Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Báo cáo thực tập tại Viện Kiểm sát nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.11 KB, 22 trang )

y

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO CHUNG NGUỒN THẨM PHÁN, KIỂM SÁT VIÊN, LUẬT SƯ

HỒ SƠ BÁO CÁO THỰC TẬP
Lĩnh vực: kỹ năng nghề nghiệp của Kiểm sát viên

TP. HCM ngày 24 tháng 5 năm 2020



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Báo cáo thực tập kỹ năng nghề nghiệp của kiểm sát
viên tại Viện kiểm sát nhân dân Quận 3-thành phố Hồ Chí Minh, tơi đã nhận
được hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý nhiệt tình và sự động viên của quý thầy cô
tại Học viện Tư pháp; lãnh đạo và anh chị Kiểm sát viên tại Viện kiểm sát
nhân dân Quận 3-thành phố Hồ Chí Minh cùng với gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp.
Trước hết, tơi xin trân trọng bày tỏ sự kính trọng và lịng biết ơn tới
các Thầy, Cô giáo tại Học viện Tư pháp đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi
trong suốt quá trình học tập tại Học viện cũng như quá trình thực hiện Báo
cáo thực tập kỹ năng nghề nghiệp của kiểm sát viên.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo và anh chị Kiểm sát viên tại Viện
kiểm sát nhân dân Quận 3-thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ, cung cấp tài
liệu, truyền đạt về kỹ năng nghề nghiệp của kiểm sát viên và tạo điều kiện
thuận lợi cho tơi trong suốt thời gian hồn thành chương trình thực tập.
Mặc dù đã cố gắng hồn thiện báo cáo thực tập kỹ năng nghề nghiệp
của kiểm sát viên bằng hết năng lực của mình nhưng chắc chắn khơng thể
tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý q báu của q thầy


cơ và các bạn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

TÁC GIẢ BÁO CÁO

năm 2020


I. TÊN VỤ ÁN: Nguyễn Châu Vũ - Phạm tội “sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo Điều
290 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
II. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 22/4/2018, tại quầy pha chế của cửa hàng Gạo số 33 Lê Quý Đôn,
Phường 7, Quận 3, Nguyễn Châu Vũ đã đăng nhập trái phép vào 02 tài khoản
internet banking ngân hàng TCB của Bà Trần Ngọc Thương để thực hiện giao
dịch chuyển khoản thanh tốn mua hàng, trong đó chuyển khoản để thanh toán
từ tài khoản 0001xxx mua 01 điện thoại trị giá 24 triệu, rút tiền mặt số tiền 9
triệu, mua 01 điện thoại trị giá 23 triệu. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là
57.680.000 đồng.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN
1.

Lý lịch bị can
Nguyễn Châu Vũ;

Giới tính: nam;


Sinh ngày 13 tháng 6 năm 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh;
Thường trú: số A đường NT, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí
Minh;
Nghề nghiệp: nhân viên giao hàng;
Quốc tịch: Việt Nam;

Trình độ văn hóa: 12/12;

Dân tộc: Kinh;

Tôn giáo: không;

Con ông: Nguyễn Châu Minh và bà: Vũ Thị Hà Lan;
Hồn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ, con;
Tiền sự: khơng;
2.

Tiền án: khơng;

Nội dung vụ án

Ngày 22/4/2018, Bà Trần Ngọc Thương (chủ quán G, địa chỉ quán G: số
A1 đường LQĐ, Phường B1, Quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh) sử dụng điện
thoại truy cập internet banking vào tài khoản ngân hàng Techcombank của bà
(có số tài khoản 1022065422XXXX) để thực hiện giao dịch trả tiền điện thoại
qua mạng thì phát hiện tài khoản của bà bị chuyển số tiền 24.990.000 đồng cho
ngân hàng Vietconbank vào ngày 20/4/2018 để thanh tốn cho Cơng ty TNHH
DĐMN đơn hàng MN 18YYYY; có 03 lần rút tiền tại cây ATM số tiền
9.000.000 đồng và tài khoản số 1912065422XXXX bị chuyển cho DNT tại
Ngân hàng Ngoại thương số tiền 23.690.000 đồng để thanh toán cho đơn hàng

14687.


