Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.65 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Cơng bằng mà xét, phải đâu tính chất cung đình, tụng ca của văn học giai đoạn này chỉ mang đến bất lợi cho văn học,
mà nhìn từ góc độ khác, đã tạo nên những vần thơ giàu mỹ cảm, là “<i>lời ca chân thành và say sưa của các thi sĩ trước</i>
<i>cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống thanh bình</i>”. Rõ ràng là dưới triều vua Lê Thánh Tơng, khi lực lượng sáng tác chuyển
sang quy tụ hồn tồn ở phía nhà nho thì kinh đơ, mảnh đất gắn liền với cuộc đời của nhiều nho sĩ, đã dần trở thành
không gian quen thuộc gợi nên biết bao xúc cảm. Chính vì thế, ít nhiều bức tranh Thăng Long trong văn học thời thịnh
Lê vẫn có sức hấp dẫn riêng, phần nào thể hiện được cảm nhận tinh tế của các tác giả trước vẻ đẹp quê hương buổi
thịnh triều.
Trong cảm hứng ngợi ca “<i>Nhà nam nhà bắc đều no mặt – Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình</i>”– nguồn cảm hứng chủ đạo
của thời đại tạm ngừng việc võ, bắt đầu sửa sang việc văn – bức tranh kinh thành hiện lên rạng rỡ. Các nhà nho hào
hứng xướng họa, ngâm vịnh về cảnh đẹp quê hương, trong đó có Thăng Long, say mê trước cuộc sống thái bình dần
được khơi phục sau nhiều năm đất nước bị giặc Minh tàn phá nghiêm trọng. Khơng cịn khung cảnh ngọc kinh mờ dưới
cơn mưa chiều(5) những năm triều Trần suy yếu, giờ đây mỗi danh thắng của đất đế đô đều mang vẻ bề thế, vững
chãi. Cảnh xuất hiện trong thơ có thể rất khác nhau, từ chùa An Quốc uy nghiêm trấn giữ đế kinh:
<i>“Trung</i> <i>lập</i> <i>kiền</i> <i>khôn</i> <i>vững</i> <i>đế</i> <i>đô,</i>
<i>Mảng</i> <i>danh</i> <i>An</i> <i>Quốc</i> <i>ở</i> <i>Tây</i> <i>Hồ.</i>
<i>Xuân</i> <i>thu</i> <i>thêm</i> <i>có</i> <i>mười</i> <i>phân</i> <i>lạ,</i>
<i>Hoa</i> <i>cỏ</i> <i>đành</i> <i>hay</i> <i>một</i> <i>thức</i> <i>phô.”</i>
(Lê Thánh Tông,<i> Chùa</i> <i>An</i> <i>Quốc</i>)
đến hồ Tây tĩnh lặng, thơ mộng:
<i>“Vằng</i> <i>vặc</i> <i>trời</i> <i>thanh</i> <i>đọt</i> <i>đọt</i> <i>cây,</i>
<i>Thảnh</i> <i>thơi</i> <i>ngày</i> <i>tĩnh</i> <i>cảnh</i> <i>hồ</i> <i>Tây.”</i>
Nhưng <i>cái giọng đĩnh đạc, thảnh thơi, cái sắc thái tràn trề, viên mãn, vạn vật đua nở</i> “<i>mười trượng hoa thì mười trượng</i>
<i>hương</i>” lại không hề sai biệt. Đặc biệt trong thơ Lê Thánh Tông xướng họa với quần thần, <i>nét sang trọng</i> của cảnh sắc
kinh đô càng hiển hiện rõ rệt. Với niềm tin ca ngợi Thăng Long cũng là ca ngợi <i>“thế nước vững như bàn thạch, ngôi vua</i>
<i>rạng rỡ như sao Cơ, sao Dực</i>”, các nhà nho gửi cả tấm lòng hứng khởi nhiệt thành vào bức tranh kinh đô những năm
phồn thịnh. Từng ngọn cỏ, nhành cây Thăng Long, qua đôi mắt của lớp tác giả đại diện cho cả một chế độ phong kiến
đang lúc thịnh đạt này, thường vượt khỏi nét nghĩa thực để vươn đến những tầng ý nghĩa rộng lớn hơn. Một cây me
