Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.43 KB, 8 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO ĐẠI LỘC. Trường Tiểu học Trương Hoành.. ĐỀ TÀI: Sáng. kiến kinh nghiệm.. MỘT VÀI BIỆN PHÁP CHỐNG HỌC SINH TIỂU HỌC NGỒI NHẦM LỚP.. Họ và tên tác giả: Nguyễn văn Bình. Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy lớp 4B. Công tác kiêm nhiệm: Tổ trưởng chuyên môn Khối 4-5. Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Trương Hoành. Năm học: 2007 – 2008.. Tháng 2 / 2008..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> A. Đặt vấn đề: Cấp Tiểu học là bậc học nền tảng mang tính phổ quát, cơ bản và toàn diện nội hàm chuỗi kiến thức về xã hội-tự nhiên và đời sống cùng với những kĩ năng sống mang đậm tính đặc thù tâm lí của lứa tuổi tiểu học. Chính vì lẽ đó, vấn đề trang bị cho học sinh tiểu học hội đủ những kiến thức- kĩ năng – thái độ và hành vi chuẩn theo qui định của Bộ Giáo dục-Đào tạo là mục tiêu “cứng”đòi hỏi người giáo viên tiểu học bằng mọi giá phải làm tròn trọng trách của mình. Nếu không thì hiện tượng học sinh tiểu học ngồi nhầm lớp là hệ quả tất yếu.Vậy thế nào là học sinh ngồi nhầm lớp ? Học sinh ngồi nhầm lớp là những học sinh không đạt chuẩn về kiến thức và kĩ năng các môn học sau 35 tuần học/lớp, ở lớp dưới mà vẫn được lên lớp trên ngồi học. Học sinh ngồi nhầm lớp không phải hôm nay mới thấy, các nhà quản lí giáo dục mới đặt ra - thiết nghĩ đã có từ lâu rồi. Phải chăng chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa điều kiện kinh tế phát triển, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện tốt hơn, điều kiện học tập của các em ngày càng được đầy đủ hơn, trình độ chuyên môn của giáo viên đạt trên chuẩn chiếm tỉ lệ khá cao hơn, trong khi đó, và với lí do gì mà học sinh tiểu học của chúng ta lại phải ngồi nhầm lớp ?! I. Lí do chọn đề tài: Trong những năm học qua, đặc biệt từ năm học 2004-2005 trở lại đây, học sinh học quá yếu kém - ngồi nhầm lớp của các cấp học học phổ thông nói chung, cấp tiểu học nói riêng đã trở thành một vấn đề thời sự nóng bỏng nổi cuộm lên của toàn ngành giáo dục, của toàn xã hội, gây nên sự bức xúc lớn trong mọi tầng lớp nhân dân của chúng ta. Đứng trước hiện trạng của vấn đề, về phía ngành chủ quản từ cấp bộ, cấp sở, cấp phòng…đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, đánh giá sát đúng tình hình thực trạng học sinh ngồi nhầm lớp, triển khai nhiều biện pháp đồng bộ thực hiện có tính quyết liệt, đột phá sâu rộng, chỉ đạo tổ chức thực hiện nội dung tinh thần cuộc vận động “Hai không” với năm nội dung…bước đầu đã đem lại những kết quả đáng được xã hội ghi nhận, song vấn đề ở đây là ở chỗ chúng ta đã tìm ra đúng nguyên nhân và đã giải quyết tận gốc rễ sâu xa của căn bệnh trầm kha này hay chưa ? Hoặc những di căn sau đó sẽ được giải quyết như thế nào ? Lại là một vấn đề còn cần phải có thời gian để kiểm chứng. Với tư cách là một người giáo viên tiểu học đang đứng lớp, bản thân tôi năng tâm tìm kiếm hướng giải quyết cho thực tế nầy. II. Phạm vi nghiên cứu đề tài: Chống học sinh lớp 4-5 Trường Tiểu học Trương Hoành (Đại Lộc-Quảng Nam ) ngồi nhầm lớp, trong năm học 2007-2008. III. Đối tượng nghiên cứu đề tài: 1. Nội dung giảng dạy học: a. Chuẩn kiến thức – kĩ năng học sinh lớp 5. b. Chuẩn kiến thức – kĩ năng học sinh lớp 4. 