Bà Thương đã điện thoại đến Ngân hàng Techcombank thì không gọi và
nghe được nên đến của hàng Mobiphone để kiểm tra thì được biết sim điện
thoại của bà đã bị hư nên Bà Thương làm lại sim. Sau đó, Bà Thương về nhà
hàng Gạo kiểm tra lại camera thì phát hiện nhân viên Nguyễn Châu Vũ có biểu
hiện nghi vấn nên đến Công an Phường 7, Quận 3 để trình báo sự việc.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, bị cáo Nguyễn Châu Vũ
đã khai nhận như sau:
Ngày 20/3/2018 bị can Nguyễn Châu Vũ xin vào làm pha chế tại nhà
hàng G với mức lương 6.500.000 đồng/tháng. Ngày 19/4/2018, bị can Vũ đang
pha chế tại quầy pha chế kế bên khu vực kế tốn thì nghe Bà Thương đọc tên
đăng nhập và mật khẩu internet banking của Ngân hàng Techcombank cho nhân
viên kế toán tên T1 để chuyển tiền thanh tốn hàng hóa, bị cáo nghe và nhớ
được tên đăng nhập là số điện thoại Bà Thương (090331TTTT), mật khẩu là
YYYY.
Do đó, khoảng 10 giờ 00 ngày 20/4/2018, lợi dụng lúc ông T1 đi kiểm tra
hàng khơng có mặt tại bàn kế tốn, Nguyễn Châu Vũ lấy điện thoại hiệu Iphone
6 của Bà Thương để trên bàn và tháo lấy sim số điện thoại 090331TTTT gắn
vào máy tính bảng hiệu Lenovo vào trang mạng của Công ty TNHH DĐMN đặt
mua một điện thoại Samsung Galaxy S9+ với giá 24.990.000 đồng. Sau đó, bị
can Vũ truy cập internet banking Ngân hàng Techcombank của Bà Thương và
lấy tên là PCK thực hiện chuyển số tiền 24.990.000 đồng từ tài khoản số
1022065422XXXX trả cho Công ty MN, nội dung thanh toán đơn hàng
MN18YYYY. Khoảng 30 phút sau, bị can Vũ tiếp tục vào trang mạng Vĩnh
Phát Mobile đặt mua 01 điện thoại Iphone X giá 23.690.000 đồng và tiếp tục
truy cập internet banking Ngân hàng Techcombank của Bà Thương và lấy tên là
L chuyển số tiền 23.690.000 đồng từ tài khoản số 1912065422XXXX cho DTN
có tài khoản ngân hàng Vietcombank (thuộc cơng ty VP) để thanh tốn đơn

hàng 1YYYY. Khoảng 20 giờ 00 cùng ngày, bị can Vũ đến trụ ATM ngân hàng
Techcombnak ở vòng xoay Điện Biên Phủ, Quận 1 dùng máy tính bảng hiệu
Lenovo truy cập tài khoản internet banking của Bà Thương vào mục đích rút
tiền không cần thẻ, thao tác rút 03 lần, mỗi lần 3.000.000 đồng từ tài khoản số
1022065422XXXX với tổng số tiền đã rút là 9.000.000 đồng. Vào lúc 17 giờ
ngày 21/4/2018, bị can Vũ hẹn nhân viên Công ty VP giao chiếc điện thoại
Iphone X tại địa chỉ số A2 đường LTT, phường B2, Quận C, Thành phố Hồ Chí
Minh và bị can Vũ đã nhận điện thoại Galaxy S9+ của Công ty MN tại số A3
đường BĐ, Phường B3, quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nhận được
02 điện thoại Vũ đem về nơi thuê trọ tại số A4 đường BĐT, Phường B4, quận


C3 cất giữ. Đối với số tiền 9.000.000 đồng bị can Vũ tiêu xài cá nhân hết
6.000.000 đồng, còn lại 3.000.000 đồng đã giao nộp cùng 02 điện thoại cho Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3.
3. Qúa trình tố tụng
A, quá trình tố tụng của vụ án
Cơ quan Điều tra ra Quyết định phân công giải quyết tin báo về tội phạm,
chuyển sang Viện kiểm sát để kiểm sát theo thẩm quyền.
Cơ quan Điều tra ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh cấm đi
chuyển khởi nơi cư trú của bị can.
Viện kiểm sát Phê chuyển Quyết định khởi tố bị can
Cơ quan Điều tra xác minh lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự; tống
đạt các thủ tục tố tụng
Cơ quan điều tra ra bản Kết luận điều tra
Viện kiểm sát ban hành Cáo trạng
B, ý kiến của Viện kiểm sát cấp trên ; các cấp, các ngành; dư luận xã hội
4, Nhận xét, đề xuất của kiểm sát viên được phân công thực hành quyền
công tố, kiểm sát xét xử vụ án
A, nhận xét

- Nội dung
Theo nội dung kết luận điều tra, Ngày 22/4/2018, tại quầy pha chế của
cửa hàng Gạo số 33 Lê Quý Đôn, Phường 7, Quận 3, Nguyễn Châu Vũ đã đăng
nhập trái phép vào 02 tài khoản internet banking ngân hàng TCB của Bà Trần
Ngọc Thương để thực hiện giao dịch chuyển khoản thanh toán mua hàng, trong
đó chuyển khoản để thanh tốn từ tài khoản 0001xxx mua 01 điện thoại trị giá
24 triệu, rút tiền mặt số tiền 9 triệu, mua 01 điện thoại trị giá 23 triệu. Tổng giá
trị tài sản chiếm đoạt là 57.680.000 đồng. Như vậy, hành vi phạm tội của Bị can
đã thoả mãn yếu tố cấu thành tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo điểm đ khoản 2
Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017”.
Dấu hiệu về mặt chủ thể của tội phạm:
Bị can là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị nhà nước ta nghiêm cấm nhưng
vẫn cố ý thực hiện hành vi đó.