giữa kinh thành cũng được ví von như bạn của đấng công hầu:
<i>“Mấy</i> <i>phút</i> <i>từng</i> <i>nhờ</i> <i>ơn</i> <i>vũ</i> <i>lộ,</i>
<i>Tư</i> <i>mùa</i> <i>chẳng</i> <i>khỏi</i> <i>bạn</i> <i>công</i> <i>hầu.</i>
<i>Chẳng</i> <i>hay</i> <i>là</i> <i>đã</i> <i>bao</i> <i>nhiêu</i> <i>kiếp,</i>
<i>Chờ</i> <i>trạng</i> <i>hằng</i> <i>che</i> <i>thuở</i> <i>gác</i> <i>lầu.”</i>
(Khuyết danh, <i>Cây</i> <i>me</i> <i>trong</i> <i>thành</i> <i>cấm</i>)
còn cảnh hồ Tây lại biến thành tấm gương lớn soi bóng nước non ngàn dặm:
<i>“Nhìn</i> <i>xa</i> <i>bóng</i> <i>núi</i> <i>bao</i> <i>trùm;</i>
<i>Ngó</i> <i>xuống</i> <i>gương</i> <i>hồ</i> <i>sáng</i> <i>tỏ.</i>
<i>Lẫn</i> <i>một</i> <i>sắc</i> <i>với</i> <i>vịm</i> <i>trời;</i>
<i>Ngậm mn hình trong viễn phố.”</i>
(Lê Thánh Tơng, bài phú nằm trong truyện <i>Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc</i>)
Bài phú trên được Lê Thánh Tông ghi lại trong câu chuyện huyễn hoặc <i>Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc</i> (<i>Thánh Tơng di thảo</i>).
<i>“Thành</i> <i>lớn</i> <i>Thăng</i> <i>Long</i> <i>chốn</i> <i>ấy;</i>
<i>Kinh</i> <i>đô</i> <i>triều</i> <i>đại</i> <i>xưa</i> <i>kia.</i>
<i>Là</i> <i>nơi</i> <i>danh</i> <i>thắng;</i>
<i>Cờ</i> <i>quạt</i> <i>đi</i> <i>về.</i>
<i>Nhớ</i> <i>triều</i> <i>Lý</i> <i>đương</i> <i>khi</i> <i>tồn</i> <i>thịnh;</i>
<i>Thường</i> <i>thả</i> <i>thuyền</i> <i>cưỡi</i> <i>sóng</i> <i>nhởn</i> <i>nhơ.</i>
<i>Nhờ</i> <i>ơng</i> <i>chài</i> <i>là</i> <i>tay</i> <i>dũng</i> <i>kiệt;</i>
<i>Săn</i> <i>được</i> <i>người</i> <i>hóa</i> <i>hổ</i> <i>giỡn</i> <i>vua</i> <i>chơi.</i>
<i>Rồi</i> <i>kế</i> <i>đó</i> <i>nhà</i> <i>Trần</i> <i>trỗi</i> <i>dậy;</i>
<i>Đã</i> <i>đến</i> <i>đây</i> <i>trồng</i> <i>sen,</i> <i>vịnh</i> <i>thơ.</i>
<i>Nào</i> <i>đền</i> <i>đài</i> <i>xây</i> <i>cao</i> <i>chót</i> <i>vót;</i>
<i>Nào</i> <i>cuộc</i> <i>chơi</i> <i>nghi</i> <i>vệ</i> <i>rườm</i> <i>rà.</i>
<i>…</i>
<i>Trâu</i> <i>nâng</i> <i>kiệu</i> <i>ngọc;</i>
<i>Phượng</i> <i>đỡ</i> <i>xe</i> <i>loan.</i>
<i>Chim</i> <i>âu</i> <i>lượn</i> <i>trên</i> <i>làn</i> <i>sóng</i> <i>biếc;</i>
Tuy mối quan hệ giữa mệnh trời và đức nhân là vấn đề thường được nhắc đến trong văn học trung đại song với trường
hợp vua Lê Thánh Tơng, sự đúc kết trên lại có một ý nghĩa sâu sắc. Bản thân nhà vua bằng sự nghiệp chính trị đã dùng
tất cả tâm sức mở ra một thời kỳ thịnh vượng, cho nên những chiêm nghiệm của ông về vận nước thể hiện qua thơ
văn, ngay cả thơ văn xướng họa, khơng phải chỉ là lời nói tán tụng sng mà cịn hàm chứa tầm nhìn xa rộng của bậc
đế vương. Vì thế, có q lời chăng nếu nói rằng: suy cho cùng cái chống ngợp của đình đài chỉ mang đến cho kinh đơ
vẻ hào nhống bên ngồi, cịn nét sang trọng thật sự lại ẩn sâu trong những suy ngẫm lớn lao và minh triết về chân lý
giữ nước mà người Tràng An đã đúc kết qua thơ văn của mình?