2. Con người: a. Giáo viên giảng dạy lớp 4-5, năm học 2006-2007 và năm học 2007-2008. b. Học sinh yếu lớp 4-5 năm học 2006-2007 và năm học 2007-2008. 3. Kết quả kiểm tra: a. Các bài kiểm tra chất lượng theo chương trình cuối tháng..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> b. Các bài kiểm tra định kì theo qui định của Bộ. IV. Tài liệu nghiên cứu: 1.Sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy lớp 4-5. 2.Các Quyết định: 30,14,16/Bộ Giáo dục-Đào tạo- Công văn: 896,7084,10398/Bộ Giáo dục-Đào tạo. V.Thực trạng học sinh yếu lớp 4,5 của nhà trường. 1. Số liệu: Khối lớp Tổng số học sinh Năm học 2006 – 2007 Năm học 2007 – 2008 06-07 07-08 (Thi lại lần 2,3: TV-T) (Yếu TV-T ở cuối kì 1) Bốn 108 98 8 9 Năm 120 106 7 4 2. Hiện trạng: Qua tổng hợp, xem xét các bài làm khảo sát chất lượng cuối tháng theo chương trình, các bài kiểm tra định kì của số đối tượng nói trên cho thấy rằng các em bị rơi rớt các kiến thức và kĩ năng cơ bản ở hai môn Tiếng việt và Toán đựoc phân thành các nhóm như sau: a.Tiếng việt: - Yếu về kĩ năng nói, đọc chiếm khoảng 25%. - Yếu về kĩ năng nghe, viết chiếm khoảng 25%. - Yếu về kĩ năng viết câu, dựng đoạn chiếm khoảng 50%. b.Toán: - Yếu về kĩ năng cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên, phân số, số thập phân chiếm khoảng 30%. - Yếu về kĩ năng đổi các số đo đại lượng chiếm khoảng 25%. - Yếu về kĩ năng giải toán điển hình dạng đơn giản chiếm khoảng45% 3. Nguyên nhân: a. Về phía giáo viên: * Góc độ chủ quan: - Trực diện vấn đề có thể nói giáo viên giảng dạy tiểu học ở một khối lớp nhiều năm liền chưa nắm bắt một cách đúng mức quan điểm biên soạn chương trình theo hướng tích hợp ngang và dọc toàn cấp của các mạch kiến thức mà chỉ bám sát sách giáo viên để thiết kế bài giảng. Chính vì lẽ đó, người giáo viên chưa hình dung để thấy hết được tính liên thông giữa các đơn vị kiến thức đã học, đang học và sẽ học (kiến thức đón đầu). - Người giáo viên chưa thật sự tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh của lớp mình đang phụ trách ở các giáo viên đã dạy ở lớp liền dưới hoặc chưa bỏ thời gian nghiên cứu sức học các môn các em học yếu qua học bạ lớp liền dưới. - Việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp, đặc biệt là sự chuẩn bị các thiết bị đồ dùng dạy học có sẵn hoặc tự làm nhiều khi thiếu chu đáo. Thiếu tính nghiên cứu các văn bản chỉ đạo về dạy học cũng như thiếu năng tâm trao đổi với phụ huynh về những diễn biến trong việc học tập của học sinh một cách kịp thời. - Người giáo viên chưa thật sự chịu rời bỏ vai trò chủ động để đảm nhận vai trò chủ đạo tổ chức cho học sinh chủ động tiếp thu, lĩnh hội kiến thức bài học bởi tâm lí sợ trượt thời lượng của tíêt học. * Góc độ khách quan: - Điều kiện cơ sở vật chất (bàn ghế rời), thiết bị nghe nhìn tại lớp, phương tiện công nghệ thông tin – còn thiếu nhiều..