Dấu hiệu về mặt khách thể của tội phạm:
Hành vi của bị can là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến
những quy định của Nhà nước về bảo vệ quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ
chức hoặc công dân và quy định về đảm bảo an tồn mạng máy tính, mạng viễn
thơng, mạng internet hoặc thiết bị số của người khác.
Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm:
Hành vi tội phạm của bị can được thực hiện dưới hình thức do lỗi cố ý
nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong vụ án này, qua các biên bản tự khai, biên bản lấy
lời khai và bản hỏi cung bị can, lời khai của bị hại đã cho thấy các bị can biết rõ
mức độ nguy hiểm của hành vi nhưng vẫn quyết tâm thực hiện.
Dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
Bị can đã có hành vi đăng nhập trái phép vào 02 tài khoản internet
banking ngân hàng TCB của Bà Trần Ngọc Thương để thực hiện giao dịch

chuyển khoản thanh toán mua hàng, trong đó chuyển khoản để thanh tốn từ tài
khoản 0001xxx mua 01 điện thoại trị giá 24 triệu, rút tiền mặt số tiền 9 triệu,
mua 01 điện thoại trị giá 23 triệu. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 57.680.000
đồng
- Tăng nặng, giảm nhẹ
+ Tăng Nặng: khơng có
+ Giảm nhẹ
Bị can có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối
cải, đã bồi thường, khắc phục hậu quả; được người bị hại bãi nại và xin giảm
nhẹ hình phạt; bị can phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian tại
ngoại chấp hành tốt chính sách pháp luật; bị can có khả năng tự cải tạo và việc
cho bị can hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội....do đó, căn cứ theo điểm b, s khoản 1,
khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa
đổi, bổ sung năm 2017. đây là tình tiết giảm nhẹ cho bị can.
B, đề xuất của Kiểm sát viên
- Trách nhiệm hình sự
+ Xét thấy
Trong ngày 20/4/2018, bị can Nguyễn Châu Vũ đã thực hiện hành vi sử
dụng thông tin về tài khoản của Bà Trần Ngọc Thương, truy cập bất hợp pháp


vào tài khoản của Bà Thương để chiếm đoạt tài sản với tổng số tiền bị chiếm
đoạt là 57.680.000 đồng, thuộc trường hợp “chiếm đoạt tài sản trị giá từ
50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” điểm đ khoản 2 Điều 290 của Bộ
luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
+ Đề nghị
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 290; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm
2017. Đề nghị bị can Nguyễn Châu Vũ phạm “Tội Sử dụng mạng máy tính,

mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Nguyễn Châu Vũ 02 năm đến 2 năm 6 tháng tù nhưng cho
hưởng án treo. Thời gian thử thách là 04 năm, tính từ ngày tun án
- Xử lý vật chứng: khơng có
- Trách nhiệm dân sự
Gia đình bị can đã bồi thường cho bị hại và bị hại Trần Ngọc Thương đã
nhận lại số tiền bị chiếm đoạt là 57.680.000 đồng từ bị cáo V vào ngày 27/4/201


IV. DỰ THẢO CÁO TRẠNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
QUẬN 3
Số:…....../2020/CT-VKS

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

CÁO TRẠNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH HỒ CHÍ MINH

Căn cứ các Ðiều 36, 166 và 167 Bộ Luật tố tụng hình sự.
Căn cứ Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 202/QĐKTVA-CQCSĐT(KT)
ngày 06 tháng 9 năm 2018 của Cơ quan CSĐT Công an Quận 3 về tội “sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản theo Điều 290 Bộ luật Hình sự;
Căn cứ Quyết định khởi tố bị can số 203/QĐKTBC-CQCSĐT(KT) ngày
06 tháng 9 năm 2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 đối với
Nguyễn Châu Vũ về tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện

điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo Điều 290 Bộ luật Hình sự;
Căn cứ Bản kết luận điều tra số 01/KLĐT-CQCSĐT(KT) ngày 26 tháng
11 năm 2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3,
Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau:
Ngày 22/4/2018, Bà Trần Ngọc Thương (chủ quán G, địa chỉ quán G: số
A1 đường LQĐ, Phường B1, Quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh) sử dụng điện
thoại truy cập internet banking vào tài khoản ngân hàng Techcombank của bà (có
số tài khoản 1022065422XXXX) để thực hiện giao dịch trả tiền điện thoại qua
mạng thì phát hiện tài khoản của bà bị chuyển số tiền 24.990.000 đồng cho ngân
hàng Vietconbank vào ngày 20/4/2018 để thanh tốn cho Cơng ty TNHH
DĐMN đơn hàng MN 18YYYY; có 03 lần rút tiền tại cây ATM số tiền
9.000.000 đồng và tài khoản số 1912065422XXXX bị chuyển cho DNT tại Ngân
hàng Ngoại thương số tiền 23.690.000 đồng để thanh toán cho đơn hàng 14687.
Bà Thương đã điện thoại đến Ngân hàng Techcombank thì khơng gọi và
nghe được nên đến của hàng Mobiphone để kiểm tra thì được biết sim điện thoại
của bà đã bị hư nên Bà Thương làm lại sim. Sau đó, Bà Thương về nhà hàng
Gạo kiểm tra lại camera thì phát hiện nhân viên Nguyễn Châu Vũ có biểu hiện
nghi vấn nên đến Cơng an Phường 7, Quận 3 để trình báo sự việc.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, bị can Nguyễn Châu Vũ
đã khai nhận như sau:


