Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.93 KB, 22 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>I. Biển Đông ( Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ) Biển Đông (vùng biển đông Việt Nam) là một biển rìa lục địa (marginal sea), một phần của Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích từ Singapore tới eo biển Đài Loan với diện tích áng chừng khoảng 3.500.000 km². Đây là một hình thể biển lớn nhất sau năm đại dương. Các đảo ở Biển Đông có số lượng nhiều, tập hợp thành một số quần đảo. Vùng biển này và phần lớn các đảo không có người ở của nó là mục tiêu tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia xung quanh. Những tranh chấp đó cũng thể hiện ở số lượng tên gọi được sử dụng để chỉ vùng biển này.. Mục lục . 1. Các tên của vùng biển 2. Địa danh trong biển Đông 3. Địa lý o 3.1. Các đảo và đá ngầm 4. Các nguồn tài nguyên 5. Tuyên bố lãnh hải. 1. Các tên của vùng biển :. Biển Đông nhìn từ Mũi Né South China Sea là thuật ngữ phổ biến nhất trong tiếng Anh để chỉ vùng biển này, và tên trong đa số các ngôn ngữ Châu Âu khác cũng như vậy, nhưng các nước xung quanh thì gọi nó bằng nhiều tên khác nhau, thường phản ánh chủ quyền lịch sử của họ đối với quyền bá chủ vùng biển. Trung Quốc thường hay gọi tắt biển này là Nam Hải (南海). Trong ngành xuất bản hiện nay của Trung Quốc, nó thường được gọi là Nam Trung Quốc Hải (南中國海), và cái tên này cũng thường được dùng trong các bản đồ bằng tiếng Anh do Trung Quốc ấn hành. Philippines gọi là biển Luzón theo tên hòn đảo lớn Luzon của Philippine. Tại Việt Nam, hầu hết lãnh thổ hướng chính ra biển là hướng đông, do đó tên tiếng Việt của biển này hàm nghĩa là vùng biển Đông Việt Nam. Ở đồng bằng sông Cửu Long có thể ra biển về hướng tây (vịnh Thái Lan) về phía các nước Campuchia và Thái Lan. Biển Đông Việt Nam còn ghi dấu ấn của mình vào văn hóa và lịch sử Việt Nam, thể hiện qua câu tục ngữ "thuận vợ thuận.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> chồng tát biển Đông cũng cạn; Thuận bè, thuận bạn tát cạn biển Đông", hay thành ngữ "dã tràng xe cát biển Đông". Người Trung Quốc ở đảo Hải Nam thì có câu "phúc như Đông hải, thọ tỉ Nam sơn"[1]. Trong các tài liệu cổ về hàng hải của Bồ Đào Nha vào thế kỉ 15-16 còn có tên là Biển Chăm Pa. Ngoài ra còn có East China Sea (tên quốc tế của biển này) ở phía bắc so với biển Đông Việt Nam, Trung Quốc gọi tắt là Đông Hải, khi tra cứu những tài liệu của Trung Quốc hoặc của nước khác tham khảo tài liệu Trung Quốc, chú ý không nhầm lẫn hai biển Đông này. Tên gọi quốc tế của biển Đông ra đời từ nhiều thế kỷ trước, là biển Nam Trung Hoa vì thời bấy giờ Trung Quốc là nước rộng lớn nhất, phát triển nhất, nổi tiếng nhất trong khu vực và đã có giao thương với phương Tây qua con đường tơ lụa. Tên gọi nhiều biển, đại dương vốn căn cứ vào vị trí của chúng so với các vùng đất gần đó cho dễ tra cứu, không có ý nói về chủ quyền. Có thể kể ra các thí dụ là Ấn Độ Dương, là đại dương ở phía nam Ấn Độ, giáp nhiều nước ở châu Á và châu Phi, không phải là của riêng nước Ấn Độ; hay biển Nhật Bản, được bao quanh bởi Nga, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Nhật Bản.. 2. Địa danh trong biển Đông :. Vịnh Hạ Long thuộc vịnh Bắc Bộ Vịnh Bắc Bộ là phần biển Đông giữa miền Bắc Việt Nam với Đảo Hải Nam miền Nam Trung Quốc. Bờ phía Tây là bờ biển Việt Nam từ Thanh Hóa đến Móng Cái. Phía bắc từ Móng Cái trở sang phía Đông là 2 tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông của Trung Quốc với bán đảo Lôi Châu. Bờ Đông là đảo Hải Nam của Trung Quốc. Trong vịnh có hàng nghìn đảo nhỏ, nổi tiếng nhất là các đảo trong vịnh Hạ Long được UNESCO xếp loại là di sản thiên nhiên thế giới. Đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam ở giữa vịnh, có diện tích khoảng 2,5 km². Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa biển Đông đã được nhiều chính quyền Việt Nam liên tục thực hiện chủ quyền từ nhiều thế kỷ qua. Quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc dùng bạo lực chiếm giữ một phần từ những năm 1950 và hoàn toàn từ năm 1974. Tranh chấp chủ quyền, một phần hay toàn bộ, cũng đã diễn ra tại quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei và Đài Loan. Những lý do chính để các nước tranh chấp chủ quyền hai quần đảo trên là: Diện tích lãnh hải với đặc quyền kinh tế và việc triển khai quốc phòng. Biển Đông nằm trên một trong những đường giao thông hàng hải lớn trên thế giới, có nguồn thủy sản và tiềm năng dầu khí. Hiện nay sự tranh chấp đang được các bên thương lượng đàm phán vì sự hòa bình và ổn định trong khu vực để phát triển kinh tế..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> 3. Địa lý :. Bản đồ địa hình biển Đông. Tổ chức thuỷ văn học quốc tế xác định vùng biển trải dài theo hướng từ tây nam đến đông bắc, biên giới phía nam là 3 độ vĩ độ Nam giữa Nam Sumatra và Kalimantan (eo biển Karimata), và biên giới phía bắc của nó là eo biển Đài Loan từ mũi phía bắc Đài Loan tới bờ biển Phúc Kiến thuộc đại lục Trung Quốc. Vịnh Thái Lan chiếm phần phía tây của biển Đông. Biển nằm trên một thềm lục địa ngầm; trong những kỷ băng hà gần đây nước biển đã hạ thấp xuống hàng trăm mét, và Borneo từng là một phần của lục địa Châu Á. Các nước và lãnh thổ có biên giới với vùng biển này (theo chiều kim đồng hồ từ phía bắc) gồm: đại lục Trung Quốc, Macao, Hồng Kông, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapore, Thái Lan, Campuchia, và Việt Nam. Nhiều con sông lớn chảy vào Biển Đông gồm các sông Châu Giang, Mân Giang, sông Cửu Long (Phúc Kiến), sông Hồng, sông Mê Kông, sông Rajang, sông Pahang, và sông Pasig.. 3.1. Các đảo và đá ngầm : Phía đông bắc Biển Đông có quần đảo Đông Sa, thuộc Trung Quốc (Pratas Islands), mà Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền. Phía Tây Bắc Biển Đông cách đảo Lý Sơn, Quảng Nam, Việt Nam khoảng 200 km, cách đảo Hải Nam, Trung Quốc 235 km có quần đảo Hoàng Sa với 18 đảo, cồn và 22 bãi, đá (theo giáo sư Sơn Hồng Đức, thì có đến 230 đảo, cồn, đá, bãi). Lớn nhất là đảo Phú Lâm (Woody Island). Độ cao tuyệt đối lớn nhất 14 m (Rocky Island). Quần đảo này hiện đang bị Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm đóng trái phép. Bên trong vùng biển, có hơn 200 đảo và bãi đá ngầm đã được đặt tên, đa số chúng thuộc Quần đảo Trường Sa. Quần đảo Trường Sa trải dài trên một vùng rộng 810, dài 900 km với khoảng 175 đảo đã được xác định, hòn đảo lớn nhất là đảo Ba Bình (Itu Aba) với chỉ hơn 1,3 km chiều dài và điểm cao nhất là 3,8 mét. Có một núi ngầm rộng 100 km được gọi là Reed Tablemount ở đông bắc quần đảo Trường Sa, cách biệt khỏi đảo Palawan của Philippine bởi Rãnh Palawan. Hiện nay nằm sâu 20m dưới.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> mực nước biển nhưng trước kia nó từng là một hòn đảo trước khi bị mực nước biển dâng lên ở thời băng hà cuối cùng làm chìm ngập. Phía đông quần đảo Hoàng Sa có các bãi ngầm như Macclesfield Bank (quần đảo Trung Sa), Stewart Bank, Truro Shoal và Scarborough Shoal. Bãi Scarborough Shoal o Vị trí: nằm về phía Đông của bãi Macclesfield, gần bờ biển Philippines o Hình thể: là một bãi khá lớn bên dưới là đá ngầm. Bãi này nằm dưới mặt biển chừng 92 fathoms. Bãi Truro Shoal: nằm bên cạnh Scarborough Shoal, sâu 10 fathoms Bãi Stewart Bank: (578 fathoms) gần đảo Luzon của Philippines.. 