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Việc vận dụng ứng dụng CNTT trong dạy học, giáo viên chưa có điều kiện tiếp cận nhiều. - Chương trình Tiếng việt lớp 4,5 có phần nặng so với học sinh vùng nông thôn. b. Về phía học sinh: (Vì sao phải ngồi nhầm lớp?) * Góc độ chủ quan: - Phần lớn học sinh có năng lực học tập yếu kém, có nguy cơ ngồi nhầm lớp là những học sinh có ý thức, thái độ, động cơ học tập thiếu đúng đắn, chây lười trong học tập, không chịu khó học bài cũ, soạn bài mới trước khi đến lớp, thường xuyên thiếu dụng cụ học tập...Do đó, dẫn đến mất kiến thức- kĩ năng cơ bản ở lớp dưới. * Góc độ khách quan: - Những học sinh có năng lực học tập yếu (thi lại lần 2,3), sau đó mới được lên lớp, xét về mặt chuẩn kiến thức-kĩ năng cơ bản thì chưa đạt yêu cầu tối thiểu, như vậy vô tình học sinh đó “được” ngồi nhầm lớp (phải chăng đây là hệ quả của căn bệnh thành tích?!). - Phụ huynh có con em là đối tượng học sinh yếu kém là những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, dẫn đến thiếu quan tâm đến việc học hành của con cái, khoán trắng cho thầy, cô giáo được chăng hay chớ. c. Về cơ chế đánh giá: Giao chỉ tiêu học sinh lên lớp thẳng để xếp loại thi đua, phân loại CB-CC vào cuối năm học: Đây là vấn đề nên làm và cần làm, nhưng làm sao để ngăn chặn được mặt trái của vấn đề, tôi e rằng liệu Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn và các ban ngành của nhà trường có kiểm soát hết được yếu tố chạy theo bệnh thành tích của giáo viên hay không. Nếu không thì đây chính là cửa ngỏ cho học sinh ngồi nhầm lớp – như vậy sẽ có “tội” với học trò, với tương lai của xã hội. B. Giải quyết vấn đề: I. Những giải pháp thực hiện: 1. Quan điểm trình bày: - Chống học sinh ngồi nhầm lớp là không thể để có học sinh học yếu. - Đồng tình và nhất quán với ý nghĩa theo quan điểm của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn: “Không có học trò nào yếu cả, chỉ có thầy yếu mà thôi.” - Phổ cập giáo dục tiểu học phải là không có học sinh ngồi nhầm lớp. - Cách thức, biện pháp và hình thức dạy học sao cho có hiêụ quả thì không một giáo viên nào không biết cả, song “họ” đã làm hết trách nhiệm của mình hay chưa? Đây là một vấn đề cần phải nghiêm túc kiểm nghiệm lại mình - chữ Tâm trong nghề nghiệp. 2. Giải pháp cụ thể để chống học sinh ngồi nhầm lớp: a. Về phía giáo viên: * Góc độ Tổ chuyên môn: - Thông qua việc tổ chức chuyên đề, thao giảng, dự giờ các môn Tiếng việt, Toán, ngoài việc góp ý về nội dung, phương pháp giảng dạy, tổ chức cho các thành viên xét xem đối tượng học sinh yếu của lớp tham gia vào giờ học như thế nào, giáo viên dạy có dám giao việc cho các đối tượng này hay không và qua học nhóm, các em tiếp cận được gì qua hợp tác, đặc biệt quan trọng là nội dung gì các em chưa hiểu, hổng kiến thức ở mặt nào, do đâu. Trên cơ sở đó, giúp giáo viên chủ nhiệm.