Ngày 20/3/2018 bị can Nguyễn Châu Vũ xin vào làm pha chế tại nhà hàng
G với mức lương 6.500.000 đồng/tháng. Ngày 19/4/2018, bị can Vũ đang pha
chế tại quầy pha chế kế bên khu vực kế tốn thì nghe Bà Thương đọc tên đăng
nhập và mật khẩu internet banking của Ngân hàng Techcombank cho nhân viên
kế toán tên T1 để chuyển tiền thanh tốn hàng hóa, bị cáo nghe và nhớ được tên
đăng nhập là số điện thoại Bà Thương (090331TTTT), mật khẩu là YYYY.
Do đó, khoảng 10 giờ 00 ngày 20/4/2018, lợi dụng lúc ông T1 đi kiểm tra
hàng khơng có mặt tại bàn kế tốn, Nguyễn Châu Vũ lấy điện thoại hiệu Iphone

6 của Bà Thương để trên bàn và tháo lấy sim số điện thoại 090331TTTT gắn vào
máy tính bảng hiệu Lenovo vào trang mạng của Cơng ty TNHH DĐMN đặt mua
một điện thoại Samsung Galaxy S9+ với giá 24.990.000 đồng. Sau đó, bị can Vũ
truy cập internet banking Ngân hàng Techcombank của Bà Thương và lấy tên là
PCK thực hiện chuyển số tiền 24.990.000 đồng từ tài khoản số
1022065422XXXX trả cho Công ty MN, nội dung thanh toán đơn hàng
MN18YYYY. Khoảng 30 phút sau, bị can Vũ tiếp tục vào trang mạng Vĩnh Phát
Mobile đặt mua 01 điện thoại Iphone X giá 23.690.000 đồng và tiếp tục truy cập
internet banking Ngân hàng Techcombank của Bà Thương và lấy tên là L chuyển
số tiền 23.690.000 đồng từ tài khoản số 1912065422XXXX cho DTN có tài
khoản ngân hàng Vietcombank (thuộc cơng ty VP) để thanh tốn đơn hàng
1YYYY. Khoảng 20 giờ 00 cùng ngày, bị can Vũ đến trụ ATM ngân hàng
Techcombnak ở vòng xoay Điện Biên Phủ, Quận 1 dùng máy tính bảng hiệu
Lenovo truy cập tài khoản internet banking của Bà Thương vào mục đích rút tiền
không cần thẻ, thao tác rút 03 lần, mỗi lần 3.000.000 đồng từ tài khoản số
1022065422XXXX với tổng số tiền đã rút là 9.000.000 đồng. Vào lúc 17 giờ
ngày 21/4/2018, bị can Vũ hẹn nhân viên Công ty VP giao chiếc điện thoại
Iphone X tại địa chỉ số A2 đường LTT, phường B2, Quận C, Thành phố Hồ Chí
Minh và bị can Vũ đã nhận điện thoại Galaxy S9+ của Công ty MN tại số A3
đường BĐ, Phường B3, quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nhận được
02 điện thoại Vũ đem về nơi thuê trọ tại số A4 đường BĐT, Phường B4, quận C3
cất giữ. Đối với số tiền 9.000.000 đồng bị can Vũ tiêu xài cá nhân hết 6.000.000
đồng, còn lại 3.000.000 đồng đã giao nộp cùng 02 điện thoại cho Cơ quan Cảnh
sát điều tra Cơng an Quận 3.
Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở
KẾT LUẬN
Ngày 22/4/2018, tại quầy pha chế của cửa hàng Gạo số 33 Lê Quý Đôn,
Phường 7, Quận 3, Nguyễn Châu Vũ đã đăng nhập trái phép vào 02 tài khoản
internet banking ngân hàng TCB của Bà Trần Ngọc Thương để thực hiện giao