4. Các nguồn tài nguyên : Đây là một vùng biển có ý nghĩa địa chính trị vô cùng quan trọng. Nó là đường hàng hải đông đúc thứ hai trên thế giới, trong khi nếu tính theo tổng lượng hàng hoá thương mại chuyển qua hàng năm, hơn 50% đi qua Eo biển Malacca, Eo Sunda, và Eo Lombok. Hơn 1.6 triệu m³ (10 triệu barrel) dầu thô được chuyển qua eo biển Malacca hàng ngày, nơi thường xảy ra các vụ hải tặc, nhưng hiện đã giảm nhiều so với giữa thế kỷ 20. Vùng này đã được xác định có trữ lượng dầu mỏ khoảng 1.2 km³ (7.7 tỷ barrel), với ước tính tổng khối lượng là 4.5 km³ (28 tỷ barrel). Trữ lượng Khí gas tự nhiên được ước tính khoảng 7.500 km³ (266 nghìn tỷ feet khối). Theo những nghiên cứu do Sở môi trường và các nguồn lợi tự nhiên Philippine, vùng biển này chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển thế giới, vì vậy nó là vùng rất quan trọng đối với hệ sinh thái.. 5. Tuyên bố lãnh hải : Có rất nhiều tranh cãi về lãnh hải trên vùng Biển Đông và các nguồn tài nguyên của nó. Bởi Luật biển năm 1982 của Liên hiệp quốc cho phép các nước có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng 200 dặm biển (370.6 km) từ lãnh hải của họ, tất cả các nước quanh vùng biển có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền với những phần rộng lớn của nó. Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) đã tuyên bố chủ quyền hầu như toàn bộ vùng biển. Những báo cáo gần đây cho thấy CHNDTH đang phát triển một nhóm tàu sân bay để bảo vệ những đường vận chuyển nhiên liệu ở Biển Đông. Những vùng có nguy cơ tranh chấp gồm: Indonesia và CHNDTH về vùng biển Đông Bắc đảo Natuna. Philippines và CHNDTH về những khu khai thác khí gas Malampaya và Camago. Philippines và CHNDTH về bãi cát ngầm Scarborough. Việt Nam và CHNDTH về vùng biển phía tây Quần đảo Trường Sa. Một số hay toàn bộ quần đảo Trường Sa đang bị tranh chấp bởi Việt Nam, CHNDTH, Trung Hoa Dân quốc, Philippines, và một số nước khác. Quần đảo Hoàng Sa đang dưới sự quản lý và tuyên bố chủ quyền của Việt Nam, CHNDTH quản lý 6 đảo từ năm 1974 đến nay. Malaysia, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam về những vùng ở Vịnh Thái Lan. Singapore và Malaysia dọc theo Eo biển Johore và Eo biển Singapore..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Biển Đông, các khu vực và tài nguyên tranh chấp giữa các nước. Cả CHNDTH và Việt Nam đều theo đuổi các tuyên bố chủ quyền một cách mạnh mẽ. Quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm được 6 đảo năm 1974 và 18 binh sĩ đã thiệt mạng. Quần đảo Trường Sa là nơi đã xảy ra xung đột hải quân, hơn bảy mươi lính thuỷ Việt Nam đã bị giết hại ở phía nam bãi đá ngầm Chigua tháng 3, 1988. Các nước tranh chấp thường xuyên thông báo về các vụ va chạm giữa các tàu hải quân. ASEAN nói chung, và Malaysia nói riêng luôn muốn đảm bảo rằng những tranh chấp bên trong Biển Đông sẽ không leo thang trở thành xung đột quân sự. Vì vậy, các cơ cấu phát triển chung (Joint Development Authorities) đã được lập ra tại các vùng tranh chấp chồng lấn để cùng phát triển vùng và phân chia quyền lợi công bằng tuy nhiên không giải quyết vấn đề chủ quyền của vùng đó. Điều này đã trở thành sự thực, đặc biệt là ở Vịnh Thái Lan. Những tuyên bố lãnh thổ chồng lần ở Pulau Pedra Branca hay Pulau Batu Putih của cả Singapore và Malaysia đã được đưa ra Toà án quốc tế. Toà án phán quyết theo chiều hướng có lợi cho Singapore. Biển Đông Quốc gia và vùng lãnh thổ: Đài Loan | Philippine | Malaysia | Brunei | Indonesia | Singapore | Thái Lan | Campuchia | Việt Nam | Trung Quốc | Ma Cao | Hồng Kông Đảo và quần đảo: Đảo Hải Nam | Quần đảo Đông Sa | Quần đảo Trung Sa (Macclesfield Bank) | Quần đảo Batanes và Baluyan | Quần đảo Hoàng Sa | Bãi Scarborough | Quần đảo Trường Sa | Bãi Đá Bàn (Table Mount Reef) | Đảo Luzon | Đảo Mindoro | Đảo Palawan | Đảo Kalimantan | Quần đảo Calamian | Quần đảo Natuna | Bãi Luconia | Đảo Koh Samui | Đảo Ko Chang | Đảo Koh Kong | Quần đảo Anambas | Đảo Phú Quốc | Côn Đảo Vịnh, bán đảo và eo biển: Bán đảo Lôi Châu | Bán đảo Đông Dương | Bán đảo Mã Lai | Biển Sulu | Vịnh Bắc Bộ | Vịnh Thái Lan | Eo biển Đài Loan | Eo biển Lôi Châu | Eo biển Luzon | Eo biển Karimata | Eo biển Malacca.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> II. Công ước LHQ về luật biển 1982: Công cụ bảo vệ chủ quyền biển. Như chúng ta biết: - Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam [1], những hiệp định phân định chủ quyền trên biển của Việt Nam, bao gồm hiệp định phân định chủ quyền trong Vịnh Thái Lan với Thái Lan năm 1997, hiệp định phân định chủ quyền trong Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc năm 2000 và hiệp định chủ quyền thềm lục địa với Indonesia, đều được đàm phán dựa trên UNCLOS. - Trước chủ trương, chiến lược và hành động của Trung Quốc trên biển, Việt Nam đã nhiều lần dựa trên UNCLOS để khẳng định chủ quyền của mình. - Quan điểm của Việt Nam là tranh chấp biển và thềm lục địa phải được giải quyết dựa trên UNCLOS. - Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên của UNCLOS. - Việt Nam và Trung Quốc đã tuyên bố chung là phải có giải pháp cơ bản mà hai bên chấp nhận được. “Chấp nhận được” không thể là “nước mạnh làm gì họ muốn, nước yếu chấp nhận những gì mình đành phải chấp nhận”, mà phải dựa trên lẽ công bằng như UNCLOS đòi hỏi và thí dụ như được thể hiện trong UNCLOS. - Các nước khác, thí dụ như Mỹ, cũng cho là tranh chấp Biển Đông phải được giải quyết theo luật quốc tế chứ không phải bằng cách chiếm đoạt. Rõ ràng, UNCLOS là một công cụ rất quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc đối với Biển Đông. Thế nhưng, cho tới nay nội dung của UNCLOS vẫn chưa được quảng bá rộng rãi trong chúng ta. Ngay cả giới trí thức, giới luật học, ngay cả những người quan tâm về chủ quyền lãnh thổ, cũng chưa biết nhiều về UNCLOS. Hi vọng bản công ước UNCLOS này sẽ đóng góp thêm một phương tiện quý báu giúp tất cả chúng ta phát huy tinh thần yêu nước và trí tuệ mình, cụ thể là tất cả giúp chúng ta hiểu và đấu tranh cho sự công bằng cho chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông. ( Tuần Việt Nam ) Ghi chú: [1] . “Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của luật biển ở Việt Nam”, TS Hoàng Trọng Lập, Phó Trưởng ban, Ban Biên giới, và tập thể tác giả, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. [2]. Bản Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982 (UNCLOS) bằng tiếng Việt do một số cộng tác viên của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông là Nguyễn Hoàng Việt, Hà Phương Lê, Lê Hồng Thuận, Phượng, Vũ, Hoa Phạm, Phạm Thị Bích Phượng, gkhuongtang, Vũ Lê Phương, nhóm Lã Vân và của Nguyễn Thái Linh (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) gõ lại.. ===========================================================. III. Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc đối với Biển Đông. Cùng với những đòi hỏi và những hành động đối với Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc còn thể hiện quyết tâm đòi hỏi phần lớn diện tích Biển Đông. Phần Biển Đông mà họ đòi hỏi nằm trong các đường gạch nối trên Biển Đông, được đưa ra đầu tiên vào năm 1947, có hình chữ U hay hình lưỡi bò và do vậy thường được gọi là “đường lưỡi bò” hay “ranh giới lưỡi bò”. Phần diện tích trong đường lưỡi bò này chiếm khoảng 75% diện tích trên Biển Đông, để lại khoảng 25% cho tất.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Việt Nam, tức mỗi nước đượ c trung bình 5%.. Các vạch đỏ là ranh giới lưỡi bò Trung Quốc đòi hỏi. Các đường xanh là một cách chia các vùng đặc quyền kinh tế dựa trên UNCLOS, nhưng không chia các đảo đang bị tranh chấp. Các vòng tròn xanh lá cây là lãnh hải 12 hải lý của các đảo này. Năm 1992, Trung Quốc ký hợp đồng thăm dò vùng Tư Chính – Vũng Mây với công ty Crestone. Năm 2007, Trung Quốc đưa ra quy định theo đó tất cả bản đồ Trung Quốc phải vẽ ranh giới lưỡi bò này. Cũng năm 2007, Trung Quốc áp lực tập đoàn dầu khí BP phải ngưng hợp tác với Việt Nam trong hai vùng dầu khí Mộc Tinh, Hải Thạch. Năm 2008, Trung Quốc vẽ ranh giới lưỡi bò vào bản đồ rước đuốc Olympic và Paralympic, nhưng sau đó gỡ ra khỏi bản đồ rước đuốc Olympic trên trang web chính thức sau khi có tiếng nói phản đối từ phía Việt Nam gửi đến Chủ tịch Ủy ban Olympic Quốc tế. Tháng 7 năm 2008, Trung Quốc áp lực ExxonMobil không được hợp tác với Việt Nam trong vùng biển hợp pháp của Việt Nam. Tháng 11 năm 2008, Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc công bố dự án có vốn 29 tỷ USD để khảo sát và khai thác trên Biển Đông. Những sự kiện trên cho thấy sự quyết tâm và leo thang của Trung Quốc trong việc thực hiện chủ trương đó. Trước một chủ trương “không thể chấp nhận được” như vậy, Việt Nam phải đối phó thế nào? Câu trả lời đầu tiên là, mặc dù các biện pháp đối phó hẳn phải khác với trong quá khứ, chúng ta phải đối phó với một sự tích cực không kém tổ tiên chúng ta. Đối phó có thể bao gồm phương cách nhu, nhưng không được nhu nhược. Tất nhiên, về cơ bản và lâu dài, Việt Nam phải có nền kinh tế và quốc phòng vững mạnh. Việc xây dựng kinh tế và quốc phòng là điều cơ bản nhất để bảo vệ đất nước. Nhưng đây cũng là nhiệm vụ mang tính dài hạn, cốt yếu trong bất kỳ hoản cảnh nào, thời đại nào, không chỉ khi có tranh chấp trên Biển Đông. Vì thế, chúng tôi xin đưa ra một số vấn đề cụ thể khác mà có thể bắt đầu ngay từ bây giờ.. 1. Cần một tư duy Biển Đông :.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Ở Trung Quốc, sau khi thất trận ở phương Nam dưới thời Lê Lợi, nhà Minh lâm vào khủng hoảng kinh tế. Các Nho thần bảo thủ thời ấy bèn viện dẫn lời đức Thánh Khổng là “cha mẹ còn tại thế mà mình đi xa thì là bất hiếu!” để nói rằng chẳng có lý do gì khiến ta phải giong buồm ra biển. Sau khi Trịnh Hoà qua đời và được thủy táng trong chuyến hải hành thứ bảy, Minh Tuyên Đức ra lệnh cấm đóng tàu viễn dương, không ai được có tàu có quá ba cột buồm. Từ cái lệnh gọi là “hải cấm” ấy, từ giữa thế kỷ 15 trở đi Trung Quốc bế quan tỏa cảng và thu vét phương tiện phòng thủ để chỉ là cường quốc lục địa, không có tư duy hải dương. Sau khi họ bị các nước khác tấn công từ biển và sau khi bị Nhật thôn tính một số đảo, tư duy hải dương của Trung Quốc đã ra đời. Nhờ có tư duy này, ở Biển Đông, đến nay Trung Quốc đã phát triển rất mạnh về ý thức, đội ngũ nghiên cứu, nhất quán tích cực. Trong khi đó, cho tới gần đây, nói chung chúng ta vẫn chỉ nhắc tới Hoàng Sa, Trường Sa, mặc dù những đòi hỏi của Trung Quốc trên Biển Đông liên quan đến cả những vùng biển nằm ngoài tầm ảnh hưởng của Hoàng Sa và Trường Sa theo Công ước Liên hợp quốc về luật biển. Nói cách khác, có nhiều đòi hỏi của Trung Quốc trên Biển Đông không liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa. Vì thế, chúng ta phải tích cực xây dựng một tư duy Biển Đông. Từ đó, phải có một đội ngũ hùng hậu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến biển, chiến lược biển, xây dựng một ý chí quốc gia, nâng cao ý thức và kiến thức về Biển Đông.. 2. Chiến lược ngoại giao và truyền thông : Là nước nhỏ, trong chiến lược của chúng ta phải tận dụng biện pháp ngoại giao. Tuy không nên tin rằng nếu Trung Quốc tiến chiếm một số đảo của Việt Nam thì sẽ có nước nào đó giúp chúng ta, nhưng phải nhìn nhận là ngoại giao có trọng lượng trên bàn cân “chiếm hay không” của Trung Quốc. Chúng ta phải tăng tối đa trọng lượng này. Trong chiến lược ngoại giao của ta phải có quyền lợi gì cho các nước khác. Tốt nhất là chiến lược ngoại giao của chúng ta có khía cạnh giúp những nước khác giành cho họ những quyền lợi không phải của ta. Hơn nữa, việc tuyên truyền và thu hút sự quan tâm trên phương diện quốc tế cũng vô cùng quan trọng cho việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Mặc dù có cơ sở rất yếu về phương diện lịch sử và pháp lý đồi với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc đã và đang tiến hành công cuộc tuyên truyền về chủ quyền của họ đối với quần đảo này. Dù yêu sách đường lưỡi bò của họ hoàn toàn vô lý, và mặc dù việc Trung Quốc tiến hành thăm dò và khai thác trên khu vực này là “không thể chấp nhận được”, phần lớn các hãng tin quốc tế, khi đưa tin về dự án này, đã không đả động gì tới thực tế là vùng biển này đang bị tranh chấp. Vì vậy, bằng con đường truyền thông và ngoại giao, cần vận động sự quan tâm và ủng hộ của dư luận quốc tế cho một giải pháp công bằng và hoà bình cho các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Quốc tế sẽ ủng hộ chúng ta khi thấy công lý và lẽ phải thuộc về chúng ta, cũng như thấy được quyền lợi của họ từ những giải pháp công bằng và hòa bình đó. Đường lưỡi bò của Trung Quốc xâm phạm đến chủ quyền của các nước khác trong ASEAN. Do vậy, trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam cần phải tận dụng ưu thế thành viên của mình để vận động cho một tiếng nói chung. Ngoài ra, trong việc hội nhập ASEAN cũng như trong việc xây dựng Cộng đồng Kinh tế Đông Á, Việt Nam cần phải giữ thế chủ động.. 3. Phương diện pháp lý : Trong thế giới văn minh hiện nay, pháp luật đã trở thành nền tảng cho ứng xử giữa các quốc gia. Việt Nam, là nước nhỏ, cần phải tận dụng phương tiện và lý luận luật pháp để bảo vệ chủ quyền của mình. Việt Nam cần đào tạo và huy động các chuyên gia luật quan tâm và tham gia vào việc bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông. Đi vào một số chi tiết, đối với Hoàng Sa, Trường Sa, những sự kiện lịch sử trước năm 1954 đã xác lâp chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này theo công pháp quốc tế. Theo giáo sư luật quốc tế người Pháp Monique Chemillier-Gendreau, các lập luận của Trung Quốc dựa trên.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> những sự kiện lịch sử trước thế kỷ 20 đều không có giá trị trên diện công pháp quốc tế[1]. Đối với Hoàng Sa, các lập luận của Trung Quốc trước năm 1954 thua kém lập luận của Việt Nam[2]. Đối với Trường Sa, lập luận của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý và chỉ biện hộ cho chính sách mở rộng lãnh thổ trên biển[3]. Đối với các vùng biển không thuộc về Hoàng Sa hay Trường Sa, ranh giới lưỡi bò đe doạ chủ quyền của Việt Nam ở ngay cả những vùng biển không liên quan tới những vùng này. Việt Nam cần phải tách vấn đề chủ quyền đối với những vùng biển này ra khỏi tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa để: (1) Trung Quốc không thể dùng tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa để nguỵ trang cho ý đồ lưỡi bò của họ; (2) chúng ta có thể thực thi chủ quyền đối với những vùng biển này trong khi Hoàng Sa, Trường Sa còn bị tranh chấp; và (3) nếu chủ quyền trên những vùng biển này đã được giải quyết thì sức ép trên chủ quyền của Việt Nam ở Trường Sa sẽ giảm xuống rất nhiều.. 