Như vậy, khơng thể phủ nhận trong thơ văn xướng họa, quan hệ qn – thần ln địi hỏi ở tác phẩm tính chuẩn mực,
quy phạm. Đồng thời, dưới sự tác động mạnh mẽ của hệ tư tưởng chính thống nho giáo, hình ảnh cảnh vật và con
người Thăng Long trong văn chương cũng được lọc qua mỹ cảm đậm màu nho. Tuy nhiên, dù gắn liền với triết học và
chính trị đến đâu thì văn chương vẫn khơng phải là triết học và chính trị. Tự thân các hình ảnh thơ, ngồi ý nghĩa biểu
tượng mang tính cơng thức, cịn có sức gợi cảm riêng nhờ nghệ thuật miêu tả tinh tế. Bên cạnh đó, sự góp mặt của chữ
Nơm như một ngơn ngữ nghệ thuật đích thực ở thế kỷ XV đã mở ra cho thơ ca khoảng trời sáng tạo mới, làm mềm đi
cái khô cứng, sáo mòn của văn chương ca tụng. Tất cả các yếu tố này xuyên thấm vào nhau cùng tái hiện nên một
Thăng Long với những tính chất tưởng như hồn tồn đối lập: <i>sang trọng nhưng vẫn có nét gần gũi, đúng chuẩn mực</i>
<i>nhưng đồng thời đã manh nha nhiều biểu hiện vượt thốt khỏi tính khn sáo, cơng thức.</i> Ngay cả “chủ sối” Lê Thánh
Tơng với ngịi bút có vẻ rất trang nghiêm khi vịnh cảnh chùa An Quốc “<i>trung lập kiền khôn vững đế đô</i>” cũng không giấu
được một thống trữ tình đầy ý vị ở hai câu thơ cuối:
<i>“Kìa</i> <i>ai</i> <i>đủng</i> <i>đỉnh</i> <i>làm</i> <i>chi</i> <i>đấy?</i>
<i>Một tiếng kình khua một chữ mô.”</i>
Nhà vua đang hỏi các vị thiền sư chăng? Cái giọng điệu “<i>kìa ai… đấy</i>” lẽ nào dành cho bậc tu hành đắc đạo? Hẳn phải
có duyên cớ nào đó để Thăng Long trong nhiều thế kỷ sau vẫn còn truyền tụng những giai thoại gắn liền với tâm hồn đa
tình của vua Lê Thánh Tơng. <i>Cơng dư tiệp ký</i> (Vũ Phương Đề) ở thế kỷ XVIII có ghi chép lại câu chuyện tương ngộ
“<i>hồn bướm mơ tiên</i>” giữa quân vương và giai nhân xảy ra ở chùa Ngọc Hồ - danh lam đất đế kinh. Chuyện kể rằng
nhân đến Quốc tử giám, vua Lê Thánh Tông đi qua chùa Ngọc Hồ, ghé vào thăm chùa, có duyên gặp gỡ một ni cô rất
đẹp, lại giỏi thi từ. Vua và ni cơ từng cùng nhau bình thơ, sau đó ngài phục tài, mời ni cơ về cung nhưng đến cửa Đại
Hưng thì ni cơ biến mất. Nhà vua lấy làm lạ, cho là tiên giáng trần, bèn làm Vọng tiên lâu để kỷ niệm. Ngỡ như Thăng
Long chỉ là mảnh đất của lịch sử các vương triều, ấy thế nhưng khơng phải. Chốn đơ hội này cịn là nơi “<i>cực lạc</i>”, lưu
giữ cả những vần thơ đong đầy tình cảm, có khả năng làm rung động lịng người:
<i>“Bể</i> <i>ái</i> <i>nghìn</i> <i>tầm</i> <i>mong</i> <i>tát</i> <i>cạn,</i>
<i>Sơng</i> <i>êm</i> <i>mn</i> <i>trượng</i> <i>chửa</i> <i>khơi</i> <i>vơi.</i>