dịch chuyển khoản thanh tốn mua hàng, trong đó chuyển khoản để thanh toán
từ tài khoản 0001xxx mua 01 điện thoại trị giá 24 triệu, rút tiền mặt số tiền 9
triệu, mua 01 điện thoại trị giá 23 triệu. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là
57.680.000 đồng.
Hành vi nêu trên của bị can là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp
đến những quy định của Nhà nước về bảo vệ quyền sở hữu tài sản của cơ quan,
tổ chức hoặc công dân và quy định về đảm bảo an tồn mạng máy tính, mạng
viễn thơng, mạng internet hoặc thiết bị số của người khác. Bị can là người đủ
năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, bị nhà nước ta nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi
đó.
Như vậy có đủ căn cứ để xác định bị can có lý lịch dưới đây đã phạm tội như
sau:
Nguyễn Châu Vũ;
Giới tính: nam;
Sinh ngày 13 tháng 6 năm 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh;
Thường trú: số A đường NT, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh;
Nghề nghiệp: nhân viên giao hàng;
Trình độ văn hóa: 12/12;
Quốc tịch: Việt Nam;
Dân tộc: Kinh;
Tơn giáo: khơng;
Con ơng: NCM và bà: VTHL;
Hồn cảnh gia đình: bị can chưa có vợ, con;
Tiền sự: khơng;
Tiền án: khơng;
Hành vi nêu trên của bị can Nguyễn Châu Vũ đã phạm tội “sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ

sung năm 2017.
Điều 290 Bộ Luật hình sự quy định: sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử
thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các
trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải
tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
…..
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm
đến 07 năm:
……
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
….


5. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc tồn bộ tài sản.”
Tình tiết tăng nặng: Khơng có
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, bị can đã bồi thường, khắc phục
hậu quả; được người bị hại bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo phạm tội
lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian tại ngoại chấp hành tốt chính sách
pháp luật; bị can có khả năng tự cải tạo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều
65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Bởi các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Truy tố ra trước Toà án nhân dân Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh để xét
xử bị can Nguyễn Châu Vũ có lý lịch và hành vi phạm tội nêu trên về tội “sử
dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi

chiếm đoạt tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ Luật hình sự năm 2015,
được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
2. Kèm theo Cáo trạng có:
- Hồ sơ vụ án gồm có:……tập, bằng……tờ; đánh số thứ tự từ 01 đến……..
- Danh sách những người VKS đề nghị Tòa án triệu tập đến phiên tòa./.
Nơinhận:
- - TAND Quận 3;
- - VKSND thành phố Hồ Chí Minh;
- - Bị can;
- - Cơ quan CSĐT Công an Quận 3;
- - Lưu: HSVA, HSKS, VP.

KT. VIỆN TRƯỞNG
PHÓ VIỆN TRƯỞNG


V. ĐỀ CƯƠNG XÉT HỎI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ

VIỆN KIỂM SÁT QUẬN 3
ĐỀ CƯƠNG XÉT HỎI
CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
Đối với vụ án Nguyễn Châu Vũ bị truy tố về tội phạm tội sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ Luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ
sung năm 2017, Kiểm sát viên dự kiến xét hỏi các nội dung sau:
HĐXX hoặc người tham
gia
Những nội dung cần xét hỏi

tố tụng

Đã xét hỏi

- Hỏi bị cáo:
+ Bị cáo nghe rõ nội Cáo trạng của Viện kiểm
………….
sát truy tố khơng?
+ Bị cáo có ý kiến gì về cáo trạng của Viện ……………
kiểm sát khơng?
+ ngày 22/4/2018 Bị cáo đã làm gì tại của hàng
Gạo? Đi đâu?
+ Mục đích của việc đăng nhập trái phép vào
tài khoản để làm gì
+ Bị cáo rút tiền ngày nào
+ Điện thoại giao ngày nào?
+ Động cơ, mục đích của bị cáo phạm tội?
+ Bị cáo có bị mớm cung, nhục hình khơng?
+ Bị cáo hiện nay đang sống cùng ai?
+ Bị cáo nhận thức hành vi của mình như thế
nào?
+ Bị cáo có bị cơ quan điều tra thu giữ gì thêm
khơng?
+ Bị cáo có tiền án, tiền sự không?
HỎI BỊ HẠI
+ Bà nghe rõ nội Cáo trạng của Viện kiểm sát
truy tố bị cáo Nguyễn Châu Vũ không?
+ Bà có ý kiến gì về cáo trạng của Viện kiểm
sát truy tố bị cáo Nguyễn Châu Vũ không?
+ Bà phát hiện tiền trong tài khoản ngân hàng
bị mất từ khi nào và bằng cách nào?


KSV cần xét
hỏi

Chưa xét hỏi
……………..
…………..
…………….

…………….


+ Ngồi bà ra, cịn ai biết tên đăng nhập và mật
khảu tài khoản ngân hàng của bà?
+ Vì sao bà nghi ngờ Nguyễn Châu Vũ đăng
nhập trái phép vào tài khoản ngân hàng của bà?
+ Bà có gặp và nói chuyện với Nguyễn Châu
Vũ về việc mình bị mất tiền trong tài khoản ngân
hàng khơng?
+ Bà có u cầu Bị cáo bồi thường khơng?
+ Bị cáo và gia đình Bị cáo có xin lỗi hay bồi
thường thiệt hại cho bà khơng?
+ Bà có ý kiến gì về hành vi của Bị cáo?
+ Bà có đề nghị gì với Hội đồng xét xử không?