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> quan tâm hơn nữa. Các đối tượng nầy được xem xét (quan tâm) thường xuyên và được các thành viên tổ xem xét qua các bài KTĐK khi sinh hoạt tổ chuyên môn. - Một cách làm bổ trợ nữa, hằng tuần, Tổ chuyên môn yêu cầu giáo viên chủ nhiệm ra đề khảo sát chất lượng học sinh yếu một lần trên tuần, tổ chuyên môn ra đề khảo sát một lần trên tháng. Qua đó, đánh giá mức độ chuyển biến của từng em, từng lớp và sự quan tâm đến mức độ nào của giáo viên phụ trách lớp. - Song trùng với kế hoạch chủ nhiệm của mỗi giáo viên chủ nhiệm, ngay từ đầu năm học, ngay sau khảo sát chất lượng đầu năm, xây dựng kế hoạch phụ đạo theo phương án dạy học theo nhóm trình độ vào buổi học thứ hai sao cho khả thi.Cuối tháng, kết hợp cùng với tinh thần đánh giá của tổ, giáo viên chủ nhiệm biểu dương, khen ngợi những học sinh học yếu, nhắc nhở những học sinh còn chậm tiến bộ. Chuyển kết quả cuối tháng về tận phụ huynh để phối hợp động viên đúng mức nhắc nhở cho thật kịp thời. - Tăng cường số lần chấm chữa bài Tiếng việt-Toán trên đối tượng học sinh yếu theo từng mạch kiến thức mà mỗi em đã bị hổng. Qua tổ chức thực hiện một cách kiên trì, ráo riết từ sau khảo sát chất lượng đầu năm, sau mỗi tháng thực hiện chương trình, tình hình chất lượng học sinh yếu được cải thiện đáng kể. * Góc độ lớp chủ nhiệm: - Công việc đầu tiên mà tôi làm vừa sau khi nhận lớp là tăng thời lượng gần gũi với các em nhiều hơn, phát huy tối đa tác dụng 15 phút đầu giờ hỏi han các em về việc học tập ở nhà các môn học nói chung, đặc biêt là Tiếng việt – Toán, phần nào các em còn lúng túng nhằm vào đối tượng học sinh yếu nhiều hơn và giải toả ngay trên lớp, dành riêng giờ ra chơi để tìm hiểu chuyên sâu việc nhà, việc học của các em để động viên nhắc nhở. Công việc nầy tôi chuyên tâm thực hiện thường xuyên. Mặt khác để kiểm chứng lại thông tin từ phía các em hằng tuần tôi dành thời gian đến thăm nhà đối tượng học sinh yếu, trực tiếp trao đổi với phụ huynh, hướng dẫn phụ huynh cách tổ chức cho các em học tâp và biện pháp để quản lí việc học của các em. Việc làm nầy tôi cảm thấy rất có hiệu quả, ý thức thái độ học tập của các em học sinh yếu ngày một chuyển biến rõ rệt. - Biện pháp đột phá để giải toả các hiện trạng như đã nêu trên: + Rèn kĩ năng nói đúng-đọc đúng: Việc phát âm (tập đọc), các em bị ảnh hưởng nặng nề bởi vùng khẩu ngữ địa phương từ phía cha mẹ và cộng đồng chung sống như: nói đọc thành núa, gạo đọc thành gộ, ăn đọc thành en...Về phần mình trên lớp, bản thân tôi luôn phát âm đúng để các em dần quen theo, tôi đến nhà trao đổi với gia đình các em, hướng dẫn lại cách phát âm, cách đọc để các thành viên gia đình cùng trợ giúp cho con em mình sửa dần cách đọc sai như đã nêu trên. Việc làm nầy, thực hiện một cách kiên trì để đưa các em vào vùng khẩu ngữ tương đối đúng, rồi đúng, rồi phát âm chuẩn. Mặt khác tôi yêu cầu khi đọc, các em phải giữ hơi, lấy giọng, nghỉ hơi, ngắt ý câu dài... Kết quả của việc làm nầy ở buổi đầu dường như không có thấy hiệu quả gì cả, song sau 2,3 tháng thực hiện đã có dấu hiệu bắt đầu chuyển biến đáng mừng, vì nó có quan hệ biện chứng với kĩ năng nghe và viết đúng. + Rèn kĩ năng nghe đúng - viết đúng: Hai kĩ năng nói - viết có mối quan hệ ngữ âm chặt chẽ. Từ chỗ phát âm sai, dẫn đến viết sai, qua các bài tập đọc, chính tả,...tôi.