 2 dây kia. Âm thanh của dây trầm thấp hơn dây cao 1 quãng tám đúng. Loại 3 dây được gọi là tính then (đàn then) thường dùng trong nghi lễ Then để phân biệt với loại 2 dây là tinh tẩu dùng để đệm hát và múa.. Tính tẩu có âm sắc êm dịu, thanh thoát. Khi phát ra âm cao nó gần giống với tiếng đàn tam. Lúc sản xuất âm trầm nó cho người nghe cảm giác hơi mờ ảo. Theo cách đánh đàn xưa, người diễn không dùng que khảy mà chỉ khảy bằng ngón tay trỏ của tay phải. Ngón cái và giữa giữ cần đàn ở nơi gần sát bầu đàn. Ngón trỏ khảy xuống và hất lên luân phiên khi chơi giai điệu nhanh. Còn nếu giai điệu chậm thì ngón trỏ chỉ khảy xuống. Kỹ thuật tay phải gồm có ngón vê, ngón phi và đánh âm nền … Riêng về tay trái gồm có các thế bấm như ngón rung, ngón vuốt, ngón vê, ngón phi, ngón luyến và âm bội. Trong thập niên 1970, một số nghệ nhân đã thể nghiệm cải tiến đàn tính tẩu bằng cách lắp thêm dây vào cần đàn (khoảng 4, 5 dây). Do yếu tố này họ phải làm cần đàn và bầu đàn lớn hơn khiến ngón bấm khó chính xác. Một số người lại dùng que khảy thay đầu ngón tay. Kết quả âm sắc không giống đàn tính tẩu gốc mà lại giống đàn banjo (loại alto). Một số người khác thay gỗ để làm bầu đàn, âm thanh phát ra đanh và khô không đẹp như bầu đàn quả bầu khô. Nhìn chung, những cách cải tiến kể trên không gặt hái thành công.. Tol alao Tol alao là một loại đàn cổ sơ của người Ba Na. Nhạc cụ này cũng được người Ca Dong sử dụng và cũng được gọi là tol alao. Đây là loại đàn dành riêng cho nữ giới. Các cô gái thường đánh cho các chàng trai thưởng thức. Tol alao là một ống lồ ô dài khoảng 1m, đường kính từ 8 đến 12 cm. Người ta tách từ thân ống ra những sợi dây để làm dây đàn. Những dây này còn dính ở 2 đầu ống và được buộc bằng day. Để tạo ra những dây đàn có cao độ như ý muốn họ chêm mẩu tre hoặc gỗ ở dưới 2 đầu dây để làm ngựa đàn. Trên thân đàn có một lỗ hình lục giác với mỗi cạnh 4cm dùng làm lỗ thoát âm. Nhạc cụ này có 5 dây, âm thanh nhỏ, dịu dàng nên không dùng trong lễ hội náo nhiệt mà chỉ sử dụng nơi yên tĩnh, lúc đêm khuya..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Khi diễn tấu, cô gái đặt đàn nằm ngang trên đùi, hai tay cầm 2 chiếc que gõ lên 5 dây đàn như cách đánh tam thập lục. Tay trái chơi bè trầm, tay phải đi giai điệu. Năm dây đàn sẽ phát ra âm thanh tương ứng với các nốt đô, mi, sol, la, đô theo hệ thống ngũ cung.. Tol alao là 1 loại đàn cổ sơ của người Bâhnar sinh sống ở Việt Nam. Nhạc cụ này cũng được người Ca dong sử dụng và gọi là tol alao như người Bâhnar. Đây là loại đàn dành riêng cho nữ giới. Các cô gái thường đánh cho các chàng trai thưởng thức.. Tông đing Tông đing là nhạc cụ gõ của dân tộc Ba Na sinh sống ở Việt Nam. Người Gia Rai cũng thường sử dụng nhạc cụ này với tên gọi là Teh ding. Người Cà Dong gọi là Goong teng leng (teng leng là đánh ở trên). Tông đing thường được người dân tộc dùng trong sinh hoạt âm nhạc, phục vụ đời sống và sản xuất. Họ thường mang nhạc cụ này lên rẫy để đuổi chim thú, bảo vệ hoa màu. Tông đing là một ống nứa hoặc lồ ô có một đầu bịt mấu kín, chỉ phát ra một nốt khi người ta dùng que gõ vào. Để có nhiều nốt người ta vạt những ống nứa có độ dài ngắn, to nhỏ khác nhau (dài từ 30cm đến 1m, đường kính từ 3cm đến 12cm). Tông đing có âm sắc khô cứng, nghe khá vang. Ống dài và to cho âm thanh trầm, ống vừa phải cho âm thanh trung bình, còn ống ngắn và nhỏ phát ra âm thanh cao. Khi diễn người ta cầm thân ống bằng tay trái, vài ngón tay của tay phải cầm dùi tre hoặc gỗ dài khoảng 15cm đánh vào giữa ống. Người diễn vừa gõ tông đing vừa chuyển động thân người, nhún nhảy theo nhịp điệu của bài hát hoặc dàn cồng chiêng. Trong lễ hội những ống này có thể dùng để đựng rượu cần, khi cạn rượu chúng lại trở thành nhạc cụ phục vụ ngày vui. Âm thanh tông đing biểu hiện sự huyền bí, mơ hồ và xa xăm. Ở tiết tấu chậm nó cho cảm giác buồn man mác, lúc tiết tấu nhanh thể hiện được sự rộn ràng, náo nhiệt. Nhiều người không dùng dùi gõ vào tông đing mà dùng hai ống có cao độ mang tính hòa âm để gõ vào nhau, âm thanh nghe đầy đặn và phong phú hơn.. Tơ đjếp Tơ đjếp là nhạc cụ hơi có lưỡi gà rung tự do, phổ biến ở một số dân tộc vùng Tây Nguyên Việt Nam. Cái tên của nó xuất phát từ tiếng Ba Na, về sau trở nên quen thuộc với nhiều dân tộc. Tơ đjếp làm bằng 1 đoạn sừng trâu hình cái phễu cong, dài từ 25 đến 30cm. Âm thanh tơ đjếp không chuẩn cao độ, âm sắc rè, đục và giòn như pha trộn âm sắc của tù và và khèn. Nhạc cụ này có hai đầu hở (phần nhọn của sừng được cắt bỏ). Ở giữa lòng cong của nó khoét một lỗ hình chữ nhật với cạnh ngắn 0,8cm và cạnh dài 2,5cm, chung quanh hình có một gờ cao 0,5cm bằng sáp ong. Trên mặt gờ là một miếng đồng mỏng chứa lưỡi bịt kín lỗ hình chữ nhật lại. Người ta cầm ngang sừng tơ đjếp, đưa đầu nhỏ về phía bên trái, miệng ngậm kín mấu sáp ong gắn lưỡi gà rồi thổi. Ngón cái của tay trái bịt, mở phần đầu ống nhỏ, còn những ngón khác giữ thân nhạc cụ. Lòng bàn tay phải bịt, mở.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> phần đầu to của sừng. Kết quả âm thanh sẽ phát ra có cao độ khác nhau khi phối hợp bịt, mở cả hai đầu sừng. Nếu bịt, mở nhanh một đầu âm thanh sẽ có dạng láy rền (trille). Tơ đjếp là nhạc cụ do nam giới sử dụng để thông tin với nhau hoặc dùng trong lễ hội, kiêng dùng trong nhà và không tham gia hòa tấu với những nhạc cụ khác. Tơ đjếp là nhạc cụ đặc trưng của người Gia Rai và vài dân tộc khác. Người Rơ Măm gọi nó là jặp, người Êđê gọi là Kly Pă, người Hà Lang gọi là Tơ diết, còn người Stră gọi là Đuđea.. Tơ nốt Tơ nốt là nhạc cụ hơi của người Ba Na, Việt Nam có quan hệ mật thiết với các nhạc cụ săn bắn. Nó là nhạc cụ mang tính chiến đấu. Ngày xưa người ta dùng nó để báo tin cho cộng đồng biết đang có việc quan trọng. Ngày nay nhiều dân ở Tây Nguyên sử dụng nhạc cụ này. Tơ nốt làm bằng sừng trâu, bò hoặc dê rừng, dài khoảng 20cm sau khi được cắt thủng hai đầu. Đầu nhọn có một lỗ nhỏ là lỗ thổi, đầu lớn dùng sáp ong đắp thành một cái bầu nhỏ có công dụng như bộ phận tăng âm. Dưới đáy bầu có một lỗ nhỏ để thoát hơi. Giữa sừng có một lỗ hình chữ nhật với cạnh dài 4cm và cạnh ngắn 1cm. Lỗ này được đắp sáp ong để gắn vào dăm kèn bằng nứa. Nhìn tổng quát, tơ nốt có phần cuống dài gấp đôi phần bầu. Tơ nốt là nhạc cụ không định âm. Nó chỉ có hai âm nhưng nghe vang dội, hơi chói tai. Nhờ tính chất này người ta dùng nó để đuổi muôn thú vào chỗ có chó săn phục sẵn trong lúc đi săn bắn. Người ta còn thổi tơ nốt để báo hiệu cho dân làng về dự lễ hội của cộng đồng. Để thổi tơ nốt người ta ngậm phần có lỗ thổi vào miệng, càng thổi mạnh thì âm thanh càng lớn. Muốn có hai âm phải dùng tay bịt, mở lỗ thoát hơi dưới đáy bầu. Theo truyền thống người sử dụng tơ nốt thường là người chỉ huy, có uy tín và sức khỏe. Họ dùng nó để báo động, thông tin và gây huyên náo chứ không sử dụng trong việc hòa tấu với những nhạc cụ khác. Tại đảo Madagascar ở châu Phi, có thổ dân cũng dùng 1 loại nhạc cụ giống như Tơ nốt, gọi là antsiva. Nhạc cụ này cũng do nam giới sử dụng (trong việc ra hiệu tập trung hay lễ xuống đồng).. T’rum T’rum là bộ cồng ba chiếc có núm của người Gia Rai sống ở Tây Nam Pleiku, Việt Nam. Mỗi chiếc có kích cỡ và tên gọi khác nhau. Chiếc lớn nhất là ania (đường kính 84cm), chiếc vừa là knah hay mung (đường kính 68cm), chiếc nhỏ nhất là moong (đường kính 63cm). Ba chiếc này phát ra 3 nốt đô, sol, đố của khóa fa. T’rum phát ra âm thanh trầm, ngân vang, có thể làm rung chuyển những vật nhỏ chung quanh nó. Bộ cồng này chỉ dùng giữ nhịp tiết tấu, không chơi giai điệu. Người Gia Rai sử dụng t’rum trong ngày lễ “xoay cột đâm trâu” kết hợp với trống Hơgơr Prong. Loại trống này bình thường gõ bằng dùi nhưng khi hòa tấu với t’rum người ta dùng tay vỗ vào mặt trống. Những chiếc cồng trong bộ t’rum có quãng âm cách nhau như sau: chiếc lớn nhất cách chiếc vừa 1 quãng năm đúng, chiếc vừa cách chiếc nhỏ nhất 1 quãng 4 đúng. Nhiều người không gọi t’rum là cồng mà gọi là chiêng vẫn đúng, bởi vì chưa có cách phân loại thống nhất giữa các nhà nghiên cứu vê các loại cồng chiêng.. T'rưng T'rưng là loại nhạc cụ gõ phổ biến ở vùng Tây Nguyên, Việt Nam, đặc biệt là đối với dân tộc Gia Rai và Ba Na. Cái tên "t'rưng" xuất phát từ tiếng Gia Rai, lâu ngày trở nên quen thuộc với mọi người. Đàn t'rưng làm bằng một số.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> ống tre lồ ô hay nứa ngộ có kích cỡ khác nhau. Đàn t'rưng chuyên nghiệp có khoảng 12 đến 16 ống xếp thành hàng trên giá đàn theo thứ tự đi dần lên từ ống lớn đến ống nhỏ, từ ống dài đến ống ngắn (loại đàn t'rưng dân gian chỉ có 5 ống với cách xếp ngược lại, ống trên cao lớn rồi đi dần xuống là những ống nhỏ hơn). Nhìn chung, ống có đường kính từ 3 đến 4cm, dài từ 40 đến 70cm. Mỗi đầu ống đều bịt kín do còn nguyên các đầu mấu, đầu kia đuợc gọt vát một phần ống để tạo âm theo chuỗi hàng âm của người dân tộc. Khi dùng dùi gõ vào các ống sẽ tạp thành âm thanh cao thấp khác nhau tùy độ to, nhỏ, dài, ngắn của ống. Những ống to và dài phát ra âm trầm, còn những ống nhỏ và ngắn có âm cao. Âm sắc của đàn t'rưng hơi đục, tiếng không vang to, vang xa nhưng khá đặc biệt. Nghe tiếng đàn t'rưng ta có cảm giác như tiếng suối róc rách, tiếng thác đổ, tiếng xào xạc của rừng tre nứa khi gió thổi. Đàn t'rưng có âm vực rộng gần 3 quãng tám. Kỹ thuật diễn tấu nhạc cụ này khá đơn giản, dùng dùi (bằng tre hoặc gỗ) gõ vào ống để tạo ra âm thanh; có thể đánh ngón vê, ngón á giống như chơi đàn tam thập lục, gõ nhanh chậm đều tốt; có thể đánh chồng âm hoặc đồng âm nhưng 2 nốt cách nhau 1 quãng tám. Theo truyền thống, t'rưng là nhạc cụ do nam giới sử dụng, chỉ được chơi trên nương rẫy, kiêng cữ đánh trong nhà và trong làng. Vì người dân tộc tin rằng trong mỗi ống đàn có một vị thần cư trú, giúp con người bảo vệ cây trồng trên rẫy. Ngày xưa, người ta dùng tiếng đàn t'rưng để xua đuổi chim, thú trong lúc canh lúa, nếu đánh trong nhà thì t'rưng sẽ đuổi hồn gia súc, gia cầm khiến chúng sợ mà không lớn lên hoặc không sinh sản được. Song hiện nay, ta thấy trên các sân khấu chuyên nghiệp, người chơi đàn t'rưng thường là nữ giới.. Vang Vang là bộ chiêng ba chiếc dành riêng cho Vua Lửa (Pơtau Pui) trong cộng đồng dân tộc Gia Rai và vài dân tộc khác ở Việt Nam. Ba chiếc chiêng này đều có núm, màu da cá trê, nhẹ, kích cỡ khác nhau. Chiếc ania có kích cở 58cm, chiếc moong đường kính 36cm. Người ta xếp chúng theo đường âm cách nhau 1 quãng năm đúng và 1 quãng bốn đúng như bộ chiêng t'rum. Bộ chiêng này có âm thanh trầm và vang, chỉ dùng để tạo tiết tấu, gây không khí cho lễ hội chứ không chơi giai điệu. Người ta treo những chiêng này trên xà nhà, cách xà nhà khoảng 10cm rồi ngồi xuống sàn mà đánh. Tay trái giữ thành chiêng, tay phải cầm dùi có đầu bọc vải đánh vào núm chiêng. Ngoài việc chơi giai điệu, tay phải còn có nhiệm vụ điều khiển tiếng chiêng ngân lên hay ngừng lại. Nhìn chung người ta thường đánh chuông vang với trông lớn Hơgơr Prong, nhưng người đánh trống dùng đùi gỗ mềm để tạo ra âm thanh hòa điệu với loại chiêng này không giống cách đánh mà họ sử dụng trống khi diễn tấu với những nhạc cụ khác hay loại chiêng khác. Bản nhạc mà người ta hay chơi với chiêng vang là bài "Cúng thần gươm".. Chiêng tre Chiêng tre, hay gọi theo tiếng Êđê là Chinh cram, là một nhạc cụ của dân tộc Êđê được làm từ tre nứa, thường đi với một giàn từ 5 đến 15 chiếc. Một giàn là một hợp xướng âm thanh, với các âm giai của từng thể chiêng tương ứng. Dùng đánh trong các lễ hội, đánh theo tính chất tập thể. Có người làm vai trò chỉnh chiêng, làm cho âm thanh của nó cao hơn hoặc thấp hơn, tiếng chiêng ròn và vang hơn.. Đàn bầu.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> Đàn bầu (nữ nghệ sĩ diễn tấu) trong dàn nhạc Huế. Đàn bầu, tên chữ là độc huyền cầm (獨絃琴), là loại đàn một dây của người Việt, thanh âm phát ra nhờ sử dụng que hay miếng gảy vào dây. Dựa theo cấu tạo của hộp cộng hưởng, đàn bầu chia hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ. Đàn bầu có mặt phổ biến ở các dàn nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam. Các nhạc sĩ Việt Nam đã biên soạn và chuyển soạn một số tác phẩm dạng concerto để nghệ sĩ sử dụng đàn bầu trình tấu cùng với dàn nhạc giao hưởng thính phòng như Vì Miền Nam, Ru con, Tình ca ... Đàn bầu không chỉ đuợc người Việt Nam ưa thích mà còn được nhiều khán-thính giả trên thế giới hâm mộ.