Lưu ý: Trước khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên dự kiến các câu hỏi
căn cứ theo Điều 85 và Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tịa, Kiểm
sát viên theo dõi những nội dung mà Hội đồng xét xử, người tham gia tố tụng
chưa hỏi; người được hỏi chưa trả lời hoặc trả lời chưa rõ để đánh dấu vào đề cương, sau đó
tiến hành xét hỏi nhằm tránh trùng lặp./.
KIỂM SÁT VIÊN

(Ký, ghi rõ họ tên)

KIỂM SÁT VIÊN
(Ký, ghi rõ họ tên)

V. DỰ THẢO ĐỀ CƯƠNG TRANH LUẬN


VIỆN KIỂM SÁT QUẬN 3
ĐỀ CƯƠNG
TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
Đối với vụ án Nguyễn Châu Vũ bị xét xử về tội “Sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo
điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ Luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm
2017, Kiểm sát viên dự kiến tranh luận với các tình huống sau:
1. Tình huống Bị cáo, người đại diện của Bị cáo, người bào chữa……...
kêu oan cho Bị cáo:
a) Lập luận theo hướng Bị cáo không bị truy tố oan (nêu lập luận; viện
dẫn các tài liệu, chứng cứ, đồ vật; viện dẫn căn cứ pháp lý……………….để
chứng
minh)
……………………………………………………………………………………
………..
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
b) Kết luận: Khẳng định Bị cáo không bị truy tố oan, việc truy tố của Viện

kiểm sát là có căn cứ………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………......
................................................................................................................................
…………………………………………………………………………………......
................................................................................................................................
…………………………………………………………………………………......
................................................................................................................................
2. Tình huống Bị cáo, người đại diện của Bị cáo, người bào chữa… khai
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục
tố tụng (Bị cáo bị bức cung, dùng nhục hình trong quá trình lấy lời khai ….):


Kiểm sát viên phải kiểm tra thủ tục tố tụng liên quan đến nội dung bị cho
rằng có vi phạm và công bố hoặc đề nghị Hội đồng xét xử cơng bố các tài liệu về
những nội dung đó; đồng thời kết luận việc có hay khơng có vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng.
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
3. Tình huống có người tham gia tố tụng đề nghị Tòa án xét xử Bị cáo
theo khoản khác nặng hơn khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một tội
danh hoặc về một tội khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố:
…………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
4. Tình huống có tài liệu, chứng cứ, đồ vật cho thấy bỏ lọt tội phạm, người
phạm tội:
…………………………………………………………………………………......

.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
................................................................................................................................
5. Tình huống có tài liệu, chứng cứ, đồ vật cho thấy mức bồi thường thiệt
hại khơng đúng:
…………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

6. Các tình huống khác:
………………………………………………........................................................
……………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………..
Lưu ý: Ngồi những tình huống dự kiến trên sẽ có thể có những tình huống khác
xuất hiện tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ, đồ vật
trong hồ sơ vụ án, diễn biến phát sinh tại phiên tòa, dự kiến những phương án
tranh luận với Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để
tranh luận đầy đủ, đến cùng đối với từng vấn đề; có thể gộp các vấn đề có nội
dung giống nhau để tranh luận cùng một lần. Khi tranh luận tại phiên tòa về
từng vấn đề, Kiểm sát viên dùng cụm từ: “Về nội dung này, quan điểm của Kiểm
sát viên như sau: …….”.



VI. DỰ THẢO LUẬN TỘI
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP.HỒ CHÍ
MINH
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN 3

Mẫu số 13/XS
Theo QĐ số 505/QĐVKSTC ngày 18 tháng
12 năm 2017

BẢN LUẬN TỘI
Vụ án: Nguyễn Châu Vũ. Can tội: sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
PHẦN MỞ ĐẦU
“Thưa Hội đồng xét xử”,
Căn cứ Điều 321 Bộ luật Tố tụng hình sự,
Hơm nay, Tòa án nhân dân Quận 3 mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
Nguyễn Châu Vũ bị xét xử về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo điểm đ khoản 2
Điều 290 Bộ Luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tôi tên là __________________________, Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân Quận 3, được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại
phiên tồ trình bày quan điểm của Viện kiểm sát về việc xử lý đối với Bị cáo và
giải quyết vụ án như sau:
PHẦN NỘI DUNG
1. Nêu tóm tắt nội dung vụ án
Ngày 22/4/2018, Bà Trần Ngọc Thương (chủ quán G, địa chỉ quán G: số
A1 đường LQĐ, Phường B1, Quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh) sử dụng điện
thoại truy cập internet banking vào tài khoản ngân hàng Techcombank của bà (có
số tài khoản 1022065422XXXX) để thực hiện giao dịch trả tiền điện thoại qua