<i>Nào</i> <i>nào</i> <i>cực</i> <i>lạc</i> <i>là</i> <i>đâu</i> <i>đó,</i>
<i>Cực</i> <i>lạc</i> <i>là</i> <i>đây,</i> <i>chín</i> <i>rõ</i> <i>mười!”</i>
(Thân Nhân Trung, <i>Qua chùa Ngọc Hồ gặp tiên</i>)
Có thể nhìn thấy trong tâm hồn mỗi nhà thơ, Thăng Long luôn rất thơ mộng. Đoan chắc đấy chính là lý do vì sao các thi
nhân đặc biệt u mến cảnh đẹp hồ Lãng Bạc. Có cái gì đó tao nhã, thanh bạch mà bình dị bàng bạc trong ánh trăng,
phảng phất sau dáng vẻ tinh khôi của cành sen nơi hồ Tây:
<i>“Bắc</i> <i>khuyết</i> <i>vô</i> <i>thư</i> <i>can</i> <i>thế</i> <i>dự,</i>
<i>Tây</i> <i>hồ</i> <i>hữu</i> <i>nguyệt</i> <i>cấp</i> <i>thi</i> <i>bần.”</i>
(Thái Thuận, <i>Đề</i> <i>Toán</i> <i>Viên</i> <i>phường</i> <i>sở</i> <i>cư</i> <i>bích</i> <i>thượng</i>)
(Khơng dâng thư lên cửa bắc để cầu cạnh tiếng tăm ở đời,
Chỉ có trăng hồ Tây cung cấp cho cảnh sống thanh bạch của khách thơ.)(8)
(<i>Thơ</i> <i>đề</i> <i>vách</i> <i>nhà</i> <i>tại</i> <i>phường</i> <i>Toán</i> <i>Viên</i>)
hay:
<i>“Vằng</i> <i>vặc</i> <i>trời</i> <i>thanh</i> <i>đọt</i> <i>đọt</i> <i>cây,</i>
<i>Thảnh</i> <i>thơi</i> <i>ngày</i> <i>tĩnh</i> <i>cảnh</i> <i>hồ</i> <i>Tây.</i>
<i>Mưa</i> <i>thuở</i> <i>sịch,</i> <i>hài</i> <i>xanh</i> <i>chúc,</i>
<i>Gió</i> <i>khi</i> <i>thổi,</i> <i>tán</i> <i>lục</i> <i>xoay.”</i>
Khơng bàn đến tính ước lệ, tượng trưng thường thấy trong thơ vịnh, chỉ nhìn vào những đường nét miêu tả, thực sự
đấy là một bức tranh mới mẻ về hoa sen và cảnh hồ Tây. Cái mới dễ nhận thấy nhất nằm ngay trong hình ảnh. Ngơn từ
như đang cựa quậy, khắc nổi lên trên trang thơ hình ảnh lá sen lúc cuộn thành chiếc hài xanh trong cơn mưa, khi lại
giương tròn thành tán lá xoay theo cơn gió. Nhưng ngồi ra, cịn cái mới khó nhận thấy hơn được che giấu khéo léo
sau nụ cười hóm hỉnh, ý nhị. Hãy thử xem cành sen hồ Tây lúc đã tàn có thể gợi nên sự liên tưởng phong phú tới mức
nào:
<i>“Trận</i> <i>hoa</i> <i>tướng</i> <i>đã</i> <i>cờ</i> <i>xanh</i> <i>cuốn,</i>
<i>Cung</i> <i>nước</i> <i>tiên</i> <i>còn</i> <i>tán</i> <i>cú</i> <i>giương.”</i>
(Khuyết danh, <i>Sen già</i>)
Cặp hình ảnh “<i>tướng – cờ xanh cuốn</i>”, “<i>tiên – tán cú giương</i>” dẫn dắt người đọc đến với ẩn dụ đầy bất ngờ về biểu
tượng phồn thực và hoạt động tính giao. Hồ Tây bây giờ khơng phải được nhìn ngắm qua đôi mắt của các quan công
khanh, sĩ đại phu mà đang hiển hiện đầy sức sống dưới nét vẽ đậm màu văn hóa dân gian của người bình dân, bước
đầu góp phần thể hiện cá tính độc đáo và vẻ đẹp đa dạng của văn học Thăng Long.