[1]. Lịch sử Giới nghiên cứu âm nhạc hiện nay chưa tìm ra thời điểm xuất hiện đàn bầu. Theo Đường Thư, khi các quan lại nhà Đường theo chân Tiết độ sứ sang Giao chỉ đã thấy xuất hiện đàn bầu và mô tả nó trong Nam Man truyện và gọi theo tiếng Hán là "Độc Huyền Bảo Cầm".. Phân loại và cấu tạo Phân loại Đàn thân tre thuờng dùng cho người hát xẩm hoặc những nơi khó khăn, không có điều kiện chế tác tỷ mỷ, chi tiết. Thân đàn làm bằng một đoạn tre hoặc bương dài khoảng 120 cm, đường kính 12 cm. Mặt đàn là chỗ đã được lóc đi một phần cật thích hợp trên đoạn tre hoặc bương. Loại này ít phổ biến. Đàn hộp gỗ là loại đàn cải tiến, có tính năng ưu việt hơn, thường do các nghệ sĩ chuyên nghiệp sử dụng. Đàn hộp gỗ có nhiều hình dáng, kích thước khác nhau, thường làm bằng loại gỗ nhẹ, xốp như gỗ ngô đồng... Loại đàn bằng gỗ vông được dùng phổ biến nhất.. Cấu tạo Đàn bầu thường có hình dạng một ống tròn (bằng tre, bương, luồng) hoặc hình hộp chữ nhật (bằng gỗ); một đầu to, một đầu vuốt nhỏ hơn một chút; thường có chiều dài khoảng 110 cm, đường kính hoặc bề ngang ở đầu to khoảng 12,5 cm, đầu nhỏ khoảng 9,5 cm; cao khoảng 10,5 cm. Ở loại đàn gỗ Mặt đàn và đáy đàn bằng gỗ ngô đồng, hoặc gỗ thông hay gỗ tung. Mặt đàn hơi cong lên một chút, đáy đàn phẳng có một lỗ nhỏ để treo đàn, một hình chữ nhật ở giữa để thoát âm đồng thời cầm đàn khi di chuyển và một khoảng trống để cột dây đàn. Thành đàn bằng gỗ cứng như cẩm lai hoặc mun để cho chắc chắn và có thể bắt vít cho khóa dây đàn. Trên mặt đầu to có một miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn. Qua ngựa đàn, dây đàn được luồn xuống và cột vào trục lên dây đàn xuyên qua thành đàn, trục này được làm đẹp và nó được giấu phía sau thành đàn. Ngày nay người ta dùng khóa dây đàn bằng kim loại cho chắc để chống tuột dây đàn. Trên mặt đầu nhỏ của đàn có một cần dây làm bằng gỗ hoặc sừng, được gọi là cần đàn hoặc vòi đàn. Cần đàn xuyên qua nửa đầu trái bầu khô hoặc tiện bằng gỗ theo hình dạng tương tự và cắm vào một lỗ trên mặt đầu nhỏ của vỏ đàn. Một đầu dây đàn buộc cố định vào cần đàn khoảng giữa bầu đàn.[2] Khi công nghệ điện tử ra đời, để tăng âm lượng tiếng đàn, người ta lắp một cuộn cảm ứng điện từ có lõi sắt non vào dưới mặt đàn giáp với dây ở phía đầu to để cảm ứng âm thanh truyền qua bộ dây đồng tục, đưa tín hiệu đến khuếch đại âm thanh qua máy tăng âm. Loại đàn này chỉ có thể dùng dây thép và có nhược điểm là độ méo âm thanh khá lớn so với âm thanh của loại đàn không dùng bộ khuếch đại điện từ (đàn mộc)..
<span class='text_page_counter'>(21)</span> Que gảy đàn: thường được vót bằng tre, giang, thân dừa, gỗ mềm... Người ta hay làm bông hoặc tưa đầu nhọn một chút để làm mềm âm thanh khi gảy. Ngày xưa hay dùng que dài khoảng 10cm, ngày nay với nhiều kỹ thuật diễn tấu nhanh nên người ta hay dùng que ngắn chừng 4-4,5 cm. Tính năng, tác dụng Đàn bầu có âm vực rộng tới 3 quãng tám. Vì là âm bội nên âm sắc đẹp, sâu lắng, quyến rũ. Tiếng đàn có khi buồn bã, thiết tha, có khi ngọt ngào tình tự, diễn tốt tình cảm của con người. Âm thanh phát ra trong vòng 2 quãng tám nghe khá rõ ràng dù là âm bội. Nếu sử dụng âm thực với sự tác động kéo căng hay giảm dây của vòi đàn, âm vực của đàn bầu có thể vượt trên 3 quãng tám.[3] Đàn bầu phù hợp với những giai điệu trữ tình, êm dịu, tuy nhiên những nghệ nhân xẩm có thể sử dụng nó để diễn những bài hát vui như xẩm xoan hoặc những ca khúc mới, giàu chất tươi tắn và khỏe mạnh. Ca dao Việt Nam có câu "Đàn bầu ai gãy nấy nghe, làm thân con gái chớ nghe đàn bầu" ý nói tiếng đàn dễ dàng thu hút được tình cảm người nghe. Trước đây đàn bầu giữ nhiệm vụ độc tấu hoặc đệm hát, tham gia những ban nhạc cổ truyền cùng với đàn nguyệt, đàn tam, nhị hay tỳ bà... ngày nay một số cây được gắn thiết bị điện, tăng âm nên có thể độc tấu ngoài trời hoặc hòa tấu với dàn nhạc lớn, nhiều nhạc cụ. Nhiều nghệ nhân tài năng đã dùng tiếng đàn bầu mô phỏng giọng nói của cả ba miền Nam, miền Trung, miền Bắc và giọng nam, giọng nữ hoặc ngân nga như ngâm... Cách thức sử dụng cơ bản. Cách định âm chuẩn cho dây đàn. Mô tả xác định điểm chia nốt trên dây đàn bầu Người ta thường định âm cho đàn bầu theo dây buông có âm tự nhiên, nhưng có khi chỉnh theo từng bài bản. Nếu bài nhạc cung đô (do) là chủ âm thì định âm dây buông tự nhiên là đô. Ngoài ra còn vài cách định âm khác. Vì dây buông chỉ cho một nối nên phải chia dây từ cần đàn đến ngựa đàn để xác định các nốt khác: 1/2 dây có nốt do 1 cao hơn dây buông một quãng 8, 1/3 dây sẽ là nốt sol 1, 1/4 ta sẽ có nốt do 2, 1/5 dây sẽ có mi 2, 1/6 dây sẽ có nốt sol 2, 1/7 dây sẽ là nốt si giáng (nốt này ít được sử dụng), 1/8 sẽ có nốt do 3. Ngoài 6 điểm định âm thông dụng là do 1, sol 1, do 2, mi 2, sol 2 và do 3 còn có thể tạo âm thực bằng cách gảy dây buông và thường gảy gần ngựa đàn chứ không gảy vào các điểm định âm bồi. Trên 7 âm thanh này, với kỹ thuật tay trái như căng dây hoặc chùng dây thích hợp, người chơi đàn có thể tạo được rất nhiều âm thanh khác nữa.. Cách sử que gảy đàn Cách sử dụng/gảy đàn đòi hỏi kỹ thuật đặc biệt. Người diễn cầm que bằng tay phải, đặt que trong lòng bàn tay phải, đặt que trong lòng bàn tay làm sao để que hơi chếch so với chiều ngang dây đàn. Que đàn được đặt trên 2 đốt ngón tay trỏ và giữa của bàn tay phải, còn đốt thứ nhất của ngón cái thì giữ que đàn, đầu nhỏ của que thường nhô ra khoảng 1,5 cm. Hai ngón còn lại thì hơi cong theo ngón trỏ và giữa. Khi gảy dây ta đặt cạnh bàn tay vào điểm phát ra bội âm, hất nhẹ que đàn cùng lúc nhấc bàn tay lên, ta sẽ có được âm bội. Những điểm cạnh bàn tay chạm vào gọi là điểm nút, những điểm trên dây đàn được que gảy vào gọi là điểm gảy. Do đàn bầu không có phím nên những điểm nút được coi là cung phím của đàn bầu..