4. Phát huy sức mạnh của toàn dân tộc : Trong hơn 60 năm qua kể từ khi Trung Quốc công bố bản đồ lưỡi bò khoanh 75% Biển Đông một cách mập mờ vào năm 1947 cho tới nay, Việt Nam chưa thực sự phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong việc bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông. Đây là một thiệt thòi tương tự như việc chiến đấu trong khi một tay bị buộc sau lưng. Trong hoàn cảnh hiện nay, dân tộc Việt Nam cần phải vượt qua những cách biệt và Nhà nước cần phải tạo điều kiện để phát huy sức mạnh tổng thể của toàn dân trong việc đấu tranh chống lại những hành động “không thể chấp nhận được” từ phía Trung Quốc. Ngày 9/12/2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh tại Hội nghị Quân chính toàn quân: “Phải tiếp tục làm cho toàn quân, toàn dân nhận thức đầy đủ hơn về mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới.”[4] Để có thể phát huy sức mạnh của toàn dân, cần phải có một Quy tắc ứng xử chung về Biển Đông giữa Nhà nước và nhân dân và giữa các cộng đồng người Việt Nam với nhau. Quy tắc này không cần phải là luật, chỉ cần là một thoả thuận bất thành văn, được nhiều cá nhân và hội nhóm công khai tôn trọng. Nếu không có một quy tắc ứng xử chung về Biển Đông cho dân tộc Việt Nam, dù quy tắc đó chỉ là một sự thông cảm bất thành văn, thì nhân dân và Nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục ứng phó trong tình trạng một tay bị buộc chặt sau lưng, trong khi Trung Quốc càng ngày càng tiến xa, tiến mạnh với yêu sách và hành động để biến 75% Biển Đông thành “biển lịch sử” của họ. Ngày nay, Việt Nam đứng trước một sự đe doạ nguy hại cho tương lai lâu dài của dân tộc. Khác với trong quá khứ, sự đe doạ này tiến triển rất chậm, nhưng càng ngày càng nghiêm trọng, qua nhiều thập niên, có thể nói là cả thế kỷ. Nhiều khi sự đe doạ này rất nhẹ nhàng, dường như không có, nhiều khi có những động thái phi bạo lực, tương đối ít khi tiến tới bằng bạo lực. Nhưng chúng ta đừng để sự nhẹ nhàng, chậm rãi này làm chúng ta coi thường hay thờ ơ. Nếu sự đe doạ này đi tới đích của nó thì hậu quả cho đất nước sẽ vô cùng trầm trọng. Chúng ta phải ứng phó sự đe doạ này với một sự tích cực không kém gì tổ tiên ta đã từng giữ nước. Lê Minh Phiếu - Dương Danh Huy (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông). ===========================================================. IV. Chủ quyền VN ở vùng Nam Côn Sơn, Tư Chính, Vũng Mây..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Năm 1992, Trung Quốc ký hợp đồng thăm dò dầu khí ở vùng Tư Chính – Vũng Mây với công ty Crestone. Năm 1994, Trung Quốc phản đối hợp đồng dầu khí giữa Việt Nam và Mobil ở vùng Thanh Long với lý do vùng này thuộc quần đảo Trường Sa. Năm 2007, Trung Quốc gây áp lực buộc BP ngưng hoạt động trong dự án dầu khí có vốn đầu tư 2 tỷ USD với Việt Nam ở hai vùng Mộc Tinh, Hải Thạch. Các vùng Thanh Long, Mộc Tinh, Hải Thạch nằm trong bồn trũng Nam Côn Sơn. Tháng 7 năm nay, Trung Quốc gây áp lực với ExxonMobil yêu cầu không được cộng tác với Việt Nam trong một dự án thăm dò dầu khí ở bồn trũng Nam Côn Sơn.. Bản đồ 1: Bản đồ vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn (Nam Con Son Basin). Vùng Thanh Long nằm trong lô 05-1B. Vùng Mộc Tinh nằm trong lô 05-3. Vùng Hải Thạch nằm trong lô 05-2. Vùng Lan Tây, Lan Đỏ nằm trong lô 06-1. Các vùng này nằm ngoài vùng lãnh hải của các đảo Trường Sa. Vạch chấm đen là “đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông. Ngày 12/11 năm nay, Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc tuyên bố dự án có vốn 29 tỷ USD để khảo sát và khai thác Biển Đông, trong cả những vùng biển hiện đang nằm trong tình trạng tranh chấp. Thái độ và hành động nói trên của Trung Quốc đã gây thiệt hại cho kinh tế và đe doạ nền độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam. Thế nhưng, những thái độ và hành động đó lại không dựa trên một cơ sở nào của luật biển quốc tế. Bài viết này sẽ chứng minh sự không có sơ sở đó theo Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS – United Nations Convention on the Law of the Sea).. 1. Chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam theo luật quốc tế : Trong sự kiện Trung Quốc phản đối và đe dọa BP vào năm 2007 và ExxonMobil vào năm 2008, nhiều người hiểu lầm rằng thái độ và hành động đó của Trung Quốc là sự tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thật ra, theo luật quốc tế, giả sử như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc về Trung Quốc một cách hợp pháp đi nữa, thì vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn nằm ở phía bắc ranh giới với Indonesia vẫn thuộc về Việt Nam. Nói cách khác, sự xác lập chủ quyền của một nước nào đó trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nếu có, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Chủ quyền đối với khu vực này, dù cho chủ quyền trên quẩn đảo Hoàng Sa và Trường Sa có là của bất cứ nước nào, cũng thuộc về Việt Nam, chiếu theo các quy tắc của luật biển quốc tế. Trên thực tế, yêu sách của Trung Quốc đối với vùng này hoàn toàn sai với luật quốc tế. Chính sự hiểu lầm như đã nói trên, dù vô tình hay cố ý, đã che khuất đi phần nào sai trái của Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền đối với vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn.. Bản đồ 2: Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam. Các hình tròn đen là lãnh hải 12 hải lý của các đảo trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam. Dựa trên bản đồ của PetroVietnam. Theo Điều 57 và 76 của UNCLOS, các quốc gia ven biển được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế rộng tối đa là 200 hải lý từ đường cơ sở và một vùng thềm lục địa nếu địa lý đáy biển cho phép thì có thể rộng tối đa là 350 hải lý từ đường cơ sở hay 100 hải lý từ độ sâu 2500 mét. UNCLOS cũng quy định là nếu có tranh chấp, trong trường hợp vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của hai quốc gia chồng lấn lên nhau, thì tranh chấp phải được giải quyết một cách công bằng (Điều 74 và 83). Có hai nguyên tắc được dùng để đo lường sự công bằng này trong tập quán luật quốc tế và ngoại giao, đó là đường trung tuyến và tỷ lệ chiều dài bờ biển liên quan. Khi xét xử tranh chấp biển, Toà án Công lý Quốc Tế (International Court of Justice) thường bắt đầu bằng cách vạch đường trung tuyến giữa hai nước làm ranh giới thử nghiệm, sau đó Toà sẽ xét sử công bằng bằng cách xem tỷ lệ diện tích được chia cho mỗi nước có gần như tỷ lệ chiều dài bờ biển liên quan tới tranh chấp hay không. Trong việc vạch ranh giới, tập quán luật quốc tế và ngoại giao không tính những đảo nhỏ, xa bờ, tự thân không có các điều kiện cho sự cư trú của con người và đời sống kinh tế riêng, như các đảo trong hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, để tránh việc những đảo này ảnh hưởng không công bằng tới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nguyên tắc này được Toà án Công lý Quốc Tế.