Chỉ với những tác phẩm mang cảm hứng ca tụng trên, bức tranh Thăng Long xưa cũng đủ làm rung động người đọc
nhiều thế hệ. Nhưng thú vị hơn là sang trọng và tươi vui khơng phải âm điệu duy nhất vang lên trong tồn bộ tác phẩm
viết về Thăng Long thời thịnh Lê. Các thi nhân sau khi cởi bỏ chiếc áo con người chức phận, với tâm hồn mẫn cảm và
đôi mắt thấu suốt cuộc đời, đã nhìn thấy ở Thăng Long một sắc thái khác đối nghịch với vẻ ngoài lộng lẫy. Họ lắng nghe
được vọng ra từ cung vàng điện ngọc thâm nghiêm là tiếng khóc thương ai ốn của những thân phận nhỏ bé trước
quyền lực đế vương. Nối tiếp <i>Kh ốn</i> (Trần Nhân Tơng), <i>Đồ mi</i> (Nguyễn Ức) từ giai đoạn Lý – Trần, văn chương
thịnh Lê cũng dành những vần thơ đầy thương cảm cho người cung nữ:
<i>“Chẳng</i> <i>thương</i> <i>cỏ</i> <i>áy</i> <i>nhụy</i> <i>non</i> <i>cùng,</i>
<i>Lạnh</i> <i>lẽo</i> <i>oan</i> <i>chi</i> <i>riết</i> <i>một</i> <i>đông.</i>
<i>Chiếu</i> <i>khách</i> <i>Tràng</i> <i>An</i> <i>ghê</i> <i>tựa</i> <i>nước,</i>
<i>Chăn</i> <i>người</i> <i>cung</i> <i>khuyết</i> <i>lạnh</i> <i>như</i> <i>đồng.” </i>
(Lê Thánh Tơng, <i>Đơng</i>)
Một <i>Kh ốn</i> của Trần Nhân Tông đã là hiện tượng lạ trong văn học trung đại, nay lại xuất hiện thêm thi phẩm của Lê
Thánh Tông. Với bài thơ này, Lê Thánh Tông cũng như Trần Nhân Tông năm xưa, sẵn sàng trút bỏ cân đai mũ mão đế
vương để cảm nhận như một thi nhân, và cao hơn, như một con người. Chẳng những vậy, theo dòng vận động chung
của văn học, sự bức bối xuất phát từ khát khao yêu đương bị đè nén càng được bộc bạch trực tiếp hơn, day dứt hơn
giai đoạn trước. Giấc mộng xuân cùng chung gối ngọc với quân vương trở đi trở lại trong thơ, quyện thành chuỗi đau
đớn kéo dài vô tận:
<i>“Thập</i> <i>nhị</i> <i>lâu</i> <i>đài,</i> <i>thập</i> <i>nhị</i> <i>thiên,</i>
<i>Trùng</i> <i>trùng</i> <i>thâm</i> <i>tỏa</i> <i>ngọc</i> <i>thuyền</i> <i>quyên.</i>
<i>Giác</i> <i>lai</i> <i>hận</i> <i>bất</i> <i>trường</i> <i>như</i> <i>mộng,</i>
<i>Phi</i> <i>đáo</i> <i>quân</i> <i>vương</i> <i>ngọc</i> <i>chẩm</i> <i>biên.”</i>
(Thái Thuận, <i>Hiệu</i> <i>Đường</i> <i>cung</i> <i>nhân</i> <i>từ</i>)
(Có mười hai lâu đài là mười hai phương trời,
Những người đẹp bị cấm cung trong vách tường lớp lớp.