mạng thì phát hiện tài khoản của bà bị chuyển số tiền 24.990.000 đồng cho ngân
hàng Vietconbank vào ngày 20/4/2018 để thanh tốn cho Cơng ty TNHH
DĐMN đơn hàng MN 18YYYY; có 03 lần rút tiền tại cây ATM số tiền
9.000.000 đồng và tài khoản số 1912065422XXXX bị chuyển cho DNT tại Ngân
hàng Ngoại thương số tiền 23.690.000 đồng để thanh toán cho đơn hàng 14687.
Bà Thương đã điện thoại đến Ngân hàng Techcombank thì khơng gọi và
nghe được nên đến của hàng Mobiphone để kiểm tra thì được biết sim điện thoại
của bà đã bị hư nên Bà Thương làm lại sim. Sau đó, Bà Thương về nhà hàng


Gạo kiểm tra lại camera thì phát hiện nhân viên Nguyễn Châu Vũ có biểu hiện
nghi vấn nên đến Cơng an Phường 7, Quận 3 để trình báo sự việc.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, bị cáo Nguyễn Châu Vũ
đã khai nhận như sau:
Ngày 20/3/2018 bị cáo Nguyễn Châu Vũ xin vào làm pha chế tại nhà hàng
G với mức lương 6.500.000 đồng/tháng. Ngày 19/4/2018, bị cáo V đang pha chế
tại quầy pha chế kế bên khu vực kế tốn thì nghe Bà Thương đọc tên đăng nhập
và mật khẩu internet banking của Ngân hàng Techcombank cho nhân viên kế
toán tên T1 để chuyển tiền thanh tốn hàng hóa, bị cáo nghe và nhớ được tên
đăng nhập là số điện thoại Bà Thương (090331TTTT), mật khẩu là YYYY.
Do đó, khoảng 10 giờ 00 ngày 20/4/2018, lợi dụng lúc ơng T1 đi kiểm tra
hàng khơng có mặt tại bàn kế toán, Nguyễn Châu Vũ lấy điện thoại hiệu Iphone
6 của Bà Thương để trên bàn và tháo lấy sim số điện thoại 090331TTTT gắn vào
máy tính bảng hiệu Lenovo vào trang mạng của Công ty TNHH DĐMN đặt mua
một điện thoại Samsung Galaxy S9+ với giá 24.990.000 đồng. Sau đó, bị cáo Vũ
truy cập internet banking Ngân hàng Techcombank của Bà Thương và lấy tên là
PCK thực hiện chuyển số tiền 24.990.000 đồng từ tài khoản số
1022065422XXXX trả cho Cơng ty MN, nội dung thanh tốn đơn hàng
MN18YYYY. Khoảng 30 phút sau, bị cáo V tiếp tục vào trang mạng Vĩnh Phát
Mobile đặt mua 01 điện thoại Iphone X giá 23.690.000 đồng và tiếp tục truy cập

internet banking Ngân hàng Techcombank của Bà Thương và lấy tên là L chuyển
số tiền 23.690.000 đồng từ tài khoản số 1912065422XXXX cho DTN có tài
khoản ngân hàng Vietcombank (thuộc cơng ty VP) để thanh tốn đơn hàng
1YYYY. Khoảng 20 giờ 00 cùng ngày, bị cáo Vũ đến trụ ATM ngân hàng
Techcombnak ở vòng xoay Điện Biên Phủ, Quận 1 dùng máy tính bảng hiệu
Lenovo truy cập tài khoản internet banking của Bà Thương vào mục đích rút tiền
khơng cần thẻ, thao tác rút 03 lần, mỗi lần 3.000.000 đồng từ tài khoản số
1022065422XXXX với tổng số tiền đã rút là 9.000.000 đồng. Vào lúc 17 giờ
ngày 21/4/2018, bị cáo Vũ hẹn nhân viên Công ty VP giao chiếc điện thoại
Iphone X tại địa chỉ số A2 đường LTT, phường B2, Quận C, Thành phố Hồ Chí
Minh và bị cáo Vũ đã nhận điện thoại Galaxy S9+ của Công ty MN tại số A3
đường BĐ, Phường B3, quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nhận được
02 điện thoại Vũ đem về nơi thuê trọ tại số A4 đường BĐT, Phường B4, quận C3
cất giữ. Đối với số tiền 9.000.000 đồng bị cáo Vũ tiêu xài cá nhân hết 6.000.000
đồng, còn lại 3.000.000 đồng đã giao nộp cùng 02 điện thoại cho Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an Quận 3.
2. Phân tích, đánh giá chứng cứ