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> tuyên bố từ năm 1969 trong phiên toà chia thềm lục địa Bắc Hải và được khẳng định trong Điều 121, Khoản 3 của UNCLOS. Từ năm 1969 tới nay, Toà án Công lý Quốc Tế luôn luôn tôn trọng nguyên tắc này, thí dụ như trong những phiên toà Lybia/Malta, Vịnh Maine, Guniea/GunieaBisseau. Đối chiếu với những quy tắc pháp lý kể trên với vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn, ta thấy: Phần lớn vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn phía bắc ranh giới với Indonesia và Malaysia nằm trong phạm vi 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam. Dù Việt Nam vạch đường cơ sở gần bờ thế nào đi nữa thì, theo UNCLOS, những vùng này cũng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam (Xem Bản đồ 2). Một phần nhỏ của vùng Tư Chính – Vũng Mây và một phần nhỏ của bồn trũng Nam Côn Sơn phía bắc ranh giới với Indonesia, tuy nằm ngoài phạm vi 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam, nhưng nằm trong phạm vi thềm lục địa của Việt Nam. Theo Điều 76 của UNCLOS, thềm lục địa ở những vùng này thuộc về Việt Nam. Phần lớn những nước tranh chấp Trường Sa và Biển Đông không tranh chấp chủ quyền của Việt Nam ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Malaysia và Philippines không tranh chấp chủ quyền của Việt Nam ở những vùng này, dù các nước này tranh chấp Trường Sa. Indonesia đã có hiệp định ranh giới với Việt Nam và không tranh chấp những vùng này. Chỉ có Brunei tranh chấp một phần nhỏ của vùng Tư Chính – Vũng Mây, nhưng cũng không tranh chấp lô 133 và 134. Điều này không chỉ là một sự công nhận về chủ quyền của Việt Nam ở vùng này mà còn cho thấy những nước Đông Nam Á, dù có tranh chấp Trường Sa hay Biển Đông, vẫn tôn trọng UNCLOS và không có đòi hỏi lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Việt Nam. Tuy Mỹ không có quan điểm Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về nước nào, trong lời tuyên bố về sự hợp tác của Exxon Mobil ở bồn trũng Nam Côn Sơn, đại sứ Mỹ Michael Michalak tuyên bố là việc ExxonMobil cộng tác với Việt Nam trong vùng này là hoàn toàn hợp pháp. Theo báo South China Morning Post, ExxonMobil và các công ty dầu khí quốc tế cho là vùng đang bị Trung Quốc tranh chấp thuộc về Việt Nam. Trên thực tế, PetroVietnam, BP và ONGC (Ấn Độ) đã hợp tác ở vùng Lan Tây, Lan Đỏ (lô 06-1) từ năm 1992 và hiện đang khai thác dầu khí mà không có nước nào phản đối, kể cả Trung Quốc. PetroVietnam, BP và Conoco cũng đã hợp tác ở vùng Mộc Tinh, Hải Thạch từ năm 19921993; cho tới năm 2007 Trung Quốc mới áp lực BP ngưng hợp tác với Việt Nam. Những vùng Mộc Tinh (lô 05-3), Hải Thạch (lô 05-2), Thanh Long (lô 05-1B) gần bờ Việt Nam hơn vùng Lan Tây, Lan Đỏ. Ngoài ra, nhiều công ty dầu khí quốc tế khác đã hợp tác với Việt Nam từ thập niên 90 trong vùng Nam Côn Sơn, thí dụ như, Idemitsu, Nippon Oil, Teikoku, Conoco Phillips, Vamex, Premier Oil. Vì Việt Nam là nước nhỏ yếu hơn Trung Quốc, việc những công ty này hợp tác với Việt Nam không thể do Việt Nam lấn át Trung Quốc hay những công ty này. Bằng những hợp tác trên, một điều chắc chắc rằng các công ty trên đã công nhận những vùng này thuộc về Việt Nam theo luật quốc tế.. 2. Yêu sách vô lý, không có sơ sở của Trung Quốc : Bất chấp chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn, được luật quốc tế và các bên liên quan công nhận như đã kể trên, Trung Quốc vẫn có yêu sách đối với vùng này. Nhưng, chiếu theo luật quốc tế, những yêu sách này hoàn toàn không có cơ sở. Đảo Hải Nam cách vùng này khoảng 1000 hải lý. Vì vùng đặc quyền kinh tế được giới hạn tối đa là 200 hải lý, đảo Hải Nam hoàn toàn không phải là nền tảng theo luật quốc tế để xác lập chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng này..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Quần đảo Hoàng Sa hoàn toàn cũng không phải là cơ sơ để Trung Quốc xác lập chủ quyền đối với khu vực này, vì: - Quần đảo này hiện là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Việt Nam; - Cực nam của quần đảo Hoàng Sa cách vùng này khoảng 750 hải lý. Trong khi đó, vùng đặc quyền kinh tế được giới hạn tối đa là 200 hải lý; - Tập quán luật quốc tế và ngoại giao không dựa vào những đảo nhỏ như trong quần đảo Hoàng Sa để làm nền tảng cho việc phân chia vùng đặc quyền kinh tế. Sự xác lập hợp pháp chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, giả sử có, cũng không cho Trung Quốc cơ sở pháp lý để tranh chấp vùng này. Tất cả các đảo trong quần đảo Trường Sa đều có diện tích dưới 0,5 km vuông, tự thân chúng không có các điều kiện cho sự cư trú của con người và đời sống kinh tế riêng. Theo nguyên tắc và tập quán luật quốc tế đã dẫn, những đảo này không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Những đảo này chỉ được hưởng lãnh hải tối đa là 12 hải lý (Điều 121, khoản 2 và 3 của UNCLOS). Bản đồ 1 cho thấy lãnh hải 12 hải lý của tất cả các đảo trong quần đảo Trường Sa nằm ngoài vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Vì vậy, tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa không cho Trung Quốc cơ sở pháp lý để tranh chấp vùng này. Ngoài ra, Hình 1 cho thấy vùng này nằm trên thềm lục địa Việt Nam, hoàn toàn không liên quan tới thềm lục địa của quần đảo Trường Sa. Từ những lẽ trên, việc Trung Quốc tranh chấp vùng Tư Chính – Vũng Mây, vùng Thanh Long, Mộc Tinh, Hải Thạch, hay bất cứ vùng nào khác trong bồn trũng Nam Côn Sơn, với Việt Nam là một điều hoàn toàn vô lý và không có cơ sở pháp lý.. Hình 1: Thềm lục địa vùng Nam Côn Sơn thuộc về thềm lục địa Việt Nam, khác biệt với quần đảo Trường Sa. Nguồn: Marine Ecosystem Dynamics Modeling Tóm lại, việc tranh chấp và những thái độ, hành động của Trung Quốc liên quan đến vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn không có cơ sở pháp lý, ngay cả khi đang tồn tại tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cũng cho thấy yêu sách của Trung Quốc đòi 75% phần diện tích trên Biển Đông cũng hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và vô lý ngay cả khi đang tồn tại tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa. Nhằm bảo toàn tính toàn vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam, không chỉ ở vùng Tư Chính Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn, mà còn ở tất cả các vùng Biển Đông của Việt Nam, Việt Nam cần phải làm những việc sau: • Kiên quyết giữ vững chủ quyền và thực thi chủ quyền ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Việc Trung Quốc thành công trong việc xâm lấn vùng này có nghĩa là những quy tắc pháp lý, những giá trị hành xử được xây dựng ở tầm quốc tế đã bị chà đạp một cách nghiêm trọng và đây sẽ là một tiền lệ nguy hiểm cho tất cả vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam ở Biển Đông. • Không lẫn lộn, không để cho Trung Quốc viện cớ tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa để ngụy trang cho việc chiếm hữu các vùng đó của Việt Nam. Cần hiểu rõ và tuyên bố rõ ràng, dứt khoát với Trung Quốc và với thế giới rằng những vùng này nằm ngoài tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và hoàn toàn thuộc về Việt Nam..