Khi tỉnh giấc giận không được cái triền miên trong giấc mộng,
Để có thể bay đến bên gối ngọc của quân vương.)
(<i>Bài ca làm thay cung nữ đời Đường</i>)
Ở một phương diện khác, bức tranh kinh đô phồn hoa cịn thấp thống nỗi buồn khởi nguồn từ tâm sự riêng tây của
chính tác giả. Kinh đơ là mảnh đất hội tụ nhân tài bốn phương, và cũng vì thế, những người con xa xứ thường mang
nặng cảm giác cô đơn khi tự nhận mình chỉ là khách ở chốn đế đô. Thái Thuận, một nhà thơ gốc Kinh Bắc nhưng có
nhiều năm làm quan ở Thăng Long, là một trường hợp như vậy. Hình ảnh kinh đơ hiện lên trong thơ ông đẹp mềm mại,
tinh tế với dương liễu, khói hoa, mưa muộn nhưng thường thấm sâu nỗi buồn khó diễn đạt bằng lời, bị bủa vây bởi niềm
nhớ quê và sự ám ảnh về “<i>mái tóc điểm sương</i>”:
<i>“Đảo</i> <i>y</i> <i>hà</i> <i>xứ</i> <i>chử</i> <i>đinh</i> <i>đông,</i>
<i>Khách</i> <i>xá</i> <i>thu</i> <i>thanh</i> <i>độc</i> <i>tọa</i> <i>trung.</i>
<i>Lương</i> <i>tứ</i> <i>mãn</i> <i>đình</i> <i>phong</i> <i>tại</i> <i>thụ,</i>
<i>Hàn</i> <i>quang</i> <i>nhập</i> <i>hộ</i> <i>nguyệt</i> <i>đương</i> <i>khơng.</i>
<i>Ơ</i> <i>ơ</i> <i>thành</i> <i>thượng</i> <i>minh</i> <i>hoa</i> <i>giốc,</i>
<i>Tức</i> <i>tức</i> <i>ly</i> <i>biên</i> <i>tố</i> <i>thảo</i> <i>trùng.</i>
<i>Bách</i> <i>cảm</i> <i>công</i> <i>tâm</i> <i>nan</i> <i>tự</i> <i>nhược,</i>
<i>Minh</i> <i>triêu</i> <i>chỉ</i> <i>khủng</i> <i>mấn</i> <i>thành</i> <i>ông.”</i>
(<i>Tràng</i> <i>An</i> <i>thu</i> <i>dạ</i>)
(Tiếng đập vải thình thịch từ đâu dội tới,
Ngồi trong nhà lắng nghe tiếng thu đưa tới.
Gió lộng trong cây, hơi mát đầy sân,
Trăng treo giữa trời, ánh sáng lạnh soi vào cửa.
Trên thành u u tiếng tù và bằng sừng thổi,
Bên giậu rền rĩ tiếng sâu cỏ kêu.
Bao niềm thương cảm sơi động trong lịng, khó mà cản được,
Cho đến sáng mai, e rằng mái tóc đã điểm sương.)
(<i>Đêm thu ở kinh đơ</i>)
Tuyệt nhiên khơng có tiếng đàn, tiếng sáo. Âm thanh mùa thu ở kinh thành thấm vào ánh trăng lạnh, đọng lại cùng nỗi
buồn xa vắng của tiếng gió lộng trong cây, tiếng cơn trùng rền rĩ, tiếng tù và u u thổi trên thành. Tiếng chày đập vải – âm
thanh duy nhất gợi nhắc về sinh hoạt thường nhật của cuộc sống – lại vọng đến từ nơi xa nào không rõ, chỉ càng đè
nặng thêm cảm giác “<i>độc tọa trung</i>”. Ở đây không hẳn là nỗi buồn thời thế loạn loạc như trong thơ ca các thế kỷ sau,
khi mâu thuẫn của chế độ phong kiến càng lúc càng khó điều hịa. Bản thân Thái Thuận cũng không gọi rõ được tên
trăm niềm cảm xúc trong lịng. Có lẽ đấy là nỗi buồn bất ngờ đến trong đêm thu – thời khắc dễ khiến con người cảm
thấy cô quạnh, dễ làm dấy lên nỗi đau lữ thứ thường trực, khó nói nên lời. Hoặc rất có thể nỗi buồn ấy phần nào xuất
phát từ sự băn khoăn, day dứt thường gặp ở nhà nho “<i>Ở nơi đất khách lòng muốn về mà chưa về được</i>” (<i>Tư thân</i>).