- Phân tích, đánh giá khách quan, tồn diện, đầy đủ chứng cứxác địnhBị cáo có
tội như: biên bản khám nghiệm, biên bản kiểm tra, thu giữ vật chứng, kết luận
giám định pháp y, sổ sách, chứng từ, lời khai của Bị cáo, người Bị hại, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng……….(nêu bút lục để chứng
minh).
Tại phiên tịa ngày hơm nay bị cáo Nguyễn Châu Vũ đã khai nhận toàn bộ
hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản tự
khai, biên bản lấy lời khai và bản hỏi cung bị can, lời khai của bị hại, chứng cứ
thu giữ là phù hợp với nhau, phù hợp với kết quả điều tra cơng khai. Điều đó một
lần nữa đủ cơ sở xác định khẳng định nội dung bản Cáo trạng số: 107/CT-VKS
ngày 30/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 truy tố bị cáo Nguyễn Châu

Vũ về tội: “tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ Luật
hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hồn tồn có căn cứ, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
Kiểm sát viên phải cập nhật diễn biến tại phiên tòa để đưa ra lập luận bác bỏ
hoặc chấp nhận lời trình bày của Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
đồng thời viện dẫn chứng cứ chứng minh quan điểm của mình.
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
3. Phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội
Phân tích, đánh giá chung tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội; động cơ, mục đích, thủ đoạn phạm tội; mức độ hậu quả tác hại do tội
phạm gây ra đối với người Bị hại (tính mạng, sức khỏe, tài sản…) và an ninh,


chính trị, kinh tế, trật tự an tồn xã hội. Lưu ý: Việc đánh giá phải khách quan,
trung thực, không suy diễn.
Trong vụ án này, Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm
phạm vào những quy định của Nhà nước về bảo vệ quyền sở hữu tài sản của cơ
quan, tổ chức hoặc công dân; quy định của Nhà nước về đảm bảo an tồn mạng
máy tính, mạng viễn thơng, mạng internet hoặc thiết bị số của người khác. Bị
cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của

mình là nguy hiểm cho xã hội, bị nhà nước ta nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực
hiện hành vi đó. Do vậy, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo điểm đ khoản 2 Điều 290
Bộ Luật hình sự năm 2015, với tình tiết định khung là “bị phạt tù từ 02 năm đến
7 năm”
Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Do đó, cần
thiết phải nghiêm trị bị cáo bằng một bản án có mức án nghiêm khắc, tương
xứng với tính chất, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, để bị cáo thấy
được tính nghiêm minh của pháp luật nhà nước ta. Đồng thời thông qua đó tạo
ra tác dụng giáo dục, phịng ngừa chung và đáp ứng được yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
4. Nhân thân và vai trò của Bị cáo trong vụ án
- Đánh giá, xác định vị trí, vai trị, trách nhiệm của từng Bị cáo trong vụ án có
đồng phạm. Việc đánh giá theo trình tự sau: từ Bị cáo có vai trị chủ mưu, cầm
đầu đến Bị cáo có vai trị thực hành, xúi giục, giúp sức như trong Cáo trạng
(hoặc Quyết định truy tố) (nếu tại phiên tịa khơng có diễn biến thay đổi đáng
kể).
- Đối với từng Bị cáo phải phân tích, đánh giá nhân thân, xác định nguyên nhân,
điều kiện, hoàn cảnh phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tồ ngày hơm nay, bị cáo
Nguyễn Châu Vũ đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm
tội của mình, gia đình bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả; được người bị
hại bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo phạm tội lần đầu; bị cáo là lao động
chính trong gia đình; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian tại ngoại chấp
hành tốt chính sách pháp luật. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm
2017.



Với tư cách là Kiểm sát viên thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa sơ
thẩm ngày hơm nay, căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trên, xét thấy bị
cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy
hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội... đề
nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ mức hình phạt để bị cáo thấy được
lượng khoan hồng của pháp luật nhà nước ta, từ đó giúp các bị cáo yên tâm cải
tạo, hồ nhập với cuộc sống gia đình và xã hội
5. Kết luận những nội dung sau:
- Trên cơ sở đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án, Kiểm sát viên giữ
nguyên nội dung truy tố của Cáo trạng.
- Về phần hình sự: Bị cáo đã phạm tội Nguyễn Châu Vũ về tội: “tội sử
dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ Luật hình sự năm 2015,
được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Về phần dân sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tịa hơm nay, gia
đình bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại. Đồng thời, người bị hại
đã làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Viện kiểm sát xét thấy
yêu cầu trên là tự nguyện. Do đó,Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu này của Bị hại.
6. Đề nghị xử lý
* Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 290;
điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65
của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo
Nguyễn Châu Vũ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Thời gian thử thách là 04 (bốn) năm;
* Về biện pháp tư pháp: Khơng có
* Về trách nhiệm dân sự: Khơng có.
Thưa Hội đồng xét xử, trên đây là một số quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đối với vụ
án này, đề nghị Hội đồng xét xử quan tâm xem xét để quyết định một bản án phù hợp.


KIỂM SÁT VIÊN
(Ký, ghi rõ họ tên)



×