<span class='text_page_counter'>(14)</span> • Cần hiểu rõ và tuyên bố rõ ràng với Trung Quốc và thế giới rằng việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển có diện tích khoảng 75% Biển Đông là hoàn toàn sai trái, vô lý, không có cơ sở pháp lý ngay cả khi đang tồn tại tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa. ( Dương Danh Huy - Lê Minh Phiếu ). ===========================================================. V. Philippines và 2 dự luật đường cơ sở mới trên Biển Đông. Trong nỗ lực để đăng ký yêu sách về thềm lục địa với Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc trước hạn định 13/5/2009, trong những năm qua các chuyên gia, nhà chính trị và dư luận Philippines đã xét 4 đề xuất khác nhau về đường cơ sở mới trên biển cho nước này. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS)[1], đường cơ sở là một trong những cơ sở để quy định phạm vi của những vùng biển khác nhau thuộc về một nước. Vì vậy, đường cơ sở của một nước có tầm quan trọng tương đương với biên giới trên bộ của nước đó và có ảnh hưởng tới chủ quyền và quyền lợi của những nước khác. Vào cuối Tháng Một và đầu Tháng Hai năm nay, Thượng viện và Hạ viện Philippines đã thông qua hai dự luật khác nhau, mỗi dự luật chọn một đường cơ sở khác nhau. Ngày 9/2/2009, trong một buổi họp lưỡng viện để giải quyết vấn đề này, Philippines đã chọn một trong hai đường cơ sở này để làm đường cơ sở mới.. 1. Dự luật Thượng viện SB 2699 : Ngày 28/1/2009, Thượng viện Philippines thông qua dự luật SB 2699 về đường cơ sở mới [2] với số phiếu áp đảo 15-0. Theo SB 2699, đường cơ sở của Philippines sẽ không bao quanh Scarborough Shoal, hiện đang là đối tượng tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc, và không bao quanh các đảo Trường Sa của Việt Nam, như trong bản đồ 1. Ủy ban Ngoại giao và Ủy ban Vụ Biển và Đại Dương Philippines (Commission on Maritime and Ocean Affairs) ủng hộ dự luật này.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Bản đồ 1: Đường cơ sở của Philippines theo dự luật SB 2699 không bao quanh Scarborough Shoal và quần đảo Trường Sa[3]. Đường vạch chấm là vùng đặc quyền kinh tế 200 HL từ đường cơ sở này.. 2. Dự luật Hạ viện HB 3216 : Sau đó, ngày 2/2/2009, Hạ viện Philippines thông qua dự luật HB 3216, quy định một đường cơ sở khác[4], với số phiếu áp đảo 171-3. Theo dự luật HB 3216, đường cơ sở của Philippines sẽ bao quanh phần lớn quần đảo Trường Sa của Việt Nam và Scarborough Shoal, như trong bản đồ 2. Ngoài việc vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, chủ trương của dự luật này vi phạm lãnh hải và thềm lục địa của Việt Nam, Malaysia và Brunei và đe dọa quyền lợi trên Biển Đông của tất cả các nước trên thế giới.. Bản đồ 2: Đường cơ sở của Philippines theo dự luật HB 3216 bao quanh Scarborough Shoal và phần lớn quần đảo Trường Sa[5]. Đường vạch chấm là vùng đặc quyền kinh tế 200 HL từ đường cơ sở này.. 3. So sánh SB 2699 và HB 3216 : Hai dự luật này không khác nhau trong quan điểm về chủ quyền đối với Scarborough Shoal và phần quần đảo Trường Sa mà Philippines yêu sách nhưng khác nhau ở cách dùng các đảo này để đòi hỏi các vùng biển được quy định trong UNCLOS. HB 3216 dùng những đảo này để vạch đường cơ sở xa bờ một cách tối đa để yêu sách các vùng biển một cách tối đa. Ngược lại, SB 2699 chỉ dùng lãnh thổ chính để vạch đường cơ sở và vì vậy có yêu sách nhỏ hơn đối với các vùng biển. Các điểm khác biệt cơ bản khác của hai dự luật được tóm tắt trong bảng sau: HB 3216. SB 2699.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Vùng nước quần đảo[6] bên trong đường cơ sở: Theo UNCLOS, Philippines sẽ có gần như toàn quyền trong vùng biển này. Các nước khác chỉ có quyền “đi qua vùng nước quần đảo” và quyền “đi qua không gây hại”. Lãnh hải 12 hải lý từ đường cơ sở và vùng tiếp giáp lãnh hải 12 tới 24 hải lý từ đường cơ sở: Theo UNCLOS, Philippines có gần như toàn quyền đối với vùng lãnh hải. Các nước khác chỉ có quyền “đi qua không gây hại”. Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ đường cơ sở Philippines có thể đòi hỏi theo UNCLOS.. Diện tích 210,443 hải lý Diện tích 171,416 hải lý vuông[7], gây nhiều trở ngại chovuông[8], nằm giữa các vùng hoạt động trên biển và trênlãnh thổ chính của Philippines, không của tất cả các nước trênkhông vi phạm chủ quyền và thế giới, vi phạm lãnh hải vàquyền lợi của các nước khác. những vùng biển khác mà Việt Nam có thể đòi hỏi cho quần đảo Trường Sa. Vùng lãnh hải nằm xa ra Vùng lãnh hải nằm sát bờ Biển Đông, gây nhiều trở ngạilãnh thổ chính của Philippines, cho hoạt động trên biển và trênkhông xa ra Biển Đông, không không của tất cả các nước trênvi phạm chủ quyền và quyền thế giới. Ngoài ra, vùng này vilợi của những nước khác, ngay phạm lãnh hải và những vùngcả của những nước tranh chấp biển khác mà Việt Nam có thểTrường Sa và Scarborough đòi hỏi cho quần đảo Trường Sa. Shoal. Diện tích 468,250 hải lý Diện tích 485,310 hải lý vuông[9], nằm xa ra Biển Đông,vuông[10], nằm kế cận bờ lãnh vi phạm lãnh hải và những vùngthổ chính của Philippines, biển biển khác mà Việt Nam cóchồng lấn lên những vùng biển thể đòi hỏi cho quần đảo Trườngcó thể thuộc về Trường Sa Sa, vi phạm vùng đặc quyềnnhưng không chồng lấn lên kinh tế và thềm lục địa từ lãnhvùng đặc quyền kinh tế và thổ không bị tranh chấp của Việtthềm lục địa từ lãnh thổ không Nam, Malaysia và Brunei. bị tranh chấp của Việt Nam.. 4. Những khuyết điểm của dự luật HB 3216 : Thoạt nhìn thì có vẻ là dự luật HB 3216 của Hạ viện đòi hỏi nhiều hơn và có lợi hơn cho Philippines so với dự luật SB 2699 của Thượng viện. Tuy nhiên phân tích trên tinh thần áp dụng các quy tắc của UNCLOS và thực tế ngoại giao cho thấy dự luật này sẽ dẫn tới một số hệ quả rất bất lợi cho Philippines. Đường cơ sở theo HB 3216 được vạch quanh các đảo đảo đang bị tranh chấp. Những nước trong tranh chấp không thể chấp nhận nhận đường cơ sở này. Các cơ quan của Liên Hợp Quốc sẽ không thể chấp nhận tuyên bố đơng phương của Philippines. HB 3216 phải dùng những đảo nửa nổi nửa chìm như Sabina Reef hay Iroquois Reef để vạch đường cơ sở, trái với quy tắc của UNCLOS [11]. Để khắc phục điều này, UNCLOS đòi hỏi Philippines phải xây cất hải đăng hay những công trình tương tự trên các đảo này, nhưng như vậy sẽ vi phạm Quy tắc Ứng xử Chung về Biển Đông 2002 giữa các nước ASEAN và Trung Quốc. Đường cơ sở trong HB 3216 đòi hỏi một vùng nước quần đảo và lãnh hải 12 hải lý nằm xa ra Biển Đông, gây cản trở cho hoạt động trên biển và trên không của các nước khác trên thế giới. Vì vậy, rất có khả năng những nước này sẽ phản đối đường cơ sở trong HB 3216. Trước thực tế pháp lý và ngoại giao trên, Philippines lại không có sức mạnh và ý chí để áp đặt những đòi hỏi của HB 3216, và cũng khó có thể dùng HB 3216 để làm cơ sở cho đàm phán. HB 3216 chỉ có thể đem lại cho Philippines một đường cơ sở không được các nước trong khu vực và các nước trên thế giới chấp nhận. Việc đó tương đương với việc Philippines không có biên giới được công nhận, một điều hết sức bất lợi cho nước này. Ví dụ, trong trường hợp có nước khác vi phạm lãnh hải hay vùng nước quần đảo trong HB 3216, các cơ quan chức năng của Philippines phải quyết định có hành xử chủ quyền hay không, và nếu có hành xử thì cũng chỉ được xem là một động thái tranh chấp..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Với kiến thức chuyên sâu và về luật biển và kinh nghiệm thực tế, chắc chắn Uỷ ban Vụ Biển và Đại Dương Philippines thấy được những điều trên, do đó họ đã ủng hộ SB 2699, vì dự luật này đem lại cho Philippines môt đương cơ sở dễ được thế giới chấp nhận hơn. Trong buổi họp lưỡng viện ngày 9/2/2009, Thượng viện đã thuyết phục được Hạ viện chấp nhận dự luật SB 2699[12].. 5. Ý nghĩa đối với Việt Nam : Như đã trình bày, những yêu sách trong HB 3216 vi phạm chủ quyền của Việt Nam nhiều hơn những yêu sách trong SB 2699. Dù là Philippines không có khả năng để thực hiện những đòi hỏi trong HB 3216, dự luật đó là một bước lùi cho tinh thần tôn trọng UNCLOS, tôn trọng lẽ công bằng và cho sự đoàn kết của ASEAN ở Biển Đông, trong khi những điều đó rất cần thiết để đối trọng chủ trương của của các nước mạnh đối với Biển Đông. Việc Philippines lựa chọn những nguyên tắc của SB 2699 thay vì HB 3216 là chiều hướng tốt cho Việt Nam, Philippines, các nước ASEAN và cho việc đi tới một quy chế công công bằng ở Biển Đông dựa trên UNCLOS. Theo ý kiến của các tác giả, Việt Nam có thể chấp nhận SB 2699 với điều kiện là không chấp nhận những tuyên bố của Philippines về chủ quyền đối với Trường Sa và với điều kiện những tranh chấp phát sinh từ dự luật này phải được giải quyết theo UNCLOS và theo lẽ công bằng dựa trên tiền lệ pháp lý và tập quán ngoại giao. Việc Philippines lựa chọn SB 2699 thay vì HB 3216 cho thấy Việt Nam cũng nên chỉnh sửa lại đường cơ sở 1982 của mình để loại bỏ những khuyết điểm tương tự với những khuyết điểm của đường cơ sở của Philippines trong dự luật HB 3216. Dương Danh Huy - Lê Trung Tĩnh (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông). ===========================================================. VI. Không thể chấp nhận thăm dò dầu khí trên vùng biển Việt Nam. Bình luận về thông tin Tập đoàn dầu khí Trung Quốc công bố dự án thăm dò, khai thác dầu khí trong vùng nước sâu ở Biển Đông trị giá gần 30 tỷ USD vừa qua, Thứ trưởng Vũ Dũng nói rõ : "Hiện nay, tôi không biết rằng công ty Nhà nước của Trung Quốc đó sẽ đầu tư vào đâu. Họ tuyên bố một chương trình, bằng ấy tiền, đi thăm dò như thế, ở Biển Đông. Biển Đông cũng có phần của Trung Quốc nhưng nếu như hoạt động trên thềm lục địa của VN thì dứt khoát không thể chấp nhận được".. 1. Kiên trì đàm phán hòa bình : Thứ trưởng Vũ Dũng nhấn mạnh nguyên tắc lớn trong chính sách đối ngoại của VN, đó là chủ trương giải quyết các bất đồng thông qua hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc các quốc gia trên thế giới cam kết giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. "Đối với Biển Đông, ta với một số nước, trong đó có Trung Quốc, còn có nhận thức khác nhau, chủ trương của ta là kiên trì đàm phán hòa bình, từng bước thu hẹp bất đồng lại và thực tế trong mấy chục năm qua ta đã làm điều đó", ông Vũ Dũng nói. Theo Thứ trưởng ngoại giao VN, VN và TQ đã đàm phán thành công Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và hiện đang đàm phán để phân định cửa Vịnh, tức bên ngoài Vịnh Bắc Bộ. Ông Vũ Dũng nói : "Tôi tin rằng một thời gian không xa, hai bên sẽ giải quyết được vấn đề cửa Vịnh"..