Từng có lúc trong thơ Thái Thuận, trên cái nền là mùa xuân tươi đẹp ở đất Trường An lại xuất hiện hình ảnh một con
người trầm tư, tự giằng co giữa ở và về:
<i>“Tự</i> <i>tín</i> <i>tài</i> <i>phi</i> <i>thập</i> <i>bát</i> <i>tiên,</i>
<i>Tràng</i> <i>An</i> <i>không</i> <i>thử</i> <i>tuế</i> <i>hoa</i> <i>thiên.</i>
<i>…</i>
<i>Thượng</i> <i>uyển</i> <i>điên</i> <i>cuồng</i> <i>liên</i> <i>hí</i> <i>điệp,</i>
<i>Cố</i> <i>hương</i> <i>qui</i> <i>khứ</i> <i>phụ</i> <i>đề</i> <i>quyên.”</i>
(<i>Tràng</i> <i>An</i> <i>xn</i> <i>mộ</i>)
(Tự biết mình khơng có tài như mười tám vị tiên,
Ở giữa đất kinh đô mà để cho năm tháng thú vị trôi qua.
…
Nơi vườn vua thương cho cánh bướm cứ quay cuồng đùa giỡn,
Chốn quê nhà, phụ tiếng cuốc giục giã gọi về.”
(<i>Chiều xuân ở Tràng An</i>)
công danh, phú quý cho các nho sĩ. Kinh đô cùng lúc mang hai vai trò: vừa là nơi để các bậc hiền tài khắp cả nước thực
hiện khát vọng cống hiến, lại vừa là chốn “<i>phù thế</i>” trói buộc đơi cánh tự do của tâm hồn:
<i>“Đại</i> <i>đình</i> <i>tằng</i> <i>đối</i> <i>tam</i> <i>thiên</i> <i>tự,</i>
<i>Phù</i> <i>thế</i> <i>hư</i> <i>kinh</i> <i>ngũ</i> <i>thập</i> <i>niên.</i>
<i>Bất</i> <i>thị</i> <i>vô</i> <i>tâm</i> <i>lai</i> <i>cấm</i> <i>tỉnh</i> <i>(sảnh),</i>
<i>Chỉ</i> <i>duyên</i> <i>đa</i> <i>bệnh</i> <i>ức</i> <i>viên</i> <i>điền.”</i>
(Nguyễn Trực, <i>Bính</i> <i>tuất</i> <i>ngẫu</i> <i>thành</i>)
(Trước sân vua từng viết văn ứng đối ba nghìn chữ,
Cuộc đời đã từng trải năm mươi năm rồi.
Không phải vô tâm mà tới nơi làm việc cấm thành,
Chỉ vì lắm bệnh và nhớ cảnh vườn ruộng ở quê nhà.)
(<i>Nhớ</i> <i>lại</i> <i>năm</i> <i>Bính</i> <i>tuất,</i> <i>ngẫu</i> <i>nhiên</i> <i>có</i> <i>thơ</i>)
Có lẽ người đọc sẽ băn khoăn rằng những vần thơ trên có làm hình ảnh Thăng Long thời thịnh Lê giảm đi phần rực rỡ?
Ở mức độ nhất định điều đó khó tránh khỏi. Tuy nhiên, từ nỗi buồn ấy, thế hệ sau có thể hiểu hơn về cốt cách của “sĩ
phu Bắc Hà”. Họ đã làm sang trọng cho Thăng Long bằng những vần thơ ca tụng, tràn đầy niềm tự hào về đất nước và
cũng chính họ, với trái tim nhân hậu, giàu tình cảm, càng khiến cho độc giả thêm rung động trước khí tiết thanh cao