<span class='text_page_counter'>(22)</span> Các tư thế diễn tấu Thông thường nhất là đàn bầu đặt trên một cái bàn nhỏ (thường là hộp đàn có lắp 4 chân rời, trên mặt giá có 2 chỗ chặn để khi kéo đẩy cần đàn, đàn không bị di chuyển theo. Khi ngồi khoanh chân trên chiếu để đàn thì đầu gối chân mặt phải tì vào cạnh mặt đàn nhằm giữ cho cây đàn khỏi bị xê dịch. Ngày nay, các nghệ sĩ thường dùng tư thế đứng hoặc ngồi trên ghế để diễn tấu. Khi dó, đàn đuợc đặt trên giá gỗ có các chốt định vị có độ cao tương ứng với vị trí ngồi của nghệ sĩ.. Sử dụng tay trái trên cần đàn và dây đàn Ngón rung: Khi khảy dây, các ngón tay trái rung nhẹ cần đàn, âm thanh sẽ phát ra tự như làn sóng thì ta có ngón rung. Ngón rung rất quan trọng vì không những nó làm cho tiếng đàn mềm mại mà nó còn thể hiện phong cách của bản nhạc. Với các bài buồn, hoặc bài vui, ta phải rung theo những âm đã được qui định. Ngón vỗ: Vỗ ngón cái, vỗ ngón trỏ tạo ra âm thanh hãm và thăng giáng liên tục, ngắt quãng do dao động âm tắt nhanh. Theo nghệ sĩ ưu tú Thanh Tâm thì ngón vỗ thường diễn tả tình cảm đau khổ, uất ức, nghẹn ngào. Ngón vuốt: miết ngón tay vào cần đàn để tạo độ trượt qua các thang âm và dừng lại ở thang âm qui định trong bản nhạc. Ngón luyến: kéo thẳng cần tăng hoặc giảm tới âm qui định Ngón tạo tiếng chuông: Nhấn cườm tay vào dây đàn để hãm bớt âm chính và tạo ra âm bội trên âm chính có sẵn. v.v. Sự phát triển của đàn bầu trong đời sống âm nhạc dân tộc Trong lịch sử nhạc cụ Việt Nam chưa có nhạc khí dân tộc nào của nước ta được thay đổi, cải biến nhiều như đàn bầu. Cần đàn thay vì bằng tre thì nay bằng sừng để cho mềm dễ uốn hơn. Bầu đàn trước đây làm bằng vỏ bầu khô, nay dùng sừng hoặc thông dụng nhất là tiện bằng gỗ để có thể bắt vít được. Que đàn từ chỗ dài khoảng 10cm, nay thu ngắn ngắn khoảng 4cm. Từ chỗ được vót bằng tre, giang; nay có thêm các chất liệu gỗ, dừa, sừng hoặc nhựa. Theo nhạc sĩ Bùi Lẫm: vào thập kỷ 60, nghệ sĩ Mạnh Thắng là người sáng chế ra lối que gẩy ngắn, ông cũng là người đã cải tiến đưa phần khuếch đại âm thanh vào đàn bầu, và ông cũng là người đầu tiên đưa đàn bầu đi trình diễn quốc tế, mang giải thưởng cao quí cho Việt Nam. Sau đó, cũng với que gẩy ngắn này, nghệ sĩ ưu tú Đức Nhuận đã phát minh ra lối kỹ thuật vê (teremono) trên 1 dây và đánh sử dụng bồi âm trên bồi âm. Thân đàn và các phụ kiện Loại đàn cũ cần có thân to, mặt mỏng để tăng độ âm vang. Khóa đàn bằng gỗ. Loại đàn hiệ đại sử dụng công nghệ khuếch đại âm thanh điên tử có kích thước nhỏ hơn, khóa đàn bằng kim loại. Điểm cái tiến táo bạo nhất mà không một nhạc khí nào dám làm là loại đàn bầu dùng công nghệ điện tử có thể tách đôi, gập lại, xếp gọn khi di chuyển. Khi trình tấu, người chơi đàn có thể lắp ráp lại nhanh chóng. Hộp chứa đàn Ngoài chức năng để cất giữ, bảo vẹn đàn khi di chuyển đàn, hộp này vừa có hể dùng làm giá đỡ đàn với hai chốt chặn ở hai đầu, tiện lợi cho việc căng dây hoặc chùng dây khi chơi các bản nhạc có âm chủ khác nhau.. Đàn đáy.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> Đàn đáy là nhạc cụ do người Việt Nam sáng tạo ra. Không rõ đàn đáy xuất hiện lần đầu vào năm nào nhưng nó được nhắc đến gần 200 năm qua. Đàn đáy có tên gốc là “đàn không đáy” tức "vô đề cầm", vì nó không có đáy (hậu đàn). Do đó người ta gọi tắt là đàn đáy lâu ngày thành tên chính thức như hiện nay. Một giả thuyết khác cho rằng nhạc cụ này có dây đeo bằng vải, dây này trong chữ Hán là “đái” (đai) nên mới gọi là “đàn đái”, đọc chệch lâu ngày thành “đàn đáy”. Đàn đáy có 4 bộ phận chính : - Bầu đàn, còn gọi là thùng đàn : bằng gỗ, hình thang cân. Đáy lớn nằm phía trên, rộng khoảng 23-30 cm, đáy nhỏ nằm phía dưới rộng khoảng 18-20 cm. Cạnh 2 bên khoảng 31-40 cm. Thành đàn vang bằng gỗ cứng, dày khoảng 810 cm. Mặt đàn bằng gỗ ngô đồng, có một bộ phận để móc dây đàn (cái thú). Có khi mặt đàn khoét một lỗ hình chữ nhật. Đáy đàn thủng hình chữ nhật. - Cần đàn : dài 1,10-1,30 m gắn phía trên từ 10 đến 12 phím đàn bằng tre nhưng đàn đáy cổ có 16 phím[1]. Các phím này dày và cao, phần đỉnh dài hơn phần chân phím. Tính từ đầu đàn trở xuống, phím đầu tiên không gắn sát vào sơn khâu như nhiều nhạc cụ khác mà lại nằm ở quãng giữa cần đàn. - Đầu đàn : hình lá đề, hốc luồn dây có 3 trục chỉnh dây. - Dây đàn : 3 dây bằng tơ se, dài, mềm và dễ nhấn mang tên dây Hàng, dây Trung và dây Liễu. Ngày nay, những dây này có thể bằng nilon với kích cỡ to nhỏ khác nhau, mỗi dây cách nhau 1 quãng bốn đúng. Dây đàn được chia làm năn cung: cung Nam, cung Bắc, cung Nao, cung Huỳnh và cung Pha. Đàn đáy có âm vực rộng hơn 2 quãng tám, âm sắc giống đàn nguyệt, ấm áp dịu ngọt và có thể diễn tả tình cảm sâu sắc. Người biểu diễn thường dùng đàn đáy đệm cho giọng nữ cao hoặc phối hợp với những nhạc cụ gõ có âm thanh khô (ít vang). Trước đây đàn đáy đệm cho hát ả đào cùng với phách và trống, ngày nay nó thường hiện diện trong một số dàn nhạc dân tộc để hòa tấu. Ngày xưa nghệ sĩ cần miếng khảy bằng que tre để đánh, ngày nay họ thường dùng miếng khảy nhựa hơn. Kỹ thuật tay phải gồm có ngón khảy, hất, lia (vê) giống như cách diễn đàn nguyệt và đàn tì bà. Kỹ thuật tay trái gồm có ngón chùn, nhấn, láy, đánh chồng âm và hợp âm v.v… Ở loại đàn đáy cổ truyền người ta không đánh dây buông mà bấm vào ngắn phím thứ nhất để khảy, cách này coi như đánh dây buông.. Đàn nhị Đàn nhị là nhạc cụ thuộc bộ dây có cung vĩ, do đàn có 2 dây nên gọi là đàn nhị (二). Đàn xuất hiện ở Việt Nam khoảng thế kỷ 10. Ngoài người Kinh, nhiều người dân tộc thiểu số Việt Nam cũng sử dụng rộng rãi nhạc cụ này (Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Giấy, H’Mông v.v.) Tuy phổ biến tên gọi "đàn nhị", nhiều dân tộc tại Việt Nam còn gọi đàn bằng tên khác nhau. Người Kinh gọi là "líu" (hay "nhị líu" để phân biệt với "nhị chính"), người Mường gọi là "Cò ke", người Nam Bộ gọi là "Đờn cò". Hình dáng, kích cỡ và nguyên liệu làm đàn nhị cũng khác nhau đôi chút tùy theo tộc người sử dụng nó[1].. Cấu tạo Loại đàn nhị thông dụng hiện nay có những bộ phận chính như sau:.