<span class='text_page_counter'>(18)</span> Về cơ sở tiến hành đàm phán, Thứ trưởng Ngoại giao VN nói một trong những cơ sở quan trọng là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, bộ luật lớn nhất về biển vốn được đàm phán, xây dựng liên tục trong vòng hơn 20 năm và đã điều chỉnh lập trường của các nước phát triển lẫn không phát triển, các nước có biển và không có biển. "Vậy thì ta và các nước có liên quan, trong đó có Trung Quốc đương nhiên phải dựa trên bộ luật đó, không thể dựa trên cái gì khác cả. Bộ Luật đó quy định một quốc gia ven biển có 5 vùng biển; có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế - 200 hải lý và vùng thềm lục địa - tối thiểu là 200 hải lý và có thể kéo dài ra 350 hải lý ở những nơi mà thềm lục địa kéo dài. Thế thì phải dựa trên cơ sở pháp lý đó chứ không có cơ sở nào khác", ông Vũ Dũng nhấn mạnh. Ngoài công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, VN cũng chủ trương đàm phán dựa trên các cơ sở luật pháp quốc tế khác, đó là Tuyên bố Manila về Biển Đông 1992 và tuyên bố về cách ứng xử giữa các bên ở Biển Đông được ký giữa ASEAN và Trung Quốc ngày 4/11/2002. Thứ trưởng khẳng định VN sẵn sàng đàm phán với TQ dựa trên các cơ sở luật pháp trên. Nếu chỗ nào thực sự có chồng lấn thì hai bên cùng hợp tác, khai thác, cùng phát triển. Ông Vũ Dũng giải thích: "Thí dụ trong Vịnh Bắc Bộ dù đã phân định rồi nhưng có những chỗ nằm vắt ngang đường phân định thì gọi là chồng lấn, hoặc có những cấu tạo mỏ nằm vắt bên phía ta 4 phần, Trung Quốc 6 phần thì cùng khai thác, cùng phát triển. Vùng chồng lấn thực sự là sự giao thoa giữa 200 hải lý của mỗi bên gặp nhau như hai vòng tròn vậy". Hiện có rất nhiều công ty dầu khí nước ngoài Anh, Ý, Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Na Uy, Phần Lan đang hoạt động ở VN. Thứ trưởng nói: "Khi ký với chúng ta, họ đều hiểu rằng hoạt động ở đâu. Có một điều khoản rất quan trọng là "phù hợp với luật pháp của nước CHXHCN Việt Nam", có nghĩa là các công ty biết rõ đang hoạt động trong vùng chủ quyền của VN". Trước đó, Trung Quốc đã từng gây sức ép buộc các công ty dầu khí BP (Anh), Exxon Mobil (Mỹ) phải rút lui khỏi các dự án hợp tác thăm dò dầu khí với Việt Nam, mặc dù các dự án này, theo phía Việt Nam, hoàn toàn nằm trong vùng thềm lục địa Việt Nam. ( Xuân Linh ). ===========================================================. VII. "Cuộc chiến" không cân sức giữa giới học giả Việt Nam và Trung Quốc. Trong đàm phán lãnh hải với Trung Quốc, nếu coi việc nghiên cứu và đưa ra các bằng chứng để xác lập chủ quyền là một mặt trận, thì đã và đang có một cuộc chiến không cân sức giữa giới nghiên cứu của hai nước, với phần thua thiệt thuộc về các học giả Việt Nam. Sự thua thiệt thể hiện rõ trên các mặt: số lượng học giả, số lượng và diện phổ biến của công trình nghiên cứu, sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, sự tham gia của tư nhân…. 1. Để cất lên tiếng nói khẳng định chủ quyền : Ngày nay, tất cả các học giả về quan hệ quốc tế đều khẳng định rằng: Thời hiện đại, để chiến thắng trong những cuộc đấu tranh phức tạp như tranh chấp chủ quyền, điều kiện cốt yếu là sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, chứ không đơn thuần là ưu thế về quân sự..
<span class='text_page_counter'>(19)</span> Việc quốc tế hóa vấn đề lãnh thổ, lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa (HS-TS), do đó, là điều Việt Nam không thể không làm. Việc này mở đầu bằng quá trình đưa các quan điểm của phía Việt Nam ra trường quốc tế. Có ba kênh chính để đưa quan điểm của Việt Hiện tại, Việt Nam chỉ có ba cơ quan Nam ra quốc tế. nhà nước từng đặt vấn đề nghiên cứu chính Thứ nhất là thông qua các tuyên bố ngoại giao, thức về lãnh hải và luật biển (Vụ Biển thuộcnhư chúng ta vẫn thường thấy phát ngôn viên của Bộ Ủy ban Biên giới Quốc gia, Trung tâm LuậtNgoại giao trả lời báo giới: "Việt Nam có đầy đủ Biển và Hàng hải Quốc tế, Tổng cục Quảnbằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định lý Biển và Hải đảo). Đếm số lượng các nhà chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng nghiên cứu chuyên sâu vào vấn đề lãnh hảiSa và Trường Sa". và Hoàng Sa - Trường Sa, tính cả người đã Thứ hai là thông qua các tạp chí khoa học quốc mất, thì “vét” trong cả nước được gần một tế, các diễn đàn thế giới. Sự xuất hiện những bài viết chục người. khoa học, công trình nghiên cứu của phía Việt Nam Còn Trung Quốc đã có hàng chục cơtrên các tạp chí khoa học đầu ngành của thế giới về quan nghiên cứu chuyên sâu về tranh chấplịch sử, địa lý, hàng hải, công pháp quốc tế… sẽ cực lãnh hải và HS-TS từ hơn nửa thế kỷ qua. Ítkỳ có sức nặng trong việc tranh biện. nhất, có thể kể tới trung tâm nghiên cứu Thứ ba là thông qua các nỗ lực ngoại giao và trực thuộc các trường đại học Bắc Kinh, Hạ truyền thông như ra sách trắng, tổ chức hội thảo quốc Môn, Phúc Kiến, Trung Sơn, hoặc trực tế, giảng bài tại các trường đại học ở nước ngoài, thuộc Ủy ban Nghiên cứu Biên cương, Viện v.v… Nghiên cứu Đông Nam Á, v.v…. 2. Trung Quốc "chiếm sóng" : Trên kênh thứ hai, có thể thấy phía Việt Nam đang yếu thế so với Trung Quốc. Dù không nhiều, nhưng đã có những bài viết khoa học của học giả Trung Quốc về vấn đề lãnh hải đăng trên các tạp chí uy tín của thế giới và khu vực như: Marine Policy, Marine Custom Management, Marine and Coastal Law Journal (các tạp chí về hàng hải và luật biển), American Journal for International Law (tạp chí nghiên cứu luật pháp, của Mỹ), Southeast Asia Studies (tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, của Singapore). Đây là các tạp chí khoa học đầu ngành của thế giới, nghĩa là uy tín của chúng được thừa nhận trên phạm vi quốc tế. Một bài viết được đăng trên những tạp chí loại này mang lại danh tiếng cho sự nghiệp cá nhân của nhà khoa học. Quan trọng hơn nữa, nó gây ảnh hưởng lớn đến cộng đồng. Trong ngắn hạn và trung hạn, nó là tiếng nói có sức nặng với giới khoa học quốc tế. Trong dài hạn, nó là nguồn tài liệu tham khảo có tác động đáng sợ. Policy - tạpquan chí uy Về phía các học giả Việt Nam ở trong nước, cũng đã có những bàiForeign viết khoa học liên tới tín về quan hệ quốc tế. vấn đề lãnh hải và HS-TS. Tuy nhiên, các bài này chỉ được đăng tải bằng tiếng Việt trên các tạp chí chuyên ngành của Việt Nam (Tạp chí Hán Nôm, Nghiên cứu Lịch sử, Lịch sử Quân sự, Nghiên cứu Phát triển - tạp chí của Thừa Thiên - Huế) . Số lượng bản in hạn chế - 1.000 bản, phát hành trên diện rất hẹp.. 3. Việt Nam… yếu thế : Trung Quốc cũng đã có khoảng 60 cuốn sách về HS-TS, bằng tiếng Trung và tiếng Anh, như Trung Quốc dữ Trung Quốc Nam Hải vấn đề (Trung Quốc và vấn đề biển Nam Trung Quốc, Phó Côn Thành - Thủy Bỉnh Hòa, 2007), Nam Hải chư đảo địa danh luận cảo (Lưu Nam Uy, 1996), Nam Hải chư đảo địa lý - lịch sử - chủ quyền (Lữ Nhất Nhiên chủ biên, 1992)....