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> yêu cầu các em đọc đi, đọc lại nhiều lần văn bản, chú ý kĩ những trường hợp mình thường hay viết sai âm đầu, vần, âm cuối, dấu thanh...để rồi dần dà viết cho đúng. Tôi kì vọng cho bằng được yêu cầu các em phải thực hiện đúng qui trình sau: Nghe cho rõ, phân tích cấu tạo từng tiếng trong cụm từ mà thầy vừa đọc, viết vào vở, đánh vần nhanh trở lại, kiểm tra lần cuối cùng rồi mới viết tiếp. + Kĩ năng viết câu, dựng đoạn (mức độ đơn giản): Thông qua dạy tập đọc, luyện từ và câu, tôi luôn hướng dẫn các em giải nghĩa từ thông qua việc dùng từ đật câu, nghĩa của của từ phải nằm trong ý hình dung sẽ diễn đạt. Ví dụ: đam mê có nghĩa là ham thích quá mức thì phải đặt câu, ví dụ: Bạn Hữu đam mê trò chơi điện tử. Chứ không thể đặt câu như sau: Bạn Hữu đam mê. Còn về viết đoạn văn đơn giản theo một nội dung nào đó. Ví dụ: Viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về việc học tập của em. Tôi yêu cầu các em chỉ ra công việc học tập bao gồm những việc gì, nào là nghe giảng bài, học bài, làm bài tập...thì em dùng các từ chỉ tên các hoạt động học tập để đặt câu xoay quanh nội dung học tập, chứ không thể nói sang một nội dung nào khác và khi viết phải theo đúng qui trình : câu mở đoạn – câu triển khai – câu kết đoạn. Đây là công đoạn mang tính khái quát cao hơn, tốn kém rất nhiều thời gian và ứng với từng mẫu bài tập tôi đều phải đưa ra một bài mẫu để theo đó các em vận dụng vào bài làm của mình. + Kĩ năng cộng, trừ, nhân, chia các dạng số: Ở lớp bốn, chủ yếu là công, trừ, nhân, chia số tự nhiên, phân số làm cơ sở vững chắc cho việc công, trừ, nhân, chia số thập phân ở lớp năm. Tôi hướng dẫn cho các em tái hiện lại cách thực hiện theo nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp: Cộng, trừ, nhân không nhớ, nhớ một lần, nhớ hai lần...; Chia trong bảng rồi chia ngoài bảng. Tuy có tốn kém nhiều thời gian nhưng không có con đường nào khác, phải đi lại từ đầu. + Kĩ năng đổi các số đo độ dài, khối lượng, thời gian: Ở mạch kiến thức nầy, tôi lần lại cho các em nhận thấy sự giống nhau và cách thực hiện đổi số đo độ dài, khối lượng theo quan hệ hơn, kém nhau 10 lần. Về số đo thời gian, thì có phức tạp hơn, đây là mối quan hệ không đồng nhất giữa các đơn vị đo trong bảng đơn vị đo thời gian: giờ-phút (hơn, kém nhau 60 lần); thế kỉ-năm (hơn kém nhau 100lần)...và áp dụng làm bài tập. Tôi đưa ra nhiều mẫu bài tập áp dụng triệt để cho các em thực hiện nhiều lần, tương tự với các số đo khác cũng làm như vậy. + Kĩ năng giải toán điển hình (đơn giản): Ứng với mỗi kiểu bài, giúp các em nắm lại cách giải của mỗi dạng: Quan hệ nhiều hơn: (cộng vào); ít hơn: (trừ đi). Quan hệ tổng hiệu: Cách 1: Số bé = (tổng - hiệu):2; Số lớn = số bé + hiệu hoặc Tổng - số bé. Cách 2: Số lớn= (tổng + hiệu):2; Số bé = số lớn - hiệu hoặc Tổng - số lớn. Với các dạng khác cũng tương tự và cho làm bài tâp thực hành theo các mức độ từ dễ đến khó. b. Đối với học sinh: - Tôi yêu cầu cao với các em chịu khó tìm hiểu bài mới, thấy chỗ nào khó hiểu ghi vào sở soạn bài, đến lớp hỏi thầy. - Làm việc với phụ huynh, giao trách nhiệm cho anh, chị theo dõi việc học của em mình qua từng ngày, báo cáo với cha mẹ vào ngay bữa cơm tối hằng ngày..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> II. Kết quả: Từ những yêu cầu bức bách về chất lượng học sinh học yếu có nguy cơ ngồi nhầm lớp, những việc làm trên có tính cách thực hiện đồng bộ nhiều công việc, kiên trì trong một thời gian dài và mang tính phối hợp từ nhiều phía theo hướng phải làm tròn trách nhiệm gắn với chữ “Tâm” trong nghề nghiệp của người giáo viên tiểu học. Bản thân tôi xin được phép minh hoạ chất lượng HLM Tiếng việt & Toán của lớp phụ trách đến cuối kì 1 năm học 2007-2008 như sau: Thời TS Tiếng việt Toán điểm HS Giỏi Khá TB Yếu TB Giỏi Khá TB Yếu TB Đầu 33 6 11 9 7 26 18 10 5 0 33 năm Giữa 33 11 16 6 0 33 10 9 14 0 33 kì 1 Cuối 33 5 20 8 0 33 10 14 9 0 33 kì 1 C. Kết thúc vấn đề: I. Bài học kinh nghiệm: - Trong công tác chủ nhiệm, trong giờ học, là giáo viên tiểu học phải gần gũi các em nhiều hơn, chớ để các em đứng bên lề lớp học, giờ học, hãy chịu khó, chịu thương các em học sinh yếu càng nhiều các em càng mau tiến bộ. - Một công việc không kém phần quan trọng có tính cách hỗ trợ đắc lực cho người giáo viên đó là biết cách giúp phụ huynh tổ chức việc học tập của học sinh yếu ở nhà như một giờ học, lớp học thu nhỏ vậy. II. Ý kiến đề xuất: Thay vì giao chỉ tiêu học sinh lên lớp thẳng ngay từ đầu năm học cho giáo viên thì yêu cầu cao với giáo viên nâng cao chất lượng dạy học bằng cơ chế đánh giá: Dự giờ-khảo sát chất lượng sau giờ học và qua bài KTĐK bốn lần trong năm học (ngầm ý không đưa ra chỉ tiêu ban đầu mà mặc định đích chất lượng phải đạt theo các mức độ 1,2 Trường đạt chuẩn quốc gia, theo QĐ 32 của Bộ.), làm như thế có thể loại trừ yếu tố bệnh thành tích chạy theo số lượng ngay từ buổi ban đầu. Đây là một đề tài thật sự vô cùng khó, đầy tính năng tâm, xuất phát từ yêu cầu bức thiết về hiện tượng học sinh tiểu học ngồi nhầm lớp, với khả năng của bản thân còn nhiều hạn chế chỉ xin phép được đưa ra một vài biện pháp như đã nêu ở phần giải quyết vấn đề nhằm giải quyết cho thật tốt những phần việc thuộc về trách nhiệm của người giáo viên tiểu học để góp phần xoá bỏ hiện trạng học sinh tiểu học của chúng ta còn ngồi nhầm lớp. Kính mong quý thầy giáo, cô giáo là thành viên của HĐKH các cấp quan tâm, góp ý, chỉ giáo cho. Xin chân thành cảm ơn. Đại nghĩa, ngày 23 tháng 2 năm 2008. Người viết. Nguyễn Văn Bình..
<span class='text_page_counter'>(8)</span>
<span class='text_page_counter'>(9)</span>