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> 1. Bát nhị (còn gọi là ống nhị): là bộ phận tăng âm (bầu vang) rỗng ruột, hình hoa muống, làm bằng gỗ cứng. Bát nhị có 2 đầu, đầu này bịt da rắn hay kỳ đà, còn đầu kia xòe ra không bịt gì cả. Ngựa đàn nằm ở khoảng giữa mặt da. 2. Dọc nhị (còn gọi là cần nhị, cán nhị): dáng thẳng đứng, đầu hơi ngả về phía sau, gốc cắm xuyên qua lưng bát nhị, gần phía mặt da. 3. Trục dây : trục trên và trục dưới đều gắn xuyên qua đầu dọc nhị nằm cùng hướng với bát nhị. 4. Dây nhị : Trước đây dây đàn được làm bằng sợi tơ se, ngày nay làm bằng nilon hoặc kim loại. Dây kim loại cho âm thanh chuẩn hơn nhưng không ngọt ngào bằng dây tơ hay dây nilon. Dây đàn chỉnh theo quãng 4 đúng, quãng 5 đúng, quãng 7 thứ... nhưng phổ biến nhất là quãng 5 đúng. 5. Cử nhị (hay khuyết nhị): là một sợi dây tơ se neo 2 dây đàn vào gần sát dọc nhị, nơi dưới hai trục dây. Có khi cử nhị là một khung áo buộc gần sát dọc nhị, hai dây đàn xỏ qua hai lỗ khung này. Cử nhị là bộ phận để điều chỉnh cao độ âm thanh. Nếu bạn kéo cử nhị xuống, 2 dây đàn sẽ ngắt quãng hơn, tạo ra âm thanh cao hơn. nếu bạn đẩy cử nhị lên khi đàn 2 dây sẽ phát ra âm thanh trầm hơn vì quãng dây dài hơn. Tuy nhiên để lên dây đàn người ta còn vặn trục dây nữa. 6. Cung vĩ: làm bằng cành tre, cành lớp hay gỗ có mắc lông đuôi ngựa. Những lông đuôi ngựa nằm giữa hai dây đàn để kéo đẩy, cọ sát vào dây đàn tạo ra âm thanh. Do những lông đuôi ngựa kẹt hai dây đàn nên ta không thể tách rời cung vĩ khỏi thân đàn. Tính năng Đàn nhị có âm vực rộng hơn 2 quãng tám, âm thanh trong sáng, rõ ràng, mềm mại gần với giọng hát cao (giọng kim). Muốn thay đổi âm sắc hoặc giảm độ vang người ta dùng đầu gối trái bịt một phần miệng loa xòe của bát nhị (khi ngồi trên ghế kéo đàn) hay dùng ngón chân cái chạm vào da của bát nhị (khi ngồi trên phản kéo đàn, trên chiếu). Nhờ những cách này âm thanh sẽ xa vẳng, mơ hồ, tối tăm và lạnh lẽo diễn tả tâm trạng thầm kín, buồn phiền... Sử dụng Đàn nhị là thành viên trong nhạc phường bát âm, dàn nhã nhạc, ban nhạc chầu văn, tài tử và dàn nhạc tổng hợp. Ngày nay thỉnh thoảng nó xuất hiện cả trong dàn nhạc pop, rock hiện đại để tăng màu sắc trong cách phối âm. Bạn dùng tay trái giữ dọc nhị và bấm dây đàn bằng lòng ngón tay hoặc đầu ngón tay, tay phải cầm cung vĩ để kéo đẩy tạo ra âm thanh. Kỹ thuật đàn khá phong phú, bao gồm từ ngón vuốt, ngón nhấn, ngón láy, ngón chuyền đến cung võ liền, cung vĩ ngắt, cung vĩ rời và cung vĩ rung, v.v. Nhị chính Còn có tên gọi khác là nhị một. Đây là một biến thể của nhị líu. Bát nhị vẫn có hình dáng như nhị líu nhưng lớn hơn. Nhạc cụ này cũng có hai dây nhưng dây ngoài bằng thép, có âm cao. Dây trong bằng tơ có âm trầm. Vì không phải là cây đàn chủ yếu trong bộ dây của dàn nhạc dân tộc nên nhị chính thường dùng để đi bè cho giai điệu chính khi viết hòa thanh hoán vị. Cách định âm khi lên dây đàn của nhị chính giống như nhị liu [1]. Tầm âm của đàn Nhị.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> Đàn tam Đàn tam là nhạc cụ Việt Nam có 3 dây (tam là ba). Trước đây người ta thường dùng nhạc cụ này trong dàn nhạc bát âm, ngày nay phần lớn các dàn nhạc đều có đàn tam với đủ loại kích cỡ, từ nhỏ, vừa đến lớn và cả loại đàn tam âm trầm, hòa điệu với những nhạc cụ âm trầm khác trong dàn nhạc. Cả 3 loại đàn tam kể trên đều thể hiện âm vực trong vòng 2 quãng tám rất tốt. Về hình dáng cấu tạo đàn tam gồm có những bộ phận chính như sau : - Bầu đàn : là bộ phận tăng âm hình lục giác. Thành bầu khá nặng, làm bằng gỗ cứng. Mặt đàn bằng da trăn hoặc da kỳ đà. Ở phần gần giữa mặt đàn là ngựa đàn. Trước đây hậu đàn bịt da, ngày nay làm bằng gỗ, có lỗ thoát âm. - Cần đàn : dài, làm bằng gỗ cứng, trên mặt không có phím đàn. - Đầu đàn : có hốc luồn dây và 3 trục dây (bên 2 trục, bên 1 trục). Đầu đàn hơi ngả về phía sau. - Dây đàn : trước đây làm bằng tơ se, nay làm bằng dây nilon với kích cở khác nhau. Tổng cộng có 3 dây đàn móc vào cuối bầu đàn, chạy lên phía trên ngựa đàn đến cần đàn rồi xỏ vào trục dây được luồn qua miếng xương có 3 lỗ nằm trên mặt cần đàn. Người ta có thể di chuyên miếng xương này lên gần đầu đàn hay kéo xuống hướng bầu đàn để điều chỉnh độ căng, giản của 3 dây đàn, giúp âm thanh cao lên hay trầm xuống. Nói cách khác, miếng xương này giống như cái khuyết ở đàn nhị. Tuy nhiên loại đàn tam ngày nay, nhất là loại thường dùng người ta đã bỏ miếng xương này. Đàn tam có âm sắc không giống các đàn khảy dây khác như đàn tỳ bà, đàn nguyệt hay đàn tứ. Điều này có lẻ chịu ảnh hưởng phần nào bởi mặt bầu vang bịt da trăn. Đàn tam có màu âm vang, ấm, sáng sủa, thích hợp rộn rã. Tuy nhiên khi ở quãng thấp âm sắc đàn tam hơi đục, dùng để thể hiện những giai điệu trầm hùng, khỏe khoắn. Đối với đàn tam cỡ vừa và lớn, âm sắc hơi mờ và đục hơn đàn cỡ nhỏ, âm thanh gần giống như tiếng trống. Các loại đàn tam đều có âm vực khoảng 3 quãng tám. Người biểu diễn thường nuôi dài móng tay cái và trỏ để khảy đàn, nhưng có người lại dùng móng khảy bằng sừng hoặc bằng plastic. Loại móng này có vòng để đeo vào đầu ngón cái và ngón trỏ như móng của đàn tranh. Dù khảy đàn bằng móng tay hay móng khảy kỹ thuật diễn đàn tam cũng không có gì khác biệt. Về cách dùng móng khảy, có một số kỹ thuật như sau : -Khảy : đánh vào dây đàn từ trên xuống. -Hất : dùng miếng khảy hất dây từ dưới lên..