<span class='text_page_counter'>(20)</span> Chưa kể, còn hàng chục công trình của các nhà nghiên cứu gốc Trung Quốc ở Đài Loan, Hong Kong, Singapore, Anh, Mỹ.. Danh mục một số cuốn sách của các học giả Trung Quốc và thế giới viết về quan hệ quốc tế, tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. (Ảnh: Mai Thi) Việt Nam có vài đầu sách, như Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo HS-TS (Lưu Văn Lợi, NXB Công an Nhân dân, 1995), Chiến lược Biển Việt Nam (Nguyễn Hồng Thao chủ biên, NXB Sự thật, 11/2008)… Nhưng số lượng chỉ đếm trên đầu ngón tay, các sách đều bằng tiếng Việt, phát hành rất ít. Với kênh thứ ba - thông qua việc tổ chức hội thảo quốc tế, đưa các học giả đi giảng bài tại các trường đại học ở nước ngoài v.v. - thì sự tham gia của giới khoa học Việt Nam càng yếu ớt hơn. Cộng đồng các nhà khoa học người Việt tại nước ngoài đã có nhiều nỗ lực nghiên cứu để đưa ra các bằng chứng giúp Việt Nam tranh biện trong vấn đề lãnh hải. Chẳng hạn, TS Từ Đặng Minh Thu (ĐH Luật Sorbonne), luật gia Đào Văn Thụy từng đọc bài tham luận tại Hội thảo hè "Vấn đề tranh chấp Biển Đông" (New York, 1998), phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc với nhiều lý lẽ khoa học xác đáng.. Trung Quốc coi gần như toàn bộ Biển Đông là thuộc lãnh thổ của mình. Trên bản đồ, phần màu xanh lơ là vùng tranh chấp.. 4. Vì đâu giới nghiên cứu Việt Nam yếu thế ? TS Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) nhận xét: "So tương quan lực lượng với Trung Quốc trong chuyện nghiên cứu về lãnh hải, thì các công trình của học giả Việt Nam vừa ít ỏi, manh mún về số lượng, lại vừa không được sự quan tâm, hỗ trợ của xã hội"..
<span class='text_page_counter'>(21)</span> Ai cũng biết rằng điều kiện cần để có bài viết khoa học là một quá trình nghiên cứu tập trung cao và kéo dài. Nghiên cứu về vấn đề lãnh hải và HS-TS lại càng khó khăn hơn, nó đòi hỏi rất nhiều công sức, thời gian, kinh phí. Người nghiên cứu phải có khả năng tiếp cận với các tài liệu cổ bằng nhiều thứ tiếng khó (Hán, Nôm, Pháp, Anh, thậm chí tiếng Latin), phải bỏ chi phí mua tài liệu, đi thực địa, trao đổi tìm kiếm thông tin, v.v... Đổi lại, mỗi bài viết trên các tạp chí của Việt Nam được nhận vài trăm nghìn đồng nhuận bút. Còn việc đưa bài viết ra tạp chí quốc tế thì gần như không tưởng, bởi thật khó để các nhà khoa học dồn sự nghiệp cho cả một công trình nghiên cứu để rồi không biết… đi về đâu, có được đăng tải hay không. Thiếu kinh phí, khó khăn trong việc tiếp cận các tài liệu "nhạy cảm" là những vật cản lớn. Chỉ riêng việc dịch bài viết sang một thứ tiếng quốc tế, như tiếng Anh hay tiếng Trung, cũng đã là vấn đề. Một nhà nghiên cứu độc lập, ông Phạm Hoàng Quân, cho biết: "Ở Trung Quốc, việc tuyên truyền về HS-TS và lãnh hải được phân chia thành ba cấp. Cấp thấp nhất là cấp phổ thông, cho quần chúng. Cấp hai và cấp ba là cho các độc giả có trình độ cao hơn và các nhà nghiên cứu chuyên sâu. Như ở Việt Nam thì chẳng cấp nào phát triển cả". Không có văn bản quy định chính thức, nhưng tài liệu liên quan tới lãnh hải, biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc mặc nhiên được coi là "nhạy cảm", "mật", và một cá nhân khó mà có đủ tư cách để "xin" được nghiên Bìa lót của cuốn sách nghiên cứu vềcứu về HS-TS hay chủ quyền đất nước. chính sách của Trung Quốc đối với các Ông Quân, với tư cách nhà nghiên cứu độc lập, gặp vùng lãnh thổ tranh chấp, của tác giảkhó khăn tương đối trong việc tiếp cận các tài liệu khoa Chi-kin Lo (Hong Kong), xuất bảnhọc phục vụ cho công việc. Dĩ nhiên là chẳng bao giờ ông tại London năm 1989. được mời tham dự những hội thảo chuyên đề về lĩnh vực mình nghiên cứu - thường chỉ dành cho những nhà khoa học đã có biên chế chính thức ở một cơ quan nhà nước nào đó. Với một cá nhân là như vậy. Với các viện nghiên cứu trực thuộc Nhà nước, tình hình cũng không khả quan hơn. TS Nguyễn Xuân Diện nhận xét: "Về nguyên tắc, phải là cấp trên đặt hàng, cấp dưới đề đạt lên. Nếu Nhà nước không đặt hàng, các cơ quan chuyên môn có khả năng làm cũng e dè không muốn đề xuất. Các cá nhân nghiên cứu độc lập thì không thể có điều kiện thuận lợi về sưu tập tư liệu, điền dã thực địa, công bố kết quả của đề tài". Không tiếp cận được với các công trình nghiên cứu chuyên sâu đã đành, người dân còn không được giới truyền thông cung cấp thông tin và kiến thức về chủ quyền đất nước. Trong khi, trên thực tế, "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" - như khẳng định của Bộ Ngoại giao.. 5. Chúng ta có thể làm gì ? Về bản chất, nghiên cứu khoa học là các nỗ lực cá nhân, tuy nhiên, với những vấn đề thuộc diện "công ích" như tranh chấp chủ quyền, thì Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước phải đặt hàng giới nghiên cứu, tạo thành một chiến lược lâu dài và bài bản, đồng thời để cho giới truyền thông diễn giải và phổ biến những công trình nghiên cứu chuyên sâu tới quần chúng sao cho tất cả mọi người đều có ý thức về chủ quyền đất nước. Một số học giả người Việt Nam ở nước ngoài gợi ý rằng, cách tốt nhất là Nhà nước "xã hội hóa" công việc nghiên cứu khoa học, bằng cách tạo điều kiện để xã hội dân sự (tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, hiệp hội, quỹ...) tài trợ cho các dự án khoa học, tạo điều kiện, thậm chí "luật hóa", để người nghiên cứu được tiếp xúc với thông tin khi cần..
<span class='text_page_counter'>(22)</span> Một điểm cần lưu ý là hoạt động nghiên cứu phải mang tính liên ngành, toàn diện, trên mọi lĩnh vực: văn bản học, khảo cổ, địa chất lịch sử, thổ nhưỡng, công pháp quốc tế...Theo quy luật số lớn, số lượng nghiên cứu càng nhiều thì khả năng có những công trình chất lượng càng cao. Sau hết, không thể thiếu nỗ lực công bố các công trình nghiên cứu đó ra diễn đàn quốc tế, nỗ lực diễn giải và phổ cập chúng tới người dân trong nước, cũng như, thông qua chính sách "ngoại giao nhân dân", tới được dư luận quốc tế và cộng đồng Việt Nam tại nước ngoài. Đoan Trang (*) Sách hay nên đọc của Tuần Việt Nam đã giới thiệu cuốn Nguồn: Sổ tay pháp lý cho người đi biển và Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của luật biển ở Việt Nam (Bộ Ngoại giao, Ban Biên giới và NXB Chính trị Quốc gia phát hành).. Su tÇm :. Ng« Quang TuÊn.
<span class='text_page_counter'>(23)</span>