<span class='text_page_counter'>(26)</span> -Vê : dùng miếng khảy hất từ trên xuống và từ dưới lên một cách liên tục, giống như kỹ thuật reo dây của đàn tranh. Người diễn có thể vê trên 1 dây, 2 dây hoặc cả 3 dây, tạo nên hợp âm ngân dài. Nếu dùng móng tay để đánh những âm liên tiếp đều nhau thì gọi là phi, một kỹ thuật đã trình bày ở đàn tỳ bà. Về kỹ thuật tay trái, người ta sử dụng đàn tam với những cách chính như : bấm (tùy kích cỡ đàn tam mà có thể bấm khác nhau) còn các kỹ thuật láy, láy rền, bật, mổ, luyến, bịt, âm bội … đều giống như cách sử dụng đàn tỳ bà hoặc đàn nguyệt. Người ta thường dùng ngón vê để diễn đàn tam, ít sử dụng ngón rung, Kỹ thuật đánh chồng âm (hợp âm) cũng có hiệu quả tốt đối với đàn tam. Tuy nhiên nếu dùng móng tay để đánh hợp âm thì dễ dàng là dùng móng khảy. Lên dây & Tầm âm của đàn Tam. Đàn hồ Đàn hồ là nhạc cụ dân tộc Việt Nam thuộc bộ dây, sử dụng cung mã vĩ (lông đuôi ngựa) kéo trượt vào dây để tạo âm. Ban đầu, đàn hồ chỉ có một loại. Trong quá trình phát triển, nhạc cụ này có ba biến thể: Hồ, Hồ trung và Hồ đại. Ngoài ra, mỗi dân tộc sử dụng loại đàn này cũng có những kiểu cách riêng. Vì cùng có hai dây nên đàn hồ có cấu tạo giống như đàn nhị nhưng kích thước bầu cộng hưởng lớn hơn, âm thanh trầm hơn đàn nhị. Đàn hồ thường có trong biên chế của dàn nhạc dân tộc cổ truyền. Người ta dùng nó để đệm cho các giọng nam trung, nam trầm, nữ trung (còn gọi là giọng thổ), diễn tả những âm điệu suy tư, trầm mặc hoặc những giai điệu buồn. Đàn hồ cũng được dùng phổ biến trong nghệ thuật hát xẩm.[1]. Lịch sử Đàn hồ tại Việt Nam hiện nay có xuất xứ từ Ấn Độ và vùng Trung Á, được du nhập vào Việt Nam cùng với Trống cơm từ thế kỷ I đến thế kỷ III sau công nguyên. [2] Tại Trung Quốc, người Hoa cũng du nhập loại nhạc cụ này từ người Hồ (tên gọi được người Hán dùng để chỉ các dân tộc sinh sống tại vùng giáp giới giữa tây bắc Trung Quốc.
<span class='text_page_counter'>(27)</span> với các nước Trung Á) trong thời kỳ thịnh đạt của "Con đường tơ lụa". Vì vậy nên người Trung Quốc gọi nó là Hồ cầm (đàn của người Hồ). Người Việt Nam gọi theo ngôn ngữ của mình là đàn hồ. Ban đầu, nó là nhạc cụ của những người du mục, được dùng trong sinh hoạt văn nghệ dân gian và trong các cuộc tế lễ. Hiện nay, đàn hồ có mặt trong hầu hết các dàn nhạc dân tộc cổ truyền Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Hàn Quốc, Đài Loan. Loại đàn này cũng có mặt ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ, một số nuớc khu vực Tây Á và Kavkaz.[3]. Loại nhạc cụ này dần dần được bản địa hóa. Không chỉ nguời Kinh mà người Thái, người Khơ me cũng chế tác đàn hồ cho mình. Ngày nay, đàn hồ có mặt ở hầu hết các dàn nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam. Trong dân gian Việt Nam thời cổ, có một loại đàn giống với đàn này, được gọi là Đàn gáo (có bầu đàn giống cái gáo, mặt đàn bằng gỗ mỏng). Do cấu tạo và tính năng tương tự, nó đuợc coi như một họ hàng của đàn hồ.. Cấu tạo và đặc tính âm thanh Cấu tạo Đàn hồ có cấu tạo khá đơn giản, gồm có: . . . . . . Hộp cộng hưởng hình trụ tròn, trụ lục giác, trụ bát giác, nửa hình cầu hoặc parabol tròn xoay (tùy theo từng nơi chế tạo). Mặt hộp cộng hưởng làm bằng da thú hoặc da trăn đã thuộc và phơi sấy khô căng đều lên mép hộp. Đây là nhược điểm của loại mặt đàn này, khi không khí ẩm hoặc mặt đàn bị dính nước, âm thanh của đàn sẽ kém vang và bị sai lệch nhiều. Cần đàn hình trụ tròn, làm bằng loại gỗ cứng đã phơi khô, tẩm sấy, ít biến dạng, được cắm vào hộp cộng hưởng phía gần mặt da. Để tạo thuận loại cho nhạc công di chuyển bàn tay trái khi bấm dây, cần đàn được bào nhẵn, phủ sơn ta hoặc vecni. Để tạo dáng, đầu trên của cần đàn thường đuợc uốn cong. Đàn hồ có hai dây. Dây đàn hồ cổ được làm bằng ruột mèo phơi khô, thái thành sợi mỏng. Dây đàn hồ hiện nay thường được làm bằng tơ tằm, tơ nhân tạo hoặc nilon. Cũng có một số loại dùng dây kim loại nhưng âm thanh không mượt. Một đầu dây quấn vào tay quay định âm, một đầu cố định ở phía dưới đáy đàn. Tay quay định âm được làm bằng gỗ cứng, xỏ qua lỗ đục sẵn trên phía đầu cần đàn. Chốt định âm (thuờng được gọi là con ngựa) được dán bằng keo vào mặt đàn, có tác dụng tách hai dây đàn với một khoảng cách từ 0,5 (hồ) đến 1,5 cm (hồ đại) và áp vào hộp cộng hưởng để nâng dây đàn khỏi mặt đàn. Cung kéo được làm từ lông đuôi ngựa (mã vĩ), căng trên một cành trúc (tre) nhỏ tạo thành hình cánh cung. Khác với đàn Violon của phương Tây có mã vĩ rời bên ngoài và trượt trên 4 dây đàn; dây mã vĩ của đàn hồ đi qua khoảng cách giữa hai dây. Lông đuôi ngựa trượt trên dây đàn tạo ra âm thanh. Để tăng độ ma sát khi kéo đàn, người ta thường dùng miếng nhựa thông chà xát vào lông đuôi ngựa. Ngày nay, các nghệ sĩ thường dùng cung vĩ của đàn violon với tính năng tương đương để có thể xếp gọn dọc theo cần đàn khi cất giữ hoặc di chuyển. Dây níu: Để định âm cho từng âm vực khác nhau theo bản nhạc hoặc phù hợp theo giọng hát khi đệm cho ca sĩ, người ta thường dùng dây níu để rút ngắn hoặc kéo dài khoảng cách phát âm của dây đàn, tạo ra âm vực trầm, bổng khác nhau.. Đặc tính âm thanh Đàn hồ có âm vực thấp hơn đàn nhị từ 3 đến 8 cung bậc. Riêng hồ đại có âm vực thấp hơn nhị từ 16 đến 20 cung bậc. Âm sắc mờ đục nhưng đầy đặn, tạo cảm giác trầm mặc, khỏe khoắn, vững chãi. Trong ca nhạc dân tộc và kịch hát dân tộc (chèo, tuồng, cải lưong của Việt Nam, kinh kịch của Trung Quốc); đàn hồ thường được dùng để đệm cho giọng nam trung, nam trầm, nữ trung. Đây cũng là loại đàn đặc trưng của nghệ thuật hát xẩm khi diễn tấu với trống khẩu và các loại phách[1].. Kỹ thuật định âm Đàn hồ có 2 dây được định âm cách nhau 1 quãng năm đúng, âm vực rộng hơn 2 quãng tám, nhưng thường được các nhạc sĩ viết trong vòng 2 quãng tám. Kỹ thuật sử dụng đàn hồ cũng giống như đàn nhị nhưng do nó có kích thước lớn hơn, cần đàn và dây đàn dài hơn nên người biểu diễn phải sử dụng thế bấm xoạc rộng hơn. Đối với đàn.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> hồ, nhạc công chỉ có thể bấm trên 1 dây trong vòng 1 quãng 4 đúng, song nếu sử dụng đàn nhị họ có thể bấm quãng rộng hơn. Lên dây đàn Hồ. Tầm âm của đàn Hồ. Thể loại và vị trí trong dàn nhạc Đàn hồ ban đầu chỉ có một loại. Về sau, nó phát triển thành ba loại có cùng đặc điểm cấu tạo và cách thức sử dụng nhưng khác nhau về kích thước, âm vực, âm sắc cũng như vị trí trong dàn nhạc. Đó là Hồ, Hồ trung, Hồ đại. Hồ Cũng được gọi là đàn nhị trung để phân biệt với đàn nhị líu. Đâu loại đàn phổ biến trong các dàn nhạc dân tộc. Dây đàn được định âm tương ứng với đàn nhị. Hai dây cách nhau một quãng năm đúng trên khuôn nhạc khóa sol. Đối ứng với dàn nhạc cổ điển phương Tây, nó có âm vực tương đương với đàn viola nhưng với âm sắc đục hơn; thường được sử dụng làm bè trung của dàn nhạc với số lượng từ 2 đến 10 chiếc (tùy theo quy mô dàn nhạc). Trong môn nghệ thuật hát xẩm, đàn hồ được diễn tấu cùng với trống khẩu, phách thoi và phách thẻ. Khác với cách thức diễn tấu của violon hoặc viola, người sử dụng đặt hộp đàn lên phần trên của đùi và kéo đàn ở tư thế ngồi. Các kỹ thuật sử dụng cung ngắt, chạy nhanh, nhảy xa, rền, rung, vuốt, luyến, láy được áp dụng phổ biến.. Hồ trung Hồ trung có kích thước lớn hơn hồ thường. Dây đàn hồ trung to hơn dây đàn hồ và được định âm trầm hơn dây đàn hồ 1 quãng tám (8 cung bậc). Hai dây đàn đựoc định âm cách nhau 1 quãng năm đúng nhưng được ghi nốt nhạc ở khóa fa trong khuôn ký âm tự (khuôn ghi nốt nhạc 5 dòng). Đối ứng với dàn nhạc cổ điển phương Tây, đàn hồ trung có âm vực tương đương với đàn violoncel (thường gọi tắt là cello) làm bè trung pha trầm và trầm trong dàn nhạc. Do có kích thước tuơng đối lớn và trọng luợng đáng kể, khi sử dụng, nhạc công phải dùng một giá đỡ hộp đàn bằng gỗ để trước mặt và diễn tấu trong tư thế ngồi trên ghế. Các kỹ thuật rền, rung, vuốt, luyến, láy được áp dụng kết hợp với sử dụng cung liền (giai điệu) hoặc cung rời (piczigator). Các kỹ thuật dùng cung ngắt, chạy nhanh, nhảy xa ít đuợc áp dụng do không phù hợp với đặc tính âm vực và âm sắc của đàn.. Hồ đại Đây là loại đàn có kích thước lớn nhất trong các loại đàn hồ. Dây hồ đại to được định âm thấp hơn 1,5 quãng tám (12 cung bậc) so với đàn hồ. Với nghệ sĩ tài năng, hồ đại có thể được định âm rộng gần 2 quãng tám. Hai dây đàn lên cách nhau 1 quãng năm đúng và được ghi nốt nhạc ở khóa fa trong khuôn nhạc. Đối ứng với dàn nhạc cổ điển-.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> thính phòng phương Tây, hồ đại có vị trí tương đương với đàn contrebass, đảm nhận bè trầm và cực trầm trong dàn nhạc. Do kích thước và trọng lượng lớn, khi sử dụng, nhạc công phải đặt đàn xuống sàn và diễn tấu trong tư thế ngồi trên ghế. Các kỹ thuật sử dụng cung rời (piczigator) thuờng được dùng để đệm cho phần tiết tấu của bản nhạc hoặc bài hát. Kỹ thuật cung liền (giai điệu) bị hạn chế do âm vực của đàn thấp. Các kỹ thuật rền, rung, vuốt, luyến, láy hầu như không dùng đến. Gần đây một số nghệ nhân đã cải tiến đàn hồ trung với 4 dây đàn và bàn phím trơn như cần đàn cello hay contrabss, mục đích để sử dụng trong các dàn nhạc dân tộc quy mô. Do cung vĩ rời nên nhạc cụ cải tiến này có kỹ thuật kéo đẩy tương tự cello và contrabass.. Đàn Gáo Đàn gáo là "bà con" của đàn hồ; cũng là nhạc cụ họ dây, chi cung kéo; bầu cộng hưởng làm bằng sọ dừa khô. Vì hình dạng trông giống cái gáo múc nước làm từ sọ dừa khô nên gọi là đàn gáo. Đàn gáo là sáng tạo dân gian của Việt Nam, một nước Đông Nam Á và tộc người Lê ở Hải Nam là những nơi có trồng cây dừa. Đây là nhạc cụ trung âm, rất dễ chế tác và rẻ tiền tuy chuẩn mực âm thanh không cao. Những người mới vào nghề hát xẩm (xẩm chợ) thường dùng loại đàn này. Khi có chút lưng vốn, họ có thể gia nhập vào hàng ngũ "xẩm cô đào" và sắm đàn hồ có chuẩn mực âm thanh cao hơn, hình thức đẹp hơn thay cho đàn gáo.[1][4]. Đàn tranh Đàn tranh cũng được gọi là đàn thập lục, là nhạc cụ của người Việt (Kinh). Đàn thuộc họ dây chi gảy. Vì có 16 dây nên đàn còn có tên chữ là Thập lục. Đàn Tranh hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều dài 110-120 cm. Đầu lớn rộng khoảng 25-30 cm là đầu có lỗ và con chắn để mắc dây. Đầu nhỏ rộmg khoảng 15-20 cm gắn 16 khoá lên dây chéo qua mặt đàn. Mặt đàn làm bằng ván gỗ ngô đồng dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm. Ngựa đàn còn gọi là (con nhạn) nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh. Dây đàn làm bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau. Ngày xưa dùng dây tơ. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo 3 móng gẩy vào ngón cái, trỏ, & giữa để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim loại, sừng hoặc đồi mồi. Âm sắc Đàn Tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, trong sáng. Đàn Tranh ít thích hợp với những tính cách trầm hùng, khoẻ mạnh. Tầm âm Đàn Tranh rộng 3 quãng 8, từ Dô lên Dô3. Đàn Tranh thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho ngâm thơ, hát, tham gia trong các dàn nhạc Tài Tử, phường Bát Âm, dàn Nhã Nhạc và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp. Theo giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê: Nguồn gốc Đàn Tranh Việt Nam là đàn "Tranh" giống như đàn "Sắt" từ Trung Quốc truyền sang nước Việt có thể từ đời Trần hay trước nữa, dùng trong dân dã dưới dạng 9 dây, 15 dây, 16 dây và từ xưa đến giờ thay đổi số dây từ dây tơ sang dây cước (dây đồng) đến dây thép. Nhưng qua 7, 8 thế kỷ, người nước Việt dùng nó, tạo cho nó một phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang âm điệu thức. Đàn tranh đã thành nhạc cụ hoàn toàn mang tính dân tộc Việt Nam vì đã được người Việt ưa dùng, truyền từ đời này đến đời kia hằng 7-8 trǎm nǎm, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam.. Đàn tứ Đàn tứ là một nhạc cụ Việt Nam có âm cao, do có bốn dây nên người ta gọi là đàn tứ (tứ là bốn). Tuy nhiên đàn này còn nhiều tên gọi khác như “đàn đoản” (đoản là ngắn) và cần đàn ngắn hơn đàn nguyệt, “đàn nhật” (nhật là mặt trời) một cách để đối lại với đàn nguyệt (nguyệt là mặt trăng). Ở Việt Nam đàn tứ thường do người Kinh sử dụng, một số dân tộc anh em như H’Mông, Pupéo … cũng có nhạc cụ này nhưng cấu tạo đơn giản hơn..
<span class='text_page_counter'>(30)</span> Đàn tứ thường xuyên xuất hiện trong một số ban nhạc cổ truyền như cải lương hoặc hát bội (bộ). Nhiệm vụ chính của đàn tứ là hòa tấu, tuy nhiên ở miền núi người ta thích dùng nó để độc tấu. Cách độc tấu của người miền núi rất khác so với phong cách của người kinh. Đàn tứ và các loại đàn tương tự có những bộ phận chính như sau : - Bầu vang (bộ phận tăng âm) : hình hộp tròn, dẹt như đàn nguyệt. Đường kính mặt đàn và hậu đàn bằng nhau, khoảng 35cm. Thành bầu xấp xỉ 7cm (thành bầu vang của các loại tương tự của người dân tộc mỏng hơn) - Mặt đàn : Bằng gỗ để mộc (đàn của người H’Mông có hoa văn và lỗ thoát âm). Trên mặt đàn, ở phần dưới có bộ phận móc dây, còn được coi là ngựa đàn. - Cần đàn : Bằng gỗ cứng, ngắn và to bản. Các phím đàn hơi cao, có khoảng hơi đều nhau trên suốt cần đàn và mặt đàn. - Đầu đàn : Có 4 trục mắc dây, mỗi bên 2 trục. - Dây đàn : Tuy có 4 trục mắc dây nhưng gần đây chỉ sử dụng có 2 trục (để móc 2 dây trên mỗi trục). Trước đây dây đàn làm bằng tơ se, ngày nay thường dùng dây nilon. Một số đàn tứ cải tiến có bộ trục lên dây, móc 4 dây kim loại. Nhìn chúng các dây đàn được chỉnh khá căng trên hàng phím tương đối cao, thích hợp để sử dụng ngón vê. Tuy nhiên đàn tứ của người dân tộc không được chỉnh dây căng như đàn của người kinh, mục đích để diễn tả những giai điệu trữ tình. Đàn tứ có âm vực rộng 2 quãng tám. Loại đàn tứ cổ truyền có 4 dây (2 dây to đồng âm, 2 dây nhỏ đồng âm) nên ngày nay các nghệ nhân chỉ mắc dây trên 2 trục. Tuy nhiên có người lại gắn 4 dây với 4 âm khác nhau theo kiểu đàn mandoline. Đây là sự cách tân đáng chú ý. Đàn tứ có 10 phím, gắn theo hệ thống thất cung chia đều (không có những quảng nửa cung), nghĩa là không hoàn toàn giống hệ thống thất cung của phương Tây. Trong lúc diễn nghệ sĩ dùng cách nhấn dây để tạo âm thanh thích hợp với các loại bài bản. Đàn tứ có âm sắc tươi sáng, thích hợp để diễn tả những giai điệu sôi nổi, mạnh mẽ. Tuy nhiên nên dùng dây tô hay dây nilon, đàn tứ có khả năng diễn đạt tính chất trữ tình. Khi biểu diễn, tay trái sử dụng những kỹ thuật chính như ngón vê, ngón phi, còn tay trái thường dùng ngón vuốt, ngón nhấn, ngón lu yến và đánh chồng âm.. Đàn nguyệt Đàn nguyệt tức nguyệt cầm, trong Nam còn gọi là đàn kìm. Loại đàn này có hộp đàn hình tròn như Mặt Trăng nên mới có tên là "đàn nguyệt". Theo sách xưa thì đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây[cần dẫn nguồn]. Sách của Phạm Đình Hổ thì ghi rằng đàn nguyệt xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 18.. Cấu tạo Đàn nguyệt có những bộ phận chính như sau: - Bầu vang : Bộ phận hình tròn ống dẹt, đường kính mặt bầu 30cm, thành bầu 6cm. Nền mặt bầu vang có bộ phận nằm phía dưới gọi là ngựa đàn (cái thú) dùng để mắc dây. Bầu vang không có lỗ thoát âm. - Cần đàn (hay dọc đàn) : làm bằng gỗ cứng, dài thon mảnh, bên trên gắn 10 phím đàn, trước đây chỉ có 8 phím. Những phím này khá cao, nằm xa nhau với khoảng cách không đều nhau..
<span class='text_page_counter'>(31)</span> - Đầu đàn : hình lá đề, gắn phía trên cần đàn, nó có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục. - Dây đàn : có 2 dây, trước đây làm bằng dây tơ, ngày nay thường làm bằng dây nilon. Tuy có 4 trục đàn nhưng người ta chỉ mắc 2 dây (một dây to một dây nhỏ). Cách chỉnh dây thay đổi tùy theo người sử dụng. Có khi 2 dây cách nhau quãng 4 đúng, có khi cách quãng năm đúng hoặc quãng bảy hay quãng tám đúng. Song cách thông dụng nhất vẫn là lên dây theo quãng năm đúng. Đàn nguyệt là nhạc cụ khảy dây, được dùng thường xuyên trong ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm và trong nhiều dàn nhạc dân tộc khác.. Khả năng trình diễn Nhìn chung dàn nguyệt có âm sắc trong sáng, ở khoảng âm thấp thì hơi đục. Nó có thể diễn đạt nhiều sắc thái tình cảm khác nhau, từ dịu dàng, mềm mại đến rắn rỏi, rộn ràng. Ngày xưa người biểu diễn nuôi móng tay dài để khảy đàn nguyệt, ngày nay miếng khảy đàn đã giữ nhiệm vụ này. Một số kỹ thuật sử dụng tay phải trong đàn nguyệt như sau: - Ngón phi: lối đánh cổ truyền, không dùng miếng khảy mà sử dụng những ngón tay vẩy liên tiếp nhanh trên dây đàn, hiện quả âm thanh gần giống như ngón vê. Ngón phi có hai cách diễn: + Phi lên : thường sử dụng trên một dây đàn, bắt đầu từ ngón út rồi lần lượt những ngón khác hất vào dây đàn. + Phi xuống: sử dụng trên cả 1 dây đàn hoặc trên cả 2 dây. Phi xuống là vẫy nhanh các ngón tay vào dây đàn, bắt đầu từ ngón út (có khi bắt đầu từ ngón trỏ) rồi lần lượt những ngón khác khảy dây đàn. Khi biểu diễn ngón phi người ta dùng 4 ngón tay (không sử dụng ngón tay cái). Nếu đánh bằng miếng khảy đàn họ chỉ sử dụng 3 ngón vì ngón cái và ngón trỏ phải giữ miếng khảy. - Ngón vê : khảy liên tiếp trên dây đàn. Kỹ thuật này thường dùng trong nhạc hát văn. Cách vê có thể bằng móng tay hay miếng khảy, vê 1 dây hoặc 2 dây đều được. - Ngón gõ: dùng những ngón tay phải gõ vào mặt đàn, mục đích để báo hiệu cho hát, cho các nhạc khí khác hòa tấu hoặc điểm giữa những nhạc cụ, đoạn nhạc hay những lúc các nhạc cụ khác ngưng hoạt động. - Bịt : làm âm thanh vừa vang lên liền tắt đột ngột. Kỹ thuật sử dụng tay trái trong đàn nguyệt gồm có 12 cách: ngón rung, ngón nhấn, ngón nhấn luyến, nhấn luyến, ngón láy, ngón láy rền và ngón láy giật. Trước đây người ta ít sử dụng ngón vuốt, nhưng ngày nay có thể xem nó là kỹ thuật số 9 của tay trái. Kế tiếp là ngón bật dây, âm bội và đánh chồng âm ( hợp âm). Vai trò của đàn nguyệt trong nhạc dân ca Việt Nam Đàn nguyệt được dùng để biểu diễn các thể loại nhạc dân ca của Việt Nam. Trong ban nhạc "Ngũ tuyệt" của nhạc thính phòng cổ truyền thì đàn nguyệt đóng vai trò điều khiển. Bốn nhạc cụ kia trong dàn nhạc gồm có đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn tam và ống sáo. Đàn nguyệt cũng giữ vai trò tối trọng yếu trong nhạc chầu văn.. Đing năm Đing năm là một nhạc cụ họ hơi của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Đing năm là cách gọi của người Ê Đê. Người Raglai gọi nó là Ku puốt, người M'Nông gọi là M'boắt. Thường dùng để thổi theo điệu hát Ayray, trong các lễ hội: Lễ cúng Bến nước, lễ cầu mưa, lễ mừng lúa mới, lễ lên nhà mới, tăng lễ.v.v.. Trong các lễ hội này nhạc cụ được sử dụng hát hay chỉ thổi theo làn điệu. Âm thanh trầm bổng, cao vút, vọng vang khác nhau, tạo được nết hoang.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> sơ của núi rừng Tây Nguyên, âm thanh như cơn lốc xé toạc cả mảng núi rừng. Người sáng tạo ra Đing năm vào thời gian nào nhiều nghệ nhân vẫn không biết, họ chỉ biết thổi và ca hát.. Hình dáng Cấu trúc gồm 6 ống trúc dài ngắn khác nhau được xếp thành 2 bè, mỗi bè 3 ống. Cắm các ống xiên qua một quả bầu khô, dùng sáp ong rừng "dán" lại. Khi sáp khô thì khoét các lỗ trên đầu mỗi ống. Cuống trái bầu khô làm đầu thổi. Kỷ thuật làm kèn khó vì đòi hỏi người nghệ nhân phải biết thổi, có khả năng thẩm thấu cao. Cách thổi Người nghệ nhân thổi Đing năm thường thổi độc tấu hay đệm cho điệu hát Ayray của người Êđê. Hiện tại trước nguy cơ truyền thống cha ông bị mai một, có nguy cơ thất truyền. Điều đáng quan tâm là hiện tại người gia mới thổi, làm được kèn Đing năm.. Đing ktút Đing ktút hay Đinh vuốt là một loại nhạc cụ của người dân tộc Êđê, dùng được hát với thể loại hát Kưứt một người thổi và một người hát. Giống với cây sáo nhưng có bốn lỗ tròn trên thân tre. Thiết diện tròn, bên trong rỗng từ đầu này sang đầu kia. Âm thanh nhẹ tạo được khung cảnh của miền núi hùng vĩ..
<span class='text_page_counter'>(33)</span>